Tài liệu Đồng tiền chung Asean sự cần thiết phát triển khu vực: ... Ebook Đồng tiền chung Asean sự cần thiết phát triển khu vực
126 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1949 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Đồng tiền chung Asean sự cần thiết phát triển khu vực, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trang : 1
CHƯƠNG I: VẤN ĐỀ ĐỒNG TIỀN CHUNG
1.1 Tiền tệ
1.1.1 Bản chất :
Tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt, đóng vai trò vật ngang giá chung để đo
lường và biểu hiện giá trị của tất cả các hàng hoá khác; đồng thời nó thể hiện lao
động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất.
Bản chất này xuất phát từ việc ra đời là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của
các hình thái giá trị :
• Ở hình thái giá trị giản đơn ngẫu nhiên của giá trị, giá trị của một vật được
biểu hiện bằng giá trị sử dụng của một vật khác đóng vai trò là vật ngang giá.
• Ở hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng, giá trị của một vật được biểu hiện ở
giá trị sử dụng của nhiều hàng hoá khác có tác dụng làm vật ngang giá.
• Ở hình thái chung của giá trị, giá trị của tất cả hàng hoá được biểu hiện bằng
giá trị của một hàng hoá đóng vai trò là vật ngang giá chung. Vật ngang giá chung
này được chọn tùy theo tập quán địa phương mang ý nghĩa tượng trưng như lông
thú, da thú, vòng đá, vỏ sò….
• Ở hình thái tiền tệ, khi lực lượng sản xuất phát triển, việc tồn tại nhiều vật
ngang giá chung gây khó khăn cho thị trường trao đổi hàng hoá. Điều này dẫn đến
sự ra đời của vật ngang giá chung bằng kim loại thay thế dần cho các vật ngang giá
chung khác, mà đáng kể nhất đó là bạc, sau đó là vàng (kim tệ)
Như vậy, tiền tệ là một sản phẩm tự phát và tất yếu. nó gắn liền vời sự tồn tại
và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Không những thế, nó còn chứa đựng và
biểu hiện nhiều mối quan hệ xã hội giữa người với người.
1.1.2 Chức năng :
Tiền tệ có 5 chức năng như sau :
a./ Chức năng thước đo giá trị : Đây là chức năng cơ bản của tiền tệ. Chức năng này
được thể hiện thông qua việc tiền dùng để đo lường và biểu hiện giá trị cho các
hàng hoá khác và chuyển giá trị hàng hoá thành giá cả hàng hoá. Để thực hiện chức
năng này, tiền tệ đòi hỏi phải có giá trị đầy đủ, có tiêu chuẩn giá cả, và được thể
Trang : 2
hiện trong tư duy, ý niệm. Việc giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá đã
tạo mối tương quan nghịch giữa giá trị tiền tệ và giá cả hàng hoá, đồng thời cho
thấy rằng tiền tệ là một công cụ đặc biệt quan trọng để thực hiện quy luật giá trị,
quy luật phổ thông của nền sản xuất hàng hoá.
b./ Chức năng phương tiện lưu thông : Thể hiện ở việc tiền được dùng làm phương
tiện trung gian cho quá trình trao đổi hàng hoá (H-T-H) và phương tiện để thực hiện
giá trị của hàng hoá. Điều này thể hiện ở việc hàng hoá sẽ không được phép trao đổi
trực tiếp (H-H), mà trước tiên, giá trị của hàng hoá được biểu hiện thành giá trị tiền
tệ thông qua việc bán hàng hoá (H-T) ; rồi sau đó, hàng hoá đựợc mua lại với giá trị
tương đương với giá trị tiền tệ (T-H).
Như vậy, tiền tệ không phải là mục đích của trao đổi, mà chỉ đóng vai trò
trung gian. Tuy nhiên, để tạo một sự lưu thông hàng hoá được mạch lạc, cần thiết
phải có một khối lượng tiền thật sự và tiền này cũng không nhất thiết phải là tiền có
đầy đủ giá trị như vàng, nó được thay thế bằng các loại tiền ký hiệu.
c./ Chức năng phương tiện cất trữ : Chức năng này được thể hiện ở việc tiền được
đưa ra khỏi quá trình lưu thông nhằm mục đích cất trữ và sử dụng sau này.
Xuất phát từ khả năng có thể trực tiếp chuyển hoá thành bất kỳ một loại hàng
hoá nào, tiền cất trữ phải có đầy đủ giá trị và tạm thời không phục vụ cho quá trình
lưu thông hàng hoá. Tuy nhiên, người ta cũng có thể sử dụng tiền ký hiệu cho việc
cất trữ, các loại tiền này được đảm bảo bằng vàng của quốc gia sản xuất tiền giấy ký
hiệu đó.
d./ Chức năng phương tiện thanh toán: Chức năng này đựợc thể hiện ở việc tiền
đựơc dùng làm phương tiện để thanh toán các khoản nợ phát sinh trong trao đổi
hàng hoá, dịch vụ và các lĩnh vực khác. Khi thực hiện chức năng này, tiền vận động
tương đối độc lập so với hàng hoá, dịch vụ thậm chí giữa chúng với nhau cũng có
một sự tách rời nhau cả về không gian và thời gian. Do đó, tiền ở đây có thể là tiền
vàng, hoặc tiền ký hiệu, hay tiền ghi sổ. Mặc dù vậy, tiền vẫn không nằm ngoài quá
trình lưu thông, mà còn có tác dụng tích cực thúc đẩy quá trình tiêu thụ hàng hoá ;
từ đó, giúp cho sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển.
Trang : 3
e./ Chức năng tiền tệ thế giới: Chức năng này thể hiện ở việc tiền thực hiện các chức
năng trong phạm vi thế giới. Điều này đòi hỏi tiền phải được chấp nhận của các
quốc gia trên thế giới. Do đó, tiền đầy đủ giá trị mới thực hiện được chức năng này.
Tuy nhiên, hiện nay, tiền ký hiệu của một số nước cũng đựơc áp dụng hoặc
chấp nhận rộng rãi ở nhiều nước. Do đó, cũng có quan điểm cho rằng các loại tiền
này cũng có chức năng tiền tệ thế giới.
Tóm lại 5 chức năng trên của tiền tệ không đơn lẻ mà chúng có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Trước tiên, tiền tệ thực chiện chức năng chuyển giá trị hàng hoá
thành giá cả. Khi đó, hàng hoá chính thức bước vào lưu thông. Khi giá cả được thực
hiện thì hàng hoá đã chuyển thành tiền, số tiền này có thể được cất trữ cho việc sử
dụng trong tương lai hoặc dùng để thanh toán cho việc mua hàng hoá khác phục vụ
cho nhu cầu sản xuất hoặc nhu cầu tiêu dùng. Khi quá trình trao đổi hàng hoá vượt
ra ngoài biên giới của một quốc gia thì cũng là lúc tiền tệ thực hiện chức năng phạm
vi thế giới.
1.1.3 Vai trò của tiền tệ :
• Tiền tệ là phương tiện không thể thiếu để mở rộng và phát triển kinh tế hàng
hoá. Thông qua chức năng thước đo giá trị, phương tiện lưu thông và phương tiện
thanh toán, việc trao đổi hàng hóa diễn ra thuận lợi và thống nhất hơn. Nó góp phần
giúp đỡ người sản xuất kinh doanh hạch toán được rõ ràng chi phí và hiệu quả sản
xuất mà họ thực hiện; đồng thời tiến hành tích lũy tiền tệ để mở rộng quy mô sản
xuất kinh doanh.
• Tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng các quan hệ quốc tế. Xuất
phát từ nhu cầu phát triển của nền kinh tế, thị trường quốc nội đã dần mở cửa hướng
ra thị trường thế giới lớn hơn thông qua con đường ngoại thương. Nhờ ngoại
thương, mà các chức năng thanh toán và chức năng tiền tệ thế giới của tiền tệ đã
phát huy triệt để vai trò của mình. Từ đó, mối quan hệ giữa các quốc gia không chỉ
đơn thuần về mặt kinh tế mà còn lan sang các lĩnh vực khác như chính trị, văn
hoá….
Trang : 4
• Tiền tệ là công cụ để phục vụ cho mục đích của chủ sỡ hữu. Khi mà các quan
hệ kinh tế – xã hội đều bị tiền tệ hoá thì cũng là lúc tiền tệ trở thành công cụ để xử
lý và giải quyết mọi mối quan hệ phát sinh cả trong phạm vi quốc gia và quốc tế.
Chính vì vậy, người chủ sỡ hữu tiền tệ có thể sử dụng nó để thoả mãn mọi nhu cầu
của mình. Chừng nào còn tồn tại nền kinh tế hàng hoá, thì chừng đó dòng tiền sẽ
còn phát huy mạnh mẽ sức mạnh vạn năng của nó.
1.2 Liên minh tiền tệ :
Nền tảng cho việc hình thành đồng tiền chung ở Châu Âu có thể tính bằng
việc ra đời của các liên minh tiền tệ: Liên minh tiền tệ Latinh, Liên minh tiền tệ
Đức, Bản vị vàng . . . vào khoảng đầu thế kỷ 19. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
vào những năm 30 của thế kỷ 19 thúc đẩy các nước Châu Âu hình thành ý tưởng
đồng tiền chung nhằm ổn định nền kinh tế chung của toàn khối. Tuy nhiên cho đến
năm 1950 thì liên minh tiền tệ vẫn chưa được đề cập tới trong các chương trình nghị
sự. Trong khi đó hệ thống tỷ giá cố định Bretton Woods đang tồn tại và gây ảnh
hưởng đến nền kinh tế chung, biểu hiện của nó là Pháp và Đức đã lần lượt phá giá
đồng tiền của mình (đồng Franc và đồng Mác) trong năm 1969, điều này đe dọa đến
sự ổn định của các đồng tiền khác trong khối đến nỗi Thủ tướng Đức lúc đó Ông
W.Brandt đã đề nghị phải khôi phục lại các kế hoạch về Liên minh tiền tệ Châu Âu.
Năm 1970, kế hoạch thành lập một đồng tiền chung Châu Âu do Thủ tướng
Luýchxămbua lúc đó, Ông Werner đưa ra, trong đó báo cáo này lần đầu tiên sử
dụng thuật ngữ Liên minh tiền tệ (EMU – Economic and Monetary Union), kế
hoạch Werner chia ra làm 2 giai đoạn:
Giai đoạn I: Thành lập đơn vị tiền tệ thống nhất gọi là đơn vị tiền tệ Châu Âu
(ECU – European Currency Unit) phối hợp thực hiện chính sách tiền tệ giữa các
quốc gia trong khối.
Giai đoạn II: Chuyển đồng ECU thành đồng tiền chung được sử dụng song song
với các đồng tiền khác trong khối và dần trên phạm vi quốc tế.
Báo cáo Werner chưa được triển khai thì Châu Âu phải đối đầu với sự sụp đổ
của của hệ thống Bretton Woods và ngày 24-04-1972 Châu Âu thành lập “con rắn
Trang : 5
tiền tệ ” nhằm mục đích giới hạn sự dao động của các đồng tiền Châu Âu ở dưới
mức dao động quốc tế. Tuy nhiên hệ thống này hoạt động không mấy thành công,
bằng chứng là chỉ trong 2 năm 1974 - 1975 Pháp và Đức, hai nước chủ chốt trong
hệ thống, đã lần lượt rút khỏi hệ thống này đến hai lần.
Không thành công với hệ thống tỷ giá cố định, Châu Âu đã tìm sự ổn định
mới cho hệ thống tiền tệ của mình, bắt đầu với việc này là ngày 07-07-1978, hiệp
ước Breme (Đức) về việc thành lập hệ thống tiền tệ Châu Âu (SME – Système
Monétaire Européenne). Năm 1979, hệ thống này bắt đầu hoạt động với cơ chế quy
định giới hạn sự biến động của tỷ giá trong biên độ dao động 2.25%, riêng đồng
peseta Tây Ban Nha và livre là 6%. Tuy nhiên, hệ thống này cũng không đáp ứng
được yêu cầu thực tế khi Pháp và Ý liên tục phá giá đồng tiền của mình. Tháng
06/1988, Hội đồng Châu Âu ký quyết định giao cho Ông Jacques Delors, Chủ tịch
Ủy ban Châu Âu đương thời, chịu trách nhiệm chuẩn bị và đề xuất các bước đi cụ
thể về việc thành lập Liên minh kinh tế tiền tệ Châu Âu (EMU). Năm 1989 tại
Madrid Hội đồng Châu Âu phê chuẩn báo cáo Delor. Giai đoạn I của Liên minh tiền
tệ bắt đầu vào tháng 7/1990, báo cáo Delor cũng là nền tảng cho Hiệp ước
Maastricht, được ký vào năm 1992, xác định chính thức các vấn đề liên quan đến
khối đồng tiền chung duy nhất Châu Âu, cơ chế vận hành các Tổ chức thiết chế
Châu Âu, chính sách đối ngoại và an ninh chung, chương trình hợp tác Tư pháp và
cũng đã đưa ra những tiêu chí để gia nhập đồng tiền chung Châu Âu.
1.3 Thuyết khu vực đồng tiền tối ưu.
Lý thuyết khu vực tiền tệ tối ưu do các nhà kinh tế Mỹ R.Mundell và
R.Mc.Kinnon đưa ra vào đầu thập kỷ 1960. Xuất phát từ định hướng khi đó của
cộng đồng kinh tế Châu âu (EEC) là nhằm đạt được tự do hoàn toàn trong việc lưu
chuyển hàng hoá, dịch vụ, vốn và sức lao động, tức là lưu chuyển tự do các “yếu tố
sản xuất”. Lý thuyết này đề cập những cơ sở của sự thống nhất tiên tệ Châu Âu và
gây được sự chú ý lớn :
• Định nghĩa Khu vực tiền tệ tối ưu : là lãnh thổ bao gồm những nước cùng
chung những điều kiện, khả năng thích hợp nhất để sử dụng một loại tiền thống
Trang : 6
nhất, hoặc chung những khả năng để thiết lập một đồng giá vững chắc giữa các
đồng tiền quốc gia của mình. Vài khu vực tiền tệ sẽ là “tối ưu” nếu trong lãnh thổ
đó tồn tại khả năng cơ động giữa các “yếu tố sản xuất” ( bao gồm cả sự cơ động bên
trong và bên ngoài). Ví dụ nội bộ EEC được tự do hoàn toàn việc giao lưu hàng
hoá, vốn và sức lao động và có sự thoả hiệp giữa các nước thành viên về các vấn đề
kinh tế, chính trị, sự phối hợp các thể chế, chính sách kinh tế.
• Khu vực tối ưu phải đảm bảo tiêu chí là : Các nước thành viên sẵn sàng chấp
nhận hy sinh tính độc lập của mình trong việc giải quyết các vấn đề về tiền tệ – tín
dụng. Khu vực tiền tệ tối ưu là khu vực trong đó không một bộ phận cấu thành nào
của nó đòi quyền có đồng tiền riêng và chính sách tiền tệ độc lập.
