Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
===========O0O===========
LẠI THỊ THÚY VÂN
ĐÓNG GÓP CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
QUA HAI TIỂU THUYẾT ĐOẠN TUYỆT CỦA NHẤT LINH
VÀ NỬA CHỪNG XUÂN CỦA KHÁI HƯNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Thái Nguyên, năm 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
===========O0O===========
LẠI THỊ THÚY VÂN
ĐÓNG GÓP CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
121 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2616 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Đóng góp của Tự lực văn đoàn qua hai tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh và nửa chừng xuân của Khái Hưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUA HAI TIỂU THUYẾT ĐOẠN TUYỆT CỦA NHẤT LINH
VÀ NỬA CHỪNG XUÂN CỦA KHÁI HƯNG
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGÔ VĂN THƯ
Thái Nguyên, năm 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
Trang
më ®Çu .............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: .....................................................10
3.1. Đối tượng ......................................................................................10
3.2. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................11
4. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................11
5. Đóng góp của luận văn ........................................................................11
6. Cấu trúc luận văn ................................................................................12
NỘI DUNG ......................................................................................................... 13
Chương 1: ĐÓNG GÓP CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN ĐỐI VỚI QUÁ
TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC VIỆT NAM. ............................................ 13
1.1. Cơ sở lịch sử - văn hóa - xã hội cho sự ra đời của Tự lực văn
đoàn ..........................................................................................................13
1.1.1. Những cơ sở lịch sử - văn hóa- xã hội của công cuộc hiện
đại hóa nền văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX. ....................13
1.1.2. Sự ra đời của Tự lực văn đoàn ................................................17
1.2. Tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn ........................................20
1.2.1. Khái niệm tiểu thuyết, tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết luận
đề của Tự lực văn đoàn......................................................................20
1.2.2. Tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh và Khái Hưng ...................24
1.3. Vai trò của Tự lực văn đoàn đối với quá trình hiện đại hóa văn
học dân tộc ...............................................................................................30
1.3.1. Cổ vũ cho phong trào thơ mới ..................................................32
1.3.2. Hiện đại hóa thể loại tiểu thuyết .............................................33
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Chương 2: BƯỚC CHUYỂN TRONG QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ
CON NGƯỜI TRONG TIỂU THUYẾT NHẤT LINH VÀ KHÁI HƯNG ...... 36
2.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Tự lực
văn đoàn ...................................................................................................36
2.1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong nghiên cứu văn
học .....................................................................................................36
2.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Tự lực
văn đoàn ............................................................................................39
2.2. Con người theo mô hình đạo đức lễ giáo phong kiến ......................42
2.2.1. Mâu thuẫn giữa con người cá nhân với đại gia đình phong
kiến ....................................................................................................42
2.2.2. Nhân vật đại diện cho nền luân lý phong kiến cũ ....................46
2.3. Con người theo mô hình phương Tây hiện đại ...............................53
2. 3.1. Nhân vật trí thức Tây học .......................................................53
2.3.2. Nhân vật phụ nữ đấu tranh cho hạnh phúc cá nhân ................60
Chương 3: NHỮNG CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG ĐOẠN TUYỆT
VÀ NỬA CHỪNG XUÂN .................................................................................... 72
3.1. Hiện đại hóa trong cốt truyện và kết cấu ........................................72
3.1.1. Hiện đại hóa trong cốt truyện: .................................................73
3.1.2. Hiện đại hóa trong kết cấu .......................................................78
3.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật ................................................84
3.2.1. Miêu tả tâm lý nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại ......................86
3.2.2. Miêu tả tâm lý qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm: ....................92
3.3. Hiện đại hóa trong ngôn ngữ và giọng điệu ....................................96
3.3.1. Hiện đại hóa trong ngôn ngữ ...................................................96
3.3.2. Hiện đại hóa trong giọng điệu ............................................... 102
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 113
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam chuyển mình với nhiều thay đổi lớn
lao trên mọi phương diện. Hòa chung vào dòng chảy của xã hội, văn học Việt
Nam có điều kiện gặp gỡ, tiếp xúc với nền văn học phương Tây hiện đại nên
đã có những biến chuyển mạnh mẽ. Những ảnh hưởng ấy đã nhanh chóng đưa
văn học tiến gần và tiến nhanh hơn đến “quỹ đạo” của quá trình hiện đại hóa.
Một nền văn học mới ra đời với những quan niệm thẩm mĩ mới đòi hỏi người
nghệ sĩ phải có sự cách tân, để văn học phát triển phù hợp với thời đại. Trước
những yêu cầu trên, nhiều nhóm phái văn học đã ra đời đáp ứng có hiệu quả
nhu cầu của tầng lớp độc giả mới. Trong đó Tự lực văn đoàn đã nhanh chóng
vươn lên chiếm giữ vị trí “chủ soái” trên văn đàn trong suốt những năm 30
của thế kỉ XX: “Tự lực văn đoàn không phải là nhóm duy nhất nhưng là nhóm
quan trọng nhất và nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại” [24, 550
- 551].
