BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------
Phạm Thị Thanh Nga
ĐĨNG GĨP CỦA VŨ NGỌC PHAN, TRƯƠNG
CHÍNH, ĐINH GIA TRINH VỀ MẶT PHƯƠNG
PHÁP PHÊ BÌNH, NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
TRONG GIAI ĐOẠN 1930 – 1945
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THÀNH THI
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
LỜI CẢM ƠN
Tơi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến thầy Nguyễn Thành Thi – người đ
117 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2009 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Đóng góp của Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Đinh Gia Trinh về mặt phương pháp phê bình, nghiên cứu văn học trong giai đoạn 1930 - 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ã trực tiếp hướng
dẫn tơi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Tơi xin chân thành cảm ơn các thầy cơ trong khoa
Ngữ văn – trường Đại học Sư phạm TP. HCM và các thầy cơ đã giảng dạy Cao học khĩa 16 ngành
Văn học Việt Nam.
Tơi cũng xin cảm ơn các thầy cơ và cán bộ của Phịng Khoa học cơng nghệ và Sau Đại học
trường Đại học Sư Phạm TPHCM đã tạo điều kiện thuận lợi cho tơi trong suốt quá trình học.
Tơi cũng vơ cùng cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình và bạn bè. Đĩ chính là nguồn
động viên tinh thần rất lớn để tơi theo đuổi và hồn thành luận văn này.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2008
Học viên thực hiện
Phạm Thị Thanh Nga
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu
Phê bình văn học là một thể loại quan trọng đã gĩp phần khơng nhỏ vào cơng cuộc hiện đại
hĩa nền văn học dân tộc. Ngay từ trước Cách mạng tháng Tám 1945, nhờ việc sử dụng rộng rãi chữ
quốc ngữ và những hoạt động sơi nổi của báo chí, cơng tác lý luận, phê bình ở nước ta đã cĩ những
bước phát triển mạnh mẽ với nhiều đại biểu xuất sắc. Trong số đĩ khơng thể khơng nhắc đến Vũ
Ngọc Phan, Trương Chính và Đinh Gia Trinh. Mặc dù số lượng tác phẩm và phong cách nghiên cứu
của ba nhà phê bình này cĩ những nét khác nhau song đây đều là những tác giả đã để lại dấu ấn
riêng của mình trên văn đàn Việt Nam.
Khi tiến hành cơng việc phê bình văn học, các nhà phê bình chuyên nghiệp đều phải xác lập
cho mình một hệ thống các quan niệm văn học phù hợp và những cách thức tiếp cận cần thiết để
chiếm lĩnh đối tượng nghiên cứu. Cĩ thể nĩi phương pháp phê bình của mỗi người sẽ ảnh hưởng rất
lớn đến những thành tựu và hạn chế trong tác phẩm của họ. Vì vậy, xem xét một sự nghiệp khoa
học, một cơng trình lý luận, phê bình, bên cạnh việc ghi nhận những sự kiện, thơng tin, tri thức mà
nhà khoa học cung cấp và luận giải, chúng ta cịn phải xác định phương pháp tiếp cận của nhà khoa
học thể hiện trong cơng trình. Chỉ khi đĩ ta mới hình dung được vị trí của ơng ta trong sự vận động
của phê bình theo dịng thời gian.
Trong những năm gần đây, do ý thức được sự phát triển của phương pháp đánh dấu sự trưởng
thành của lý luận, phê bình trên con đường hiện đại hĩa nên vấn đề phương pháp và phương pháp
luận nghiên cứu văn học đã được đặt ra và đang thu hút sự chú ý của nhiều học giả. Tuy nhiên số
cơng trình nghiên cứu nghiêm túc về vấn đề này vẫn chưa nhiều. Viết về các nhà phê bình, người ta
mới chỉ quan tâm đến sự nghiệp trước tác và những đĩng gĩp của họ cho văn học chứ chưa thực sự
bàn luận về những phương pháp đã được họ sử dụng khi nghiên cứu các tác giả, tác phẩm cũng như
các giai đoạn văn học.
Việc tìm hiểu về phương pháp phê bình sẽ cho ta thấy con đường hình thành và quá trình hiện
đại hĩa của phê bình văn học Việt Nam thế kỉ XX, các luồng tiếp thu và ảnh hưởng, nguyên nhân
của nhiều cuộc tranh luận, tức là những điều mà nếu ta chỉ mơ tả các tác giả, tác phẩm, các hiện
tượng một cách riêng lẻ thì khĩ cĩ thể thấy rõ được. Đồng thời việc nghiên cứu như vậy cũng giúp
ích nhiều cho việc giảng dạy văn trong trường THPT khi các tác phẩm lý luận, phê bình ngày càng
chiếm một vị trí quan trọng hơn.
Chính vì những lý do trên, tác giả luận văn quyết định chọn cho mình đề tài “Đĩng gĩp của Vũ
Ngọc Phan, Trương Chính, Đinh Gia Trinh về mặt phương pháp phê bình, nghiên cứu văn học
trong giai đoạn 1930 – 1945”. Nghiên cứu đề tài này, tác giả luận văn muốn hướng đến các mục
đích sau:
- Xác định sơ bộ tiến trình phát triển của các phương pháp phê bình, nghiên cứu văn học ở
Việt Nam để từ đĩ thấy được sự tự ý thức về mình của văn học qua các thời kỳ.
- Khảo sát tồn diện phương pháp phê bình, nghiên cứu văn học của Vũ Ngọc Phan, Trương
Chính, Đinh Gia Trinh trong những tác phẩm trước Cách mạng tháng Tám. Đây cũng là cách để cĩ
thể đánh giá đúng đắn vị trí của các ơng trong lịch sử văn học cũng như gĩp thêm một số kiến thức
lý thuyết và thực hành cho nền lý luận, phê bình nước nhà.
2. Phạm vi đề tài và tư liệu nghiên cứu
Để đạt được những mục đích nghiên cứu nêu trên, người viết sẽ phải quan tâm đến tồn bộ
những tác phẩm phê bình, nghiên cứu văn học của Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Đinh Gia Trinh
trong giai đoạn 1930 – 1945. Do điều kiện và khả năng hạn hẹp, người viết chưa thể tìm được tất cả
những bài viết đã xuất hiện trên mặt báo của các tác giả này. Vì vậy, phạm vi khảo sát của luận văn
sẽ chỉ gồm những tác phẩm đã được in thành sách. Cụ thể đĩ là các tác phẩm sau:
- Vũ Ngọc Phan (1960), Nhà văn hiện đại, NXB Thăng Long, Sài Gịn.
- Vũ Ngọc Phan (1963), Trên đường nghệ thuật, NXB Đời nay, Sài Gịn.
- Đinh Gia Trinh (2005), Hồi vọng của lý trí, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
Riêng với Trương Chính, do hai tập Dưới mắt tơi và Những bơng hoa dại của ơng chỉ được in
lại trong những tuyển tập nên người viết sẽ tìm hiểu văn bản của chúng trong quyển Văn học Việt
Nam thế kỷ XX (Quyển 5 – Phần lý luận, phê bình) (Tập 4) do Nguyễn Ngọc Thiện chủ biên, NXB
Văn học, Hà Nội xuất bản năm 2005.
Ngồi ra, để cĩ cái nhìn chính xác, khách quan, khoa học, người viết cũng sẽ khảo sát một số
tài liệu phê bình của các tác giả khác trong giai đoạn này hoặc giai đoạn sau cũng như các cơng
trình và bài viết cĩ liên quan đến đề tài. Những tác phẩm và bài viết về lý thuyết văn học cũng được
tham khảo để làm cơ sở về mặt lý luận cho cơng trình.
3. Lịch sử vấn đề
Vũ Ngọc Phan và Trương Chính là hai cái tên quen thuộc của phê bình văn học Việt Nam thế
hệ 1932. Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa cĩ một chuyên luận, chuyên khảo nào nghiên cứu một cách
tồn diện và hệ thống về Trương Chính. Riêng với Vũ Ngọc Phan, năm 1998, Trần Thị Lệ Dung đã
chọn đề tài “Đĩng gĩp của Vũ Ngọc Phan cho phê bình – nghiên cứu văn học qua Nhà văn hiện
đại” cho luận văn thạc sĩ của mình. Rất tiếc do luận văn này được thực hiện ở Đại học Sư phạm
Vinh nên người viết khơng cĩ điều kiện tìm đọc.
Vì nhiều lý do nên trước đây Đinh Gia Trinh ít được nhắc tới, số bài viết về ơng chỉ đếm trên
đầu ngĩn tay. Người viết nhận thấy Đinh Gia Trinh viết khơng nhiều song phần lớn những bài viết
của ơng đều cĩ giá trị. Chúng là sự kết tinh của một trí tuệ mẫn tiệp và thái độ làm việc nghiêm túc,
khoa học. Sẽ thật thiếu sĩt nếu chúng ta bỏ qua khơng nhắc đến con người này và những phương
pháp nghiên cứu, phê bình văn học của ơng. .
3.1. Khi mới xuất hiện, cĩ khá nhiều luồng dư luận trái ngược nhau xung quanh tác phẩm Nhà
văn hiện đại. Các tờ Dân báo và Tin mới khen ngợi Vũ Ngọc Phan vì thái độ làm việc nghiêm túc,
khoa học, cách hành văn sáng suốt và những nhận định xác đáng [46, tr.142]. Trong khi đĩ, Lê
Thanh lại cho rằng Vũ Ngọc Phan đã viết một lối “phê bình tỉ mỉ”, thiếu khoa học, “ghi cả những
điều nhỏ quá” và “bỏ qua những điều rất quan trọng” [101, tr.368-372]. Ý kiến của Lê Thanh cĩ
nhiều nét giống với ý kiến của nhĩm Thanh Nghị khi nhĩm này chê trách Vũ Ngọc Phan đã thực
hành một “lối văn nhà trường”, “một lối phê bình hồn tồn Việt Nam”, “thích tỉ mỉ soi mĩi và
khơng ưa nghĩ xa, nhìn rộng” [101, tr.379]. Tuy nhiên nhĩm Thanh Nghị mà đại diện là Đinh Gia
Trinh cũng cơng nhận Nhà văn hiện đại là “một cơng trình khảo cứu và phê bình cĩ cơng phu, viết
bằng một thứ văn linh hoạt và khá trau chuốt” [119, tr.292].
Trong lời tựa tập Dưới mắt tơi, Văn Ngoạn khẳng định các bài viết của Trương Chính đều
“vâng theo một phương pháp nhất định” [104, tr.842] song ơng khơng nĩi rõ đĩ là phương pháp gì.
Căn cứ vào nhận xét sau đĩ của ơng về Trương Chính: “hễ gặp một vấn đề xã hội chẳng hạn, ơng
Trương Chính rời địa vị khách quan, bước vào địa vị chủ quan mà hăng hái lập luận. Sau nhà phê
bình, ta thấy hiện rõ nhà xã hội” [104, tr.842], ta cĩ thể suy ra phần nào Văn Ngoạn đã thấy Trương
Chính sử dụng phương pháp xã hội học.
Theo Vũ Ngọc Phan, “lối phê bình của Trương Chính đã bắt đầu kỹ càng và cĩ phương pháp.
Sự khen chê của ơng đã cĩ căn cứ, khơng đến nỗi vu vơ (…) Đối với cái “phương pháp ba W” của
người Anh, Trương Chính là người rất trung thành” [78, tr.649]. Tuy vậy, Vũ Ngọc Phan chê
Trương Chính “khơng sâu sắc”, “lời phê bình nhiều khi khơng nhất trí, khĩ mà biết được ý kiến rõ
rệt của ơng về một nhà văn”, đã thế ơng lại cịn “hay bắt bẻ thiên vị” [78, tr.654-655].
Trong giai đoạn này, người viết khơng tìm được bài viết nào đề cập đến phương pháp phê bình
của Đinh Gia Trinh.
3.2. Ở miền Bắc, sau năm 1945, do những yêu cầu của nền văn nghệ cách mạng, những tác
phẩm của giai đoạn trước ít được đề cập. Ở miền Nam thời gian này, Vũ Ngọc Phan và Trương
Chính được các tác giả Thanh Lãng, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Tấn Long, Phạm Thế Ngũ, Thế
Phong nhắc tới trong một số cơng trình về phê bình văn học Việt Nam của họ. Tuy nhiên hai ơng
khơng phải là đối tượng nghiên cứu chính nên họ chỉ dành cho hai ơng những đánh giá chung về vị
trí, quan niệm (Nguyễn Văn Trung xếp Vũ Ngọc Phan, Trương Chính vào quan niệm phê bình ấn
tượng chủ quan giáo điều), khuynh hướng (Thanh Lãng xếp Vũ Ngọc Phan vào khuynh hướng phê
bình văn học sử, Trương Chính vào khuynh hướng phê bình cổ điển). Nhìn chung các tác giả này
đều ghi nhận đĩng gĩp của hai ơng. Riêng Thanh Lãng trong quyển Phê bình văn học Việt Nam thế
hệ 1932 cho rằng Trương Chính đã tiến hơn Thiếu Sơn và Phạm Quỳnh, Phan Khơi, thậm chí khởi
sắc hơn cả Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan ở chỗ khơng tỉ mỉ, vụn vặt như hai tác giả này. Đáng
nĩi là sau khi ca ngợi, Thanh Lãng lại chê phương pháp phê bình của Trương Chính rời rạc, khơng
khái quát, nhìn tác phẩm như một hiện tượng riêng lẻ, cơ lập và cuối cùng là khơng đem lại cái gì
mới mẻ. Chính vì tiền hậu bất nhất như vậy nên lời bình luận của Thanh Lãng khơng thật thuyết
phục.
Trong bộ Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, khi viết về tạp chí Thanh Nghị, Phạm Thế
Ngũ tỏ ra biệt nhãn Đinh Gia Trinh hơn cả. Theo ơng, đây là ngịi bút khả ái bậc nhất ở Thanh Nghị
với “một khiếu phân tích sắc bén”, “một cái nhìn hơi nghiêm khắc nhưng cơng minh, nhiều nhận
định đúng và hay” [71, tr.660].
3.3. Từ những năm 1980, cùng với sự đổi mới của văn học nước ta, vấn đề nghiên cứu di sản
lý luận, phê bình trước 1945 được đặt ra một cách nghiêm túc. Nhiều bài viết cĩ giá trị về Vũ Ngọc
Phan lần lượt xuất hiện.
Trần Thị Việt Trung tin tưởng Vũ Ngọc Phan là nhà phê bình cĩ ý thức nghề, cĩ “trình độ lý
thuyết vững vàng” và “phương pháp phê bình bài bản nhất” trong số các nhà phê bình trước 1945.
Vì vậy, bà ngạc nhiên trước “thái độ khe khắt” của Vũ Ngọc Phan đối với các nhà phê bình đương
thời [46, tr.143].
Đặng Tiến đề cao vai trị “kẻ vạch lối trong rừng hoang“ của Vũ Ngọc Phan. Theo Đặng Tiến,
Vũ Ngọc Phan cĩ lối phê bình “khoa học, khách quan, vừa tổng hợp vừa phân tích”, “cơng tâm và
cơng bình” [46, tr.125, 127, 129].