Những điều kiện cho tồn tại của khu vực tiền tệ tối ưu là tốc độ lạm phát
giữa các nước thành viên ít nhiều phải đồng đều để có thể thực thi ngân sách, kinh
tế và tiền tệ có hiệu quả. Đồng thời, các nước này phải đạt được những mục đích
như ổn định giá cả, tỷ lệ thất nghiệp thấp và sự cân bằng trong cán cân thanh toán.
Chẳng hạn khu vực đồng tiền chung Châu Âu, quy định các nước phải có thâm hụt
ngân sách dưới 3% và nợ quốc gia phải dưới 60% tổng sản lượng quốc gia.
1.4 Đồng EURO – Mô hình đầu tiên của liên minh tiền tệ.
1.4.1 Quá trình thực hiện đồng tiền chung EURO: gồm 3 giai đoạn :
Giai đoạn 1 (tư ̀năm 1990 đến 1993) : Thống nhất chính sách tiền tệ quốc
gia, rút ngắn sự cách biệt giữa các nền kinh tế của các nước thành viên. Thực hiện
tự do hoá lưu thông vốn thanh toán qua việc hoàn thành thị trường thống nhất vào
ngày 1/1/1993. Các ngân hàng trung ương các nước thành viên thông qua Ủy ban
thống đốc của mình phối hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ để giữ ổn định tỷ giá cố
định giữa các đồng tiền trong hệ thống tiền tệ Châu Âu.
Giai đoạn 2: (1994 – 1999) : cùng với sự ra đời của viện tiền tệ Châu Âu
(EURO pean monetary Instituse – EMI), EMI không có trách nhiệm thực hiện chính
sách tiền tệ cũng như can thiệp hối đoái trong toàn liên minh, hai nhiệm vụ chủ yếu
của EMI là :
Trang : 7
1./ Thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các ngân hàng trung ương quốc gia trong
việc thực hiện chính sách tiền tệ.
2./ Chuẩn bị cho việc hình thành hệ thống ngân hàng trung ương Châu Âu và liên
minh kinh tế – tiền tệ Châu âu.
Tháng 12/1995, hội đồng Châu Âu nhất trí đơn vị tiền tệ chung của liên minh
là đồng EURO. Tháng 12/1996, EMI hoàn thành dự thảo các yếu tố nên tảng cho cơ
chế tỷ giá mới và được thông báo vào tháng 6/1997. Chi tiết mệnh giá của đồng
EURO đã được thông qua.
5/1998, 11nước thành viên đủ tiêu chuẩn được lựa chọn tham gia khu vực
đồng EURO đợt đầu. Tỷ giá chuyển đổi song phương giữa các đồng tiền quốc gia
thành viên được ấn định căn cứ vào cơ chế tỷ giá của EMI. Đồ̀ng thời, Chủ tịch,
Phó chủ tịch và Ban giám đốc điều hành của ngân hàng Trung ương Châu Âu
(ECB) đã được chỉ định.
Tháng 6/1998 , ECB thành lập và cùng các ngân hàng khác hình thành hệ
thố́ng ngân hàng trung ương Châu Âu (ESCB). Đến lúc này, EMI đã hoàn thành
nhiệm vụ và ngừng hoạt động. Tháng 6/1998 đến 12/1998 là giai đoạn kiểm tra cuối
cùng các hệ thống và thủ tục cho việc xuất hiện đồng EURO.
Giai đoạn 3 (từ ngày 1/1/1999): EMU bắt đầu hoạt động với một chính sách
tiền tệ thống nhất toàn khu vực. Tuy vậy, giai đoạn này có thể chia thành 3 bước
chính :
Bước 1 : Bước chuẩn bị , ngày 2/5/1998 và kết thúc 1/1/1999. Hội nghị
thượng đỉnh đặc biệt của EU tại Brussels (Bỉ). Các nhà lãnh đạo Châu Âu sẽ quyết
định nước nào trong số 15 nước thành viên sẽ tham gia liên minh tiền tệ.
Ngay khi hội đồng Châu âu chính thức công bố danh sách những nước đủ
điều kiện tham gia đồng tiền chung, tỷ giá hối đoái song phương cố định vĩnh viễn
giữa đồng tiền các nước thành viên cũng được công bố. Đây là bước đi táo bạo góp
phần tạo nên ổn định, tránh đồng EURO khỏi những đầu cơ ngay từ những ngày
đầu tiên phát hành.
Trang : 8
Hội nghị công bố quyết định thành lập ngân hàng Trung ương Châu âu
(ECB). Giống như cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED), ECB chịu trách nhiệm vận hành
chính sách tiền tệ chung trong toàn bộ khu vực đồng EURO. Bắt đầu từ 1/1/1999
ECB có vai trò cung cấp chính sách tiền tệ ổn định và đáng tin cậy, thực thi và kiểm
soát chính sách tiền tệ ổn định và đáng tin cậy, thực thi và kiểm soát chính sách tiền
tệ thống nhất của cộng đồng. ECB hoàn toàn độc lập với các nhà nước thành viên
và ủy ban Châu Âu trong việc hoạch định , tổ chức và điều hành chính sách tiền tệ.
Bước hai, diễn ra trong 3 năm 1999, 2000 và 2001 : Thời kỳ chuyển đổi hoặc
thời kỳ quá độ. Bắt đầu bằng việc giới thiệu đồng EURO là đồng tiền của 11 nước
thành viên. Tuy nhiên trong khoảng thời gian 3 năm này, EURO chỉ tồn tại như
đồng tiền ghi sổ, nghĩa là chưa lưu hành tiền giấy và tiền xu EURO trên thực tế.
Đồng EURO có thể được sử dụng trong mọi hoạt động từ séc cá nhân, bảng cân đối
tài sản của doanh nghiệp các hệ thống kế toán cho đến các hoá đơn có giá trị hàng
triệu USD, các bảng báo cáo tài chính của các công ty xuyên quốc gia.
Liên minh áp dụng chính sách “ không bắt buộc, không ngăn cấm” sử dụng
EURO trong giao dịch. Tuy nhiên, tầm quan trọng của đồng tiền ghi sổ này không
phải là thấp vì giao dịch thanh toán bằng tiền mặt chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong
các hoạt động kinh doanh. Bằng chứng là tổng giá trị tiền mặt lưu thông ở Châu Âu
chỉ chiếm tỷ lệ chưa đầy 6% GDP của khu vực này.
Đến đầu năm 1999 tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia và đồ̀ng
EURO mới được xác định. Các tỷ giá này đựơc tính toán dựa trên cơ sở so sánh giá
trị giao dịch của đồng tiền trong liên minh kinh tế tiền tệ với đồng USD vào ngày
giao dịch cuối cùng của năm 1998 và được cố định kể từ ngày đó trở đi.
Chuyển giao quyền tự chủ trong chính sách tiền tệ của các nước cho ECB,
chịu sự chỉ đạo của ECB. Tất cả trái phiếu của chính phủ những nước tham gia
đồng EURO đều phải phát hành bằng đồng EURO. Các thị trường tiền tệ, thị trường
ngoại hối, hệ thống thanh toán bù trừ chuyển sang sử dụng đồng EURO.
Bước 3 : Tiến hành đổi tiền thực sự bằng tiền giấy và tiền xu được phát hành
vào lưu thông sau năm 2002. Đồng tiền này đơn vị là Cent các loại sau :
Trang : 9
Tiền xu : 1, 2, 5,10, 20, 50 cent và loại 1, 2 EURO.
Tiền giấy : 5, 10, 20, 50, 100, 200 và 500 EURO.
Ước tính có khoảng 13 tỷ tiền giấy đã đựơc phát hành vào năm 2002. Vào
tháng 6/2002 các đồng tiền quốc gia thành viên cuối cùng đã loại bỏ khỏi lưu thông
nhường chỗ cho đồng EURO.
1.4.2 Các quy tắc khi thực hiện đồng tiền chung.
Các quy tắc khi thực hiện đồng tiền chung được tiến hành theo thoả thuận
của hiệp ước Maastricht, nó đặt ra cho các nước muốn tham gia đồng EURO là :
Thứ nhất, lạm phát phải ở cùng một mức trung bình dưới 2,72%, lạm phát
ngắn hạn không vượt quá 1,5% so với mức lạm phát bình quân của 3 nước thành
viên có tỷ lệ lạm phát thấp nhất.
Thứ hai, tỷ lệ lãi suất tiết kiệm của các nước thành viên không được khác
nhau quá nhiều. Tỷ lệ lãi suất dài hạn và trung hạn không vượt quá 2% so với mức
lãi suất bình quân của 3 nước thành viên có tỷ lệ lãi suất thấp nhất.
Thứ ba, các khoản thâm hụt ngân sách của chính phủ không đựơc vượt quá 3
% GDP.
Thứ tư, nợ chính phủ không được vượt quá 60% GDP.
Thứ năm, phải duy trì một tỷ giá trao đổi ổn định nằm trong khuôn khổ cho
phép của cơ chế tỷ giá hối đoái (ERM) ít nhất là 2 năm.
Khi hiệp ước Maastricht đã được ký kết, chỉ có một vài nước đủ điều kiện và
tiêu chuẩn để tham gia đồng EURO. Theo thống kê của ECB năm 1995 thì thâm hụt
ngân sách bình quân của EU là 4,7% GDP. Tuy nhiên các nước EU vẫn quyết tâm
xây dựng một đồng tiền chung nhờ các chính sách cải tổ cần thiết nhất để giảm
thâm hụt ngân sách của chính phủ . Italia đã phải tạo ra khoảng 12 nghìn tỷ lia “thuế
EURO” để giảm thâm hụt ngân sách. Đức đã bán vài nghìn tấn dầu trong quỹ dự trữ
chiến lựơc. Pháp đã thay đổi các quy định kế toán đối với khoản tiền 37,5 nghìn tỷ
Frc trong quỹ hưu trí của tập đoàn France Telecom và chuyển chúng vào ngân sách
của chính phủ. Tiếp đó Pháp còn tăng mức thuế. Đối với công ty lớn nhất nước,
thậm chí còn áp dụng cả với lợi nhuận thu được từ năm trước đó. Phần Lan cắt giảm
Trang : 10
mạnh thâm hụt ngân sách Chính phủ khoảng 45 tỷ Markla từ năm 1991 đến 1996.
Tuy nhiên, Hiệp ước Maastrict cũng cho phép có mức độ linh hoạt nhất định khu
đánh giá tiêu chí hội tụ của các nước thành viên. Nó không chỉ đơn thuần dựa vào
các chỉ tiêu đạt được mà còn dựa vào triển vọng kinh tế của các nước thành viên
thông qua giải pháp đựơc sử dụng một cách tích cực và hiệu quả nhằm đạt được các
chỉ tiêu của hiệp ước.
Cuối cùng thì những năm tháng cải tổ cũng đã kết thúc thành công. Ngày
5/12/1998, hội đồng Châu Âu đã đưa ra danh sách những nước thoả mãn 5 quy tắc
của hiệp ước. Đó là 11 trong số 15 thành viên EU sẽ tham gia đồng EURO đợt đầu
bao gồm : Đức , Pháp, Italia, Bỉ, Hà lan, Lucxămbua, Tay Ban Nha, Bồ Đào Nha,
Áo , Phần Lan và Ailen. Bốn nước chưa tham gia gia đợt đầu là Anh, Thụy Điển ,
Đan Mạch và Hy Lạp. Sau đó, Hy lạp đã hội đủ điều kiện tham gia đồng EURO, và
gọi là EURO 12.
Việc tuân thủ những thoả thuận của hiệp ước không chỉ diễn ra một lần. Các
kiến trúc sư của đồng EURO biết rằng, trách nhiệm với chính sách tài khoá chỉ có ý
nghĩa khi có được duy trì liên tục nên EU đã soạn thảo “Hiệp ước tăng trưởng và ổn
định” hiệp ước này nhằm trừng phạt những nước trong khu vực đồng EURO có
thâm hụt ngân sách quá mức. Nếu một nước có thâm hụt ngân sách vượt quá 3%
GDP thì nước này sẽ phải đặt cọc một khoản tiền không được hưởng lãi tại ECB
trong suốt thời gian tiến hành điều chỉnh. Số tiền phaṭ bằng 0,2% GDP năm phát
sinh thâm hụt ngân sách quá mức cộng với 0,1% số chênh lệch thâm hụt ngân sách
vi phạm. Giới hạn tối đa của khoản tiền này là 0,5% GDP. Nếu như sau hai năm
nước này cải thiện đựoc tình trạng thâm hụt ngân sách quá mức thì số tiền này sẽ
được ECB hoàn trả lại. Còn nếu không cải thiện được tình hình thì Ủ̉y ban Châu âu
sẽ coi đó là khoản tiền nộp phạt vĩnh viễn đóng góp cho ngân sách liên minh. Tuy
vậy, nước vi phạm sẽ được hưởng trường hợp ngoại lệ nếu như nước này đang trong
thời kỳ suy thoái.
Trang : 11
1.4.3 Ảnh hưởng của đồng EURO đối với nền kinh tế thế giới.
Khi đồng EURO ra đời, các quốc gia trên thế giới đều tin rằng đồng EURO
sẽ là đồng tiền mạnh dựa vào thực lực của nền kinh tế Châu Âu. Việc ra đời của
đồng EURO là một sự thiết lập rõ ràng thế 3 cực của nền kinh tế thế giới: Mỹ – Tây
Âu – Nhật Bản. Việc đồng EURO ra đời đã chia sẻ thế độc tôn của đồng đô la Mỹ
vốn đã bá chủ trong thanh toán quốc tế từ mấy chục năm qua. Vậy đồng EURO sẽ
ảnh hưởng đến nền kinh tế tài chính của thế giới như thế nào. Sau đây là những xem
xét cụ thể.
a. Tác động đến đầu tư quốc tế.
Trên khía cạnh đầu tư quốc tế, đồng EURO ra đời đã đem lại rất nhiều tiềm
năng thu hút vốn đầu tư, mở rộng sản xuất trong nội khối cũng như sang các khu
vực khác trên thế giới. Lý do là:
• Đồng EURO được hình thành đã tạo ra một thị trường rộng lớn ở Châu Âu
với hơn 300 triệu dân, là thị trường chiếm 19.4% tổng sản phẩm của thế giới và
18.6% thương mại quốc tế, tất cả điều này sẽ là cơ hội tốt cho các nhà đầu tư trong
khối cũng như ngoài khối Châu Âu.
• Khi tham gia đồng tiền chung, các quốc gia trong khối phải thực hiện những
điều kiện kiểm soát chặt chẽ về lãi suất và lạm phát, điều này giúp cho đồng tiền ổn
định, do đó hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế vốn coi Châu Âu là một nơi an toàn kể
từ khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á. Một mức lãi suất thấp
cũng sẽ làm tăng nguồn vốn đầu tư từ trong chính các nước thành viên. Hơn nữa,
việc thực hiện một đồng tiền duy nhất sẽ giúp cho việc thẩm định, đánh giá các dự
án đầu tư vào các nước thành viên trở nên dễ dàng hơn do không phải nhức đầu với
vấn đề tỷ giá. Việc thực hiện đồng tiền chung cũng giúp cho việc quản lý trở nên
đơn giản, giảm đi các chi phí giao dịch ngoại tệ … do vậy kích thích khả năng hấp
dẫn của thị trường EU đối với các nhà đầu tư ngoài khối lẫn trong khối.