Với khoảng 10 năm hoạt động của mình, Tự lực văn đoàn đã có nhiều
đóng góp cho quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam, đặc biệt là ở thể loại
tiểu thuyết. Trong sự tồn tại phát triển của nhóm, chúng ta không thể không
nhắc đến hai cây bút trụ cột Nhất Linh và Khái Hưng. Bằng tài năng nghệ
thuật và sức sáng tạo không mệt mỏi, hai ông đã có những đóng góp quan
trọng cho quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, góp phần
làm rạng danh tên tuổi của nhóm.
Là những cây bút tài năng, tâm huyết với cuộc sống và nghệ thuật,
Nhất Linh, Khái Hưng không chỉ để lại một số lượng tác phẩm tương đối lớn
mà những sáng tác của hai ông có nhiều ảnh hưởng tới tư tưởng của tầng lớp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
thanh niên trí thức Việt Nam những năm 30 và tạo được sự ngưỡng mộ đối
với độc giả yêu mến văn học.
Cả Nhất Linh và Khái Hưng đều sáng tác ở nhiều thể loại, song có lẽ
thành công nhất vẫn là thể loại tiểu thuyết, trước hết là tiểu thuyết luận đề, và sau
đó là tiểu thuyết tâm lý. Những tác phẩm của Tự lực văn đoàn nói chung và của
Nhất Linh, Khái Hưng nói riêng, giờ đây đã quá quen thuộc với độc giả yêu văn
học và giới nghiên cứu phê bình. Vị trí của hai ông ngày càng được khẳng định
vững chắc. Số lượng lớn các bài viết và những công trình nghiên cứu về sự
nghiệp văn chương của hai ông là minh chứng hùng hồn khẳng định điều đó.
Những thành công trong tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh và Khái
Hưng đã góp phần quan trọng dần từng bước tạo ra diện mạo mới cho văn học
Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đoạn tuyệt của Nhất Linh và Nửa chừng xuân của
Khái Hưng là hai cuốn tiểu thuyết luận đề vừa là mở đầu, vừa là có giá trị
nhất, góp tiếng nói tố cáo, phê phán mạnh mẽ những hủ tục lạc hậu và bênh
vực quyền được hưởng hạnh phúc cá nhân của con người. Trong tác phẩm của
mình, hai nhà văn đặc biệt quan tâm tới thân phận đáng thương của người phụ
nữ trong chế độ đại gia đình phong kiến. Hai ông đã xây dựng khá thành công
hình tượng những người con gái có cá tính mạnh mẽ, dám đấu tranh chống lại
nền giáo lý lạc hậu đã tồn tại, ăn sâu vào nếp nghĩ của người dân Việt Nam
hàng ngàn năm qua. Đó là những cô gái tân thời có học hành, được tiếp xúc
với văn minh phương Tây nên thấu hiểu sâu sắc những bất công trong xã hội
mà bản thân họ là những nạn nhân phải gánh chịu. Vì thế khát vọng hạnh
phúc, khát vọng tình yêu ở những người phụ nữ này mạnh mẽ hơn ai hết, và
hành động chống đối lại xã hội ấy là điều hoàn toàn hợp với quy luật khách
quan của tiến bộ xã hội. Tác phẩm của Nhất Linh và Khái Hưng chính là
những tiên báo cho sự phát triển tất yếu của xã hội. Đây chính là đóng góp
của Tự lực văn đoàn đối với tiến trình hiện đại văn học dân tộc. Đến với tiểu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
thuyết của Tự lực văn đoàn, chúng tôi muốn góp một tiếng nói khẳng định vai
trò của văn đoàn này trong lĩnh vực đổi mới trên cả phương diện: nội dung và
nghệ thuật tiểu thuyết.
2. Lịch sử vấn đề
Nói về các hiện tượng văn học, không phải bất cứ nhà văn hay tác phẩm
nào cũng may mắn trở thành đối tượng được giới phê bình quan tâm nghiên cứu.
Ngay từ lúc mới xuất hiện trên văn đàn Việt Nam, Tự lực văn đoàn đã thu hút
được sự chú ý của độc giả yêu văn chương. Trong một khoảng thời gian không
phải dài hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật, Tự lực văn đoàn, nhất là
hai tác giả Nhất Linh và Khái Hưng đã để lại cho nền văn học Việt Nam những
tác phẩm có giá trị trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
Tuy nhiên, đây cũng là hiện tượng gây nhiều tranh cãi trong lịch sử văn
học nước nhà. Công việc nghiên cứu, đánh giá các tác phẩm của Nhất Linh,
Khái Hưng nói riêng và Tự lực văn đoàn nói chung khá phức tạp. Mỗi một
thời kỳ lại có những quan điểm trái ngược nhau. Thậm chí sự bất đồng trong ý
kiến đánh giá còn xảy ra ngay trong một thời kỳ giữa hai miền Nam - Bắc.