Cùng một cách suy nghĩ như vậy, nhiều tác giả khác (Tơ Hồi, Huy Cận, Phong Lê… ) ca ngợi
năng lực tổng hợp, khái quát, cách làm việc khoa học, “nĩi cĩ sách, mách cĩ chứng” và khả năng
đưa ra những nhận định văn học chính xác của Vũ Ngọc Phan.
Bùi Hiển nhận xét Vũ Ngọc Phan luơn đối chiếu “cái đang đọc” với “thực tế Việt Nam thời
bấy giờ” [46, tr.39], nĩi cách khác ơng thấy được tính xã hội trong phương pháp phê bình của Vũ
Ngọc Phan.
Khi “học tập nhà văn Vũ Ngọc Phan”, Vũ Ngọc Khánh rút ra kết luận: vào những ngày đầu
xây dựng nền quốc văn, Vũ Ngọc Phan là “người trước nhất, nhiều nhất nếu khơng phải là duy nhất
đề cập đến vấn đề xác định thể loại” [46, tr.56].
Phát triển ý kiến trên, Nguyễn Ngọc Thiện cĩ bài nghiên cứu “những đĩng gĩp buổi đầu của
Vũ Ngọc Phan trong nghiên cứu văn học theo đặc trưng thể loại và phong cách”, đặc biệt là trong
nghiên cứu tiểu thuyết. Nguyễn Ngọc Thiện nhận xét “Vũ Ngọc Phan đã cố gắng trung thành với
phương pháp so sánh, phân định nhà văn và tác phẩm theo nhĩm và loại mà ơng tâm đắc” [103,
tr.73]. Vấn đề này cũng đã được sách Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (Le roman Vietnamien
contemporain) của Bùi Xuân Bào nĩi đến từ năm 1972.
Năm 1995, ở cuối bài viết Vũ Ngọc Phan và sự nghiệp phê bình, nghiên cứu văn học hiện đại,
Phan Cự Đệ khẳng định “phương pháp khoa học” “căn cứ vào những bằng chứng xác thực để phê
bình” của Vũ Ngọc Phan đã tiến bộ hơn nhiều so với lối phê bình ấn tượng và quan điểm “nghệ
thuật vị nghệ thuật” của Hồi Thanh trong Thi nhân Việt Nam. Tuy nhiên hạn chế của Vũ Ngọc
Phan là chưa vượt qua được “lý thuyết phê bình của Brunetière về luật tiến hĩa” [13, tr.665].
Trong chuyên đề Lí luận văn học so sánh, Nguyễn Văn Dân kể ra “người đầu tiên cĩ ý thức
bàn luận đến văn học so sánh về mặt phương pháp luận” là Vũ Ngọc Phan. Tuy mới chỉ dùng
phương pháp thực chứng nhưng ơng đã sớm “đề cập đến cả ba đối tượng của văn học so sánh”.
Quan điểm so sánh tương đồng của ơng thậm chí đã “đi trước các nhà so sánh luận thế giới” [7,
tr.30, 31, 33].
Bên cạnh những ý kiến khen ngợi như trên, khơng ít tác giả cho rằng phương pháp phê bình
văn học của Vũ Ngọc Phan vẫn cịn nhiều điểm hạn chế. Trần Đình Sử nhận thấy Vũ Ngọc Phan đã
biết sử dụng “phương pháp thực chứng” trong nghiên cứu văn học đáng tiếc là phê bình của ơng
cịn “giới hạn trong việc phẩm bình văn, tính chủ quan rất đậm” [15, tr.704, 705]. Trần Đình Sử
cũng đồng ý với Đỗ Lai Thúy khi khẳng định Vũ Ngọc Phan “khơng cắt nghĩa, lí giải tác phẩm như
một hiện tượng nghệ thuật văn hĩa xã hội, mà chỉ vẽ hay dở cho nhà văn, nên nhiều khi rơi vào bắt
bẻ vụn vặt” [15, tr.709].
Nguyễn Thị Thanh Xuân chỉ ra “phương pháp hệ thống” và phần nào những mầm mống của
“phương pháp tiếp cận văn học theo đặc trưng thể loại” trong quyển Nhà văn hiện đại [123, tr.299,
305]. Tuy vậy, theo bà, những phương pháp này chưa được Vũ Ngọc Phan áp dụng một cách nhuần
nhuyễn, do đĩ chúng chưa mang lại hiệu quả như mong muốn.
Cũng như Nguyễn Thị Thanh Xuân, Nguyễn Đăng Điệp nhận thấy Vũ Ngọc Phan đã tiến
hành một phương pháp làm việc khoa học [103, tr.413], song “ơng cịn quá nghiêng về mặt cảm thụ
nghệ thuật mà chưa thật sự sâu về mặt logic khoa học, tính khái quát các vấn đề văn học chưa cao”
[103, tr.421].
Lại Nguyên Ân đề cập đến “lối viết chân phương” “dạng bút ký của nhà biên khảo”. Ơng cho
rằng “giá trị chủ yếu của Nhà văn hiện đại là ở “chất” nghiên cứu của nĩ” chứ khơng phải chất
phê bình [46, tr.137, 138, 140].
Theo Mộng Bình Sơn, Đào Đức Chương, Vũ Ngọc Phan đã “chối bỏ lập trường phê bình
khách quan, bằng cách tách rời thân thế của tác giả với tác phẩm” [89, tr.196]. Ơng khơng lý giải
thơ văn từ cuộc đời tác giả mà lựa chọn cho mình một phương hướng chủ quan, cổ điển, thiên về
khen chê vụn vặt. Đây cũng là nhận xét của Trịnh Bá Đĩnh trong bài Ba kiểu nhà phê bình hiện đại.
Ở bài viết này, Trịnh Bá Đĩnh xếp Vũ Ngọc Phan vào nhĩm các nhà bình giải văn học – những
người giới hạn cảm quan và sự hoạt động của mình chỉ trong lĩnh vực văn học, tránh việc cắt nghĩa
văn học từ các lĩnh vực khác.
Trên Tạp chí Văn học số 6 năm 2000, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan được Đỗ Lai Thúy
nhắc đến như “một cố gắng khơng thành đưa phê bình văn học Việt Nam lên trình độ khoa học”.
3.4. Khi nghiên cứu phê bình văn học giai đoạn 1930 – 1945 hầu như khơng nhà nghiên cứu
nào khơng nhắc tới Trương Chính và tác phẩm Dưới mắt tơi. Tuy vậy, họ thường chỉ điểm qua vài
nét về nội dung tập sách chứ khơng nĩi gì đến phương pháp phê bình của ơng. Ở thời điểm hiện tại,
số lượng bài nghiên cứu cĩ chất lượng về Trương Chính mới chỉ đếm trên đầu ngĩn tay.
Mộng Bình Sơn, Đào Đức Chương cho rằng Trương Chính “khơng tạo cho mình một khuynh
hướng nào rõ rệt, mà chỉ đi theo lối cũ tức là khuynh hướng phê bình chủ quan, cổ điển, khơng
thốt ra khỏi tư tưởng giáo điều của những nhà phê bình trước đây đã áp dụng” [89, tr.173]. Ơng
đánh giá sự hay dở của tác phẩm chủ yếu dựa trên cảm nhận riêng tư chứ khơng đứng ra ngồi tác
phẩm để nhìn nhận một cách khách quan.
Cĩ lẽ cũng cùng ý kiến như vậy nên Tơn Thảo Miên nhận định Trương Chính “viết phê bình
hồn tồn dựa vào trực giác, vào lịng mến yêu văn chương, vào khiếu thẩm mỹ… của mình”, ở
nhiều chỗ ơng đánh giá “chưa chuẩn xác và khách quan” [103, tr.377-378] cịn Trịnh Bá Đĩnh xếp
Trương Chính vào hình thái tư duy phê bình mĩ học – loại phê bình cĩ tính chất chủ quan, thiên về
việc thể hiện cảm xúc và suy tưởng của nhà phê bình đối với đối tượng là tác phẩm văn học [103,
tr.202].
Trong cuốn Phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX (1900 – 1945), Nguyễn Thị Thanh
Xuân đưa ra nhiều ý kiến xác đáng về lối phê bình của Trương Chính. Bà đánh giá “những bài phê
bình tác phẩm của Trương Chính thường mang lại cho người đọc cảm giác đĩ là sự thực hành chưa
thật nhuần nhuyễn những kiến thức trong nhà trường về phê bình văn học”. “Về phương pháp,
Trương Chính thiên về phê bình xã hội học” [123, tr.274-275].
3.5. Đinh Gia Trinh là một trong những tên tuổi lý luận, phê bình văn chương trước cách
mạng hiện cịn bị khuất lấp sau lớp bụi thời gian. Mãi đến năm 1996, khi tác phẩm Hồi vọng của lý
trí tập hợp những bài phê bình và tùy bút của ơng được xuất bản người ta mới nhận ra Đinh Gia
Trinh là một cây bút phê bình và tiểu luận văn học rất đáng trân trọng.
Viết về nhĩm Thanh Nghị, Nguyễn Thị Thanh Xuân dành khá nhiều thiện cảm cho Đinh Gia
Trinh. Bà cho đây là cây bút “am hiểu tri thức lý luận văn học phương Tây và vận dụng vào lí giải
các hiện tượng văn học Việt Nam khá uyển chuyển” [123, tr.82].
Nhận xét trên cũng tương tự như nhận xét của Vương Trí Nhàn ở bài viết Khuơn mặt tinh thần
của một trí thức hoạt động văn học. Trong bài viết này, Vương Trí Nhàn cho rằng Đinh Gia Trinh
đã tiếp thu được “ĩc khoa học” của phương Tây, điều đĩ thể hiện rõ qua bài tranh luận của ơng với
Nguyễn Bách Khoa về vấn đề Truyện Kiều [119, tr.463].
*
* *
Điểm lại tất cả những ý kiến trong gần bảy thập kỷ vừa qua, ta thấy giữa các nhà nghiên cứu
cĩ sự thống nhất và cũng cĩ những khác biệt.
Nhìn chung các bài viết về Đinh Gia Trinh khơng nhiều và khá nhất quán. Các tác giả đều
nhận thấy nhờ tiếp thu được hệ thống tri thức lý luận phương Tây và biết cách vận dụng chúng một
cách nhuần nhuyễn nên những trang viết của ơng cĩ nhiều chỗ vẫn cịn giữ nguyên giá trị đến ngày
hơm nay.
Về phía Trương Chính, phần lớn các nhà nghiên cứu đều đồng ý với ý kiến của Vũ Ngọc
Phan: lối phê bình của Trương Chính đã bắt đầu kỹ càng và cĩ phương pháp, mọi sự khen chê đều
dựa trên những căn cứ xác thực, tuy nhiên dấu ấn chủ quan, giáo điều thể hiện rõ nét trong những
nhận xét của ơng khiến cho bài phê bình nhiều lúc chưa thật thuyết phục.
Khác với trường hợp của Đinh Gia Trinh và Trương Chính, những ý kiến đánh giá về Vũ
Ngọc Phan tương đối phong phú và phức tạp. Mặc dù ai cũng khẳng định tầm vĩc đồ sộ của bộ Nhà
văn hiện đại và những đĩng gĩp của Vũ Ngọc Phan cho nền văn học nước nhà nhưng về phương
pháp phê bình của ơng thì mọi người vẫn chưa hồn tồn nhất trí. Cĩ người bảo ơng đã thực hiện
một lối phê bình theo phương pháp khoa học, cụ thể là ơng đã sử dụng phương pháp hệ thống,
phương pháp thực chứng, phương pháp so sánh, phương pháp tiếp cận theo đặc trưng thể loại vào
việc nghiên cứu tác phẩm văn học. Nhưng cũng cĩ người lại cực lực phản đối lối phê bình vụn vặt,
tùy tiện, thấy cây khơng thấy rừng của ơng. Họ cho rằng cái cách Vũ Ngọc Phan bắt bẻ từng li từng
tí những chỗ hay dở khơng giúp ích gì nhiều cho việc soi rọi tác phẩm; cĩ thể nĩi ơng đã thực hiện
một lối phê bình hồn tồn chủ quan, ấn tượng, tách rời tác giả với tác phẩm, cơ lập nghệ thuật với
các lĩnh vực khác.
Tuy mức độ quan tâm của giới nghiên cứu đối với ba nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, Trương
Chính, Đinh Gia Trinh cĩ khác nhau nhưng nhìn chung phương pháp phê bình của ba ơng đều chưa
được khảo sát một cách tồn diện, sâu kĩ mà mới chỉ được nhắc tới bằng những nhận định khái quát.
Đĩ chính là vấn đề cịn bỏ ngỏ chờ chúng ta giải quyết. Trong phạm vi của luận văn, người viết sẽ
tổng hợp những ý kiến của người đi trước, phân tích, chứng minh và triển khai cụ thể để phần nào
chỉ ra những đĩng gĩp của Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Đinh Gia Trinh về mặt phương pháp phê
bình, nghiên cứu văn học trong giai đoạn 1930 – 1945.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, người viết đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như sau:
- Phương pháp lịch sử – xã hội: Phương pháp này chủ trương đặt hiện tượng văn học vào bối
cảnh lịch sử xã hội để nghiên cứu, nĩ giải thích sự phát triển của văn học, sự đấu tranh giữa các trào
lưu, sự kế thừa cĩ đổi mới của từng giai đoạn văn học từ những cội nguồn lịch sử xã hội. Vì vậy,
việc nghiên cứu trở nên thuyết phục bởi những bằng chứng xác thực lấy từ đời sống thực tiễn. Miêu
tả các phương pháp phê bình theo quan điểm lịch sử xã hội sẽ giúp chúng ta thấy được sự hình
thành và phát triển của chúng trong những mối liên hệ với điều kiện xã hội – lịch sử – văn hĩa cụ
thể, từ đĩ làm bật lên những đĩng gĩp mà các phương pháp này đem lại cũng như những hạn chế
thời đại của chúng.
- Phương pháp mỹ học tiếp nhận: Giống như các tác phẩm văn học, các cơng trình phê bình,
nghiên cứu văn học cũng chịu sự tiếp nhận, phán xét của người đọc và của chính giới phê bình.
Nhìn vào phần Lịch sử vấn đề phía trên ta sẽ thấy rõ điều này. Đĩ chính là lý do người viết muốn
thực hiện việc nghiên cứu của mình dưới gĩc độ tiếp nhận văn học. Chỉ như vậy, chúng ta mới cĩ
được cái nhìn khách quan, chính xác khi xem xét các hiện tượng.
- Phương pháp hệ thống: Trong tự nhiên và trong xã hội, khơng cĩ sự vật nào tồn tại hồn
tồn riêng rẽ, biệt lập. Việc tìm hiểu một sự vật, hiện tượng sẽ khơng thu được những kết quả như
mong đợi nếu ta khơng biết đặt chúng vào những hệ thống. Hơn nữa, bản thân sự vật, hiện tượng
cũng là một thực thể bao gồm nhiều yếu tố, nhiều phương diện cĩ mối liên hệ phức tạp với nhau.