* Tác động tới các nước Châu âu nằm ngoài khu vực đồng euro.
Đối với những nước mong muốn gia nhập EMU, sẽ có sự nghiên cứu thị
trường một cách kỹ lưỡng, với phản ứng đột ngột về sự chênh lệch lãi suất gia tăng
Trang : 12
nếu những diễn biến như sự trượt dốc của chính sách ngân sách đưa một quốc gia đi
chệch hướng các tiêu chuẩn cho việc gia nhập khu vực đồng EURO. Nếu như việc
phối hợp chính sách của khu vực đồng EURO trở thành một điểm nóng trong giai
đoạn đầu của EMU thì điều đó cũng có thể tác động lên thị trường và làm thay đổi
các tỷ giá cân bằng trong ERM II.
Những nước không tham gia ERM II có thể tiếp tục điều hành các chính sách
tiền tệ của mình một cách linh hoạt trong việc điều tiết các cú sốc không cân xứng
giữa họ và khu vực đồng EURO, bao gồm cả tiến trình chuyển sang sử dụng đồng
EURO. Một số nước trong số này có thị trường tài chính rất quan trọng (ví dụ như
Anh, Thụy sĩ) có thể phải đối mặt với những khó khăn về mặt tài chính nếu không
chắc chắn về quan điểm chính sách của khu vực đồng EURO làm nảy sinh các
luồng vốn lớn ra và vào.
Nauy và Thụy Sĩ, mặc dù không phải là thành viên của EU và không đủ tiêu
chuẩn để tham gia, sẽ trực tiếp chịu tác động của liên minh tiên tệ do vị trí gần gũi
về địa lý và các liên hệ về tài chính, thương mại với khu vực sử dụng đồ̀ng EURO.
b. Tác động đến thị trường tài chính tiền tệ thế giới.
Khi đồng EURO ra đời, các nhà phân tích kinh tế đều cho rằng đồng EURO
sẽ là một đối trọng với đồng đô la Mỹ, dự đoán này dựa trên cơ sở về tiềm lực kinh
tế, chính trị, thị trường của các nước thực hiện đồng tiền chung so với Mỹ.
BẢNG 1.1 SO SÁNH TIỀM LỰC 3 CỰC KINH TẾ THẾ GIỚI năm 1997
EU Hoa kỳ Nhật Bản
Dân số (triệu người) 289,4 271 125
Tốc độ tăng trưởng (%) 2,5 3,8 0,9
GDP (tỷ ECU) 5,546 6,846 3,712
Tỷ trọng trổng GDP thế giới (%) 19,4 19,6 7,7
Tỷ trọng trong thương mại quốc tế (%) 18,6 16,6 8,2
Mức tiết kiệm tuyệt đối (tỷ USD) 600 275 685
Tiết kiệm trong GDP (%) 8,7 3,8 15
Hàm lượng dùng đồng tiền trên thế giới ECU USD Yên
+ Dự trữ ng̣oại tệ (%) 25,8 56,4 7,1
+ Giao dịch ngoại hối (%) 35 41,5 12
Thương mại quốc tế (%) 31 40 5
+ Nợ của các nước ĐPT (%) 15,8 50,2 18,1
Trang : 13
+ Nợ qua phát hành trái phiếu (%) 34,5 37,2 17
Qua bảng ta thấy, Châu Âu (EU-12) với dân số hơn 320 triệu, GDP đạt 8.000
tỷ USD năm 2004 so với Mỹ dân số hơn 250 triệu, GDP đạt 10.000 tỷ USD, với
tiềm lực kinh tế như thế, trong tương lai thì chỉ có đồng EURO mới có thể sánh
ngang với đồng USD, vì sức mạnh của khu vực các nước đồng EURO đã cao hơn
so với Nhật Bản - là một cực trong nền kinh tế thế giới. Kể từ khi ra đời và được ấn
định tỷ giá ban đầu là 1 EURO = 1.1667 USD, đồng EURO đã liên tục dao động và
tỏ ra suy yếu. Có những lúc 1 EURO chỉ đổi được 0.85 – 0.9 USD, mất giá tới 25%
so với đồng USD. Tuy nhiên, trong năm 2003, 2004 đồng EURO lại dần dần lấy lại
được ưu thế và có những lúc đã đạt đến 1 EURO = 1.2 USD. Theo Ông Yves
Thibault Silguy – Cao ủy Châu Âu về tiền tệ thì giá trị thực của đồng EURO so với
đồng USD Mỹ phụ thuộc vào lòng tin của thế giới đối với Châu Âu. Đồng Euro ra
đời đã tạo ra thế “chân vạc” trong hệ thống tiền tệ thế giới đó là đồng USD Mỹ,
đồng EURO và đồng Yên Nhật Bản. Đồng EURO đạt được điều này là bởi vì : thứ
nhất, trong lĩnh vực thương mại, các nước EU chiếm 60% thương mại toàn cầu vì
thế tất yếu các nước sẽ sử dụng đồng EURO trong thanh toán; thứ hai, bản thân các
quốc gia cũng muốn sử dụng đồng EURO nhằm phân tán bớt rủi ro và bớt phụ
thuộc vào đồng USD cũng như nền kinh tế Mỹ.
Đồng EURO ra đời đã làm thay đổi cơ cấu dự trữ ngoại tệ của nhiều quốc
gia, điều này là hoàn toàn có thể xảy ra vì như đã đề cập ở trên, các quốc gia trên
thế giới trong nhiều thập niên qua đã gắn việc dự trữ ngoại tệ của mình vào một
đồng tiền chủ yếu đó là đồng USD. Điều này khiến cho các quốc gia gặp rủi ro nếu
sự biến động của đồng USD không theo như ý mong đợi. Việc đa dạng hóa đồng
tiền dự trữ sẽ giúp cho các quốc gia giảm thiểu bớt rủi ro và tự chủ nhiều hơn trong
hoạch định ngân sách. Trên thực tế đã có nhiều quốc gia thực hiện việc này, chẳng
hạn như trong cuộc hội thảo quốc tế về ngân hàng tại Saint Peterburg, thống đốc
ngân hàng Trung ương Nga Sergei Ignatyev thông báo dự trữ ngoại tệ của Nga đến
tháng 06 năm 2003 đạt 64,9 tỷ USD, trong đó tỷ trọng đồng EURO trong dự trữ
ngoại tệ của Nga đã vượt con số 25%. Thứ trưởng tài chính Nga Alexe Ulyukayev
Trang : 14
cũng cho biết dự trữ ngoại tệ bằng đồng EURO của Nga sẽ tiếp tục tăng nhằm đảm
bảo sự đa dạng trong dự trữ ngoại tệ. Còn tại Trung Quốc, hiện nay dự trữ ngoại tệ
cũng đã có những thay đổi so với trước. Nếu như trước đây dự trữ ngoại tệ của
Trung Quốc chủ yếu bằng đồng USD , thì nay cơ cấu đó là 62% bằng đồng USD,
8% đồng Yên Nhật Bản và 19% bằng đồng EURO, trong thời gian tới Trung Quốc
dự tính sẽ tăng dự trữ ngoại tệ bằng đồng EURO lên tới 30 % - 40% trong dự trữ
ngoại tệ của mình. Hàn Quốc, Singapore, Malaixia cũng thay đổi tỷ lệ dự trữ ngoại
tệ bằng đồng EURO.
Đồng EURO ra đời cũng là động lực thúc đẩy cho những khu vực kinh tế
hình thành ý tuởng thiết lập đồng tiền chung. Ý tưởng này đã xuất hiện ở nhiều nơi
từ Châu Phi đến Châu Á. Một trong những ý tưởng đó hình thành ở các nước Châu
Phi khi ngày 22-12-2001, các nhà lãnh đạo các nước tham dự Hội nghị cấp cao
ECOWAS đã quyết định lấy từ “ECO” làm tên gọi cho đồng tiền chung sẽ được sử
dụng tại 5 nước thuộc khu vực tiền tệ thứ 2 của ECOWAS là : Gambia, Ghana,
Guinea, Nigeria, Sierra Leon. Tiếp đến bàn cãi chung quanh việc sử dụng đồng tiền
chung giữa Ú́c và NiuZilân khi viện nghiên cứu chính sách Niu Zilân đã mở một
điều tra trên 400 công ty tại Niu Zilân cho thấy đại đa số (60%) ủng hộ mạnh mẽ
việc sử dụng đồng tiền chung, chỉ có 14% phản đối. Tranh cãi quanh đồng tiền
chung của khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ NAFTA.
c. Tác động đến quan hệ thương mại toàn cầu
Sự xuất hiện của đồng Euro với tư cách là đồng tiền chung của một thực thể
kinh tế quan trọng với gần 300 triệu dân, chiếm 19,4% tổng sản phẩm của thế giới
và 18,6% thương mại quốc tế, sẽ tăng cường hội nhập và phúc lợi kinh tế của các
nứơc thành viên EU và chắc chắn sẽ đem lại những cơ hội cũng như những thử
thách mới cho các nước trên thế giới.
Trang : 15
Kết luận chương I.
Có thể nói thế giới chúng ta đang chứng kiến một xu thế khu vực hoá, toàn
cầu hoá hết sức mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính. Chính xu thế này đã góp phần
nâng cao hiệu quả nguồn vốn đầu tư quốc tế bằng cách chuyển chúng đến những
nơi hứa hẹn có nhiều lợi nhuận nhất.
Sự ra đời của đồng EURO đang được là một đối thủ cạnh tranh đáng gờm
của đồng USD. Ảnh hưởng đến vị trí độc tôn của đồng USD trên thị trường thanh
toán quốc tế. Do đó, cũng không khó hiểu khi đồng EURO ra đời đã vấp phải nhiều
sự phản ứng từ phía Mỹ.
Từ lúc ra đời cho đến nay, đồng EURO đang biến động khá phức tạp. Lúc
đầu, nó liên tiếp giảm giá trị so với đồng USD nhưng sau đó lại vượt lên mạnh mẽ
và vượt qua luôn cả mức quy định ban đầu. Điều này xuất phát từ xu hướng muốn
cải thiện cán cân thương mại đang bị thâm hụt lớn của Mỹ bằng cách giảm giá đồng
USD để kích thích xuất khẩu cộng với tình hình tăng trưởng chậm chạp và kém ổn
định của các nước EU.
Nhưng dù sao, với sự ra đời của đồng EURO, bản đồ tài chính quốc tế kể từ
đó đang được vẽ lại, hứa hẹn sự sôi động hơn và bình đẳng hơn trong các giao dịch
tài chính trên thế giới. Trong tương lai, các đồng tiền đựơc sử dụng quốc tế và được
chấp nhận rộng rãi trong thanh toán quốc tế sẽ không còn là sự độc tôn của USD mà
ít nhất sẽ có một người đồng hành là EUR._.O.
Trang : 16
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG KINH TẾ TÀI CHÍNH
ASEAN
2.1 Tổng quan về tình hình kinh tế của các quốc gia ASEAN.
Tình hình kinh tế năm 2003, Chiến tranh và dịch bệnh khiến cho tình hình
trở nên ảm đạm đến mức vào giữa năm nhiều chính phủ trong khu vực phải hạ thấp
dự báo mức tăng trưởng. Nhưng rồi những nổ lực mới đã cải thiện tình hình. Tốc độ
tăng trưởng khu vực Châu Á Thái Bình Dương ( bao gồm ASEAN và Đông Bắc Á)
được coi là nhanh nhất thế giới với 6,1 % vào năm 2003 và đạt đến 6,4% năm 2004
(số liệu cuả Ngân Hàng Thế Giới). Bên cạnh những nổ lực cải thiện môi trường du
lịch, từ tháng 10-2003, những dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế Mỹ, Nhật Bản hưá
hẹn khả năng tăng cường xuất khẩu cuả nền kinh tế ASEAN, nhờ đó tốc độ tăng
trưởng kinh tế có thể thay đổi nhiều . Các chỉ số kinh tế cơ bản đã nêu phản ánh tình
hình kinh tế vĩ mô khá lành mạnh cuả nền kinh tế khu vực.
Tuy nhiên, Các thành viên ASEAN vẫn tiếp tục thực hiện tích cực tiến trình
hợp nhất khu vực , coi đó là việc cấp thiết trước những thách thức toàn cầu hiện
nay. Mục tiêu mới bây giờ là tiến tới 2010 xoá bỏ thuế nhập khẩu giữa các thành
viên cũ và tới năm 2015 đối với các thành viên mới bao gồm Campuchia, Lào,
Myanmar và Việt nam. Thương mại giữa các thành viên ASEAN đã tăng từ 44 tỷ
USD năm 1993 lên 87 tỷ USD năm 2001 nhờ giảm thuế theo AFTA. Với những
mục tiêu đặt ra như thế, các nước thành viên đang xúc tiến thúc đẩy nhanh quá trình
kinh tế, thông qua hàng loạt chính sách kinh tế khu vực như khu vực đầu tư ASEAN
(AIA), hợp tác công nghiệp (AICO)…. tạo thuận lợi thu hút đầu tư FDI từ cả các
nước ASEAN lẫn ngoài ASEAN. Theo hiệp định AIA , các nước ASEAN cam kết
dành ưu đãi huệ quốc cho các nhà đầu tư ASEAN. Thời hạn rút ngắn từ 2020 thành
2010.
Trang : 17
2.2. Thực tiển phát triển khu vực trong giai đoạn hiện nay :
Hợp tác ASEAN được thực hiện ở hai phạm vi : hợp tác của từng thành viên
trong nội khối và hợp tác của ASEAN với tư cách là một khối độc lập với bên
ngoài. Trong đó, phạm vi nội khối quy mô tương đối toàn diện : ngoại giao , kinh tế,
an ninh….
2.2.1 Liên kết và tự do hoá thương mại trong khu vực ASEAN :
a. Hiệp định thành lập khu vực tự do thương mại (AFTA)
Mặc dù tình trạng chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các thành
viên ASEAN là khá lớn, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước này trong
những năm 1980 đầu những năm 1990 là rất cao và tương đối đồng đều, tạo điều
kiện cơ sở thúc đẩy cho các nước ASEAN tăng cường hợp tác kinh tế sâu rộng mà
bắt đầu là hiệp định thương mại thuế quan (PTA) tạo cơ chế tự do hoá buôn bán
trong khu vực. Tuy nhiên, xu hướng hội nhập khu vực đòi hỏi một cơ chế hợp tác
toàn diện hơn giữa các nước ASEAN và từ đó mậu dịch tư do ASEAN (AFTA) ra
đời. Hiệp định thành lập khu vực tự do thương mại (AFTA) ký 28/1/1992. Khu mậu
dịch tự do ASEAN được xây dựng nhằm mục đích sau :
(i)Tăng cường buôn bán nội bộ các nước trong khu vực thông qua việc dỡ bỏ hàng
rào; (ii) Thuế quan và phi thuế quan, giảm bớt lệ thuộc thị trường bên ngoài; (iii)
Tạo điều kiện thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Đây là mục tiêu chính. (iv)
Tăng cường củng cố tiến trình hội nhập kinh tế .