Hai cuốn tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh và Nửa chừng xuân của Khái
Hưng là hai cuốn tiểu thuyết đã mang lại tên tuổi cho hai cây bút trụ cột của
nhóm. Song đây cũng là hai cuốn tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi và làm tốn
giấy mực của giới nghiên cứu phê bình nhất.
Chúng tôi tạm chia những ý kiến đánh giá về Tự lực văn đoàn và hai
tác giả trên theo 3 giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất (trước 1945):
Đây là giai đoạn mà Tự lực văn đoàn đang hoạt động và thu hút được
nhiều sự chú ý của độc giả. Trong đó, Nhất Linh và Khái Hưng là những tác
giả tiêu biểu. Đây chính là thời kỳ sáng tác sung mãn nhất của hai cây bút
này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Có nhiều bài phê bình của các tác giả như: Trương Tửu, Mộng Sơn, Vũ
Ngọc Phan, Trần Thanh Mại… được đăng trên các báo: Loa, Sông Hương,
Ngày nay, Thời thế, Hà Nội Tân văn, Phụ nữ Thời đàm… Bên cạnh đó còn
có các công trình nghiên cứu khác đều có mối quan tâm tới tiểu thuyết của
Nhất Linh và Khái Hưng.
Trong bài viết “Dưới mắt tôi”, nhà nghiên cứu Trương Chính đã có
đánh giá khá xác đáng về Đoạn tuyệt, Lạnh lùng của Nhất Linh và Hồn bướm
mơ tiên, Nửa chừng xuân của Khái Hưng. Ông viết: “Đoạn tuyệt là một kiệt
tác trong văn học hiện đại Việt Nam. Vì Đoạn tuyệt không chỉ có giá trị xã
hội. Nó còn có một giá trị tâm lý không ai chối cãi được” [24, 629].
Năm 1941, Dương Quảng Hàm trong cuốn Việt Nam Văn học sử yếu đã
nhận xét các tác phẩm của Nhất Linh và Khái Hưng như sau: “Hầu hết các tác
phẩm của ông (Nhất Linh) là những luận đề tiểu thuyết” [18, 454]. Khi nhận
xét về Khái Hưng, ông viết: “Tuy vẫn có khuynh hướng xã hội nhưng lại
thiên về mặt lý tưởng và có thi vị riêng… Khái Hưng có một cách tả người và
tả cảnh xác thực mà có một vẻ nhẹ nhàng thanh tú khiến cho người đọc thấy
cảm” [18. 455].
Năm 1942, trong cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ ngọc Phan đã nhận ra sự
tiến bộ trong tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng: “Nếu đọc tiểu thuyết
của Nhất Linh từ Nho phong cho tới những tác phẩm gần đây nhất của ông,
người ta thấy tiểu thuyết của ông biến đổi rất mau. Ông viết từ tiểu thuyết ái
tình, tiểu thuyết tình cảm, qua những tiểu thuyết luận đề, tiến đến tiểu thuyết
tâm lý” [55, 324]. Với Khái Hưng, ông nhận xét: “Nhưng dù ở tiểu thuyết lý
tưởng, tiểu thuyết phong tục hay tiểu thuyết tâm lý, cái đặc sắc… là sự xét
nhận rất đúng về tâm hồn nam nữ thanh niên Việt Nam” [ 55, 780].
Tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hưng trong thời kỳ này được đánh
giá cao về mặt nội dung tư tưởng: chống chế độ đại gia đình phong kiến, giải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
phóng cá nhân, giải phóng người phụ nữ thoát khỏi cánh cửa ngục thất của
chế độ đại gia đình phong kiến. Người ta xem Đoạn tuyệt của Nhất Linh như
một thứ “vũ khí” bắn thẳng vào thành trì kiên cố và bảo thủ của xã hội phong
kiến. Trên báo Loa (1935), Trương Tửu nhận xét: “Đoạn tuyệt là một vòng
hoa tráng lệ đặt lên đầu của chủ nghĩa cá nhân. Tác giả đàng hoàng công nhận
sự tiến bộ và hăng hái tin tưởng ở tương lai. Ông giúp cho bạn trẻ vững lòng
phấn đấu nghĩa là vui mà sống”. Trương Chính còn cho rằng: “Đoạn tuyệt
đánh dấu một cách rõ ràng thời kỳ thay đổi tiến hóa của xã hội An Nam. Nó
công bố sự bất hợp thời của một nền luân lý khắc khổ, eo hẹp, đã giết chết
bao nhiêu hy vọng, đè bẹp bao nhiêu lực lượng đáng kể, giam hãm bao nhiêu
chí khí bồng bột đương ao ước sống một đời đầy đủ, một đời mãnh liệt cường
tráng” [23, 293]. Còn “Nửa chừng xuân là cuốn truyện ghi dấu sự phấn đấu
giữa cá nhân và chế độ ấy. Tác giả biện luận cho quan hệ nhân sinh mới và
công bố sự bất hợp thời của những tập quán do nền luân lý cổ truyền tạo ra”
[14, 313].