Phương pháp hệ thống sẽ giúp ích cho việc nhận thức vị trí của phương pháp nghiên cứu đối với sự
nghiệp văn học của tác giả, vị trí của tác giả trong tồn bộ nền phê bình văn học và vị trí của phê
bình văn học trong tồn bộ lịch sử văn học nĩi chung. Ngồi ra nĩ cũng khiến ta cĩ cái nhìn khách
quan, tồn diện khi xem xét lịch sử phát triển của các phương pháp phê bình, nghiên cứu văn học ở
Việt Nam.
- Phương pháp so sánh: phương pháp này được dùng để đối chiếu các giai đoạn văn học, cảc
hiện tượng văn học, các tác giả và các cơng trình phê bình với nhau để tìm ra những nét tương đồng
và nét đặc thù nhằm làm sáng tỏ bản chất của chúng.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Chọn lựa đề tài “Đĩng gĩp của Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Đinh Gia Trinh về mặt phương
pháp phê bình, nghiên cứu văn học trong giai đoạn 1930 – 1945”, người viết hi vọng sẽ cĩ thể gĩp
một phần cơng sức nhỏ bé cho nền lý luận, phê bình văn học Việt Nam về cả hai phương diện lý
thuyết và thực tiễn. So với các cơng trình nghiên cứu lý luận, phê bình trước đây, đề tài cĩ những
nét mới như sau:
- Phác thảo được sơ nét hành trình diễn tiến của các phương pháp phê bình, nghiên cứu văn
học của Việt Nam. Như chúng ta đã biết, chính sự xuất hiện của phương pháp đã biến phê bình
thành một khoa học thực sự. Vì vậy việc nghiên cứu về các phương pháp phê bình sẽ cho ta thấy
được sự vận động của tư duy khoa học trong văn học.
- Tìm hiểu được một cách khá tồn diện những đĩng gĩp về mặt phương pháp phê bình,
nghiên cứu văn học của Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Đinh Gia Trinh trong giai đoạn 1930 –
1945. Đây là một cách hữu hiệu để khẳng định tầm vĩc của các nhà phê bình này qua mức độ am
hiểu và vận dụng các tri thức lý luận cũng như khả năng cảm thụ bén nhạy của họ.
- Từ việc thấy được sự vận động, phát triển của các phương pháp phê bình, nghiên cứu văn
học và sự thể hiện cụ thể của chúng trong tác phẩm của những nhà phê bình nổi tiếng, rút ra những
bài học kinh nghiệm khi phân tích, tìm hiểu các tác giả, tác phẩm, các hiện tượng văn học. Đây là
một cơng việc ý nghĩa đối với những người học văn nĩi chung và những người dạy văn nĩi riêng.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngồi phần mở đầu (13 trang) và kết luận (7 trang), luận văn được chia thành ba chương dựa
trên nội dung nghiên cứu:
Chương 1: Sự phát triển của các phương pháp phê bình, nghiên cứu văn học ở Việt Nam
Chương này sẽ tìm hiểu một số nét khái quát về phương pháp phê bình, nghiên cứu văn học và
lịch sử phát triển của các phương pháp phê bình, nghiên cứu văn học ở Việt Nam. Trong quá trình
tìm hiểu, người viết sẽ đặc biệt chú ý đến các phương pháp phê bình, nghiên cứu văn học xuất hiện
vào giai đoạn 1930 – 1945. Đây chính là cơ sở để chúng ta thấy được vị trí và vai trị của Vũ Ngọc
Phan, Trương Chính, Đinh Gia Trinh trong giai đoạn này.
Chương này dài 37 trang
Chương 2: Những đĩng gĩp của Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Đinh Gia Trinh trong việc đổi
mới ý thức phê bình, nghiên cứu văn học
Chương này sẽ đi vào khảo sát những đĩng gĩp của Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Đinh Gia
Trinh trong việc đổi mới ý thức phê bình, nghiên cứu văn học. Ở chương này, người viết sẽ bàn về
quan niệm văn học và quan niệm về cơng việc phê bình, nghiên cứu văn học của các ơng trong
tương quan với quan niệm truyền thống của văn học trung đại và quan niệm của các nhà phê bình
đương thời.
Chương này dài 24 trang
Chương 3: Những đĩng gĩp của Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Đinh Gia Trinh về mặt
phương pháp phê bình, nghiên cứu văn học
Chương này sẽ đi sâu vào nghiên cứu những phương pháp phê bình, nghiên cứu văn học đã
được Vũ Ngọc Phan, Trương Chính và Đinh Gia Trinh sử dụng. Qua đĩ, người viết sẽ bước đầu chỉ
ra phong cách phê bình của các ơng. Đây cũng chính là cơ sở để đánh giá những thành tựu và hạn
chế cũng như những đĩng gĩp về mặt phương pháp luận của ba nhà phê bình kể trên.
Chương này dài 63 trang
CHƯƠNG 1
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÊ BÌNH,
NGHIÊN CỨU VĂN HỌC Ở VIỆT NAM
1.1. ĐƠI NÉT VỀ PHƯƠNG PHÁP PHÊ BÌNH, NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
1.1.1. Khái niệm phương pháp phê bình, nghiên cứu văn học
Để trả lời cho câu hỏi “Phương pháp là gì?”, ta hãy xem xét một câu nĩi của Bêcơn: “Người
què đi theo đường, theo lối sẽ đến trước người lành đi khơng cĩ đường, cĩ lối” [37, tr.43].
Hình ảnh con đường trong câu trên được dùng thay cho khái niệm phương pháp. Khơng phải
ngẫu nhiên mà cĩ một sự liên tưởng như vậy. Trong tiếng Pháp, từ Méthode (phương pháp) cĩ
nguồn gốc ở một từ Hy Lạp cĩ nghĩa là “con đường đi tới” (met = đi tới, odos = con đường). Chúng
ta cĩ thể hiểu đây là con đường đi đến kết quả mong muốn, con đường tiếp cận chân lý.
Từ cách hiểu này, GS Hồng Ngọc Hiến định nghĩa phương pháp như sau: “phương pháp là
những phương thức chiếm lĩnh đối tượng về phương diện lý thuyết cũng như về phương diện thực
hành” [37, tr.43]. Trên cơ sở đĩ, người viết thử đưa ra khái niệm phương pháp phê bình, nghiên cứu
văn học: phương pháp phê bình, nghiên cứu văn học là cách thức giúp cho chủ thể chiếm lĩnh đối
tượng văn học (tác giả, tác phẩm, sự kiện, giai đoạn…) một cách hiệu quả.
Khái niệm trên đã cho thấy phương pháp phê bình, nghiên cứu văn học vừa là điều kiện,
phương tiện, lại vừa là sản phẩm, kết quả của tư duy khoa học. Nĩ chính là cầu nối giữa chủ thể
nghiên cứu (nhà phê bình) và đối tượng nghiên cứu (tác giả, tác phẩm, trào lưu…). Vì lẽ đĩ, nĩ là
một hoạt động vừa cĩ tính chủ quan vừa cĩ tính khách quan. Chủ quan vì chịu sự chi phối của năng
lực sáng tạo khoa học và mục đích khoa học của chủ thể nghiên cứu. Khách quan vì phụ thuộc vào
đặc điểm và tính chất của đối tượng nghiêu cứu. Do vậy, sau khi lựa chọn đối tượng nghiên cứu,
nhà nghiên cứu phải căn cứ vào đặc điểm, tính chất của đối tượng và mục đích của chính mình để
xác định một hay nhiều phương pháp phù hợp. Trong suốt quá trình thực hiện phương pháp, yếu tố
chủ quan và yếu tố khách quan phải gắn bĩ chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau để soi sáng những
vấn đề cần giải quyết.
1.1.2. Vai trị của phương pháp phê bình, nghiên cứu văn học
Chế Lan Viên, một nhà thơ rất thành cơng trong lĩnh vực phê bình, nghiên cứu văn học, từng
khẳng định nhà phê bình là kẻ thất bại trong sáng tác. Bàn về phê bình, Nguyễn Quang Sáng cũng
đưa ra nhận xét: “Viết khơng viết, vẽ khơng vẽ, chỉ cĩ khen với chê cũng làm khơng đúng” [16].
Cho đến nay vẫn cịn nhiều người nghĩ rằng phê bình, nghiên cứu văn học là một thể loại dễ
viết. Chỉ cần lược lại nội dung tác phẩm rồi nêu ra một ít cảm nhận của bản thân hoặc đơi ba dịng
nhận xét chỗ này hay, chỗ kia dở là chúng ta cĩ ngay một bài phê bình. Quả là một suy nghĩ sai lầm.
Nhiều nhà phê bình chân chính đã cực lực phản đối suy nghĩ đĩ. Thực tế cho thấy phê bình là một
cơng việc khĩ khăn. Muốn thành cơng, nhà phê bình phải cĩ trực giác bén nhạy, vốn kiến thức uyên
bác ở nhiều lĩnh vực và đặc biệt là một phương pháp phê bình khoa học.
Thật vậy, phê bình mà khơng cĩ phương pháp khoa học sẽ chỉ là những cảm xúc vụn vặt, trực
tiếp, tức thời, mang nặng ấn tượng chủ quan, từ đĩ dễ dẫn đến những nhận định mang tính áp đặt,
quy chụp, suy diễn. Điều này cĩ thể được chứng minh cụ thể bằng thực tiễn phê bình văn học nước
ta. Vào thời trung đại, khi cách nghiên cứu tác phẩm mới chỉ dừng lại ở việc trình bày những cảm
nhận, những lời bình giải chung chung thì rõ ràng là phê bình văn học kém phát triển, nĩ hồn tồn
khơng thể xem là sự luận giải về mình của văn học. Và dĩ nhiên nĩ cũng khơng đảm nhiệm được
chức năng chiếc cầu nối trung gian giữa tác giả và cơng chúng, giữa tác phẩm và người đọc.
Chân lý của khoa học thường đạt được nhờ sự nỗ lực vận dụng các phương pháp tiếp cận của
giới khoa học. Phải khẳng định rằng sự phát triển của một bộ mơn khoa học phụ thuộc rất nhiều vào
phương pháp nghiên cứu của bộ mơn khoa học đĩ. Nếu khơng cĩ một phương pháp phê bình hợp lý
làm kim chỉ nam cho cơng việc nghiên cứu văn học thì chúng ta sẽ rất khĩ tìm hiểu tác phẩm, tác
giả, trào lưu văn học… một cách chính xác, khách quan. Làm sao chỉ ra cái hay, cái đẹp của ngơn từ
Truyện Kiều nếu khơng cĩ những tri thức thi pháp h._.ọc? Làm sao hiểu hết giá trị của một tác phẩm
nếu khơng xuất phát từ cách tiếp cận văn hĩa – lịch sử – xã hội? Mỗi phương pháp cĩ một ưu thế
riêng trong việc khám phá, giải thích, cắt nghĩa văn học. Sự quan tâm đến vấn đề phương pháp
chính là một dấu hiệu chứng tỏ sự trưởng thành của văn học và sự phát triển của tư duy khoa học.
Đúng như Lép Tơnxtơi đã nĩi: “Điều quý hĩa khơng phải là biết quả đất trịn, mà là biết người ta
đã biết được điều ấy như thế nào” [37, tr.43].
Tĩm lại, phương pháp phê bình, nghiên cứu văn học cĩ vai trị quan trọng đặc biệt đối với
cơng tác phê bình, nĩ chi phối và thậm chí quyết định những thành tựu và hạn chế của các cơng
trình phê bình. Phương pháp chính là chiếc chìa khĩa giúp người đọc mở cánh cửa bước vào tác
phẩm văn chương.
1.1.3. Tính bình đẳng của các phương pháp
Trong tập hợp các phương pháp của ngành phê bình, nghiên cứu văn học, mỗi phương pháp cĩ
ưu thế riêng, khơng cĩ phương pháp nào giữ vị trí thống trị. Mỗi phương pháp đều cĩ sở trường và
sở đoản. Chính những hạn chế của phương pháp này là điều kiện nảy sinh và tồn tại của phương
pháp khác. Đấy là lý do cho sự chung sống hịa bình của nhiều phương pháp phê bình mà khơng
nhất thiết phải loại trừ nhau và càng khơng thể chỉ cĩ một phương pháp độc tơn.
Tự bản thân các phương pháp khơng thể nĩi lên được ý nghĩa và tầm quan trọng của chúng.
Phương pháp chưa hẳn là giá trị, đúng hơn là mỗi phương pháp cĩ giá trị của nĩ, vấn đề là người
phê bình khai thác ưu thế của phương pháp đĩ như thế nào. Trong phê bình, nghiên cứu văn học, ít
khi nào người ta chỉ áp dụng một phương pháp duy nhất. Đĩ là vì các đối tượng nghiên cứu khơng
bao giờ là những đối tượng biệt lập mà chúng luơn luơn nằm trong những mối quan hệ tương tác với
nhau; mặt khác, một đối tượng luơn cĩ nhiều khía cạnh và đặc điểm khác nhau mà một phương
pháp khơng thể bao quát hết được. Vì thế phải dựa trên các nguyên tắc: khách quan – tồn diện – cụ
thể – lịch sử – phát triển mà lựa chọn phương pháp cho phù hợp, tránh tuyệt đối hĩa một phương
pháp phê bình cụ thể nào đĩ. Tốt nhất là tùy theo tính chất của đối tượng nghiên cứu mà chọn lấy
một phương pháp thích hợp làm chủ đạo, và lấy một số phương pháp khác làm bổ trợ.
Cần thấy rằng tất cả các phương pháp đều bình đẳng, chúng chỉ cĩ sự phân cấp chính – phụ
trong một cơng trình khoa học cụ thể, và sự phân cấp chính – phụ đĩ phụ thuộc vào mục đích, đối
tượng và tính chất của cơng trình nghiên cứu. Một phương pháp khi được áp dụng cho cơng trình
nghiên cứu này cĩ thể là phương pháp chính nhưng khi được áp dụng cho một cơng trình khác nĩ
lại là phương pháp phụ. Dĩ nhiên phụ ở đây cĩ nghĩa là phụ trợ chứ khơng phải là kém giá trị hơn.
Một nhà phê bình khơng nhất thiết phải trung thành với một phương pháp, nhưng sự chuyên
chú vào một phương pháp cĩ thể giúp nhà phê bình tạo được dấu ấn trong lịch sử văn học (ví dụ
như Hải Triều với phê bình xã hội học mácxít, Trần Đình Sử với thi pháp học, Đỗ Lai Thúy với văn
hĩa học…). Ngày nay, chúng ta khơng khuyến khích sự độc tơn của phương pháp phê bình nhưng
vẫn rất cần sự chuyên sâu về phương pháp.