Nếu xét về lộ trình hội nhập kinh tế theo chiều dọc, thì AFTA là chiếc cầu
nối để các nước thành viên ASEAN tham gia một cách đầy đủ và hiệu quả vào các
tổ chức thương mại quốc tế, như diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình
Dương (APEC), tổ chức thương mại thế giới (WTO). Nếu xét về chính sách kinh tế
đối ngoại, đối tác chủ yếu của các nước thành viên trong hiệp hội thì vẫn là hướng
vào các nước lớn, các cường quốc kinh tế trên thế giới. Do vậy , mục tiêu chủ yếu
của các thành viên không chỉ đơn thuần là AFTA, mà thông qua tổ chức này, tạo ra
được những lợi thế mới để tham gia vào nền kinh tế toàn cầu.
Trang : 18
So với EU hoặc NAFTA, thể chế AFTA còn đơn giản và lộ trình thực hiện
theo từng bước với những mốc kết thúc của các nước thành viên không đồng nhất.
AFTA tạo cho ASEAN một không gian mới, một thị trừơng thống nhất từ đó giúp
các nước thành viên tăng khả năng thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, tạo dựng
ASEAN thành một cơ sở sản xuất, cạnh tranh hướng ra thị trường thế giới.
BẢNG 2.2 : TỶ LỆ ÁP DỤNG CEPT TRUNG BÌNH CÁC NƯỚC ASEAN (%)
NƯỚC 1998 1999 2000 2001 2002 2003
Brunei 1,37 1,55 1,26 1,17 0,96 1,04
Indonesia 7,06 5,36 4,76 4,27 3,69 2,17
Malaysia 3,46 3,2 3,32 2,71 2,62 1,95
Philipines 7,72 7,34 5,18 4,48 4,13 3,82
Singapore 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00
Thailand 10,24 9,58 6,12 5,67 4,97 4,63
ASEAN – 6 5,22 4,79 3,64 3,22 2,89 2,39
Cambodia 10,39 10,39 8,89 7,94
Lao 5,00 7,54 7,07 7,08 6,72 5,86
Myanmar 2,39 4,45 4,43 4,57 4,72 4,64
Vietnam 3,95 7,11 7,25 6,75 6,92 6,43
ASEAN – 10 4,91 5,01 4,43 4,11 3,84 3,33
Nguồn : Ban thư ký ASEAN
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khởi phát từ Thái lan (7/1997) lan nhanh
nhiều nước khác và đã để lại nhiều hậu quả tới tất cả các nước ASEAN. Làm suy
giảm đà tăng trưởng kinh tế khu vực, ảnh hửơng không nhỏ đến thành tựu Kinh tế –
Trang : 19
Xã hội của nhiều nước trong hiệp hội và các hoạt động hợp tác kinh tế ASEAN.
Một trong những hậu quả là kim ngạch thương mại nội khối và FDI giảm đáng kể .
Chủ trương thực hiện “ các biện pháp táo bạo“ của các nước ASEAN nhằm
đẩy mạnh việc thực hiện CEPT/AFTA xuống còn 9 năm (từ 1/93 – 1/2002) đối với
nhóm 6 nước ASEAN cũ, còn đối với các thành viên mới sẽ tối đa số dòng thuế có
thuế suất 0 – 5% vào 2003 ( Việt nam) 2005 (Lào và Mianma); tăng tối đa số dòng
thuế suất 0% vào 2006 đối với Việt nam, 2008 đối với Lào và Mianma. Khi đó, thuế
quan trong thương mại nội bộ ASEAN còn trong khoảng 0 – 5%. Đồng thời, các
nước thành viên cũng thoả thuận loại bỏ dần các hạn chế về định lựơng và hàng rào
phi thuế quan vốn đa dạng đang cản trở nhiều đến tự do hoá thương mại khu vực.
b. Hiệp Định Thương Mại Tự Do Song Phương Và Liên Kết Asean (FTA)
Sau cuộc khủng hoảng 1997 một xu thế mới xuất hiện trong các nước
ASEAN đó là yêu cầu thiết lập hiệp định thương mại tự do (FTA). Sự phát triển
mạnh mẽ sôi động của các FTA trong những năm gần đây bắt nguồn từ hàng loạt
các nhân tố kinh tế, chính trị và chiến lược. Về những nhân tố kinh tế kỹ thuật, có
thể kể ra là:
Thứ nhất: Việc hình thành các FTA song phương bắt nguồn từ những khó
khăn và bế tắc của các vòng đàm phán đa phương từ Seattle, đến Doha rồi Cacncun.
Thứ hai: Những ưu thế mà FTA có được so với đàm phán đa phương được
hiện rõ trên nhiều phương diện. Tốc độ của các cuộc đàm phán đa phương thường
diễn ra chậm và dễ lâm vào bế tắc do sự tham gia của quá nhiều bên khiến cho các
nước không thoả mãn được nhu cầu mở rộng thị trường cũng như gia tăng lợi ích
của mình trong các hoạt động thương mại. Trong khi đó, việc các đàm phán và ký
kết FTA song phương lại diễn ra theo chiều hướng thuận lợi nhiều hơn với các ưu
thế như dễ chọn đối tác, dễ thảo thuận và họ có thể nhìn thấy rõ lợi ích.
Thứ ba: Đối với các nước châu Á, cuộc khủng hoảng tài chính 1997 – 1998
đã đặt ra cho các nước những vấn đề phát triển mới nhằm ứng phó với những thay
đổi nhanh chóng của nền kinh tế toàn cầu. Nhật bản và Hàn quốc muốn thực hiện
Trang : 20
FTA song phương nhằm thúc đẩy những cải cách trong nước, duy trì thế cạnh tranh
trong khu vực và trên thế giới. Trung quốc đẩy mạnh các FTA song phương với
ASEAN và các nước nhằm mở rộng không gian kinh tế , tìm kiếm các cơ hội cho
phát triển. Đối với các nước ASEAN, sự chênh lệch về trình độ phát triển đã buộc
các nước tương đối phát triển ký kết các FTA để bứt phá, tiến lên phía trước
Dẫn đầu là quốc gia Singapore, Thailand . Điều này đã đặt áp lực hội nhập
trong nội bộ khu vực ASEAN theo hướng thúc đẩy một cuộc chạy đua thiết lập
FTA giữa các nước trong ASEAN với các nước bên ngoài. Đây được xem là động
thái mới đưa khu vực thoát khỏi tình trạng ì ạch trong nỗ lực hội nhập, nhất là hội
nhập nội bộ ASEAN.
Hiện nay, nhằm có điều kiện tiếp cận các nguồn vốn, hàng hoá với chi phí
thấp hơn. ASEAN đang từng bước đạt được thoả thuận tự do thương mại với các
nền kinh tế quan trọng. Đây cũng chính là mục tiêu thúc đẩy mở cửa tự do các hàng
hoá sản xuất trong vùng, trong cuộc họp thường niên các bộ trưởng ASEAN, các
nước hy vọng sẽ đạt được thoả thuận tự do thương mại với Trung quốc đầu tiên vào
năm 2010, Ấn độ 2011 và Nhật bản năm 2012
Đặc điểm của tiến trình liên kết được thúc đẩy mạnh bởi nhu cầu nội tại của
từng quốc gia khu vực chứ không vì yếu tố bên ngoài. Thậm chí, mục tiêu liên kết
đặt ra rõ ràng đó là ngăn chặn cuộc khủng hoảng trong tương lai. Việc tập trung đầu
tư xuất khẩu vào các thị trường lớn như Nhật và Mỹ, làm cho độ rủi ro càng cao.
Nhật bản đang trải qua một quá trình dài suy thoái kinh tế, khả năng tiêu thụ hàng
hoá giảm sút nghiêm trọng. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến tiêu thụ hàng hoá
và làm trầm trọng thêm việc thu ngoại tệ từ xuất khẩu.
* Vấn đề đặt ra : Việc phát triển của các FTA, các nước trong nhóm ASEAN 6
(gia nhập đầu tiên) dường như đã tìm ra lối thoát cho mình. Tuy nhiên, nó lại đẩy
các nước nhóm ASEAN 4 ( gia nhập sau) vào thế cô lập đối với quá trình phát triển
chung của khu vực. Tính liên kết và hợp tác khu vực suy giảm do giữa hai nhóm
Trang : 21
nước không tìm được lợi ích chung. Do vậy FTA của các nước thành viên cần phải
đặt trong tổng thể chung lợi ích của các nước trong khu vực.
Vấn đề cần quan tâm trước mắt là ASEAN phải đẩy nhanh lộ trình AFTA,
đẩy nhanh quá trình hợp tác kinh tế khác, trong đó quan trọng nhất là khu vực dịch
vụ và đầu tư. Có như vậy khi ACFTA ra đời, các nền kinh tế trong ASEAN mới có
thể đứng vững trước sự bành trướng của nền kinh tế khổng lồ Trung Quốc. Khi đó
ASEAN không bị “hoà tan” trong ACFTA, hàng hoá Trung Quốc không thể lấn át
thị phần của hàng hoá ASEAN ngay tại thị trường ASEAN và có thể thu hút đầu tư
nước ngoài. Việc các nước ASEAN thoả thuận rút ngắn lộ trình AFTA xuống 3
năm tức là vào năm 2007 với ASEAN-6 (6 nước tham gia ASEAN đầu tiên) và năm
2012 với ASEAN-4 (4 nước gia nhập sau) là một động thái tích cực theo hướng đó.
c. Tự do hoá thương mại, Cộng đồng kinh tế Asean - AEC :
Những chương trình hiện có của ASEAN không đủ hiệu quả để có thể đưa
ASEAN đạt mục tiêu thúc đẩy hơn nữa hội nhập kinh tế. Đặc biệt, kể từ cuộc khủng
hoảng năm 1997, sự sụt giá chung đồng tiền các nước trong khu vực đã làm thay
đổi khả năng cạnh tranh thông qua hội nhập ASEAN. Sự nổi lên và tham gia của
Trung quốc vào lĩnh vực thương mại và kinh tế trong khu vực đã khiến khả năng
cạnh tranh và sức hấp dẫn đầu tư vào ASEAN bị thu hẹp. Vào thời điểm hậu SARS
này, nền kinh tế Trung quốc vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 6 –7 % trong khi tỷ lệ tăng
trưởng của ASEAN chỉ khoảng 3 –4% (Ban thư ký ASEAN, 2003). Các nhân tố
trên là lý do để các nước ASEAN cần xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN nhằm “
thúc đẩy tiến trình hội nhập ASEAN nhanh chóng hơn nữa sau lộ trình cắt giảm
thuế quan AFTA hoàn tất” và coi đó là “chiếc chìa khoá để thực hiện tầm nhìn
ASEAN 2020”
* Lộ trình hội nhập 11 ngành ưu tiên, Áp dụng chế độ hải quan một cửa.
Trong bước đi thứ 2 của liên minh tiền tệ, liên minh thuế quan đóng một vai
trò quan trọng, nó tạo một hành lang pháp lý về việc vận chuyển hàng hoá giữa các
quốc gia với nhau. Lộ trình hội nhập 11 ngành hàng ưu tiên bao gồm các biện pháp
Trang : 22
cụ thể, toàn diện nhằm hỗ trợ liên kết các ngành kinh tế mà ASEAN đang có ưu thế
hoặc nhiều tiềm năng phát triển như nông nghiệp, thủy sản, cao su, dệt may, điện tử,
du lịch……nhằm nâng cao cấp độ hội nhập kinh tế nội khối và nâng cao sức cạnh
tranh trên thị trường thế giới 11 ngành ưu tiên hội nhập bao gồm 7 ngành là hàng
hoá (dệt may, ô tô, điện tử, đồ gỗ, sản phẩm cao su, nông sản, thủy sản) và 4 ngành
là dịch vụ (du lịch, vận tải, hàng không, y tế). Hình thành một thị trường rộng lớn
có sức thu hút đầu tư từ bên ngoài, tạo môt thị trường tự do di chuyển về lao động,
vốn, khoa học kỹ thuật, chất xám. Giảm bớt sự phụ thuộc vào các thị trường bên
ngoài, chủ động trong việc tìm kiếm nơi tiêu thụ…... Cơ chế hải quan một cửa sẽ
được áp dụng thử nghiệm tại Philippines trong năm 2005 và dự kiến từ ngày
1/1/2006 sẽ áp dụng ở các nước khác thuộc ASEAN có đủ điều kiện, các nước
ASEAN không đủ điều kiện về hạ tầng và nguồn lực sẽ được lùi lại thêm một thời
gian nữa.
ASEAN cũng đã chọn ra một số nước làm điều phối cho các mặt hàng để đẩy
mạnh nhanh hơn nữa hợp tác phát triển như Indonesia với gỗ và ô tô, Malaisia với
cao su và dệt may, Myanmar với nông sản và thủy sản, Philippin với điện tử ,
Singapore với y tế, Thái lan với vận chuyển hàng không và du lịch. Tuy nhiên, các
nhà lãnh đạo ASEAN cũng thể hiện quan điểm “ ASEAN là một hiệp hội các nhà
nước độc lập , có chủ quyền và đặc biệt là trình độ phát triển, điều kiện chính trị, xã
hội khác nhau. Mục tiêu thị trừơng trong cuộc cạnh tranh ở quy mô thế giới này sẽ
không thể đạt được nếu thiếu vai trò chủ động của cộng đồng doanh nghiệp
ASEAN”.
Bên cạnh đó, Trong khuôn khổ hợp tác phát triển và hội nhập Hải quan
ASEAN, nhiều kết quả hợp tác có hiệu quả trong giai đoạn 1998 – 2004 , như áp
dụng trị giá hải quan của WTO trong ASEAN, áp dụng danh mục hàng hoá nhập
khẩu hài hoà ASEAN (AHTN), xây dựng những cơ sở pháp lý để thiết kế và thực
hiện Hải quan một cửa ASEAN nhằm tạo thuận lợi thương mại đầu tư trong khu
vực .
Trang : 23
d. Các hình thức hợp tác khác xem phụ lục 4
2.2.2. Kinh tế khu vực, thế giới tác động xu hướng phát triển kinh tế ASEAN
a. Tác động phát triển Châu Á –Thái Bình Dương đến sự liên kết ASEAN:
Trong báo cáo thừơng kỳ 6 tháng một lần, công bố ngày 27/4, WB cho rằng
tăng trưởng kinh tế của các nứơc Đông á, trừ Nhật bản, có thể đạt 6% năm 2005.
Trong khoảng 10 năm qua đã có một sự dịch chuyển về xuất khẩu và FDI từ
ASEAN ( không kể Singapore) sang Trung quốc. Trong giai đoạn 1985 –1995 FDI
bình quân đầu người hàng năm của ASEAN ( bao gồm 6 nước) là 18 USD, còn
Trung quốc là 6 –10 USD, bình quân các nước đang phát triển là 12 USD. Ngược
lại, giai đoạn 2001 – 2002, tại Trung quốc là 30 – 40 USD còn các nước đang phát
triển là 37 USD, ASEAN là 10 USD. Một trong những lý do của tình trạng này là
các nước ASEAN chịu cú sốc năm 1997 nặng nề hơn so với các nước Châu Á khác
và đã tụt lại so với tất cả các nước đang phát triển khác. Xuất khẩu các nước chỉ
tăng khoảng 6,5% từ năm 1998 – 2002. Giá cả đều giảm nhẹ, trong khi đó từ 1995
–2003 xuất khẩu Trung quốc đều đạt 12%. Bên cạnh đó với tỷ lệ tiêt kiệm cao,
chính trị ổn định, chi phí lao động thấp, cùng một thị trường khổng lồ, Trung quốc
có những lợi thế hơn ASEAN Mặt khác, cường quốc kinh tế hàng đầu Châu á là
Nhật bản vẫn chưa thoát khỏi cơn suy thoái và trì trệ kéo dài hàng chục năm nay.