Nhìn một cách tổng quát, giới phê bình trước 1945 đánh giá cao Tự lực
văn đoàn. Nội dung tư tưởng với chủ đề chống lễ giáo phong kiến và giải
phóng cá nhân được chú ý quan tâm. Tuy nhiên, các công trình này còn rất
chung chung và có phần giản đơn. Đó mới chỉ là những bước gợi mở chứ
chưa đi sâu khám phá những đóng góp về phương diện nghệ thuật.
Giai đoạn thứ 2 (từ 1946 – 1986):
Do hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, nên việc đánh giá một số hiện
tượng văn học trong đó có Tự lực văn đoàn ở giai đoạn này bị tạm gác lại.
Thời kỳ này, người ta nhìn nhận và đánh giá văn học dưới góc nhìn chính trị,
các tiêu chí đánh giá một tác phẩm văn học đều xuất phát từ lập trường và
quan điểm giai cấp. Tác phẩm của Tự lực văn đoàn giai đoạn này bị đánh giá
chưa thỏa đáng, thậm chí còn có phần khắt khe. Tuy nhiên, cũng có những ý
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
kiến khẳng định những đóng góp của Tự lực văn đoàn. Đồng chí Trường
Chinh trong bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam được nêu trong
Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai (1948) vừa nêu những hạn chế của
văn đoàn này nhưng đồng thời cũng đã khẳng định: “Dẫu sao, hoạt động của
nhóm Tự lực văn đoàn đã đẩy mạnh phong trào văn nghệ nước ta tiến tới”.
Có một điểm rất đáng lưu ý là sự khác nhau trong quan điểm và thái độ
đánh giá về Tự Lực văn đoàn ở hai miền Nam - Bắc.
ở miền Bắc, không kể các bài viết, có các công trình nghiên cứu của
nhóm Lê Quý Đôn với Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (1957); Văn học
Việt Nam 1930 – 1945 (1961) của Bạch Năng Thi, Phan Cự Đệ; Sơ thảo văn
học Việt Nam (1964) của Viện Văn học; Tiểu thuyết Việt Nam của Phan Cự
Đệ, tập 1 (1974)… đều nhắc tới Tự lực văn đoàn và tiểu thuyết của Nhất
Linh, Khái Hưng. Nhưng nhìn chung, quan điểm của các công trình này tỏ ra
hết sức khắt khe đối với đóng góp của Tự lực văn đoàn trong tiến trình hiện
đại hóa văn học Việt Nam. Nguyên nhân là do các nhà phê bình đã căn cứ vào
những tiêu chí chính trị của văn học cách mạng và lấy đó làm thước đo các
giá trị cho văn học lãng mạn mà quên mất rằng, văn học lãng mạn có những
đặc trưng riêng của nó. Thêm vào đó các nhà phê bình lại quá coi trọng việc
phản ánh hiện thực trong tác phẩm. Họ cho rằng, văn học là phải phản ánh
được đời sống cực khổ của nhân dân do bị địa chủ, thực dân áp bức bóc lột
mà quên đi đời sống nội tâm với bao dằn vặt, day dứt của thế hệ thanh niên trí
thức cũng là một vấn đề đáng được quan tâm. Chính vì vậy mà Tự lực văn
đoàn bị đánh giá là xa rời thực tiễn.
Có thể nói, những nhận định về Tự lực văn đoàn còn dè dặt, mới chỉ
khen ngợi một chút về nội dung chống phong kiến và phương diện nghệ thuật
“Về phương diện văn học sử, công lao chủ yếu của Nhất Linh và Khái Hưng
là đã có những đóng góp trong việc xây dựng một nền tiểu thuyết hiện đại”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
[10, 87]. Còn chủ yếu là phê phán khá mạnh mẽ các tiểu thuyết của Nhất Linh
và Khái Hưng.
Trái ngược với miền Bắc, ở miền Nam, Tự lực văn đoàn lại được đề
cao, chú trọng quá mức. Nhiều tác phẩm của Tự lực văn đoàn đã được in lại
và phổ biến rộng rãi. Bên cạnh các bài viết đăng trên các tạp chí, còn có các
công trình văn học sử được đưa vào giảng dạy trong nhà trường. Có nhiều
công trình khảo cứu và nghiên cứu về Tự lực văn đoàn như: Khái Hưng,
người thứ nhất muốn làm nguyên soái của văn chương sáng giá của Hồ Hữu
Tường (1964); Nhất Linh, văn tài tiêu biểu của Tự lực văn đoàn của Phạm
Thế Ngũ (1965); Nhất Linh hay khuynh hướng lãng mạn phản kháng của Bùi
Xuân Bào (1972)… Nhiều công trình văn học sử được dùng trong nhà trường
như: Bình giảng về Tự lực văn đoàn (1958) của Nguyễn Văn Xung; Việt Nam
văn học sử giản ước tân biên (1960) của Phạm Thế Ngũ; Tự lực văn đoàn
(1960) của Doãn Quốc Sỹ; Văn học thế hệ 1932 (1972) của Thanh Lãng; Tiểu
thuyết Việt Nam hiện đại (1972) của Bùi Xuân Bào; Lược sử văn học Việt
Nam - Nhà văn tiền chiến (1974) của Thế Phong.