1.2. NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÊ BÌNH,
NGHIÊN CỨU VĂN HỌC Ở VIỆT NAM
Để thấy rõ sự phát triển của các phương pháp phê bình, nghiên cứu văn học ở Việt Nam,
chúng ta khơng thể khơng nhắc qua sự phát triển của nền lý luận, phê bình Việt Nam nĩi chung. Vì
vậy, trong phần này, người viết sẽ điểm sơ nét về lịch sử phát triển của lý luận, phê bình văn học
Việt Nam nhằm làm bật lên sự xuất hiện và phát triển của các phương pháp phê bình, nghiên cứu
văn học. Qua đĩ, chúng ta sẽ cĩ cái nhìn tồn diện, khách quan khi đánh giá về những đĩng gĩp nổi
bật của giai đoạn 1930 – 1945 trong dịng chảy của lý luận, phê bình văn học ở Việt Nam.
1.2.1. Trước XX
Phê bình văn học ở Việt Nam, xét như một hoạt động chuyên ngành, là một thể loại trước đây
chưa từng cĩ. Nĩ hồn tồn là con đẻ của sự hiện đại hĩa văn học thế kỷ XX. Tuy vậy, phê bình
khơng phải là một sản phẩm ngoại nhập, thuần túy của phương Tây. Nĩ đã cĩ những mầm mống
đầu tiên từ nhiều thế kỉ trước.
Ngay từ thế kỉ XIV, XV, cơng việc ghi chép, biên soạn, sưu tầm, bổ sung những truyền thuyết,
những truyện ngụ ngơn trong dân gian… đã được ơng cha ta chú trọng. Những thuật ngữ như phê
văn hay bình thơ thực ra khơng xa lạ gì với các nhà nho xưa – những tác giả chủ yếu của nền văn
học trung đại Việt Nam. Mỗi thi tập, văn tập ra đời đều kèm theo lời đề tựa của đơi ba người bạn
thân và nhiều lúc là lời bạt của chính tác giả. Trong chốn thư phịng yên tĩnh, những khi ngâm vịnh
xướng họa, cha ơng ta hẳn cũng cĩ sự khen chê, bình giải của riêng mình về những tác phẩm quá
khứ hay đương thời. Các cụ cũng trao đổi thư từ, đọc và suy nghĩ về văn thơ một cách say mê. Chỉ
riêng Đoạn trường tân thanh đã làm tốn giấy mực của biết bao nhà nho và cĩ hẳn một cuộc thi Vịnh
Kiều được vua Tự Đức tổ chức. Xung quanh tác phẩm này cĩ khơng ít bài phê bình, tranh luận rồi
thậm chí vịnh lại tác phẩm bằng thơ. Cĩ thể kể ra đây những bài vịnh Kiều của Phạm Quý Thích,
Nguyễn Khuyến cùng tập Thanh Tâm tài nhân thi tập và bài Tựa tổng luận về Kiều của Chu Mạnh
Trinh.
Năm 1971, trong quyển Lược truyện các tác gia Việt Nam, Trần Văn Giáp nĩi đến hai tập sách
thuộc về thế kỷ XV của Quách Hữu Nghiêm (Phê bình tập Văn Minh cổ súy) và Đào Cử (Phê bình
cuốn Cổ Tâm bách vịnh) như là hai tập phê bình hồn chỉnh đầu tiên của Việt Nam [30, tr.214,
216]. Đến năm 2000, trong luận án tiến sĩ ngữ văn với đề tài Tìm hiểu ý thức văn học trung đại Việt
Nam, Lê Giang cho rằng những lời tựa của Phan Phu Tiên, Lý Tử Tấn, Chu Xa và những lời phê
bình của Lý Tử Tấn trong bộ Việt Âm thi tập (1433) – bộ thi tuyển đầu tiên của nước ta – cĩ thể coi
là mốc mở đầu cho lịch sử nghiên cứu, phê bình văn học nước nhà, tiếp đĩ ơng cũng nhắc lại những
ý kiến phía trên của Trần Văn Giáp [29, tr.56].
Nếu quan niệm phê bình văn học nghĩa là tiến hành phân tích và đánh giá tác giả và tác phẩm
văn chương thì cĩ thể thấy ngay rằng từ thế kỉ XV, các bài tựa, các lời bạt, các cuộc nĩi chuyện thơ,
các lời bình… cũng đã chứa đựng những yếu tố của phê bình, dĩ nhiên là ở một trình độ khác với
phê bình hiện đại rất nhiều. Trong những bài viết này, ta thấy một số khái niệm mang tính cơng cụ
của phê bình như: thể, ý, lời, khí, tứ thơ, ngơn pháp và tâm pháp; tình, cảnh, sự; lập ý, luyện ý, đặt
câu, dùng chữ, tiết tấu, phong cách…, đã được sử dụng để tiếp cận đối tượng và đánh giá chúng trên
cơ sở văn bản, qua đĩ thể hiện những quan điểm nghệ thuật của người viết. Đặc biệt, do hoạt động
phê bình chủ yếu được tiến hành giữa những nhà thơ, những trí thức Nho học cĩ quen biết nhau nên
tính giao lưu, đối thoại được thể hiện khá rõ.
Tuy nhiên các hoạt động ấy chưa thể dẫn đến sự ra đời của một nền phê bình thật sự. Mặc dù
đã nêu được những vấn đề cơ bản về tác giả và tác phẩm như thân thế và phong cách của nhà thơ,
một số đặc điểm thể loại, quá trình hình thành tác phẩm và cái thần của từng bài thơ nhưng trong
khi phân tích tác phẩm, người viết mới chỉ đưa ra những nhận định rất vắn tắt về nội dung và hình
thức, giá trị tư tưởng cùng ý nghĩa thực tiễn của nĩ. Thơng thường đĩ chỉ là những đánh giá hết sức
ngắn gọn, hàm súc, cịn mang màu sắc cảm tính, ít được chứng minh. Ở nhiều trường hợp, các tác
giả hầu như hồn tồn đồng nhất phê bình với sáng tác. Họ bày tỏ quan điểm của mình về một tác
phẩm bằng cách sáng tạo một tác phẩm khác. Tác phẩm ban đầu là đối tượng gợi hứng thì đúng hơn
là đối tượng phê bình.
Một lý do khác giải thích cho sự kém phát triển của thể loại phê bình văn học ở nước ta là
quan niệm của người xưa về văn học. “Thi dĩ ngơn chí, văn dĩ tải đạo” – mục đích của người sáng
tác chủ yếu nhằm biểu dương những tình trung hiếu tiết nghĩa và bảo vệ, duy trì luân lý, đạo đức. Vì
lẽ đĩ, phê bình văn chương với họ khơng dựa vào sự cảm thụ nghệ thuật mà chủ yếu dựa trên nền
tảng luân lý đã được thấm nhuần. Nhà nho yêu ghét nhiều khi khơng căn cứ vào văn bản mà chỉ xét
nhân thân của chủ thể sáng tác. Phạm Thái phê bình bài Tụng Tây Hồ phú của Nguyễn Huy Lượng
chẳng qua vì “Xưa hắn làm tơi triều Lê, nay ra làm Ngụy lại cịn tụng Tây Hồ mà chẳng thẹn mặt!
Ghét đứa nịnh làm sao!”. Nguyễn Cơng Trứ – một nhà nho tài hoa – đứng trên quan điểm phong
kiến cũng khơng khỏi nặng lời với Kiều: “Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm”...
Lối phê bình chỉ dừng ở mức giới thiệu chung chung hoặc đưa ra một vài ý kiến diễn tả ấn
tượng, sự đồng điệu của mình với tác phẩm rồi đề cập đến đơi nét nghệ thuật như vậy được xem là
phê bình trực giác (khơng nên hiểu là nĩ đồng nhất hồn tồn với phương pháp trực giác trong phê
bình Âu Tây), chủ yếu dựa vào cảm nhận cá nhân, khơng sử dụng đến những thao tác khoa học,
khơng phân tích bằng lí trí. Kiểu phê bình này chỉ giới thiệu cho người đọc những ấn tượng chủ
quan, sơ sài về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm cũng như phong cách tác giả chứ chưa đi sâu
vào việc nghiên cứu các nguồn ảnh hưởng và các yếu tố cấu thành tác phẩm. Từ đặc điểm đĩ, ta cĩ
thể kết luận rằng phê bình văn học trung đại Việt Nam hầu như chưa cĩ phương pháp, hoặc nếu cố
gắng gạn lại để khái quát thì cĩ thể gọi đĩ là phương pháp trực giác cĩ tính chất chủ quan và giáo
điều.
1.2.2. Từ đầu XX đến 1930
Những năm cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, phong trào Cần vương và những cuộc chiến đấu
của các văn thân đều lần lượt thất bại. Thực dân Pháp sau khi ổn định xong chế độ cai trị của chúng
đã quyết định thay đổi giáo dục, phế bỏ Hán học, truyền bá chữ quốc ngữ. Văn hĩa Việt Nam dần
dần thốt khỏi ảnh hưởng của văn hĩa phong kiến Trung Hoa, bắt đầu mở rộng tiếp xúc với văn hĩa
phương Tây mà chủ yếu là văn hĩa Pháp. Luồng văn hĩa mới thơng qua tầng lớp trí thức Tây học
(phần lớn là tiểu tư sản) ngày càng thấm sâu vào ý thức và tâm hồn người cầm bút cũng như người
đọc sách. Nĩ mang lại cho lớp trí thức trẻ ấy ĩc suy xét khách quan, lối làm việc khoa học và thĩi
quen độc lập trong tư duy. Văn học nĩi chung và phê bình, nghiên cứu văn học nĩi riêng vì thế cũng
bắt đầu cĩ những biến chuyển để làm mới mình theo xu hướng hiện đại hĩa.
Lịch sử phê bình văn học Việt Nam cĩ lẽ bắt đầu từ Đơng Dương tạp chí (1913) với mục Bình
phẩm sách mới, và Nam Phong tạp chí (1917) với những bài phê bình theo lối mới của Thái
Tây. Trên các tạp chí này đã xuất hiện hai khuynh hướng. Thứ nhất là khuynh hướng tìm lại những
giá trị văn hĩa dân tộc của các tác giả Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Ngọc, Dương Quảng Hàm, Lê
Thước, Trần Trung Viên, Bùi Kỷ. Thứ hai là khuynh hướng giới thiệu tư tưởng, học thuật của Tây
phương, tiêu biểu cĩ Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh. Hai khuynh hướng trên đã đặt những nền
mĩng vững chắc, gĩp phần tích cực cho sự đổi mới của phê bình văn học giai đoạn này.
Từ ngày cĩ báo chí và sách quốc văn, Phạm Quỳnh là người viết lối phê bình trước nhất. Ơng
cũng là người giữ vai trị nịng cốt trong việc biến phê bình thành một sinh hoạt văn hĩa đều đặn,
thường xuyên. Năm 1915, trong Đơng Dương tạp chí (số 120), ơng cĩ bài phê bình Khối tình con
của Nguyễn Khắc Hiếu. Tiếp đĩ ơng phê bình tập Giấc mộng con của tác giả này và tập thơ Một
tấm lịng của Đồn Như Khuê. Những bài viết trên vẫn là sự tiếp nối cách bình phẩm của giai đoạn
trước, như khen lời hay ý đẹp, khen tác giả cĩ kiến văn rộng rãi và đặc biệt chú ý về khía cạnh đạo
đức của tác phẩm. Bởi tính chất chung chung, thiếu phân tích cụ thể, nĩ vẫn chưa thể được xem là
những bài nghiên cứu văn học đúng nghĩa.
Cùng với Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khơi và một số trí thức khác, Phạm Quỳnh đã cĩ cơng lớn
trong việc giới thiệu học thuật, tư tưởng phương Tây vào Việt Nam. Liên tục trên nhiều số báo, ơng
viết các bài thường thức văn học bàn về thể loại: Văn thuyết (1918), Bàn về tiểu thuyết (1921), Khảo
về diễn kịch (1921), Thơ là gì (1921)… Ngồi ra ơng cũng dịch nhiều bài về vấn đề này. Đặc biệt
thiên Khảo về tiểu thuyết của ơng cĩ độ dày khoảng hơn 40 trang in là cơng trình lý luận đầu tiên về
thể loại văn học ở Việt Nam. Tuy vậy, cơng trình này cịn khá sơ lược, chỉ mới nhấn mạnh đến khía
cạnh nhân cách, tư tưởng nhà văn và một số khía cạnh kỹ thuật thể loại chứ chưa đi vào những vấn
đề thuộc bản chất đặc trưng của văn học.
Đĩng gĩp của Phạm Quỳnh về phương diện phê bình nằm ở những đề xướng, chủ trương và
việc giới thiệu phương pháp, kĩ thuật phân tích văn học, hơn là ở chính những bài phê bình mà ơng
thực hiện. Ta cĩ thể thấy rõ điều này qua bài phê bình nhiều kỳ bàn về Truyện Kiều của ơng đăng
trên Nam phong tạp chí năm 1919.
Bài phê bình được triển khai theo bốn vấn đề: nguồn gốc Truyện Kiều, lịch sử tác giả, tâm lý
Thúy Kiều, văn chương Truyện Kiều. Mặc dù Phạm Quỳnh viết rất cơng phu (đi tìm xuất xứ của tác
phẩm, ơng dịch tiểu thuyết Vương Thúy Kiều của Dư Hồi trong bộ Ngu sơ tân chí để đối chiếu;
nghiên cứu tiểu sử Nguyễn Du, ơng dịch lại đoạn viết về nhà thơ này trong Đại Nam liệt truyện)
nhưng bài viết vẫn chưa vượt qua được lối phê bình cũ. Chủ yếu ơng vẫn dựa vào những khái niệm
truyền thống: lời, ý, cách tạo dựng hồn cảnh... Trực giác của ơng khơng thật sự nhạy bén trong khi
cách vận dụng kĩ thuật phê bình của phương Tây lại chưa thuần thục.
Từ sau bài viết trên, phong trào đọc lại Truyện Kiều bắt đầu xuất hiện, thu hút nhiều cây bút ở
cả hai khuynh hướng cũ và mới: Nguyễn Đơn Phục, Nguyễn Trọng Thuật, Vũ Đình Long, Nguyễn
Tường Tam… Đáng chú ý cĩ loạt bài của Vũ Đình Long đăng liên tiếp trên 8 số báo Nam phong:
Nhân vật Truyện Kiều (số 68, 69, 70), Triết lý và luân lý Truyện Kiều (số 71), Văn chương Truyện
Kiều (số 81, 83, 85, 87, 1924). Ở loạt bài này, Vũ Đình Long đã bám sát vào các chi tiết trong
truyện mà phân tích luận bàn để từ đĩ nhận ra cái hay của Truyện Kiều khơng dừng ở “lời văn đẹp,
câu thơ dài” mà quan trọng hơn là tài sáng tạo nhân vật và cách dựng truyện của Nguyễn Du. Cĩ
thể nĩi Vũ Đình Long đã phân tích Truyện Kiều một cách khá tồn diện, ơng đề cập đến cả văn tự
sự, văn tả người, văn tả tình, văn tả cảnh. Đây là một dấu hiệu cho thấy bước tiến của khoa phê
bình, nghiên cứu văn học ở nước ta.
Đến năm 1924, sau những lời đại ngơn của Phạm Quỳnh về vị trí của Truyện Kiều đối với sự
tồn vong của dân tộc, của tiếng Việt, cuộc tranh luận về tác phẩm này đã thực sự nổ ra giữa một bên
là Phạm Quỳnh và một bên là các nhà chí sĩ yêu nước: Ngơ Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng.