Trong những năm gần đây , các chính sách vĩ mô kích thích sự phục hồi tăng trưởng
các nền kinh tế Châu á đã hỗ trợ mạnh mẽ cho quá trình phục hồi dù còn khiêm tốn
của nền kinh tế Nhật bản. Nền kinh tế Nhật bản đang phải đối diện với nhiều thách
thức, đặc biệt là do các chương trình kích thích tài chính và các khoản chi tiêu của
chính phủ hỗ trợ quá trình phục hồi đã làm cho món nợ công của Nhật bản tăng lên
nhanh chóng trong vài năm qua. Do đó, dự báo chắc chắn về triển vọng phục hồi
kinh tế Nhật bản là không chắc chắn. Điều này ảnh hưởng lớn đến thị trường tiêu
thụ của các nước ASEAN, vốn phụ thuộc khá nhiều vào thị trường Nhật bản.
Trang : 24
Sự phát triển khác nhau của hai lực lượng chủ yếu trong khu vực trên (các
cường quốc “trẻ” nổi lên và các cường quốc “già” suy yếu) đang hình thành nên
một cục diện mới, tác động rất mạnh đến sự tồn tại lẫn triển vọng của ASEAN.
Từ những diễn biến trên vấn đề tự do hoá thương mại khu vực Đông Nam Á
trở thành một xu thế tất yếu khách quan. ASEAN cần tạo lập một thị trường liên kết
với dung lượng tiêu dùng của khoảng 530 triệu dân ở một khu vực có vị trí địa lý và
chính trị, kinh tế quan trọng nằm trên ngã tư nối liền châu Á với Châu đại dương
với Thái Bình Dương, Nam á với Đông Bắc Á ; có nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú thuận lợi cho sự phát triển công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu và công
nghiệp hoá dầu, khai khoáng, có nguồn nhân lực dồi dào với lợi thế về sức lao
động, có tiềm năng mở rộng hợp tác Đông á với Trung quốc, Nhật bản và Hàn
quốc. Đó là những nhân tố thuân lợi để mở rộng thị trường liên khu vực.
Thách thức cạnh tranh mới buộc ASEAN cũng phải có những biện pháp linh
hoạt và mở rộng thích ứng không chỉ tăng cường liên kết khu vực, mà còn mở rộng
hợp tác với các đối tác bên ngoài, đặc biệt là các đối tác đối thoại của ASEAN ở
Đông á. Hội nghị cấp cao 10 nước Đông Nam Á và 3 nước Đông Bắc á gồm Nhật
bản, Hàn quốc, Trung quốc (ASEAN +3) đã khởi động từ năm 1997. Ý tưởng hợp
tác Đông á đạt kết quả bước đầu hiện thực hoá với việc ASEAN và Trung quốc thoả
thuận lập khu vực mậu dịch tự do Trung quốc – ASEAN (CAFTA) vào năm 2010.
Hiện nay, một FTA Trung quốc – ASEAN trên lý thuyết bao gồm 1,2 tỷ dân Trung
hoa và hơn 500 triệu dân Đông Nam á với một đội ngũ doanh nhân hoa kiều đông
đảo trong vùng. Tính đến 2000, ASEAN và Trung quốc có GDP gần 1,7 nghìn tỷ
USD và tổng kim ngạch ngoại thương gần 1,3 nghìn tỷ USD. Theo ban thư ký
ASEAN, khu mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN ra đời sẽ làm kim ngạch xuất
khẩu của Trung Quốc sang ASEAN tăng lên 55,1% và xuất khẩu của ASEAN sang
Trung Quốc cũng tăng 48%. Điều đó sẽ làm GDP của Trung Quốc cũng tăng 0,3%
và của ASEAN tăng 0,9%. Đến năm 2010 tổng kim ngạch mậu dịch của ACFTA sẽ
tăng trên 30%, cao gần bằng tổng kim nghạch mậu dịch nội bộ của EU. Về đầu tư,
Trang : 25
tổng số vốn đầu tư của ASEAN đã lên tới trên 50 tỷ USD, chiếm 6,6% đầu tư nước
ngoài mà Trung quốc thu hút được.
Cùng với Trung quốc, một điều gì đó tương tự cũng đang hiện lên ở Ấn độ,
tuy có vẻ kém phần mạnh mẽ. Quy mô kinh tế lớn, mở cửa và hội nhập quốc tế tích
cực hơn, định hướng phát triển ngành công nghiệp công nghệ thông tin như là
hướng chủ đạo và những kết quả to lớn thu được từ nỗ lực này cho thấy triển vọng
dài hạn nổi bật của Ấn độ. Ấn độ đang can dự ngày càng sâu và tích cực vào các
quá trình kinh tế, chính trị của khu vực ; trong đó ASEAN được coi là đối tác đặc
biệt quan trọng. Với tất cả những gì đang thể hiện, Ấn độ đang trở thành một đối
thủ cạnh tranh mạnh đối với ASEAN, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông
tin.
b. Tác Động Từ Kinh Tế Mỹ :
Với một nền kinh tế trị giá gần 1000 tỷ USD, ASEAN là thị trường lớn thứ 4
cho hàng xuất khẩu của Mỹ, gần bằng Trung quốc, Hồng kông, Đài loan, Ma cao
gộp lại. Khu vực ASEAN cũng tiếp nhận 42 tỷ USD đầu tư của Mỹ đổi lại, Mỹ
cũng là thị trường rất quan trọng đối với Đông Nam á. Xuất khẩu Đông Nam á năm
2003 là 19.3 % so với 1995 là 13,2 %.
Đông Nam Á có vị trí chiến lược quan trọng được xem như cầu nối Thái
Bình Dương và Ấn Độ Dương với nguyên tắc “ buôn bán công bằng “mối quan hệ
kinh tế thương mại đã chuyển từ quan hệ đồng minh bạn bè sang quan hệ bạn bè đối
tác. Việc mở rộng ASEAN sẽ tạo ra một thị trường rộng lớn , làm tăng ý nghĩa quan
trọng đối với kinh tế Mỹ. Hiện nay Mỹ đã nâng quan hệ kinh tế với ASEAN lên
thành quan hệ nòng cốt trong khu vực. Nhằm mục đích thúc đẩy thương mại hai
chiều. Mỹ đã thực hiện đàm phán song phương và đa phương (khu vực), Mỹ và
ASEAN đã thiết lập nhóm tư vấn để tăng cường sự hợp nhất về kinh tế
Trang : 26
BẢNG 2.3 : CHỈ SỐ CƯỜNG ĐỘ THƯƠNG MẠI NỘI VÙNG
Khu vực 1980 1985 1990 1995 1996 1997 1998 1999 2000
ASEAN 5.1 6.1 4.6 3.8 3.8 3.8 4.3 4.1 3.7
Đông Á–15** 2,6 2,3 2,3 2,1 2,2 2,2 2,3 2,4 2,2
EU 15 1,5 1,6 1,5 1,7 1,7 1,7 1,6 1,7 1,7
NAFTA 2,1 2,0 2,1 2,4 2,4 2,3 2,3 2,3 2,1
** Đông Á – 15 gồm EA – 14 và Nhật Bản ; Nguồn : Kawai and Urta (2002)
Bên cạnh đó đầu tư của Mỹ vào ASEAN cũng đa dạng hoá hơn trước đây
nếu vào thập niên 80 đầu tư của Mỹ tập trung vào dầu mỏ và khí đốt, hiện nay là
công nghiệp chế tạo. Đầu tư của Mỹ vào ASEAN phân bố tập trung ngành công
nghiệp chế tạo 37,7%, dầu khí 28,3% dịch vụ và ngành công nghiệp khác 34,4%
điều này cũng phù hợp với thay đổi cơ cấu kinh tế ASEAN
c. Tác động từ phía kinh tế EU
EU là đối tác thương mại lớn thứ 3 của ASEAN với tỷ trọng xuất khẩu của
ASEAN sang EU đạt 18% năm 2003 so với 13.5% năm 1995. Tuy nhiên, tiềm năng
hợp tác đôi bên còn rất lớn, như thương mại EU đối với ASEAN chỉ chiếm 5% tổng
kim ngạch thương mại và vốn đầu tư trực tiếp của EU vào ASEAN chỉ bằng chưa
đầy 5% tổng số vốn đầu tư của EU ra bên ngoài…hai quốc gia Pháp, Đức đóng góp
nhiều vào động cơ tăng trưởng toàn khu vực Đông Nam á. Trong thời gian tới, nền
kinh tế khu vực đồng EURO sẽ vẫn tiếp tục vận động theo hướng đi lên. Điều này
ảnh hưởng tích cực tới kinh tế khu vực.
Một trong những giải pháp nhằm thúc đẩy hợp tác kinh tế ASEAN – EU là
tập trung vào nội dung triển khai TREATI. TREATI là trụ cột quan trọng trong
tương lai hợp tác giữa ASEAN và EU. Sức mạnh và sự ổn định của đồng EURO sẽ
tác động tích cực đến tình hình tài chính quốc tế nói chung, khu vực EU và ASEAN
nói riêng. Các nước EU hy vọng đồng EURO sẽ mở ra kỷ nguyên mới với mức tăng
Trang : 27
trưởng kinh tế mạnh hơn, môi trường tài chính tiền tệ ổn định hơn so khi sử dụng
đồng USD.
Thuận lợi chung trong việc xúc tiến các quan hệ kinh tế thương mại, đầu tư
giữa EU và ASEAN là các thủ tục thanh toán sẽ đơn giản hơn, đặc biệt trong trường
hợp có nhiều nước cùng tham gia. Khả năng lưu thông lớn và chiều sâu của thị
trường tài chính khu vực đồng EURO đã giúp chi phí giao dịch hoa hồng giảm đáng
kể. Điều này sẽ kích thích phát hành trái phiếu bằng đồng EURO. Đồng thời việc
hình thành một thị trường thống nhất về giá cả và đồng tiền thanh toán là điều kiện
thuận lợi tăng kim ngạch xuất , nhập khẩu giữa hai khối.
EU bắt đầu sử dụng đồng EURO từ 1/1/1999 có ý nghĩa rất quan trọng đối
với các nước ASEAN. Các nước ASEAN có điều kiện chuyển một phần dự trữ
ngoại tệ của mình bằng đồng USD sang đồng EURO tránh đựơc rủi ro khi đồng
USD có biến động.
2.3 Hệ thống tài chính – tiền tệ khu vực ASEAN :
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, mà tâm điểm chính là hệ thống tài chính
tiền tệ tại các quốc gia đã làm cho các quốc gia xích lại gần nhau hướng đến một
chính sách tiền tệ phối hợp cùng đối phó với những biến động không phải tại một
mà là tất cả các nước ASEAN. Hướng đến một hệ thống điều hành tài chính tiền tệ
phối hợp giữa các quốc gia, xây dựng nền tảng liên minh tiền tệ. Các sáng kiến cơ
bản về hợp tác tài chính tiền tệ đựơc đề xuất hay đang đựơc tiến hành trong khu vực
có thể chia làm 3 nhóm cơ bản và được xem là trụ cột hợp tác tài chính:
a. Cơ chế giám sát khu vực.
b. Hệ thống tiền tệ và tỷ giá khu vực.
c. Thể chế tài chính ứng dụng khu vực.
2.3.1 Cơ chế giám sát Asean, quy trình giám sát Asean :
Các quy trình giám sát khu vực được thực hiện theo nhiều hình thức khác
nhau và được tăng cường từ sau khi khủng hỏang tài chính tiền tệ 1997.
Quy trình giám sát ASEAN ( ASEAN surveilolance process) : Thành lập tháng
10/1998, là một quy trình giám sát tổng kết có đánh giá độc lập và hỗ trợ cho quy
Trang : 28
trình giám sát toàn cầu do IMF thực hiện. Các nước ASEAN thống nhất gặp mặt ít
nhất 2 năm một lần để phân tích đánh giá tình hình kinh tế vĩ mô và phát triển của
vùng, cũng như xem xét các lĩnh vực đặc biệt khác như vấn đề cơ cấu và ngành.
Việc giám sát sẽ do nhóm phối hợp giám sát thuộc ban thư ký ASEAN tiến hành, và
sẽ chuẩn bị báo cáo giám sát ASEAN 6 tháng một lần. Các nước thành viên
ASEAN phải cung cấp cho nhóm phối hợp giám sát những thông tin tương tự như
những thông tin IMF yêu cầu trong điều 4 trong quy định hoạt động tư vấn của
IMF.
Các quy trình giám sát khác xem phụ lục 6
2.3.2 Hệ thống tiền tệ và tỷ giá khu vực :
BẢNG 2.4 PHÂN LOẠI HỆ THỐNG TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC
CỦA CÁC CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á
Tên đồng
Tiền
Mã chữ
Mục tiêu chiến lược của
chính sách tiền tệ Quốc gia
Chế độ tỷ giá
(1) (2) (3) (4) (5)
Brunei Dollar BND Chuẩn tiền tệ X
Campuchia Riel KHR Thả nổi có điều tiết X
Indonesia Rupiah IDR Thả nổi có điều tiết X
Lào Kip LAK Thả nổi có điều tiết X
Malaysia Ringgit MYR Cố định thông thường X
Myanma Kyat BUK Thả nổi có điều tiết X
Philippin Peso PHP Thả nổi độc lập X
Singapore Dollar SGD Thả nổi có điều tiết X
Trang : 29
Thái Lan Baht THB Thả nổi có điều tiết X
Việt Nam Dong VND Thả nổi có điều tiết X
(1)Exchange rate anchor; (2) Monetary aggergate target; (3) Inflation targeting framework (4) IMF–supported or other
monetary program; (5) Orther; Nguồn: Classification of Exchange Rate Arrangement Policy Frameworks,IMF
31/12/2004
2.3.3 Thể chế tín dụng khu vực .
a. Hệ thống chuyển tiền Swap trong khu vực ASEAN + 3 : “ Sáng kiến Chiang
mai” : cơ chế hỗ trợ khả năng thanh toán ngắn hạn các nước
Tháng 5/2000 Tại Chiang Mai , Các bộ trửơng Tài chính ASEAN + 3 đã đưa
ra “ Sáng kiến Chiang Mai”, bao gồm các cơ chế hỗ trợ khả năng thanh toán ngắn
hạn cho các nước trong khu vực gặp phải những khó khăn về cán cân thanh toán.