Đặc biệt, sau khi Nhất Linh qua đời, xuất hiện một loạt các bài viết
tưởng nhớ về ông của các tác giả Đặng Tiến, Tường Hùng, Doãn Quốc Sỹ,
Trương Bảo Sơn, Thế Uyên, Nguyễn Văn Trung…
Nhìn chung, các ý kiến đánh giá về Tự lực văn đoàn và hai nhà văn
Nhất Linh, Khái Hưng không có gì mới so với thời kỳ trước 1945. Chẳng hạn
Thế Phong đã khen Khái Hưng: “Đi sâu vào tâm lý với một kỹ thuật viết
trưởng thành”. Hay Nguyễn Văn Xung trong Bình giảng về Tự lực văn đoàn
viết: “Không phải tả cảnh như Khái Hưng nhưng là để móc vào đấy những
biến chuyển trong tình cảm nhân vật” [71, 32]. Một vài ý kiến ghi nhận sự
đóng góp của Nhất Linh, Khái Hưng nhưng còn mờ nhạt. Bên cạnh đó, xu
hướng đề cao vẫn là cơ bản. Như vậy, ở thời kỳ này, các ý kiến vẫn tập trung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
đề cao tiểu thuyết của hai ông. Sự đối cực giữa các ý kiến không làm rõ được
những đóng góp cũng như hạn chế của Tự lực văn đoàn. Đôi khi sự đóng góp
cũng được ghi nhận song còn rất mờ nhạt. Trong khi đó, các giá trị đích thực
của văn chương lại không hề được đề cập tới.
Giai đoạn thứ ba (từ sau 1986):
Công cuộc đổi mới đất nước đã thực sự mở ra một kỷ nguyên mới cho
sự phát triển của văn học nói riêng và văn hóa nghệ thuật nói chung trong
phạm vi cả nước. Với tư duy nghệ thuật đổi mới, các nhà nghệ sĩ đã được “cởi
trói” và thoát khỏi sự nhìn nhận đánh giá nghệ thuật theo quan điểm chính trị.
Những sự “hàm oan” của văn học trong quá khứ đã được các nhà khoa học
nhìn nhận lại một cách khách quan hơn, trả lại cho văn học những giá trị đích
thực mà nó vốn có.
Hầu hết tác phẩm của Nhất Linh và Khái Hưng đã được tái bản, một số
cuốn được tái bản nhiều lần với số lượng lớn. Các hội nghị khoa học được mở
ra nhằm xem xét, đánh giá lại các tác phẩm văn chương của Tự lực văn đoàn.
Tháng 5 năm 1989, Nhà xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp phối
hợp với Đại học Tổng hợp và các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học
danh tiếng như: Tô Hoài; Huy Cận, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Trần Đình
Hượu, Phong Lê … đã tổ chức cuộc Hội thảo văn chương về Tự lực văn đoàn.
Tại đây, các nhà nghiên cứu tập trung khẳng định lại vai trò và những đóng
góp của Tự lực văn đoàn trong tiến trình hiện đại hóa nền văn học nước nhà.
Tiếp sau hội thảo này, xuất hiện hàng loạt các công trình, các bài viết
có giá trị nghiên cứu về văn chương của Tự lực văn đoàn như: Về Tự Lực văn
đoàn (1989) - Nguyễn Hữu Trác, Đái Xuân Ninh; Tự lực văn đoàn, con người
và văn chương (1990) - Phan Cự Đệ; Tự lực văn đoàn nhìn từ góc độ tính
liên tục của lịch sử qua bước ngoặt hiện đại hóa trong lịch sử văn học
phương Đông (1991) - Trần Đình Hượu; Thêm mấy ý kiến về Tự lực văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
đoàn (1991) - Lê Thị Đức Hạnh… Ngoài ra còn một số luận án tiến sĩ nghiên
cứu về Tự lực văn đoàn như: Tiểu thuyết Nhất Linh trước Cách mạng Tháng
Tám (1997) của Vũ Thị Khánh Dần; Quan niệm về con người trong tiểu
thuyết Tự lực văn đoàn (1997) của Lê Thị Dục Tú; Mô hình tiểu thuyết Tự
lực văn đoàn (2003) của Nguyễn Thị Tuyến…
ở các bài viết và những công trình nghiên cứu này, các tác phẩm của
Tự lực văn đoàn nói chung và của hai tác giả Nhất Linh, Khái Hưng nói riêng
đã được ghi nhận và đánh giá công bằng theo những giá trị văn học đích thực.