Kéo dài trong 10 năm, cuộc tranh luận thực sự đã vượt ra ngồi tính chất phê bình một tác
phẩm văn học, thậm chí khơng cịn nằm trong phạm vi thuần túy văn học bởi vì cả hai xu hướng
ngay từ đầu đã xuất phát từ những động cơ ngồi văn học để đánh giá Truyện Kiều. Tuy nhiên vẫn
xuất hiện những ý kiến phê bình khởi nguồn từ cảm hứng thật sự với bản thân tác phẩm. Cuộc tranh
luận đã cho thấy quan điểm, cách thức nghiên cứu, phê bình văn học của nhiều nhà phê bình đương
thời với hai xu hướng rõ rệt: xu hướng sử dụng những phương pháp, kĩ thuật phương Tây để phân
tích văn học, nhận xét nĩ trên cả hai phương diện nội dung – hình thức và xu hướng khen chê, bình
giá dựa trên lập trường đạo đức phong kiến.
Đại diện cho xu hướng thứ hai là Ngơ Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng. Đứng trên lập trường
dân tộc, yêu nước của một nhà Nho chân chính, Ngơ Đức Kế phê phán Truyện Kiều hết sức kịch
liệt. Ơng cho rằng hành động gặp gỡ nhau giữa Kim – Kiều là bất chính, người đọc Kiều là kẻ đàng
điếm, học Kiều là “học cái lối thơ phú ca ngâm” khiến “người ngu nước yếu” [18, tr.261-262], .…
Rõ ràng Ngơ Đức Kế đã phê bình văn học theo lối truyền thống, định giá tác phẩm dựa vào nội
dung, đứng trên khía cạnh luân lý mà nhận định. Xuất phát từ việc xem văn chương như là phương
tiện giáo hĩa con người, ơng tìm hiểu những bài học đạo đức trong tác phẩm thay vì chú ý đến giá
trị nghệ thuật và các vấn đề khác. Đứng về phương diện học thuật và nghiên cứu, những ý kiến của
ơng khá cực đoan. Nhưng nếu xét trong hồn cảnh thời cuộc bấy giờ, sự nhạy cảm về chính trị của
Ngơ Đức Kế trước âm mưu của Phạm Quỳnh là điều rất đáng trân trọng.
Ngồi những tác giả đã nhắc tới ở trên, thời kỳ này chúng ta cịn cĩ các nhà khảo cứu, biên
dịch, phê bình sau: Phan Khơi, Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Ngọc, Trần Trung Viên, Lê Thước, Võ
Liêm Sơn… Trong số đĩ, Phan Khơi, Phan Kế Bính, Võ Liêm Sơn vừa là nhà phê bình, nghiên cứu
văn học vừa là nhà lý luận văn học.
Tác phẩm Việt Hán văn khảo của Phan Kế Bính được viết theo quan niệm văn chương cổ
nhưng súc tích và ngắn gọn, lúc đầu in trên Đơng dương tạp chí, tới năm 1930 thì được Trung Bắc
tân văn xuất bản. Tác phẩm chủ yếu nĩi về thể cách văn chương và phép làm văn. Nĩ đã mở đầu
cho khuynh hướng tìm về thơ văn cổ của ta sau này.
Phan Khơi với Chương Dân thi thoại, trình bày cách bình thơ theo phương pháp cổ điển. Ơng
nĩi rõ thế nào là tự pháp, cú pháp, chương pháp, thiên pháp với các phép làm thơ. Sau khi cho biết
lai lịch bài thơ, ơng bình chúng theo lối thưởng ngoạn kiểu thi thoại của Trung Hoa.
Nhìn chung, do những sáng tác cĩ giá trị trong giai đoạn này chưa nhiều và xu hướng chú
trọng học thuật hơn sáng tác của giới trí thức Nho học nên hầu hết các bài phê bình đều thiên về tính
chất biên khảo. Nhiều yếu tố cũ cịn sĩt lại, quan niệm văn học căn bản vẫn là quan niệm cũ, các lý
thuyết mới du nhập từ phương Tây được vận dụng chưa thật nhuần nhuyễn. Chính vì thế, những bài
phê bình thường là sản phẩm của lý trí khơ khan và kỹ thuật thơ sơ, nĩ chưa cĩ nhiều đổi mới về
mặt phương pháp so với giai đoạn trước, vẫn chỉ là phương pháp trực giác nhưng cĩ thêm dấu ấn
của tri thức lý luận phương Tây. Xét tổng thể, đây là một giai đoạn thể nghiệm chưa cĩ thành tựu
nào nổi bật.
Về sách, giai đoạn này chỉ cĩ sách biên khảo (Nam thi hợp tuyển của Nguyễn Văn Ngọc, Quốc
văn trích diễm của Dương Quảng Hàm, Văn đàn bảo giám của Trần Trung Viên…), chưa cĩ sách
phê bình. Cuốn Sự nghiệp và thi văn Nguyễn Cơng Trứ của Lê Thước với năm trang phân tích thơ
văn khơng thể xem là một cuốn phê bình đúng nghĩa như ý kiến của Thanh Lãng. Mặc dù Lê Thước
đã sử dụng các sự kiện lịch sử cĩ pha nhiều giai thoại thuộc về tiểu sử của Nguyễn Cơng Trứ để giải
thích cho nghiệp chính trị, nghiệp võ và nghiệp văn của vị danh nhân này song chất phê bình của
cuốn sách cịn nhạt. Cùng lắm, nĩ chỉ là mầm mống của xu hướng phê bình tiểu sử mà sau này Trần
Thanh Mại đã áp dụng.
Tĩm lại, trong quá trình chuyển từ phương thức tư duy và phân tích văn học mang tính chất
phương Đơng sang phương thức tư duy và phân tích văn học mang tính chất phương Tây, giai đoạn
từ đầu XX đến 1930 là giai đoạn mang tính bản lề. Đây là giai đoạn chuyển mình, chuẩn bị cho sự
trưởng thành nhảy vọt của lý luận, phê bình văn học Việt Nam giai đoạn sau.
1.2.3. Từ 1930 đến 1945
Trong tiến trình hiện đại hĩa, phê bình văn học Việt Nam đã trưởng thành bằng việc tiếp thu,
tự giác hoặc khơng tự giác, các tư tưởng phê bình của văn học phương Tây được kết tinh trong lý
thuyết và được cụ thể hĩa trong phương pháp. Nĩ tự khu biệt và tách biệt dần với hoạt động sáng
tác để trở thành một bộ mơn riêng với đối tượng, chức năng và đặc trưng riêng.
Thời kỳ 1930 – 1945 là thời kỳ phê bình, nghiên cứu văn học ở nước ta tiến những bước dài
mạnh mẽ bằng đơi hia bảy dặm để thực sự đĩng một vai trị quan trọng trong đời sống văn học. Đội
ngũ phê bình đơng dần lên. Những quan niệm mới về đặc trưng và bản chất xã hội, lịch sử của văn
học đã xuất hiện. Nhiều phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học cũng ra đời. Nhiều cuộc bút
chiến nổ ra sơi nổi. Các nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình đều muốn thể hiện thái độ, quan niệm, của
mình về cuộc sống, con người và văn chương. Thơng qua báo chí, họ bày tỏ lập trường, tranh luận ý
thức hệ, thậm chí hạ bệ, bơi nhọ nhau nhằm lơi kéo độc giả. Những mục Điểm sách, Đọc sách mới,
Tin sách, Phê bình sách mới được in thường kỳ trên các báo Phụ nữ tân văn, Phong hĩa, Loa,
Thanh nghị, Tri tân, Hà Nội báo… Nhờ vậy mà khơng khí văn học trở nên sơi nổi, thu hút sự quan
tâm của quần chúng và kích thích sáng tác phát triển. Cĩ thể nĩi chưa bao giờ hoạt động nghiên
cứu, phê bình lại hào hứng như những năm này. Phê bình đã tự tạo ra một mơi trường văn học cần
thiết để đổi mới mình và do đĩ tác động mạnh mẽ đến việc đổi mới các thể loại khác như tiểu
thuyết, thơ, kịch. Chính sự hình thành và phát triển rực rỡ của phê bình đã dẫn đến sự xuất hiện của
hàng loạt tác giả tên tuổi, hàng loạt tác phẩm cĩ giá trị và nhiều cuộc tranh luận học thuật đáng chú
ý.
Trước tiên phải nĩi đến cuộc tranh luận dai dẳng và khơng kém phần quyết liệt giữa thơ cũ và
thơ mới. Đĩ thật sự là một cuộc cách mạng trong thi ca như Hồi Thanh nhận định. Nĩ âm ỉ từ rất
lâu, tận những năm 1917, khi Phạm Quỳnh chê niêm luật thơ Tàu làm cho tiếng nĩi của con tim mất
vẻ tự nhiên và thật sự bùng nổ vào ngày 10.03.1932, khi Phan Khơi dõng dạc kết án thơ cũ bị câu
thúc quá nên mất chơn trong bài Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ. Từ đĩ Phan Khơi đề ra
một lối thơ mới, cĩ vần điệu nhưng khơng bị bĩ buộc chặt chẽ bởi niêm luật và ơng đã minh họa
cho lối thơ này bằng một thể nghiệm táo bạo: bài Tình già. Hưởng ứng lời ơng, nhiều bài thơ vốn
làm từ trước được đưa lên mặt báo. Các báo chí đua nhau đăng thơ mới. Các bài cơng kích thơ
Đường luật xuất hiện. Bắt đầu từ Nguyễn Thị Kiêm, lần lượt Lưu Trọng Lư, Vũ Đình Liên, Trương
Tửu... bước lên diễn đàn với mục đích giành phần thắng cho thơ mới.
Trước sự bành trướng ấy, làng thơ cũ đã phản ứng gay gắt. Vân Bằng là người đầu tiên chống
lại Phan Khơi bằng những lời mỉa mai trên An Nam tạp chí. Nhiều người khác cũng đăng đàn hịng
bênh vực thơ cũ như Tản Đà, Hồng Duy Từ, Tùng Lâm, Nguyễn Văn Hanh...
Những cuộc tranh biện này chủ yếu diễn ra trong khoảng từ 1934 – 1938. Theo Thanh Lãng,
ngồi vấn đề Truyện Kiều, chưa cĩ một vấn đề nào được văn giới sốt sắng tham gia gĩp ý kiến hay
quyết liệt bênh vực cho bằng vấn đề thơ mới thơ cũ. Kết thúc cuộc chiến, thơ mới đã giành được
thắng lợi vẻ vang, khơng phải vì những lý lẽ hùng hồn mà vì sự ra đời của nhiều thi sĩ cĩ danh và
nhiều bài thơ cĩ giá trị. Lê Tràng Kiều đã cĩ lý khi cho rằng thơ văn khơng thể tranh cãi nhau bằng
lý thuyết mà phải thuyết phục bằng thực tiễn sáng tác và chứng minh bằng việc phân tích, giới thiệu
những bài thơ hay.
Trên báo chí khơng cịn danh hiệu thơ mới vì thơ cũ cơ hồ đã chết hẳn. Tuy vậy, cuộc đấu
tranh vẫn chưa lụi tắt hồn tồn. Trong lịng một lớp người, giá trị của thơ cũ là cái gì đĩ bất biến.
Năm 1941, cụ Huỳnh Thúc Kháng, sau nhiều lần chỉ trích và mạt sát, vẫn quả quyết rằng thơ mới đã
đến ngày mạt vận.
Cuộc tranh luận về thơ cũ và thơ mới tuy quyết liệt nhưng khá cởi mở và bình đẳng. Đây là
một hiện tượng tích cực, lành mạnh trong sinh hoạt văn hĩa ở nước ta. Cuộc tranh luận này đã chỉ ra
những đặc trưng cơ bản để phân biệt thơ mới và thơ cũ, từ đĩ giúp xác lập một quan niệm về thơ ca
và nhanh chĩng tự phê phán, cơng kích những bài thơ mới cịn non kém về nghệ thuật. Trong cuộc
tranh luận xuất hiện một số lượng khá lớn bài phê bình cĩ giá trị của các tác giả Lưu Trọng Lư,
Nguyễn Thị Kiêm, Hồi Thanh, Lê Tràng Kiều, Tùng Lâm…
Cùng thời điểm với cuộc tranh luận trên, ở những tờ báo khơng mấy tên tuổi đã xảy ra một
cuộc tranh luận nổi tiếng vào bậc nhất trong những cuộc đấu tranh tư tưởng từ xưa đến nay: cuộc
tranh luận “nghệ thuật vị nghệ thuật” hay “nghệ thuật vị nhân sinh” kéo dài từ 1935 đến 1939 giữa
một bên là Hải Triều, Hồ Xanh, Phan Văn Hùm… và một bên là Hồi Thanh, Lưu Trọng Lư, Lê
Tràng Kiều, Phan Văn Dật… Đây là cuộc tranh luận đầu tiên đi vào những vấn đề lý luận văn học,
cụ thể nĩ đã bàn đến nguồn gốc, bản chất và quy luật phát triển của văn học, phản ánh luận với văn
học, chức năng của văn học, tính đặc trưng và tính giai cấp của văn học… Ngồi ra nĩ cũng đề cập
đến phương pháp sáng tác tả chân chủ nghĩa và tả thực xã hội; nội dung, hình thức và nhân vật trong
tác phẩm văn học.
Trước đây, khi nhìn lại cuộc tranh luận này, các ý kiến đều mặc nhiên thừa nhận thắng lợi của
phe “nghệ thuật vị nhân sinh”, đồng thời khơng tiếc lời phê phán phe ”nghệ thuật vị nghệ thuật”. Sự
thực thì quan niệm của cả hai phe đều cĩ những mặt hợp lý và bất hợp lý của nĩ. Khách quan mà
nĩi khuynh hướng nghệ thuật vị nhân sinh mà Hải Triều là đại biểu đã trình bày rất bài bản, lập luận
rất vững vàng và dẫn chứng khá đắt về những vấn đề văn học. Bằng lịng nhiệt tình hăng say và
giọng văn bút chiến sắc sảo, Hải Triều thành cơng trong việc đặt những viên gạch đầu tiên cho việc
xây dựng một hệ thống lý luận mácxít sau Cách mạng tháng Tám. Nhược điểm của ơng là cịn giản
đơn khi nhìn nhận về nghệ thuật. Ơng chưa thấy hết tính thẩm mỹ chính là yêu cầu sống cịn đối với
một tác phẩm văn chương. Vì vậy nhiều khi ơng nhìn văn học đơn thuần chỉ ở cặp phạm trù cĩ ích
và khơng cĩ ích.