Sáng kiến Chiang Mai đã được báo cáo lên Hội nghị thương đỉnh ASEAN + 3 tại
Singapore vào tháng 11/2000. Sáng kiến bao gồm 2 nội dung chính :
Thoả thuận hoán đổi ASEAN (ASA) (ASEAN Swap Arrangement - ASA)
ASA được thiết lập vào năm 1997 với 5 thành viên chính: Indonesia,
Malaysia, Philipppin, Singapore, Thái Lan. Tổng giá trị đóng góp ban đầu là 100
triệu USD (mỗi thành viên góp 20 triệu USD).
Tháng 11/2000 thỏa thuận được các nước ký đã mở rộng thoả thuận Hoán
đổi ASEAN (ASA) cho 10 nước thành viên ASEAN tham gia và tổng trị giá của
thoả thuận là 1 tỷ USD, trong đó mức cam kết tham gia của Việt Nam là 60 triệu
USD và mức vay tối đa Việt nam trong khuôn khổ ASA là 120 triệu USD.
BẢNG 2.5 : ĐÓNG GÓP CỦA CÁC NƯỚC ASEAN TRONG ASA
NƯỚC ĐÓNG GÓP (TRIỆU USD)
ASEAN – 6 (Thái lan, Philippin, Inđônêxia,
Malaixia, Xingapo, Bruney )
150
Việt Nam 60
Miến điện 20
Cam phu chia 15
Lào 10
Trang : 30
Nguồn : Theo Rana (2001)
Thiết lập mạng lưới hoán đổi song phương (BSA) (Network of Bilateral Swaps
Agreements - BSA) và thoả thuận mua lại (Repurchase Agreement - Repo)
BSA là phương tiện tài trợ được thiết lập nhằm cung cấp thể thức tài trợ ngắn
hạn (tiền mặt) dưới dạng hoán đổi USD với các đồng tiền nội địa của các nước tham
gia thoả thuận. Tại Chiang Mai, các nước ASEAN +3 đã thoả thuận về khuôn khổ
và những nguyên tắc cơ bản của các thoả thuận song phương bao gồm cả việc kết
nối với IMF, thời hạn và lãi suất. Ví dụ, các nước có thể vay tiền mặt có thế chấp
bởi các đồng tiền nội địa với sự đảm bảo của chính phủ, chứ không phải thế chấp
bằng trái phiếu kho bạc Mỹ. Thời hạn hoán đổi là 90 ngày, được gia hạn tối đa 7 lần
và với mức lãi suất tương đương với lãi suất LIBOR cộng với 150 điểm % cho lần
rút vốn đầu tiên và lần gia hạn đầu tiên. Sau đó, điểm gia tăng thêm 50 điểm %
trong các đợt gia hạn thứ 2, 4 và 6 nhưng không được quá 300 điểm %. Đàm phán
về thoả thuận hoán đổi sẽ được thực hiện song phương trên cơ sở những thoả thuận
đã được thống nhất.
BSA là phương tiện bổ sung đối với sự trợ giúp của IMF, vốn được các nước
yêu cầu và đáp ứng một khi chấp nhận chương trình điều chỉnh cơ cấu và kinh tế vĩ
mô của IMF. Tuy nhiên BSA lại cho phép rút vốn tự động tới 10% số lượng rút vốn
lớn nhất cho phép mà không cần phải chấp nhận chương trình hay các điều kiện của
IMF. Hạn chế này sẽ được gia tăng một khi khả năng giám sát khu vực được tăng
cường.
• Thoả thuận mua lại (Repo) cũng được thiết lập nhằm cung cấp phương tiện
thanh khoản ngắn hạn cho các nước thành viên tham gia, thông qua việc bán và mua
lại những chứng khoán có giá trị. Chứng khoán phù hợp là trái phiếu hoặc tín phiếu
kho bạc Mỹ với thời hạn còn lại không dài hơn 5 năm, cũng như chứng khoán chính
phủ của nước đối tác trong khuôn khổ thoả thuận mua lại.
Thời hạn của Repo là một tuần nhưng có thể kéo dài thời điểm kết thúc theo
thoả thuận giữa các nước thành viên. Mức tối thiểu của mỗi giao dịch Repo là 5%
Trang : 31
tổng giá trị Repo đã ký kết, người mua sẽ được hưởng 102% mức lãi suất cho trái
phiếu hoặc tín phiếu kho bạc Mỹ và 105% cho trái phiếu chính phủ của bên đối tác.
Sau cuộc gặp cấp cao ASEAN + 3 vào tháng 11/2000, Trung Quốc, Nhật
Bản và Hàn Quốc đã bắt đầu các cuộc đàm phán về các thoả thuận hoán đổi song
phương với các nước ASEAN. Tính đến tháng 3/2005 đã có 16 thoả thuận được ký
với tổng giá trị là 39,5 tỷ USD.
Brunây và nhóm thành viên mới của ASEAN chưa tham gia các hiệp định
này. Tuy về bản chất, các hiệp định hoán đổi theo sáng kiến Chiang Mai là song
phương chúng vẫn chứa đựng yếu tố đa phương các nước cho vay vẫn có thể phối
hợp với nhau trong trường hợp một hay nhiều đối tác của họ có nhu cầu thanh toán
ngắn hạn. Một số ý kiến cho rằng các nước Đông Á cần nâng cao mức hợp tác
thông qua một thể chế khu vực độc lập kiểu quỹ tiền tệ Châu Á để đảm bảo tính
hiệu qủa cũng như khả năng huy động vốn lớn hơn chống lại đầu cơ tiền tệ.
b. Phòng theo dõi hoặc giám sát (Monitoring or Surveillance Unit) và Thể chế
ra quyết định (Decision- making Body)
Một nhóm nghiên cứu được thành lập nhằm xây dựng một Phòng theo dõi
hoặc giám sát với nhịêm vụ thực hiện thành công những đề xuất của sáng kiến
Chiang Mai. Phòng này sẽ có trách nhiệm giám sát: i) Khả năng thanh khoản cũng
như các nền tảng kinh tế cơ bản của từng thành viên; ii) Áp dụng những chuẩn mực
chung đã được các nước thành viên thống nhất; iii) Khả năng thực thi chính sách và
cải cách; iv) Phối hợp và tạo sự hài hoà các chính sách kinh tế vĩ mô giữa các nước
thành viên.
Ngoài ra, nhiều cố gắng đang được thực hiện nhằm xây dựng một thể chế ra
quyết định (decis._.rưởng của mức cung tiền tệ ở các nước tương ứng
theo cách thức sẽ tác động thuận lợi đến các điều kiện kinh tế. Mức khống chế hay
quản lý một đồng tiền nội tệ thay đổi giữa các NHTW. Lý do để các NHTW quản lý
các tỷ giá hối đoái là : làm dịu bớt các biến động tỷ giá hối đoái; thiết lập các biên
độ tỷ giá hối đoái ẩn và ứng phó với các xáo trộn tạm thời; cân bằng vị thế thanh
toán, dự trữ ngoại tệ, cân bằng sự phát triển của thị trường.
8. Chế độ tỷ giá thả nổi độc lập (Independently Floating)
Đây là chế độ tỷ giá, trong đó, tỷ giá được xác định theo thị trường (chính
phủ không lái xu hướng vận động của tỷ giá). Bất cứ hoạt động can thiệp ngoại hối
nào cũng chỉ nhằm mục đích giảm sự biến động quá mức của tỷ giá, chứ không theo
đuổi một hướng vận động hay một giới hạn cụ thể nào về tỷ giá.
B. MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Chế độ tỷ giá được đưa ra bên cạnh chiến lược của chính sách tiền tệ nhằm
cho thấy vai trò của chế độ tỷ giá trong hoạch định chính sách kinh tế và giúp xác
định khả năng của việc phối hợp hài hoà chính sách tỷ giá – tiền tệ.
1. Mục tiêu tỷ giá hối đoái (Exchange Rate Anchor)
Chính phủ sẵn lòng bán/mua ngoại tệ khi tỷ giá quá dao động nhằm duy trì tỷ
giá vẫn ở mức hay trong vùng đã ấn định, tỷ giá được coi là mục tiêu danh nghĩa
hay mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ. Chiến lược này được áp dụng trong
chế độ tỷ giá không có đồng tiền pháp định riêng, chuẩn tiền tệ, cố định thông
thường hay có biên độ rộng, con rắn tiền tệ, con rắn tiền tệ có biên độ.
2. Mục tiêu tổng thể tiền tệ (Monetary Anchor)
Chính phủ sử dụng các công cụ của mình để đạt được một tỷ lệ tăng trưởng
mục tiêu cho một tổng thể tiền tệ như dự trữ tiền tệ, M1 hay M2 và tổng thể mục
tiêu này trở thành mục tiêu danh nghĩa hay mục tiêu trung gian.
Trang : 112
3. Khuôn khổ mục tiêu lạm phát (Inflation Targeting
Framework)
Chính phủ công bố chính thức một mức lạm phát trung bình và cam kết sẽ
đạt được mục tiêu này. Một số đặc điểm chính khác của chính sách này là tăng
cường phổ biến thông tin cho công chúng và thị trường về kế hoạch và mục tiêu của
các nhà kế hoạch định chính sách tiền tệ, tăng cường trách nhiệm giải trình của
NHTW để đạt được mục tiêu lạm phát của mình. Các quyết định về chính sách tiền
tệ được định hướng bởi độ lệch trong việc dự đoán lạm phát tương lai so với mức
mục tiêu đã công bố; hành động dự báo lạm phát (hoàn toàn hay rõ ràng) là mục
tiêu trung gian của chính sách tiền tệ.
4. Chương trình hỗ trợ của IMF hay các tổ chức tiền tệ
khác (IMF – Supported or Other Monetary
Program)
Việc thực hiện chính sách tỷ giá hay tiền tệ phải nằm trong một khuôn khổ
quy định các mức sàn cho dự trữ ngoại hối và mức trần cho tài sản nội đại thuần của
NHTW. Ngoài ra cũng có thể có các mục tiêu khác về dự trữ tiền tệ được áp dụng
trong hệ thống này.
5. Các mục tiêu khác (Other)
Các nước không công bố mục tiêu danh nghĩa rõ ràng nhưng đúng hơn là
giám sát các mục tiêu khác nhau trong việc thực thi chính sách tiền tệ, hoặc không
có sẵn những thông tin liên quan về quốc gia này.
Trang : 113
PHỤ LỤC 10
TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH TRONG ASEAN
Những nổ lực mở cửa tài chính khu vực và tự do hoá các giao dịch vốn trong
khu vực ASEAN tiếp tục được đẩy mạnh. Lộ trình Hội nhập về tài chính, tiền tệ trong
khu vực ASEAN được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng Tài chính ASEAN 7
(AFMM7) và đã được thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN tổ chức tại Bali,
Inđônesia vào tháng 10/2003. Lộ trình đã đưa ra các bước đi và khuôn khổ thời gian
cho các chương trình hợp tác trong bốn lĩnh vực là: Phát triển thị trường vốn, Tự do
hoá Dịch vụ Tài chính, Tự do hoá Tài khoản vốn, Hợp tác tiền tệ trong khu vực
ASEAN.
Bên cạnh đó, những nổ lực nghiên cứu nhằm nâng cao tính hiệu trong quá
trình mở cửa và tự do hoá tài chính trong ASEAN cũng không ngừng đẩy mạnh. Diễn
đàn Ngân hàng Trung ương ASEAN (ACBF) gần đây đã hoàn thành nghiên cứu về
“Sự phù hợp và điều kiện tiên quyết cho việc thiết lập một đồng tiền chung ASEAN”.
Nhóm nghiên cứu đã đưa nhận định là hiện tại, khu vực ASEAN chưa hội tụ đủ các
điều kiện cần thiết cho việc xây dựng một đồng tiền chung. Điều kiện kinh tế còn có
nhiều khác biệt, trong khi đó lại thiếu một khuôn khổ về thể chế và các cam kết mạnh
mẽ về chính trị. Với mức độ liên kết kinh tế và hợp tác hiện tại, các nước ASEAN sau
khi hoàn thành việc xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) vào năm
2006 cần xem xét tới việc xây dựng Liên minh về Hải quan sau đó là Thị trường
chung, Liên minh kinh tế và sau cùng mới là việc thiết lập một đồng tiền chung cho
khu vực.
ASEAN đã có những thảo luận về hoàn tất các thoả thuận mậu dịch tự do với
Trung Quốc vào năm 2010, với Ấn Độ vào năm 2011, với Nhật vào năm 2012.
Để xoá đi hình ảnh một ASEAN “bàn bạc nhiều hơn là hành động”, để giấc
mơ cộng đồng ASEAN thành hiện thực, từng nứơc thành viên và cả khối cần có
những lộ trình riêng và chung thật cụ thể. Chính vì vậy mà trong bài phát biểu của
mính, Thủ tứơng Phan Văn Khải đã nhấn mạnh: “Cần có những nội dung, biện pháp,
lộ trình cụ thể…, cần tích cực, chủ động hơn để đạt sự đồng thuận trên tin thần nhân
nhượng lẫn nhau…”
“Trụ cột chính của cộng đồng ASEAN là hợp tác kinh tế phải tiếp tục được coi
là trụ cột nền tảng cần được thúc đẩy mạnh mẽ ”…
Trang : 114
PHỤ LỤC 11
CƠ CHẾ GIÁM SÁT
1. Cơ chế giám sát là gì?
Giám sát kinh tế vĩ mô nghĩa là giám sát tình trạng và triển vọng của các điều
kiện kinh tế bằng một diễn đàn đa phương hay bằng một thể chế quốc tế. Giám sát
kinh tế vĩ mô được thực hiện thường xuyên (thông thường là hằng năm) bởi IMF,
WB và OECD (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế – Organisation for Economic
Co-operation and Development) đối với các nước thành viên. Giám sát kinh tế vĩ
mô không chỉ là việc quan sát các chỉ số kinh tế mà còn đưa ra các đánh giá về
chính sách thương mại, cấu trúc kinh tế và nguy cơ khủng hoảng tài chính. Sau
hàng loạt cuộc khủng hoảng tiền tệ xảy ra do sự di chuyển ồ ạt của các dòng vốn,
việc giám sát khủng hoảng thị trường tài chính và thị trường vốn trở thành vấn đề
chính yếu trong giám sát kinh tế. Hiệu quả của giám sát dựa trên áp lực ngàng hàng
(peer pressure), các mục tiêu chính sách phải được nêu ra một cách rõ ràng. Trong
hầu hết các trường hợp, không có hình thức phạt nào được áp dụng cho thành viên
không thoả mãn các kiến nghị đặt ra nhưng điều này cũng sẽ gây khó khăn và làm
mất tầm ảnh hưởng của tổ chức giám sát. Tuy nhiên nếu trường hợp có hỗ trợ tài
chính và có kết hợp sâu về tiền tệ thì cần đặt ra các hình thức phạt (hay đình chỉ trợ
giúp) nếu việc cải tổ không được thực hiện, vì nếu không nó sẽ dễ gây ra tổn thương
cho các thành viên khác.
Quy trình giám sát đòi hỏi phải tập hợp đầy đủ dữ liệu và cần có sự hỗ trợ
của chính phủ. Số liệu sẽ được so sánh giữa các nước, giữa các giai đoạn để xác
định tính hợp lý trong chính sách của quốc gia. Khi phát hiện những chính sách
không hợp lý, tổ chức giám sát sẽ đưa ra cảnh cáo. Quy trình giám sát đòi hỏi phải
có các cuộc đối thoại trực tiếp và sự liên lạc thường xuyên giữa các nhà lãnh đạo.