Giáo sư Phan Cự Đệ trong Tự lực văn đoàn - Con người và văn chương đã
có những đánh giá hết sức công bằng và giàu sức thuyết phục: “So với tiểu
thuyết trước năm 1930, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã đi sâu hơn nhiều vào
thế giới nội tâm phong phú của con người… Ngòi bút của Nhất Linh rất có tài
miêu tả những mối tình đầu trong sáng, đượm chút ngập ngừng, e thẹn, kín
đáo và ý nhị” [9, 370]. Dù vậy, GS cũng chỉ ra những hạn chế: “Tuy nhiên, ở
những tác phẩm thời kỳ cuối Khái Hưng, Nhất Linh không những không đấu
tranh đòi giải phóng cá nhân, mà còn có xu hướng đẩy con người vào chủ
nghĩa duy tâm và định mệnh” [9. 330].
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều công nhận nội dung tiến bộ của tiểu
thuyết Nhất Linh là thể hiện khát vọng giải phóng con người cá nhân, giải
phóng người phụ nữ thoát khỏi những giáo lý khắc nghiệt của xã hội phong
kiến và lên tiếng đòi quyền được hưởng hạnh phúc cho con người. Nhà nghiên
cứu Vu Gia trong cuốn Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học đã viết:
“Đoạn tuyệt là cuốn tiểu thuyết luận đề đầu tiên trong lịch sử văn học Việt
Nam, và là cuốn tiểu thuyết mà Nhất Linh muốn đem đến cho người đọc thời
bấy giờ thấy được tiếng Việt cũng đủ khả năng diễn đạt mọi ngóc ngách tình
cảm của con người, thấy được đâu là cái mới, cái cũ, đâu là tiến bộ văn minh,
đâu là lạc hậu lỗi thời, và để người đọc hôm nay thấy được sự gian truân của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
buổi đầu chống lại chế độ đại gia đình phong kiến” [17, 153]. Giáo sư Hà Minh
Đức trong lời giới thiệu Nửa chừng xuân đã viết: “Nửa chừng xuân là cuộc tiến
công vào lễ giáo phong kiến đã khẳng định quyền tự do hôn nhân của lớp thanh
niên trí thức đang được phát triển về quyền sống và ý thức cá nhân” [25, 10].
Thời kỳ này các nhà nghiên cứu phê bình đã khai thác giá trị văn chương của
Tự lực văn đoàn khá hợp lý với thái độ công bằng và khách quan.
Đã nhiều năm qua đi, việc nghiên cứu và đánh giá về hai tác giả Nhất
Linh, Khái Hưng ngày càng có những khám phá mới mẻ và xác đáng. Tuy
nhiên việc đi sâu vào nghiên cứu hai cuốn tiểu thuyết Đoạn tuyệt và Nửa
chừng xuân trong sự đối sánh với nhau thì lại ít người để ý tới. Đứng trước
thực trạng đó, chúng tôi mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu hai tác phẩm Đoạn
tuyệt và Nửa chừng xuân để chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt trong
tác phẩm của hai nhà văn. Trong luận văn của mình, chúng tôi sẽ cố gắng tìm
hiểu một cách có hệ thống tư tưởng nghệ thuật của Nhất Linh, Khái Hưng
cùng những cách thức xây dựng hệ thống nhân vật của hai nhà văn này và
những đóng góp cho quá trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam giai đoạn
đầu thế kỉ XX. Qua luận văn, chúng tôi mong muốn được góp một tiếng nói
nhỏ bé của mình vào việc khẳng định và tôn vinh những giá trị nghệ thuật mà
Tự lực văn đoàn nói chung và hai tác giả Nhất Linh, Khái Hưng đã đóng góp
cho tiến trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Đối tượng khảo sát chính là hai cuốn tiểu thuyết của Nhất Linh, Khái
Hưng: Đoạn tuyệt và Nửa chừng xuân. Để hiểu rõ hơn về hai tác giả này,
chúng tôi đi vào nghiên cứu thêm một số tiểu thuyết khác nhằm bổ trợ cho
những nhận thức và hiểu biết sâu sắc hơn về quan niệm nghệ thuật của Nhất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Linh, Khái Hưng như: Nho phong, Lạnh lùng, Đôi bạn, Bướm trắng của Nhất
Linh; Hồn bướm mơ tiên, Gia đình, Thoát ly, Thừa tự của Khái Hưng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tập trung nghiên cứu về vấn đề chống lễ giáo phong kiến,
giải phóng cá nhân trong hai cuốn tiểu thuyết Đoạn tuyệt và Nửa chừng xuân.
Đặc biệt chú ý nhấn mạnh tới hai hệ thống nhân vật nữ đối lập nhau. Một bên
là những người con gái tân thời có học, được tiếp xúc với văn minh phương
Tây, đại diện cho cái mới. Một bên là người phụ nữ mang nặng tư tưởng
phong kiến, đại diện cho cái cũ. Chúng tôi đi sâu nghiên cứu tâm lý và hành
động của những nhân vật phụ nữ có quan niệm sống hiện đại trong quá trình
đấu tranh giải phóng cá nhân. Về phương diện nghệ thuật, chúng tôi đặc biệt
quan tâm tới sự hiện đại hóa thể loại tiểu thuyết.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp so sánh đối chiếu
- Phương pháp thống kê phân loại
- Phương pháp văn học sử
5. Đóng góp của luận văn
Viết luận văn này, chúng tôi mong muốn được góp tiếng nói nhỏ bé
vào việc tiếp tục khẳng định và tôn vinh vị trí, vai trò cách tân nghệ thuật của
tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nói chung và của hai tác giả Nhất Linh Khái
Hưng nói riêng đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.