Khuynh hướng nghệ thuật vị nghệ thuật mà Hồi Thanh là đại diện tiêu biểu chưa cĩ một hệ
thống lý luận chặt chẽ, rõ ràng như khuynh hướng vị nhân sinh, các phát biểu của những nhà phê
bình theo khuynh hướng này nhìn chung cịn rời rạc, lẻ tẻ, cảm tính. Song bù lại, họ là những người
hoạt động văn học khá lâu nên rất nhạy cảm với những vấn đề thuộc về quy luật phát triển của văn
học, vì thế họ muốn việc nghiên cứu văn học phải bắt đầu từ gĩc độ bản thể, nĩi cách khác khi
thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật “phải chú ý đến cái đẹp trước khi chú ý đến những tính cách
phụ, những hình thức tạm thời của nĩ” [59, tr.33]. Cần lưu ý trong tồn bộ các bài tranh luận và cả
những bài viết sau đĩ, Hồi Thanh đều nhấn mạnh chủ thuyết của ơng phải mang tên “văn chương
là văn chương” chứ khơng phải “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Nghĩa là ơng đề cao những “mục đích tự
thân” của văn học nhưng khơng hề chủ trương “đoạn tuyệt giữa cái đẹp và cái cĩ ích” như
Théophine Gautier trong văn học sử nước Pháp [98, tr. 58-59].
Hai cách quan niệm khác nhau về văn học lẽ dĩ nhiên sẽ dẫn đến hai cách nghiên cứu, phê bình
tác phẩm khác nhau. Nếu Hải Triều và những nhà văn cùng chí hướng với ơng cho rằng chỉ văn học
hiện thực mới là đồng minh, trợ thủ của cách mạng cịn văn học lãng mạn với tất cả các khuynh
hướng khác đều thốt ly, quay lưng với đời sống, thậm chí là phản động thì Hồi Thanh lại chỉ đánh
giá cao những tác phẩm cĩ nhiều sáng tạo ở “cách tả” bởi ơng tin những tác phẩm như vậy mới thực
hiện được nhiệm vụ “vén tấm màn đen” “ngăn giữa tri giác và thâm chân” để “trao mỹ cảm cho
người đọc” [59, tr.26, 34, 41]. Phải chăng đây cũng chính là những khác biệt giữa phương pháp phê
bình xã hội học mácxít và phương pháp phê bình ấn tượng, chủ quan trong buổi đầu xuất hiện ở
nước ta?
Đáng chú ý là về sau Hải Triều đã nhận thức một cách mềm mại, uyển chuyển hơn về mối
quan hệ giữa hình thức và nội dung trong tác phẩm: “Tơi nghĩ một thiên tiểu thuyết hay cũng giống
như cái điệu đàn đã thốt tiếng tơ…” [104, tr.413]. Khi cho rằng “một nhà văn khuynh hướng về
chủ nghĩa tả thực xã hội chỉ nên phụng sự sự thực, chớ khơng nên buộc sự thực phải phụng sự
mình” [104, tr.412], vơ tình Hải Triều đã xích lại rất gần Hồi Thanh. Mới hay cái đúng khơng chỉ
đứng về một phía.
Ngồi những cuộc tranh luận nêu trên, thời điểm 1930 – 1945 cịn diễn ra vơ số cuộc tranh
luận sơi nổi khác. Mỗi cuốn sách mới ra đời đều kéo theo rất nhiều ý kiến đánh giá, nhận xét. Người
ta bắt bẻ nhau đến từng câu, từng chữ, từng ý. Từ những vấn đề trong địa hạt văn chương đã nảy
sinh khơng biết bao nhiêu sự tranh cãi về những vấn đề liên quan. Đáng chú ý cĩ thể kể đến vụ án
Quốc học giữa Phan Khơi và Sở Cuồng, vụ án Nho giáo giữa Phan Khơi và Trần Trọng Kim, cuộc
tranh luận giữa Nguyễn Cơng Hoan và Tự lực văn đồn xung quanh tác phẩm Đoạn tuyệt, những
bài tranh luận của Vũ Trọng Phụng gửi Thái Phỉ về vấn đề văn chương dâm uế… Trong số này, cĩ
một cuộc tranh luận nhỏ song lại cĩ ý nghĩa khá lớn. Đĩ là cuộc tranh luận giữa Nguyễn Bách Khoa
và Hồi Thanh về việc phương pháp phê bình văn học cần thiên về chủ quan hay khách quan. Hai
tác giả khơng chỉ cãi nhau bằng lý lẽ mà cịn đi vào phân tích cụ thể tác phẩm Truyện Kiều để chứng
minh cho tính đúng đắn của phương pháp mà mình theo đuổi. Trên thực tế, những bài phê bình của
Hồi Thanh khá thuyết phục cịn những lời hơ hào cĩ phần khoa trương cùng với cách áp dụng lý
thuyết máy mĩc của Nguyễn Bách Khoa ít được cảm tình của văn giới. Song đứng về phương diện
học thuật mà xem xét thì Nguyễn Bách Khoa là một tác giả cĩ nhiều nỗ lực trong việc nâng tầm phê
bình lên một khoa học đúng nghĩa. Tiếc rằng những bước đi đầu tiên thường khơng vững chắc và dễ
sai sĩt.
Phê bình văn học chỉ thật sự phát triển khi nĩ ở trong trạng thái động, tức là khi những người
tham gia vào đời sống văn học khơng ngừng suy nghĩ, tìm tịi, khám phá, tích cực tranh luận và tự
đổi mới, hồn thiện mình thơng qua tranh luận. Chính khơng khí tranh luận hào hứng, sơi nổi đã
làm nên bộ mặt đặc biệt của phê bình văn học giai đoạn 1930 – 1945. Nhờ đĩ, ở nước ta đã xuất
hiện một đội ngũ phê bình đơng đảo và đầy tài năng. Đội ngũ này khơng chỉ phong phú về lượng,
ưu tú về chất mà cịn rất đa dạng về các mặt trường phái, khuynh hướng, phương pháp, phong cách.
Trước tiên ta cĩ thể chia các nhà phê bình thời kỳ này làm hai nhĩm. Nhĩm một gồm Hải
Triều, Đặng Thai Mai, Hồ Xanh, Hải Khách, Phan Văn Hùm… Đây là những nhà phê bình theo
quan điểm mácxít. Nhĩm hai gồm hầu hết những tên tuổi sáng giá của nền phê bình đương thời: Vũ
Ngọc Phan, Hồi Thanh, Trương Chính, Ngơ Tất Tố, Thế Lữ, Xuân Diệu, Vũ Trọng Phụng… Đây
là những nhà phê bình theo quan điểm ý thức hệ tư sản.
Các nhà phê bình nhĩm một vừa kế thừa quan niệm văn học truyền thống Việt Nam vừa tiếp
thu và truyền bá hệ tư tưởng mácxít. Tư tưởng mácxít được giới thiệu ở Việt Nam từ đầu những
năm 30 của thế kỉ XX trong một số bài báo của Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu và Hải Triều, nhưng
để xuất h._. đĩ vẫn cĩ sự hiện
diện của các phương pháp phê bình, nghiên cứu văn học trong giai đoạn trước tuy khơng nhiều. Ở
miền Nam giai đoạn này, tình hình cĩ sơi nổi hơn với sự truyền bá một số lý thuyết, phương pháp
phê bình phương Tây: phê bình phân tâm học, phê bình cấu trúc, phê bình hiện sinh… Từ 1985 trở
đi, do yêu cầu đổi mới để hội nhập tồn cầu, phê bình, nghiên cứu văn học nước ta đã tiếp thu được
nhiều thành tựu lý luận, phê bình trên thế giới. Đây là điều kiện cần thiết để chúng ta hình thành các
hướng nghiên cứu mới như: chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hình thức, kí hiệu học, xã hội học, văn
học so sánh…
Nhìn tổng quát lại lịch sử phát triển của phê bình, nghiên cứu văn học Việt Nam, ta thấy trong
tất cả các thời kỳ, phê bình, nghiên cứu văn học nước nhà luơn tỏ ra “lép vế” so với sáng tác. Chỉ
riêng ở giai đoạn 1930 – 1945, địa vị của lý luận, phê bình đã tiến tới ngang bằng sáng tác, thậm chí
khơng khí tranh luận văn học đương thời cĩ phần cịn sơi nổi, hào hứng hơn khơng khí sáng tác.
2. Khi đọc lại quyển phê bình Dưới mắt tơi, Trương Chính tự thấy mình đã quá khắt khe đối
với một số nhà văn đã cĩ nhiều đĩng gĩp cho nền văn xuơi Việt Nam hiện đại. Vì vậy ơng chỉ chọn
trong tác phẩm này năm bài mà ơng cho là viết tương đối khách quan hơn cả (Lạnh lùng và Tối tăm
của Nhất Linh, Gia đình của Khái Hưng, Đời mưa giĩ của Khái Hưng và Nhất Linh, Một người của
Lê Văn Trương) để in vào Tuyển tập Trương Chính (1997).
Trong hồi kí Những năm tháng ấy, Vũ Ngọc Phan tự trách mình đã “khơng thấy được trong
phê bình văn học cũng như trong sáng tác văn học, nội dung chính trị cũng quan trọng như hình
thức nghệ thuật” [80, tr.287]. Ơng thành khẩn nhận sai lầm vì những lẽ chưa tới về mặt nhận thức
trong bộ Nhà văn hiện đại.
Trước khi trở thành một luật gia, Đinh Gia Trinh đã dành đoạn đời đẹp nhất của tuổi trẻ để làm
cơng việc phê bình văn học và viết tùy bút. Vậy mà sau cách mạng ơng hầu như khơng nhắc tới
quãng đời hoạt động văn học thời trẻ tuổi của mình với gia đình và các bạn hữu.
Để cĩ thể rũ bỏ con người cũ với ý thức hệ tư sản hịng đi theo cách mạng, mỗi nhà văn, nhà
thơ đều cĩ một quá trình tự đấu tranh và phán xét bản thân hết sức nghiêm khắc. Trong quá trình đĩ,
họ đã từ bỏ khơng ít thứ vốn từng là cá tính, máu thịt của mình. Cĩ người chuyển sang nghiên cứu
văn học dân gian như Vũ Ngọc Phan, cĩ người tìm đến với văn học Trung Quốc và các vấn đề văn
hĩa Việt Nam như Trương Chính, cũng cĩ người gác bút như Đinh Gia Trinh. Khách quan mà nĩi,
sau 1945, cả Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Đinh Gia Trinh đều đạt được những thành tựu đáng kể
trong các lĩnh vực văn học và luật học. Tuy vậy những thành tựu ấy cũng khơng thể che mờ những
đĩng gĩp của các ơng cho văn học nước nhà những năm trước cách mạng về cả hai phương diện đổi
mới ý thức phê bình, nghiên cứu văn học và đổi mới phương pháp phê bình, nghiên cứu văn học.
3. Từ đầu thế kỷ XX, khi văn học bắt đầu hiện đại hĩa một cách tồn diện cũng là lúc những
người cầm bút ở nước ta bắt đầu cĩ ý thức rõ rệt về nghề nghiệp của mình. Hoạt động văn chương
lúc ấy khơng cịn là một hoạt động tùy hứng, mang tính thù tạc mà đã dần tiến đến chuyên nghiệp
hĩa. Như bao nhà phê bình đương thời, Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Đinh Gia Trinh xem phê
bình, nghiên cứu văn học cũng là một nghề trong xã hội và các ơng cĩ ý thức rõ rệt về nghề của
mình.
Nếu người xưa quan niệm văn sử triết bất phân, văn chương cũng gần với luân lý, học thuật thì
Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Đinh Gia Trinh khẳng định bản chất của nghệ thuật phải là hoạt
động sáng tạo để vinh danh cái đẹp. Đây chính là cơ sở để các ơng khu biệt văn học với các hình
thái ý thức xã hội khác. Tuy vậy, các ơng khơng phủ nhận những ràng buộc giữa văn học và đời
sống một cách siêu hình, cực đoan như Hồi Thanh. Lúc nào cũng vậy, Vũ Ngọc Phan, Trương
Chính, Đinh Gia Trinh luơn khẳng định nhà văn phải cĩ trách nhiệm cải tạo đời sống tinh thần của
xã hội, giúp sự sinh hoạt của con người phát triển theo chiều hướng tốt đẹp hơn lên. Sức cảm hĩa
của văn chương là ở chỗ đánh thức cái tiềm tàng sẵn cĩ trong mỗi người. Ở mỗi cá nhân đều cĩ hai
mặt xấu tốt đan xen, hịa lẫn vào nhau, vì vậy, người cầm bút phải luơn biết thận trọng ngịi bút của
mình.
Là những người hoạt động văn học chuyên nghiệp, Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Đinh Gia
Trinh rất quan tâm đến sự tiến hĩa của văn học nước nhà. Các ơng thấy sự tiến hĩa ấy cĩ trật tự thì
mới vững bền cịn sơi nổi và bồng bột thì chĩng tàn. Cách tiến hĩa nhanh chĩng nhất khơng gì hơn
là tiếp thu những men giống mới của phương Tây trên cơ sở giữ gìn vốn cũ văn hĩa dân tộc. Cái
nhìn của các ơng về vấn đề này khá thống, vừa giàu tinh thần học hỏi vừa thể hiện được lịng yêu
mến những truyền thống văn hĩa Việt Nam.
Với mong muốn đưa phê bình, nghiên cứu văn học phát triển lên thành một bộ mơn khoa học,
Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Đinh Gia Trinh đã chỉ ra phê bình cũng là một loại hình nghệ thuật.
Nhà phê bình như vậy cũng là một nhà nghệ sĩ, chỉ khác là anh ta đi tìm cái đẹp trong sáng tác chứ
khơng phải cái đẹp trong cuộc đời. Nhiệm vụ của phê bình là gĩp phần phát hiện những thành cơng
và hạn chế của tác phẩm, đốn định khuynh hướng phát triển trong tương lai của người sáng tác
hoặc phong trào sáng tác, đồng thời đem lại cho cơng chúng những khối cảm thẩm mỹ trong
thưởng thức nghệ thuật. Để làm được điều đĩ, mỗi nhà phê bình đều phải khơng ngừng rèn luyện để
cĩ một vốn kiến văn phong phú, trí tưởng tượng dồi dào và năng lực cảm thụ bén nhạy. Cĩ như vậy,
họ mới cĩ thể phê bình tác phẩm một cách khách quan, vơ tư từ gĩc độ nghệ thuật chứ khơng phải
đứng trên lập trường nhà đạo đức hay nhà chiến sĩ mà phán xét hay dở đúng sai về phương diện nội
dung. Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Đinh Gia Trinh đã đặt ra những yêu cầu khá khắt khe đối với
hoạt động phê bình. Các ơng muốn tiếp cận văn chương bằng tư duy của nhà khoa học, giải phẫu
chúng bằng cái nhìn khách quan dựa trên những tiêu chí cụ thể và nhất quán. Từ cách nghĩ ấy, nhiều
phương pháp phê bình đã được các ơng sử dụng.
4. Phương pháp phê bình bằng trực cảm kết hợp với lối bình điểm là phương pháp đã cĩ từ lâu
đời trong truyền thống văn học phương Đơng. Nĩ tỏ ra cĩ nhiều ưu thế trong cảm thụ thơ ca. Tuy
nhiên phương pháp này chỉ phù hợp khi đi vào phê bình những tác giả, tác phẩm riêng lẻ, khĩ vươn
đến những đối tượng cĩ quy mơ lớn như một giai đoạn lịch sử văn học hoặc một tiểu thuyết cĩ dung
lượng hồnh tráng. Thêm vào đĩ, do dấu ấn cá nhân quá đậm nên khơng phải lúc nào các luận điểm
mà nhà phê bình đưa ra cũng chính xác, khách quan. Chính vì thế, để phát triển được, phê bình,
nghiên cứu văn học phải bổ sung cho mình những phương pháp khác.