IMP và OECD thường gửi các yêu cầu cải cách tới thành viên dưới dạng báo cáo
đánh giá. Sự hợp tác giữa các tổ chức giám sát quốc tế là cần thiết và giúp nâng cao
vị thế của nhau.
Trên lý thuyết có 3 hình thức quy trình giám sát:
Trang : 115
• Quy trình kiểm điểm ngang hàng đơn giản không có một cơ chế bắt buộc
thực thi cụ thể nào; điển hình là Quy trình đối thoại chính sách ASEAN +3, nhóm
khuôn khổ Manila và nhóm G7 chỉ đưa ra các đánh giá kinh tế về các nước thành
viên, áp lực ngang hàng không chính thức chỉ là sách lược để khuyến khích sự tình
nguyện thực thi các kế hoạch đề ra.
• Một số nhóm làm việc có các yêu cầu tiêu chí cao về sự ổn định tài khoản
vốn và tài khoản vãng lai, hợp tác lao động, tiêu chuẩn môi trường và nhiều các
chính sách kinh tế khác. OECD đưa ra các báo cáo hàng năm về các kiểm điểm,
định hướng hay cảnh báo nhằm khuyến khích các thành viên sửa chữa những chính
sách chưa hợp lý, nhưng các định hướng này không mang tính bắt buộc.
• Quy trình giám sát có các điều kiện chính sách nghiêm ngặt, các hình thức
khen thưởng và phạt nếu không thoả mãn yêu cầu. Khoản cấp tín dụng của IMF
trong chương trình điều chỉnh cấu trúc kinh tế bao hàm các điều kiện mà quốc gia
nhận vay phải thực thi. Trong Liên minh tiền tệ Châu Âu (EMU), áp lực ngang hàng
là phương tiện để đạt được mục tiêu đồng thuận về chính sách kinh tế giữa các
thành viên, bên cạnh đó theo điều kiện về chính sách tài khoá của Hiệp ước ổn định
và tăng trưởng còn bao gồm cả hình thức phạt tiền nếu vi phạm.
MỘT SỐ CƠ CHẾ GIÁM SÁT HIỆN HỮU
Thương mại Kinh tế vĩ mô và tài chính
Toàn cầu WTO G7, OECD, IMF
Khu vực EU, NAFTA,
MERCOSUR,
AFTA
Chiang Mai Initiative
Manila Framework
ASEAN
APEC
ASEM
2. IMF, OECD, G7, G10
IMF thực hiện báo cáo tổng quan đánh giá tình hình hàng năm (annual
review) của mỗi thành viên bao gồm cả quốc gia phát triển và đang phát triển. Báo
cáo này bao gồm những đánh giá về chính sách và điều kiện tài chính – tiền tệ, thị
Trang : 116
trường vốn và thị trường tài chính, cán cân xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó, đối với
những nước nhận tài trợ từ IMF thì sẽ có những báo cáo thường xuyên hơn. Tuy
nhiên việc đánh giá chính sách của các nứơc nhận viện trợ từ IMF, như thoả thuận
hỗ trợ (Stand – by Arrangment) hay trợ giúp ổn định cấu trúc (Enhanced Structral
Adjustment facility) chẳng hạn, không được gọi là giám sát bởi các điều kiện thực
thi nghiêm ngặt hơn áp lực ngang hàng. OECD cũng thực hiện báo cáo tổng quan
hàng năm về các thành viên đều là nước phát triển. Báo cáo của IMF và OECD đều
mang tính hệ thống, minh bạch trong việc soạn thảo, phê chuẩn dự liệu và công bố.
OECD có một diễn đàn giám sát hiệu quả khác đó là nhóm làm việc 3
(Working Party 3- WP3) trực thuộc Uỷ ban Chính sách kinh tế. WP3 gồm 10 ghế:
G7, Hà Lan (với Bỉ), Thuỵ Điển (với Đan Mạch và Na Uy) và Thuỵ Sỹ. WP3 cũng
xấp xỉ số thành viên của G10 (11 nứơc). Cả WP3 lẫn G10 đều có sự tham gia của
IMP và ECB. Các đại diện của Bộ tài chính và NHTW (thường là Thứ trưởng tài
chính và phó thống đốc NHTW) sẽ họp kín bốn lần mỗi năm và không công bố kết
quả ra công chúng. Những cuộc họp này diễn ra rất thẳn thắn và chi tiết về tình hình
kinh tế của các khu vực chính (Bắc Mỹ, Nhật, EU).
Một diễn đàn khác cũng được tổ chức và thông tin thường xuyên là cuộc họp
giữa các Bộ trưởng, thứ trưởng tài chính nhóm G7 (7 nền kinh tế lớn nhất thế giới
và sự phối hợp chính sách của họ là vấn đề quan tâm lớn của nền kinh tế toàn cầu).
Các cuộc họp diễn ra và được thông tin rất thường xuyên nhưng hầu hết không
chính thức. Khi các Bộ trưởng họp, khoảng 3 lần mỗi năm, thông báo chính thức
mới được đưa ra.
Cộng đồng quốc tế nhận thức được rằng cần có sự tham gia của các quốc gia
có nền kinh tế mới nổi chính trong các thảo luận về tài chính toàn cầu. Điều này đã
được cảnh báo bởi các cuộc khủng hoảng tiền tệ gần đây: ở Mexico 1994-1995,
Châu Á 1997-1998, Nga 1998, Brazil và Thổ Nhĩ Kỳ 1999-2000 và Argentina
2001-2002. Những quốc gia kể trên khi chịu khủng hoảng tiền tệ hay khủng hoảng
ngân hàng đã tác động đến sự ổn định của hệ thống tài chính toàn cầu. Các nước
phát triển, đại diện là G7, bắt đầu quan tâm rằng khủng hoảng loại mới ở Mexico và
Trang : 117
Châu Á có khả năng lặp lại trong tương lai, ảnh hưởng bất lợi đến kinh tế thế giới.
Mặt khác, các nứơc đang phát triển cũng cảm thấy mình đang chịu áp lực kiểm soát
ngày càng cao từ G7, G10 và IMF mà không có sự đại diện hợp lý của họ về tiếng
nói và quan điểm. Nhiều nền kinh tế Châu Á cho rằng việc tự do hoá thị trường tài
chính là dòng vốn nước ngoài là mối nguy hiểm tiềm tàng cho sự ổn định của thị
trường tài chính, trong khi đó các nước phát triển lại đang ủng hộ đẩy mạnh việc mở
thị trường này. Sau khủng hoảng Châu Á, các nứơc Châu Á chỉ trích các quỹ đầu cơ
đã tấn công vào các đồng tiền của họ góp phần gây nên bất ổn những năm 1997-
1998. Vì vậy để có thể trao đổi thẳng thắn hơn với các nước đang phát triển, các
nứơc phát triển, đi đầu là G7 đã thiết lập nên 2 diễn đàn mới. Một là, diễn đàn ổn
định tài chính (Financial Stability Forum - FSF) được thiết lập dưới sự chủ trì của
Andrew Crocket, tổng giám đốc BIS. FSF nhanh chóng hình thành 3 nhóm làm
việc: các học viện nghiên cứu, các trung tâm kiểm soát dòng vốn, các trung tâm
cảnh báo tài chính. Bên cạnh vai trò chính của G7, FSF bao gồm cả một số nứơc
đang phát triển nên hoạt động của nó đa dạng hơn. Hai là, G20 bao gồm G7 và các
nền kinh tế lớn (về dân số hay thu nhập) đang phát triển giữ vai trò quan trọng trong
sự ổn định hệ thống tài chính toàn cầu. Giống như G7,G20 đưa ra các ràng buộc
pháp lý, hiệp ước quốc tế và cũng không có ban thư ký thường trực. Tuy nhiên,
nhiều khả năng G20 có thể phát triển thành một diễn đàn quốc tế quan trọng về
giám sát tài chính toàn cầu.
Sau khủng hoảng Châu Á, vấn đề tăng cường vai trò của IMF và nâng cao
chất lượng của các khoản cấp tín dụng đã được đặt ra. Uỷ ban lâm thời (Interim
Committee) của IMF được chuyển thành Uỷ ban tài chính và tiền tệ quốc tế
(IMFC). IMFC cùng với ban điều hành IMF bàn thảo về các vấn đề mang tính tổ
chức của IMF cũng như các vấn đề kinh tế tài chính toàn cầu. IMF cũng đã thiết lập
một bộ phận chuyên về giám sát thị trường vốn.
Về khía cạnh tài chính, IMF có 2 bước phát triển quan trọng. Đầu tiên là việc
mở rộng hạn ngạch cấp tín dụng để có thể cung cấp các khoản hỗ trợ lớn hơn cho
các nước phát triển. Hai là, nếu IMF lâm vào tình trạng thiếu hụt thanh khoản ngắn
Trang : 118
hạn do việc phải cấp tín dụng cho nhiều quốc gia gặp khủng hoảng cùng một lúc thì
IMF có thể mượn từ những nứơc giàu. Thoả thuận chung về cho vay (The general
Agreement to Borrow – GAB) được hình từ lý do này. Thành viên của GAB cũng
tương tự như G10. Sau khủng hoảng Châu Á, nhận thấy rằng trong tương lai các
thoả thuận của GAB sẽ không đủ, việc mở rộng GAB được đặt ra và thoả thuận cho
vay mới (The New Agreement to Borrow - NAB) ra đời với 25 nước thành viên,
bao gồm các nứơc phát triển giàu có và đang phát triển.
***** Thành viên của các nhóm và diễn đàn *****
(1) G7: Mỹ, Nhật, Đức, Pháp, Anh, Canada, Ý
(2) G10: G7, Thuỵ Điển, Thuỵ Sỹ, Bỉ, Hà Lan (11nước)
(3) G20: G7, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Indonesia, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Úc, Brazil, Argentina,
Mexico, Ả Rập Saudi, Nam Phi, EU
(4) IMFC: G7, Algeria, Bỉ, Brazil, Chile, Trung Quốc, Gabon, Ấn Độ, Indonesia, Hàn Quốc, Mexico,
Hà Lan, NaUy, Nga, Ả Rập, Saudi, Nam Phi, Thuỵ Sĩ, các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (24
nước)
(5) NAB: G10, Luxembourg, Tây Ban Nha, Áo, Phần Lan, Đan Mạch, Na Uy, Malaysia, Singapore,
Thái Lan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Úc, Ả Rập Saudi, Kuwait (25nước)
*******************************************************
3. Các tổ chức giám sát tài chính – ngân hàng
Mặc dù các nền kinh tế đang phát triển được coi là nơi dễ bị tổn thương bởi
khủng hoảng tiền tệ và ngân hàng như khủng hoảng ở Mexico, Châu Á, Nga,
Argentina, nhưng các cuộc khủng hoảng này không chỉ giới hạn ở các nứơc đang
phát triển. Khủng hoảng ngân hàng cũng thường gặp ở các nước phát triển, điển
hình như khủng hoảng tiền gửi và tiền vay ở Mỹ và khủng hoảng ngân hàng ở Thuỵ
Điển những năm đầu thập niên 90 và ở Nhật những năm cuối thập niên 90.
Một diễn đàn của các nhà giám sát ngân hàng, Bale Committee on Banking
Supervision (BCBS) hoạt động từ giữa thập niên 80 với mục tiêu đẩy mạnh trao đổi
thông tin và phát triển chuẩn mực ngân hàng. Ngân hàng thanh toán quốc tế BIS
đóng vai trò tài trọ cho các buổi họp này. Tiêu chuẩn hiệu quả về vốn được đưa ra
năm 1998 và ảnh hưởng lớn đến sự hiệu quả của hoạt động ngân hàng quốc tế 8%
các luật định đề ra được chấp nhận rộng rãi trên toàn cầu là tiêu chuẩn tối thiểu mà
một ngân hàng quốc tế hy vọng sẽ xây dựng được mô hình quản trị rủi ro tốt hơn.
Trang : 119
Bên cạnh tổ chức giám sát ngân hàng, lĩnh vực chứng khoán và bảo hiểm còn
có Tổ chức quốc tế của các Uỷ ban chứng khoán (Interational Organization of
Securities Commission - IOSCO) và Hiệp hội quốc tế của các nhà giám sát bảo
hiểm (International Association of Insurance Supervisors - IAIS). Ba tổ chức này
giữ vai trò nòng cốt quan trọng phát triển các chuẩn mực và quy tắc cho hệ thống tài
chính. Dĩ nhiên vẫn còn nhiều bàn cãi xung quanh một tiêu chuẩn thống nhất toàn
cầu. Các nước đang phát triển thường thiếu các cơ sở hạ tầng cơ bản về pháp luật và
tài chính. Tuy nhiên để gia nhập thị trường vốn và tài chính toàn cầu, cơ chế giám
sát của các nứơc phải phù hợp tiêu chuẩn thế giới. Đồng thời, các báo cáo kế toán
của ngân hàng, Công ty chứng khoán và những doanh nghiệp vay tiền từ họ phải
đáng tin cậy để tạo được sự giám sát hiệu quả. Vì vậy Uỷ ban chuẩn mực kế toán
quốc tế (International Accounting Standards Committee-IASC) đã được thành lập.
BCBS, IOSCO, IAIS và IASC đề ra các chuẩn mực chứ bản thân không thực
hiện các hoạt động giám sát thực tế nhưng những gì họ thiết lập thực sự hữu ích cho
việc tăng cường hệ thống tài chính quốc tế. Chẳng hạn sau khủng hoảng Mexico,
“các chuẩn mực cơ bản cho việc giám sát hoạt động ngân hàng hiệu quả – The Core
Principles for Effeective Banking Supervision” được BCBS đưa ra với sự hợp tác
của IMF và WB. Tài liệu này đưa ra đường hướng chính về việc nên thiết lập cơ chế
giám sát như thế nào ở từng quốc gia. Các tiêu chí này sau đó đã được IMF áp dụng
cho chương trình đánh giá lĩnh vực tài chính (Financial Sector Assessment Program
- FSAP) của mỗi nứơc thành viên.
Trang : 120
PHỤ LỤC 12 :
TẦM NHÌN ASEAN NĂM 2020
(Thông qua tại hội nghị cấp cao ASEAN không chính thức
lần thứ 2 Kula Lumpur, ngày 14-16/12/1997)
Chúng tôi, những người đứng đầu Nhà nước chính phủ Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á, Họp mặt hôm nay tại Kuala Lumpur để khẳng định lại cam kết của
mình đối với các tôn chỉ, mục đích của hiệp hội như được nêu trong Tuyên bố Băng
cốc ngày 8/8/1997, cụ thể là thúc đẩy hợp tác khu vực ở Đông Nam Châu Á trên
tinh thần bình đẳng và đối tác, đóng góp vào hòa bình, tiến bộ và thịnh vượng ở khu
vực.
Các nước ASEAN chúng tôi đã tạo ra một cộng đồng các quốc gia Đông
Nam Châu Á chung sống hòa bình với nhau và với thế giới, nhanh chóng đạt được
sự phồn vinh cho nhân dân mình và cải thiện đời sống của họ một cách vững chắc .