Luận văn đi vào khảo sát cụ thể hai tác phẩm Đoạn tuyệt của Nhất Linh
và Nửa chừng xuân của Khái Hưng để thấy được những cách tân về mặt thể
loại trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Nghiên cứu tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh, Khái Hưng chúng tôi
nhằm chỉ ra sự đóng góp của hai nhà văn trong công cuộc đấu tranh bênh vực
cho cái mới, lên tiếng đòi phá bỏ những cái cũ đã lạc hậu, lỗi thời, đòi quyền
tự do cá nhân cho con người.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được triển khai ở 3 chương:
Chương 1: Đóng góp của Tự lực văn đoàn đối với quá trình hiện đại
hóa văn học Việt Nam.
Chương 2: Bước chuyển trong quan niệm nghệ thuật về con người
trong tiểu thuyết Nhất Linh và Khái Hưng.
Chương 3: Những cách tân nghệ thuật trong Đoạn tuyệt và Nửa
chừng xuân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
NỘI DUNG
Chương 1:
ĐÓNG GÓP CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN ĐỐI VỚI QUÁ
TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC VIỆT NAM.
1.1. Cơ sở lịch sử - văn hóa - xã hội cho sự ra đời của Tự lực văn đoàn
1.1.1. Những cơ sở lịch sử - văn hóa- xã hội của công cuộc hiện đại hóa
nền văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỉ XX.
Cùng với sự đổi thay có tính chất bước ngoặt của dân tộc, văn học Việt
Nam đầu thế kỉ XX cũng có một bước “chuyển mình” mang tầm vóc thế kỉ.
Từ một nền văn học trung đại mang đậm tính chất cổ điển kéo dài trong suốt
hơn mười thế kỷ, đến nay văn học Việt Nam đã nhanh chóng gia nhập vào
tiến trình văn học thế giới. Diện mạo nền văn học nước nhà giờ đây đang dần
thay đổi và vận động theo hướng hiện đại hóa.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Pháp tuy là một nước thắng trận
nhưng vẫn phải gánh chịu nhiều tổn thất kinh tế nặng nề. Để khôi phục lại nền
kinh tế của mình, thực dân Pháp đã tăng cường khai thác thuộc địa. Chúng ra
sức vơ vét, bóc lột tài nguyên thiên nhiên của nước ta. Sau hai cuộc khai thác
thuộc địa và thực hiện những chính sách kinh tế mới, xã hội Việt Nam đã biến
đổi một cách sâu sắc và toàn diện. Từ một mô hình xã hội phong kiến phương
Đông, Việt Nam đã căn bản chuyển sang xã hội thực dân nửa phong kiến.
Giờ đây chính quyền bản xứ nằm trong tay thực dân Pháp, bộ máy cai
trị được tổ chức lại theo hướng hiện đại hơn và chi phối toàn diện mọi mặt đời
sống xã hội. Kết quả của việc đưa ra một loạt các chính sách kinh tế mới là
chế độ nửa phong kiến thuộc địa được hình thành. Xã hội lúc này xuất hiện
nhiều đô thị với các nhà máy, đồn điền mọc lên nhanh chóng. Việc phát triển
kinh tế hàng hóa đã tạo ra một thị trường sôi động chưa từng có ở Việt Nam
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
từ trước tới nay. Cũng chính từ đây trong xã hội đã hình thành nhiều giai cấp,
tầng lớp mới. Nếu như trước đây xã hội Việt Nam chỉ có hai giai cấp chính là
nông dân và địa chủ thì nay có thêm các giai cấp khác như: tư sản, tiểu tư sản,
vô sản… Với những chính sách kinh tế của mình, thực dân Pháp đã phá vỡ
chính sách “bế quan tỏa cảng” của triều đình nhà Nguyễn và đưa Việt Nam
tiếp xúc với bên ngoài, với văn minh nhân loại và nhanh chóng hòa nhập vào
“guồng quay” hiện đại của thế giới.
Từ sự thay đổi về mô hình xã hội đã kéo theo sự biến động trong kết cấu
xã hội Việt Nam. Để nắm vững thuộc địa, thực dân Pháp phải tìm mọi cách để
nắm chắc chính quyền các cấp và kiểm soát được nhân dân. Vì vậy chúng
phải xây dựng một bộ máy cai trị trung thành và một cơ sở xã hội thích hợp
với chế độ của chúng. Nhằm thay thế tầng lớp Nho sĩ, thân sĩ - tầng lớp có cội
nguồn và được tín nhiệm lớn ở nông thôn Việt Nam, Pháp đã mở ra các
trường hậu bổ, trường Pháp – Việt, trường Cao đẳng đào tạo những thế hệ Tây
học để thay thế cho những văn thân xuất thân từ Nho học. Về cơ bản, những
chính sách của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam “chuyển mình”
bước sang xã hội tư sản, một hướng tư sản kém lành mạnh nhất. Nhưng công
bằng mà nói thì chính điều đó lại tạo điều kiện cho các mặt ._.khác phát triển.