Am hiểu văn hĩa phương Đơng, yêu mến những di sản tinh thần của dân tộc, trong tác phẩm
của Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Đinh Gia Trinh, ta thấy khơng ít trang viết mang dấu ấn của
cách phê bình truyền thống: giản dị, hàm súc, thiên về đại thể, ít chú trọng đến chi tiết; lời văn êm
ái, mượt mà, câu văn dồi dào cảm giác. Tuy nhiên đây khơng phải là thế mạnh của các ơng. Sự thật
thì Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Đinh Gia Trinh đều muốn dựa vào những bằng chứng xác thực
để khen chê hơn là để mặc cho hồn mình phiêu du trong thế giới ngơn từ. Các ơng đã biết chú ý đến
vấn đề tư liệu trong khi nghiên cứu tác phẩm. Tư liệu là xuất phát điểm để đưa ra nhận định, sự hiểu
biết chính xác về tư liệu sẽ giúp ích nhiều cho việc đánh giá sự vật, hiện tượng một cách khách
quan, khoa học. Trên cơ sở đĩ mới cĩ thể vận dụng các phương pháp hệ thống, phương pháp so
sánh, phương pháp lịch sử xã hội, phương pháp phân tích gắn với đặc trưng thể loại, cấu trúc tác
phẩm và phong cách tác giả để thu được những kết quả như mong muốn.
Thực tế cho thấy khơng phải tất cả các phương pháp trên đều được các ơng vận dụng thành
cơng. Khách quan mà nĩi, các vấn đề nghiên cứu của Trương Chính và Đinh Gia Trinh cịn rời rạc,
lẻ tẻ, chưa hợp thành một hệ thống. Trong ba nhà phê bình này chỉ cĩ Vũ Ngọc Phan đã đặt đối
tượng khảo sát của mình vào những hệ thống để xem xét sự vận động và phát triển của chúng cũng
như tìm ra những nét riêng khu biệt đối tượng với các đối tượng khác.
Phương pháp so sánh ít được Trương Chính sử dụng và khi sử dụng thì cũng khơng thật thành
cơng. Về phía Đinh Gia Trinh, ơng thường dùng phương pháp so sánh để thấy được mối quan hệ
văn hĩa Đơng – Tây. Ơng xác định rõ những tiêu chí so sánh, vì vậy phép so sánh của ơng thường
khá hiệu quả. Riêng với Vũ Ngọc Phan, ơng là người sử dụng thành thạo nhất phương pháp so sánh
trong giai đoạn 1930 – 1945. Đọc Nhà văn hiện đại, ta thấy trong đầu ơng luơn cĩ một trường liên
tưởng phong phú về các tác giả, tác phẩm. Ơng thường soi chiếu các hiện tượng văn học vào nhau
nhằm tách bạch rõ những đặc trưng bản chất của mỗi hiện tượng. Sự so sánh của ơng khơng bao giờ
rơi vào vu vơ bởi ơng cĩ sự am hiểu sâu kĩ về những điều mà mình đề cập tới.
Phương pháp lịch sử – xã hội và phương pháp phân tích gắn với đặc trưng thể loại, cấu trúc tác
phẩm và phong cách tác giả là những phương pháp mà cả Vũ Ngọc Phan, Trương Chính và Đinh
Gia Trinh đều vận dụng khá nhuần nhuyễn. Điều đĩ cho thấy khoa phê bình, nghiên cứu văn học
của giai đoạn này đã tiến một bước dài bởi các nhà phê bình khơng chỉ biết xem xét tác phẩm như
một chỉnh thể nghệ thuật trọn vẹn với những đặc trưng về hình thức mà cịn biết đặt chúng vào hồn
cảnh lịch sử xã hội để giải thích quan hệ tương hỗ giữa tác phẩm và hiện thực bên ngồi.
Nhờ biết kết hợp giữa lối phê bình truyền thống phương Đơng và những phương pháp phê
bình hiện đại của phương Tây, Vũ Ngọc Phan, Trương Chính và Đinh Gia Trinh đã bác bỏ được
những sai lầm trong cách phê bình của các nhà phê bình khác cũng như tạo được cho mình những
phong cách phê bình riêng biệt, độc đáo: Trương Chính với cá tính mạnh mẽ, sắc sảo, sức hấp dẫn
và mọi ưu khuyết của ơng đều xuất phát từ cá tính ấy; Đinh Gia Trinh với cung cách điềm đạm của
một trí thức tâm huyết với văn hĩa nước nhà và luơn muốn mượn những ảnh hưởng phương Tây để
đưa văn học Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới; Vũ Ngọc Phan với khả năng bao quát và xử
lý một khối lượng tư liệu đồ sộ, trong từng trang viết của ơng đều hiện diện một cái tơi học giả cĩ tư
duy lý luận sắc bén và khả năng thẩm bình tinh tế.
5. Những cơng trình cĩ giá trị của các tác giả tài năng luơn chứa đựng ý nghĩa phương pháp
luận, thúc đẩy hoạt động lý luận, phê bình tiến bước. Sự chú ý đến phương pháp đánh dấu sự trưởng
thành của lý luận, phê bình trên con đường hiện đại hĩa. Việc nghiên cứu phương pháp phê bình của
các nhà phê bình ưu tú sẽ giúp chúng ta cĩ một cái nhìn đầy đủ hơn về hoạt động phê bình. Đồng
thời nĩ cũng giúp ích nhiều cho việc giảng dạy văn trong trường THPT khi các tác phẩm lý luận,
phê bình ngày càng chiếm một vị trí quan trọng hơn. Cần nhớ rằng phương pháp nghiên cứu, phê
bình văn học một mặt do những điều kiện khách quan quy định, nghĩa là do lịch sử, do trình độ
khoa học chung của thời đại, do bản chất của đối tượng nghiên cứu… quy định. Mặt khác nĩ tùy
thuộc vào khả năng tư duy, khả năng trừu tượng hĩa, sự cố gắng… của nhà nghiên cứu. Vì vậy,
ngồi việc khơng ngừng học hỏi những phương pháp của người đi trước, chúng ta cịn phải suy
nghĩ, tìm tịi để tiếp tục hồn thiện và phát triển các phương pháp phê bình, nghiên cứu, tránh việc
áp dụng chúng một cách máy mĩc, cực đoan.
*
* *
Đề tài “Đĩng gĩp của Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Đinh Gia Trinh về mặt phương pháp phê
bình, nghiên cứu văn học trong giai đoạn 1930 – 1945” là một đề tài khĩ. Để giải quyết đề tài này,
địi hỏi người viết phải cĩ vốn kiến văn phong phú, khả năng thẩm định chính xác và một trình độ lý
luận chặt chẽ. Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do kiến thức của tác giả luận văn cịn quá hạn hẹp
nên trong quá trình giải quyết vấn đề hẳn khơng tránh khỏi những ý kiến chưa thật sự thỏa đáng và
thuyết phục. Với những gì đã làm được, hy vọng luận văn phần nào cĩ thể gĩp thêm tiếng nĩi khẳng
định những đĩng gĩp của Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Đinh Gia Trinh về mặt phương pháp phê
bình, nghiên cứu văn học trong ngành lý luận phê bình Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hĩa sử cương, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
2. Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.
3. Lưu Văn Bổng (chủ biên) (2001), Văn học so sánh lý luận và ứng dụng, NXB Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
4. Nguyễn Huệ Chi, Thiếu Mai (1986), Tác gia lý luận phê bình nghiên cứu văn học Việt Nam 1945
– 1975, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
5. Trương Chính (1939), Dưới mắt tơi, Tác giả tự xuất bản, Hà Nội.
6. Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn An (1989), Tác giả văn học Việt Nam, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
7. Nguyễn Văn Dân (2000), Lí luận văn học so sánh, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Văn Dân (2005), Vì một nền lý luận – phê bình văn học chất lượng cao, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
9. Nguyễn Văn Dân (2006), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
10. Hồng Diệu (sưu tầm, biên soạn, giới thiệu) (2004), Trần Thanh Mại tồn tập (3 tập), NXB Văn
học, Hà Nội.
11. Trương Đăng Dung (2004), “Trên đường đến với tư duy lí luận văn học hiện đại”, Tạp chí
Nghiên cứu Văn học, số 12.
12. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác... (1998), Văn học Việt Nam (1900 – 1945), NXB
Giáo dục, Hà Nội.
13. Phan Cự Đệ (2000), Tuyển tập Phan Cự Đệ (tập 3), NXB Văn học, Hà Nội.
14. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2001), Lý luận phê bình văn học miền Trung thế kỷ XX, NXB Đà Nẵng,
Đà Nẵng.
15. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX – những vấn đề lịch sử và lý luận,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
16. Nguyễn Đăng Điệp, 1998, “Phê bình văn học và con đường của nĩ”, Tạp chí Văn học, số 4.
17. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn (sưu tầm, biên soạn) (1999), Tạp chí Tri Tân (1941 – 1945)
phê bình văn học: tư liệu sưu tầm, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
18. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh (tuyển chọn và giới thiệu) (2001), Nguyễn Du về
tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội.
19. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học: Nghiên cứu – văn bản – thuật ngữ, NXB
Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.
20. Trịnh Bá Đĩnh (2003), “Ba kiểu nhà phê bình hiện đại”,
21. Trịnh Bá Đĩnh (sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu) (2005), Đào Duy Anh – Nghiên cứu văn hĩa
và ngữ văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.
22. Hà Minh Đức (chủ biên) (1996), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
23. Nguyễn Văn Đường (1995), “Cơng việc bình thơ của Hồi Thanh”, Tạp chí Văn học, số 5.
24. Vu Gia (1998), Hải Triều nghệ thuật vị nhân sinh, NXB Văn hĩa Thơng tin, Hà Nội.
25. Văn Giá (1994), “Phần đời bí ẩn của một con người”, Tạp chí Nha Trang, số 23.
26. Văn Giá (tuyển chọn và biên soạn) (1999), Hồi Thanh, Vũ Ngọc Phan, Hải Triều, Đặng Thai
Mai, NXB Giáo dục, Hà Nội.
27. Văn Giá (2002), Một khoảng trời văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
28. Văn Giá (2005), Đời sống và đời viết, NXB Hội Nhà văn, Trung tâm Văn hĩa Ngơn ngữ Đơng
Tây, Hà Nội.
29. Lê Giang (2000), Tìm hiểu ý thức văn học trung đại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Văn học, Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, TP.HCM.
30. Trần Văn Giáp (chủ biên) (1971), Lược truyện các tác gia Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
31. Dương Quảng Hàm (1961), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài Gịn.
32. Nguyễn Văn Hanh (1970), Hồ Xuân Hương: tác phẩm, thân thế và văn tài, NXB Khai trí, Sài
Gịn.
33. Nguyễn Văn Hạnh (1971), “Ý kiến của Lê-nin về mối quan hệ giữa văn học và đời sống”, Tạp
chí Văn học, số 4.
34. Nguyễn Văn Hạnh (1972), “Một số điểm cần nĩi rõ thêm về vấn đề nghiên cứu tác phẩm văn
học”, Tạp chí Văn học, số 6
35. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lí luận văn học vấn đề và suy nghĩ, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
36. Nguyễn Văn Hạnh (2002), Văn học và văn hĩa vấn đề và suy nghĩ, NXB Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
37. Hồng Ngọc Hiến (1999), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB Thuận Hĩa, Huế.
38. Hồng Ngọc Hiến (2003), Văn học... gần & xa, NXB Giáo dục, Hà Nội.
39. Đỗ Đức Hiểu (chủ biên) (1983, 1984), Từ điển văn học (2 tập), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
40. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
41. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
42. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (chủ biên) (2005), Từ điển văn
học (2 tập), NXB Thế giới, TP.HCM.
43. Vũ Đình Hịe (1997), Hồi ký Thanh Nghị T1 Q1: Báo Thanh Nghị và nhĩm Thanh Nghị, NXB
Văn học, Hà Nội.
44. Vũ Đình Hịe (2004), Hồi ký Vũ Đình Hịe, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
45. Phan Mạnh Hùng (2007), “Kiều Thanh Quế - Nhà nghiên cứu phê bình văn học”, Tạp chí
Nghiên cứu Văn học, số 3.
46. Mai Hương, Phong Lê (1995), Nhà văn Vũ Ngọc Phan, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
47. Đinh Gia Khánh (1968), Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám,
NXB Văn học, Hà Nội.
48. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (1992), Văn học Việt Nam thế kỷ X đến nửa
đầu thế kỷ XVIII (2 tập), NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, TP.HCM
49. Đinh Gia Khánh, Nguyễn Đức Diệu, Vũ Tú Nam (2000), Tổng tập văn học Việt Nam (tập 22,
23), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
50. Nguyễn Bách Khoa (2003), Khoa học văn chương, NXB Văn hĩa Thơng tin, Hà Nội.
51. Phan Khơi (1998), Chương Dân thi thoại: nguyên danh Nam âm thi thoại, NXB Đà Nẵng, Đà
Nẵng.
52. Lê Đình Kỵ (1970), Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, NXB Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
53. Thanh Lãng (1995), 13 năm tranh luận văn học (1932 – 1945) (3 tập), NXB Văn học, Hội
Nghiên cứu và Giảng dạy văn học TP. Hồ Chí Minh, TP.HCM.
54. Thanh Lãng (2003), Phê bình văn học thế hệ 1932: Những vụ án văn học thế hệ 1932,
55. Mã Giang Lân (tuyển chọn) (2000), Hồ Xuân Hương bà chúa thơ Nơm, NXB Văn hĩa Thơng
tin, Hà Nội.
56. Vũ Lân (1997), “Vũ Ngọc Phan, nhà phê bình văn học, nhà nghiên cứu văn hĩa dân gian”, Sài
Gịn giải phĩng, số thứ năm 11 – 9.
57. Phong Lê (1974), “Về phong cách trong phê bình”, Tạp chí Văn học, số 2.
58. Phong Lê (1999), Vẫn chuyện văn và người, NXB Văn hĩa Thơng tin, Hà Nội.
59. Phong Lê (2000), Hồi Thanh những tác phẩm tiêu biểu trước 1945, NXB Giáo dục, Hà Nội.
60. Vũ Quang Long (1992), “Đĩng gĩp của Đặng Thai Mai vào lí luận nghệ thuật thời kỳ chống
Pháp”, Tạp chí Văn học, số 6.
61. Vũ Quang Long (1994), “Những vấn đề thời sự văn học trước 1945 qua Văn học khái luận của
Đặng Thai Mai”, Tạp chí Văn học, số 6.
62. Phương Lựu (chủ biên) (1997), Lí luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
63. Trần Hạnh Mai (1998), “Hồi Thanh – người đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật”, Tạp chí Văn học,
số 9.