Tính đa dạng phong phú của chúng tôi đã đem lại sức mạnh và nguồn cổ vũ cho
chúng tôi giúp nhau xây dựng một ý thức cộng dồng mạnh mẽ.
Các nước ASEAN chúng tôi nay là một thị trường với khỏang 500 triệu dân
có tổng sản phẩm nội địa là 600 tỷ USD.
Chúng tôi đã đạt được thành tựu đáng kể trong lĩnh vực kinh tế, như tỷ lệ
tăng trưởng cao, ổn định và thuyên giảm đáng kể tỷ lệ nghèo trong mấy năm qua.
Các nước thành viên đã có được khối lượng thương mại và luồng đầu tư lớn nhờ có
nhiều biện pháp tự do hóa đáng kể.
Chúng tôi quyết tâm phát huy những thành tựu đã đạt được.
Nay, khi thế kỷ XXI sắp tới và 30 năm sau khi ASEAN ra đời, chúng tôi họp
mặt tại đây để vạch ra một tầm nhìn cho ASEAN trên cơ sở tình hình thực tế ngày
nay và triển vọng tình hình trong những thập niên tới năm 2020.
Theo tầm nhìn đó, ASEAN sẽ là một nhóm hài hòa các dân tộc Đông Nam
Châu Á hướng ngọai, sống trong hòa bình, ổn định và thịnh vượng , gắn bó với
Trang : 121
nhau bằng quan hệ đối tác trong phát triển năng động và trong một cộng đồng các
xã hội đùm bọc lẫn nhau.
MỘT NHÓM HÀI HÒA CÁC DÂN TỘC ĐÔNG NAM CHÂU Á.
Chúng tôi hình dung vào năm 2020, khu vực ASEAN sẽ thực sự trở thành
một khu vực hòa bình, tự do và trung lập như nêu trong Tuyên bố Kuala Lumpur
1971.
Đến năm 2020, ASEAN sẽ thiết lập được một Đông Nam châu Á hòa bình
và ổn định, ở đó mỗi nước sống bình yên, những nguyên nhân xung đột đã được
lọai bỏ qu việc tôn trọng công lý và luật pháp và việc tăng cường tinh thần tự cường
quốc gia và khu vực.
Chúng tôi hình dung một Đông Nam châu Á, ở đó tranh chấp lãnh thổ và các
tranh chấp khác được giải quyết bằng biện pháp hòa bình.
Chúng tôi hình dung hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Châu Á
phát huy đầy đủ chức năng của mình như một bộ luật ứng xử có tính ràng buộc đối
với các chính phủ và nhân dân chúng tôi và được các quốc gia khác có lợi ích ở khu
vực tuân thủ.
Chúng tôi hình dung một Đông Nam châu Á không có vũ khí hạt nhân; tất cả
các nước có vũ khí hạt nhân cam kết tuân thủ những mục đích của hiệp ước về khu
vực Đông Nam châu Á không có vũ khí hạt nhân bằng cách tham gia Nghị định thư
của hiệp ước, chúng tôi cũng hình dung khu vực của chúng tôi không có tất cả các
lọai vũ khí giết người hàng lọat khác.
Chúng tôi hình dung các tài nguyên thiên nhiên và con người phong phú của
chúng tôi sẽ đóng góp cho sự phát triển và thịnh vượng chung của chúng tôi.
Chúng tôi hình dung Diễn đàn khu vực ASEAN sẽ là một phương tiện vững
chắc để xây dựng lòng tin, thức hiện ngọai giao phòng ngừa, và thúc đẩy giải quyết
xung đột.
Trang : 122
Chúng tôi hình dung một Đông Nam châu Á ở đó núi, sông và biển không
chia rẽ mà liên kết chúng tôi trong mối quan hệ hữu nghị, hợp tác và thương mại.
Chúng tôi thấy ASEAN là một lực lượng hữu hiệu đối với hòa bình, công lý
và trung dung ở Châu Á – Thái Bình Dương và thế giới.
QUAN HỆ ĐỐI TÁC TRONG PHÁT TRIỂN NĂNG ĐỘNG
Chúng tôi quyết tâm vạch ra phương hướng mới tiến tới năm 2020 gọi là
“ASEAN 2020 : Quan hệ đối tác trong phát triển năng động “ nhằm tạo quan hệ liên
kết kinh tế chặt chẽ hơn trong ASEAN.
Chúng tôi khẳng định lại quyết tâm nâng cao quan hệ hợp tác kinh tế
ASEAN của các chiến lược phát triển kinh tế, phù hợp với nguyện vọng của nhân
dân mỗi nước, chú trọng tới sự tăng trưởng đồng đều và bền vựng , nâng cao tính tự
cường quốc gia cũng như khu vực.
Chúng tôi cam kết duy trì họat động kinh tế cao bằng cách bồi đắp cho nền
tảng của những cố gắng hợp tác hiện nay, củng cố những thành tựu đã đạt được,
tăng cường những cố gắng chung và tương trợ lẫn nhau.
Chúng tôi cam kết tiến đến quan hệ gắn bó và liên kết kinh tế chặt chẽ hơn,
thu hẹp khỏang cách về trình độ phát giữa các nước thành viên, bảo đảm cho hệ
thống thương mại đa biên công bằng và rộng mở, và đạt trình độ cạnh tranh quốc tế.
Chúng tôi sẽ tạo ra một khu vực kinh tế ASEAN ổn định , thịnh vượng, có
khả năng cạnh tranh cao, trong đó hàng hóa dịch vụ và đầu tư được lưu chuyển
thông thóang, kinh tế phát triển đồng đều , nghèo đói và phân hóa kinh tế – xã hội
giảm bớt.
Chúng tôi kiên quyết thực hiện những biện pháp sau :
+ Duy trì sự ổn định về kinh tế vĩ mô và về tài chính trên tòan khu vực bằng cách
tham khảo ý kiến chặt chẽ hơn về chinh sách kinh tế vĩ mô và tài chính.
+ Tăng cường liên kết và hợp tác kinh tế bằng cách thực hiện những chiến lược
chung sau: thực hiện đầy đủ khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và thúc đẩy
Trang : 123
sự trao đổi thông thóang về dịch vụ; thực hiện khu vực đầu tư ASEAN vào năm
2010 và luồng đầu tư thông thóang vào năm 2020; tăng cường và mở rộng hợp tác
tiểu vùng ở các khu vực và tiểu vùng tăng cường hiện có và sắp có; củng cố và mở
rộng hơn nữa các mối liên kết với các khu vực ngòai ASEAN vì lợi ích chung, hợp
tác nhằm tăng cường hệ thống thương mại đa biên; tăng cường vai trò của giới
doanh nghiệp, coi đó là động lực tăng trưởng.
+ Thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hiện đại và có tính cạnh tranh trong
ASEAN để góp phần phát triển công nghiệp và tính hiệu quả của khu vực.
+ Đẩy nhanh sự lưu chuyển thông thóang trong lĩnh vực tài chính và hợp tác chặt
chẽ hơn trong lĩnh vực tiền tệ và thị trừơng vốn, thuế, bảo hiểm, và các vấn đề hải
quan cũng như tham khảo ý kiến chặt chẽ hơn về chính sách kinh tế vĩ mô và tài
chính.
+ Thúc đẩy sự thông thóang trong lĩnh vực tài chính và hợp tá chặt chẽ hơn trong
lĩnh vực tiền tệ và thị trường vốn, thuế, bảo hiểm, và các vấ đề hải quan cũng như
tham khảo ý kiến chặt chẽ hơn về chính sách kinh tế vĩ mô và tài chính.
+ Đẩy nhanh sự phát triển khoa học và công nghệ , bao gồm cả công nghệ thông tin
bằng cách thiết lập một mạng lưới công nghệ thông tin và các trung tâm đầu đàn
trong khu vực để phổ biến và tạo điều kiện để tiếp cận dữ liệu và thông tin.
+ Thiết lập sự liên kết với nhau trong lĩnh vực năng lượng và điện, khí thiên nhiên
và nước dùng trong sinh họat trong ASEAN thông qua hệ thống điện ASEAN và hệ
thống ống dẫn khí và nước sinh họat xuyên ASEAN, thúc đẩy hợp tác trong việc
bảo tồn và sử dụng có hiệu quả năng lượng cũng như phát triển các nguồn năng
lượng mới và tái sinh.
+ Tăng cừơng an ninh lương thực và nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế của
lương thực hàng đầu sản xuất các sản phẩm này, biến ngành lâm nghiệp thành một
mô hình về quản lý, bảo tồn và phát triển bền vững rừng.
+ Đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về cải thiện cơ sở hạ tầng và thông tin liên lạc
bằng cách phát triển mạng lưới giao thông vận tải liên kết và hài hòa xuyên
ASEAN, làm chủ được các bước tiến trong công nghệ viễn thông và công nghệ
Trang : 124
thông tin, đặc biệt trong việc nối các xa lộ thông tin các hành lang đa phương tiện
trong ASEAN, khuyến khích chính sách bầu trời rộng mở, phát triển vận tải đa
phương thức, tạo đầu kiện thuận lợi cho hàng quá cảnh ; liên kết chặt chẽ hơn mạng
lưới viễn thông thông qua sự kết nối, phối hợp các tần số và công nhận các thủ tục
phê duyệt các chủng lọai thiết bị của nhau.
+ Tăng cường sự phát triển nguồn lực trong tất cả các lĩnh vực kinh tế thông qua
việc giáo dục có chất lượng, nâng cao tay nghề , kỷ năng và huấn luyện.
+ Có những cố gắng tiến tới hệ thống tiêu chuẩn và đánh giá phù hợp ở cấp độ quốc
tế để biến hệ thống này thành một hệ thống hài hòa nhằm tạo điều kiện dễ dàng hơn
cho việc chu chuyển thương mại ASEAN thông thóang trong khi đáp ứng được như
cầu về an tòan, y tế và môi truờng.
+ Sử dụng quỹ hợp tác chuyên ngành ASEAN như một công cụ để giải quyết vấn
đề phát triển kinh tế không đồng đều, nghèo và phân hóa kinh tế – xã hội.
+ Tăng cường quan hệ đối tác hải quan ASEAN để tiến tới tiêu chuẩn quốc tế và
mức tốt nhất về hiệu quả, trình độ chuyên môn và dịch vụ và đồng nhất thông qua
việc hài hòa thủ tục, để tăng cường thương mại và đầu tư và bảo vệ sức khỏe và
cuộc sống của cộng đồng ASEAN.
+ Tăng cừơng thương mại bên trong ASEAN trong lĩnh vực khai khóang và thông
qua mối liên hệ gần gũi hơn và chia sẻ thông tin về khai khóang và khoa học trái đất
đóng góp để ASEAN làm chủ được công nghệ cũng như tăng cường quan hệ hợp
tác và đối tác với các bên đối thọai để tạo điều kiện phát triển và chuyển giao công
nghệ trong ngành khai khóang, đặc biệt trong nghiên cứu hạ lưu và khoa học trái đất
và thiết lập cơ chế thực hiện thích hợp.
Trang : 125
MỘT CỘNG ĐỒNG CÁC XÃ HỘI ĐÙM BỌC NHAU.
Chúng tôi hình dung đến năm 2020 tòan bộ Đông Nam châu Á sẽ là một
cộng đồng ASEAN nhận thức được các mối quan hệ lịch sử của mình, hiểu rõ di
sản văn hóa của mình và gắn bó với nhau bằng một bản sắc chung của khu vực.
Chúng tôi thấy xã hội ASEAN sống động và rộng mở nhất quán với đặc
điểm dân tộc của mỗi nước trong đó mọi người đều đựơc tiếp cận một cách công
bằng các cơ hội để phát triển không phân biệt giới tính, sắc tộc, ngôn ngữ, hoặc
nguồn gốc văn hóa và xã hội.
Chúng tôi hình dung một ASEAN đùm bọc và gắn bó về mặt xã hội, ở đó
nạn đói, suy dinh dưỡng, thiếu thốn và nghèo khổ không còn là những vấn đề cơ
bản nữa ở đó gia đình vững mạnh là những đơn vị cơ bản của xã hội chăm lo cho
các thành viên của gia đình , đặc biệt là trẽ em, thanh niên, phụ nữ và người cao
tuổi; và ở đó xã hội công dân đựơc tăng cường sức mạnh và đặc biệt quan tâm đến
những người có hòan cảnh thiệt thòi, những ngươi tàn tật , không nơi nương tựa, và
từ đó công lý xã hội và pháp quyền ngự trị.
Chúng tôi thấy một Đông Nam châu Á trước 2020 không có ma túy, không
sản xuất chế biến buôn bán và sử dụng ma túy.
Chúng tôi hình dung một ASEAN có khả năng cạnh tranh về cộng nghệ nắm
được công nghệ có tầm chiến lựơc và chủ chốt, với một nguồn lực thỏa đáng có
trình độ kỹ thuật và được đào tạo, và có một mạng lưới mạnh các viện nghiên cứu
khoa học và công nghệ và các trung tâm đầu đàn.
Chúng tôi hình dung một ASEAN sạch và xanh, có cơ chế hòan toàn vững
chắc cho sự phát triển bền vững, để bảo vệ môi trường và bảo đảm sự bền vững của
các nguồn tài nguyên thiên nhiên của khu vực và chất lượng cuộc sống cao của
nhân dân.
Chúng tôi hình dung Đông Nam châu Á dần đi tới thỏa thuận về quy tắc ứng
xử và những biện pháp hợp tác để đối phó với những vấn đề mà chỉ có thể giải
Trang : 126
quyết ở cấp độ khu vực, kể cả ô nhiễm và suy thóai môi trường , buôn bán ma túy,
buôn bán phụ nữ và trẻ em, và các tôi phạm xuyên quốc gia khác.
Chúng tôi hình dung các quốc gia của chúng tôi được quản lý với sự đồng
thuận và sự tham gia rộng rãi hơn của nhân dân mà tiêu điểm là phúc lợi và nhân
phẩm của con người và lợi ích của cộng đồng .
Chúng tôi quyết tâm phát triển và tăng cừơng các thể chế và cơ chế của
ASEAN để tạo điều kiện thực hiện được tầm nhìn và đáp ứng những thách thức của
thế kỷ tới. Chúng tôi cũng thấy cần tăng cường Ban thư ký ASEAN để ban thư ký
có vai trò lớn hơn, hỗ trợ cho việc thực hiện Tầm nhìn của chúng tôi.
MỘT ASEAN HƯỚNG NGỌAI.
Chúng tôi thấy một ASEAN hướng ngọai đóng vai trò trung tâm trong các
diễn đàn quốc tế, và thúc đẩy lợi ích chung của ASEAN. Chúng tôi hình dung một
ASEAN tăng cừơng quan hệ với các nước đối thọai và các tổ chức khu vực khác
trên cơ sở đối tác bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau.
KẾT LUẬN
Chúng tôi cam kết với nhân dân chúng tôi sẽ quyết tâm và làm việc tòan tâm
để biến tầm nhìn ASEAN 2020 thành hiện thực.
Kuala Lumpur.
Ngày 15 tháng 12 năm 1997.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA1250.pdf