64. Trần Hạnh Mai (2003), Sự nghiệp phê bình văn học của Hồi Thanh, NXB Giáo dục, Hà Nội.
65. Đặng Thai Mai (1997), Đặng Thai Mai tồn tập (tập 1), NXB Văn học, Hà Nội.
66. Trần Thanh Mại (1935), Trơng giịng sơng Vị: phê bình văn chương và thân thế ơng Trần Tế
Xương, Trần Thanh Địch ấn hành, Huế.
67. Trần Thanh Mại (1973), Hàn Mạc Tử (1912 – 1940), NXB Tân Việt, Sài Gịn.
68. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam 1930 – 1945, NXB Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
69. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nhà văn Việt Nam hiện đại chân dung và phong cách, NXB Trẻ,
TP.HCM.
70. Phan Ngọc (1995), Cách giải thích văn học bằng ngơn ngữ học, NXB Trẻ, TP.HCM.
71. Phạm Thế Ngũ (1998), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 3), NXB Đồng Tháp, Đồng
Tháp.
72. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1999), Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại, NXB Thành phố
Hồ Chí Minh, TP.HCM.
73. Phạm Xuân Nguyên (1999), “Khát vọng thành thực”, Tạp chí Văn học, số 9.
74. Vương Trí Nhàn (1993), Những kiếp hoa dại, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
75. Vương Trí Nhàn (1999), Buồn vui đời viết, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
76. Vương Trí Nhàn (2001), Cánh bướm và đĩa hướng dương, NXB Văn nghệ, TP.HCM.
77. Vương Trí Nhàn (2005), Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hố
trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho tới 1945, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
78. Vũ Ngọc Phan (1960), Nhà văn hiện đại, NXB Thăng Long, Sài Gịn.
79. Vũ Ngọc Phan (1963), Trên đường nghệ thuật, NXB Đời nay, Sài Gịn.
80. Vũ Ngọc Phan (2000), Vũ Ngọc Phan tác phẩm (tập 2,5), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
81. Thế Phong, Lược sử văn nghệ Việt Nam – Tập 1: Nhà văn tiền chiến,
82. Vũ Đức Phúc (1971), Bàn về những cuộc đấu tranh tư tưởng trong lịch sử Việt Nam, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
83. Vũ Đức Phúc (1982), “Hồi Thanh”, Tạp chí Văn học, số 2.
84. Nguyễn Phúc (chủ biên) (1995), Hồi Thanh và Thi nhân Việt Nam 1932 – 1941, NXB Hội Nhà
văn, Hà Nội.
85. Nguyễn Phúc (1998), “Những vấn đề về Hồi Thanh và Thi nhân Việt Nam”, Tạp chí Văn học,
số 4.
86. Đồn Đức Phương (tuyển chọn và giới thiệu) (2007), Hồi Thanh về tác gia và tác phẩm, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
87. G. N. Pơxpêlơp (chủ biên) (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
88. Kiều Thanh Quế (1969), Cuộc tiến hĩa văn học Việt Nam, NXB Hoa Tiên, Sài Gịn.
89. Mộng Bình Sơn, Đào Đức Chương (1996), Nhà văn phê bình: Khảo cứu văn học Việt Nam (thời
kỳ 1932 – 1945), NXB Văn học, Hà Nội.
90. Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh (tuyển chọn và giới thiệu) (2003), Hồ Xuân Hương về tác gia và
tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội.
91. Nguyễn Hữu Sơn, Trịnh Bá Đĩnh (biên soạn) (2007), Trương Tửu – Tuyển tập nghiên cứu phê
bình, NXB Lao động, Trung tâm Văn hĩa Ngơn ngữ Đơng Tây, Hà Nội.
92. Thiếu Sơn (2003), Thiếu Sơn tồn tập, NXB Văn học, Hà Nội.
93. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.
94. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Trường Đại học Sư Phạm, TP.HCM.
95. Trần Đình Sử (2000), Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục, Hà Nội.
96. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
97. Hồi Thanh (1998), Bình luận văn chương (1934 – 1943), NXB Giáo dục, Hà Nội.
98. Hồi Thanh (1999), Hồi Thanh tồn tập (tập 1), NXB Văn học, Hà Nội.
99. Hồi Thanh, Lê Tràng Kiều, Lưu Trọng Lư (1999), Văn chương và hành động, NXB Hội Nhà
văn, Hà Nội.
100. Hồi Thanh, Hồi Chân (2000), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Trung tâm Văn hĩa Ngơn
ngữ Đơng Tây, Hà Nội.
101. Lê Thanh (2002), Nghiên cứu và phê bình văn học, NXB Hội Nhà văn, Trung tâm Văn hĩa
Ngơn ngữ Đơng Tây, Hà Nội.
102. Nguyễn Ngọc Thiện (1994), “Ý nghĩa cuộc tranh luận nghệ thuật 1935 – 1939. Những vấn đề
của lí luận văn học hơm qua và hơm nay”, Tạp chí Văn học, số 5.
103. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên) (2005), Lý luận, phê bình văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX
đến 1945, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
104. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên) (2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX (Quyển 5 – Phần lý luận,
phê bình) (tập 2, 3, 4, 5, 6), NXB Văn học, Hà Nội.
105. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới gĩc nhìn văn hĩa, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
106. Đỗ Lai Thúy (1992), Con mắt thơ, NXB Lao động, Hà Nội.
107. Đỗ Lai Thúy (1999), Hồ Xuân Hương – hồi niệm phồn thực, NXB Văn hĩa Thơng tin, Hà
Nội.
108. Đỗ Lai Thúy (2000), Phân tâm học và văn hĩa nghệ thuật, NXB Văn hĩa Thơng tin, Hà Nội.
109. Đỗ Lai Thúy (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp: Lý thuyết chủ nghĩa hình thức Nga, NXB
Hội Nhà văn, Hà Nội.
110. Đỗ Lai Thúy (2003), “Trần Thanh Mại và phương pháp phê bình tiểu sử”,
dam.com/vanhoc112_tranthanhmai.htm
111. Đỗ Lai Thúy (2003), “Phê bình văn học là gì?”,
binh/nghien-cuu/2003/12/3B9AD39C/
112. Đỗ Lai Thúy (2004), “Đặc điểm phê bình văn học Việt Nam – nhìn từ gĩc độ tiếp nhận”, Tạp
chí Tia sáng, số 4.
113. Đỗ Lai Thúy (2004), Sự đỏng đảnh của phương pháp, NXB Văn hĩa Thơng tin, Hà Nội.
114. Đỗ Lai Thúy (2005), “Nguyễn Du và Truyện Kiều dưới cái nhìn của Trương Tửu”, Tạp chí Tia
sáng, số 17.
115. Đỗ Lai Thúy (2005), “Phong cách học và phê bình văn học”,
116. Đỗ Lai Thúy (2005), “Phương pháp phê bình xã hội học”,
117. Lê Ngọc Trà (2005), Lý luận và văn học, NXB Trẻ, TP.HCM.
118. Hồng Trinh (1997), Từ ký hiệu học đến thi pháp học, NXB Đà Nẵng.
119. Đinh Gia Trinh (2005), Hồi vọng của lý trí, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
120. Trương Tửu (1974), Kinh thi Việt Nam, NXB Hoa tiên, Sài Gịn.
121. Trần Ngọc Vương (1995), Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
122. Trần Ngọc Vương (1998), Văn học Việt Nam dịng riêng giữa nguồn chung, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
123. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2004), Phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX (1900 – 1945),
NXB Đại học Quốc gia, TP.HCM.
PHỤ LỤC
TIỂU SỬ VŨ NGỌC PHAN, TRƯƠNG CHÍNH, ĐINH GIA TRINH
VŨ NGỌC PHAN (1902 – 1987)
Nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Sinh ngày 8 tháng 9 năm 1902
tại Hà Nội. Quê quán: Đơng Cảo, Gia Lương, Bắc Ninh. Hội viên Hội
nhà văn Việt Nam (1957). Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I (1996).
Vũ Ngọc Phan sinh ra trong một gia đình trí thức Nho học. Thuở
nhỏ ơng sống ở Hà Nội, sau đĩ theo cha đi dạy học ở Hưng Yên và bắt
đầu học chữ Hán. Từ năm 1915 ơng đã cĩ chí hướng đi vào văn học.
Năm 1929, ơng đỗ bằng Tú tài Pháp, đi dạy tư và bắt đầu cộng tác với
các báo: Nhật Tân, Trung Bắc tân văn, Pháp Việt, Văn học, Trung Bắc chủ nhật, Hà Nội tân văn,
Sơng Hương, Cơng luận…. Đây cũng là giai đoạn ơng dịch nhiều tác phẩm văn học nước ngồi.
Năm 1945, ơng tham gia cướp chính quyền ở Hà Nội rồi trở thành Chủ tịch ủy ban Văn hĩa
Bắc Bộ. Sau Cách mạng tháng Tám, ơng là biên tập viên báo Tiền phong, ủy viên thường trực Ủy
ban vận động Hội nghị văn hĩa tồn quốc, chủ tịch Ủy ban kháng chiến khu Đống Đa, ủy viên
thường trực Đồn văn hĩa kháng chiến Liên khu IV (1945 – 1951), nghiên cứu viên Ban nghiên cứu
Văn – Sử – Địa (1953 – 1958). Ơng thường viết cho các báo: Chống giặc, Văn hĩa, Văn nghệ.
Từ 1959, Vũ Ngọc Phan cơng tác tại Viện văn học. Sau đĩ giữ chức vụ Tổng thư kí, Phĩ chủ
tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. Ơng cộng tác với nhiều tờ báo: Nghiên cứu Văn – Sử – Địa,
Văn hĩa, Văn học, Dân tộc học, Nghiên cứu nghệ thuật, Văn nghệ, Cứu quốc, Nhân dân…
Tác phẩm chính: Trên đường nghệ thuật (tiểu luận, 1940); Nhìn sang láng giềng (bút ký,
1941); Thi sĩ Trung Nam (thi thoại, 1942); Nhà văn hiện đại (5 quyển, 1942 – 1945); Chuyện Hà
Nội (bút ký, 1944), Tục ngữ và ca dao, dân ca Việt Nam (sưu tầm, tuyển chọn, 1956, đã tái bản 13
lần); Truyện cổ dân gian Việt Nam (sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu, 4 quyển, 1963 – 1964), Qua
những trang văn (phê bình, tiểu luận, 1976), Những năm tháng ấy (hồi kí, 1987)…
Vũ Ngọc Phan mất ngày 14 tháng 6 năm 1987 tại Hà Nội.
TRƯƠNG CHÍNH (1916 – 2000)
Tên khai sinh: Bùi Trương Chính, bút danh khác: Nhất Văn, Nhất Chi
Mai. Sinh ngày 16 tháng 7 năm 1916. Quê quán: Can Lộc, Hà Tĩnh. Giáo sư,
nhà giáo ưu tú. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam (1957). Chuyên gia về văn
học Trung Quốc và văn học cổ Việt Nam. Giải thưởng Nhà nước về Khoa học Xã hội và Nhân văn
năm 2000.
Trương Chính bắt đầu viết phê bình văn học từ năm 1936. Những bài phê bình đầu tay mang
tính tranh luận chưa đăng ở báo nào, sau tập hợp lại trong cuốn Dưới mắt tơi. Năm 1944, ơng soạn
cuốn Nghệ thuật tiểu thuyết, in chưa xong thì Cách mạng bùng nổ, bản thảo bị mất.
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Trương Chính làm việc ở Bộ giao thơng cơng chính tại
An tồn khu Việt Bắc. Thời kì này ơng khơng viết được gì vì sống cách biệt với giới văn học.
Năm 1952, Trương Chính sang Trung Quốc học Trung văn. Năm 1956, ơng về nước và làm
việc tại Ban tu thư, soạn sách giáo khoa theo chương trình mới. Sau đĩ ơng cùng với Lê Thước,
Hồng Ngọc Phách, Vũ Đình Liên, Huỳnh Lý, Lê Trí Viễn, Đỗ Đức Hiểu thành lập nhĩm Lê Quý
Đơn, soạn bộ Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam.
Từ 1959 – 1979, ơng dạy Văn học Trung Quốc ở Trường Đại học Tổng hợp và Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội.
Tác phẩm chính: Dưới mắt tơi (phê bình văn học, 1939); Những bơng hoa dại (nghiên cứu văn
học dân gian, 1941); Lược khảo lịch sử văn học Việt Nam (viết chung, 1957); Thơ văn chữ Hán
Nguyễn Du (nghiên cứu, 1965), Hương hoa đất nước (tiểu luận, phê bình, 1979); Tuyển tập Trương
Chính (2 tập, 1997)…
Trương Chính mất ngày 7 tháng 10 năm 2004 tại Hà Nội.
ĐINH GIA TRINH (1915 – 1974)
Nhà phê bình văn học. Bên cạnh những bài viết kí tên thật: Đinh
Gia Trinh, cịn cĩ các bút danh: Diệu Anh, Thế Thụy. Sinh ngày 15 tháng
12 năm 1915. Quê quán: huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc ngoại
thành Hà Nội.
Mẹ ơng mất sớm nên năm 1928, cha ơng đưa cả gia đình vào Hà
Nội tìm kế sinh nhai. Năm 1936, ơng tốt nghiệp Trung học. Mang tâm
hồn mơ mộng và niềm đam mê văn chương nhưng theo nguyện vọng của gia đình, Đinh Gia Trinh
thi vào trường Luật (1938). Năm 1941, ơng tốt nghiệp Cử nhân Luật, sau đĩ nhận chức Tri huyện tư
pháp ở Bắc Ninh.
Từ thời sinh viên và cả khi đã hoạt động tư pháp, Đinh Gia Trinh vẫn dành thì giờ tìm hiểu
văn chương Pháp và tham gia nhĩm trí thức Thanh Nghị. Đinh Gia Trinh vừa là thành viên phụ
trách báo Thanh Nghị vừa trực tiếp viết trên nhiều tiểu mục của tờ báo, bao gồm các lĩnh vực: giáo
dục, sinh hoạt văn hĩa, nghệ thuật… nhưng sở trường vẫn là văn chương. Đối tượng nghiên cứu của
ơng rất phong phú: cĩ khi là một sáng tác, một cuốn nghiên cứu phê bình, cĩ lúc là một thể loại, một
vấn đề hay tình hình văn chương từng năm… Tất cả các bài viết của Đinh Gia Trinh đều thể hiện sự
quan tâm đến quá trình Âu hĩa sinh hoạt văn chương Việt Nam trên tinh thần khẳng định phải học
nhiều ở Tây phương đồng thời phải tơn trọng những tinh túy của văn minh Á Đơng. Những bài viết
này đã được gia đình ơng lựa chọn và tập hợp trong cuốn Hồi vọng của lý trí xuất bản năm 1996.
Năm 1945, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hịa ra đời, Đinh Gia Trinh trở thành Đổng lý
văn phịng Bộ tư pháp, Đại biểu Quốc hội khĩa I. Cơng việc bộn bề đã khiến ơng khơng cịn thời
gian dành cho văn chương.
Đinh Gia Trinh mất ngày 26 tháng 12 năm 1974.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5620.pdf