Đó là sự thay đổi bộ mặt thành thị, biến nó thành những trung tâm kinh tế
mới; làm mất đi thế lực của nhiều lực lượng bảo thủ, trì trệ; tạo điều kiện cho
cái mới du nhập vào đời sống của người nông dân ở thôn quê, giúp thay đổi
nhận thức lạc hậu của họ.
Xã hội thực dân nửa phong kiến hình thành qua quá trình đấu tranh giữa
ta và địch, giữa sự tranh chấp của cái cũ và cái mới. Tương ứng với các hiện
tượng đó là cuộc cạnh tranh Đông - Tây trong văn học. Đội quân xâm lược đã
tìm mọi cách để du nhập văn hóa Pháp vào Việt Nam nhằm đẩy lùi, chiếm
chỗ, thay thế văn hóa cổ truyền của ta. Sự đổi thay về mặt chính trị - kinh tế -
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
xã hội đã tác động tới cuộc sống tinh thần, tâm lý và cách suy nghĩ của người
dân Việt Nam. Sự thâm nhập của cái mới đã làm thay đổi nhận thức của con
người về xã hội, đồng thời tạo ra những con người mới với quan niệm sống và
cách nhìn khác trước. Trong xã hội xuất hiện những vấn đề mới và đòi hỏi bổ
sung những cách giải quyết mới đem lại những chuyển đổi căn bản trong đề
tài, chủ đề, đó chính là điều kiện cho nhân vật văn học hiện đại xuất hiện thay
thế cho những kiểu nhân vật đã quá quen thuộc trong văn học trung đại.
Mỗi một giai cấp, tầng lớp lại có nhu cầu thưởng thức văn hóa khác nhau.
Trong xã hội Việt Nam, có bao nhiêu giai cấp, tầng lớp thì đòi hỏi phải có bấy
nhiêu “món ăn” tinh thần cần phải đáp ứng. Đây chính là nguyên nhân khiến
cho đời sống văn học của ta ngày càng phát triển phong phú và phức tạp, kéo
theo sự xuất hiện của một lượng công chúng đa dạng. Cũng chính từ đây đã
hình thành nên một đội ngũ những người sáng tác văn chương tương ứng với
tính chất xã hội. Thời kỳ đầu, những nhà văn này là một lớp người có vốn kiến
thức sâu rộng về văn hóa phương Đông nhưng cũng không còn hoàn toàn xa lạ
với văn hóa phương Tây. Về sau, họ là một lớp sáng tác trẻ hơn, hiện đại hơn.
Đó là lớp trí thức trẻ được đào tạo ở các trường hậu bổ, trường Pháp – Việt,
trường cao đẳng. Họ là lớp Tây học đầu tiên ít nhiều có vốn Nho học. Tư tưởng
của họ được đổi mới và đi theo hướng hiện đại. Dần dần đội ngũ này hướng
hẳn về phía Tây học, tìm đến với chủ nghĩa cá nhân và con đường giải phóng cá
nhân trong chủ nghĩa lãng mạn Pháp thế kỉ XIX. Các nhà văn này, với một
phong cách chuyên nghiệp đã nhanh chóng vươn lên trở thành lực lượng sáng
tác chính. Văn chương giờ đây đã trở thành một “nghề” kiếm sống chứ không
đơn thuần viết ra chỉ để thưởng thức, để “tri âm”, để “tải đạo” giáo huấn như
văn chương thời trung đại. Có thể nói văn chương đã thực sự trở thành một thứ
“hàng hóa” trong xã hội. Người viết văn hiện đại do sự thúc bách của công việc
mưu sinh nên sức sáng tạo của những cây bút trở nên dồi dào, phóng khoáng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
Đó là điều kiện tạo nên một cuộc cách mạng trong văn chương. Những nhà văn
chuyên nghiệp – họ là những trí thức hiện đại, được trưởng thành từ nhà trường
Tây học. Vì vậy từ tư tưởng cho đến cách thức, phương pháp sáng tác, quan
niệm của họ đều chịu ảnh hưởng của phương Tây và mang tính chất hiện đại.
Với lượng công chúng độc giả ngày càng đông đảo và đa dạng thì nhu cầu đổi
mới văn học càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Sự thâm nhập của văn hóa
phương Tây đã nhanh chóng tác động mạnh mẽ vào quá trình hình thành và
hiện đại hóa nền văn học nước nhà.
Một nhân tố quan trọng tạo nên bước đột phá trong quá trình hiện đại hóa
văn học thời kì này là sự xuất hiện và “lên ngôi” của chữ Quốc ngữ, nhằm
thay thế cho chữ Hán và chữ Nôm. Điều này tạo cơ hội để mở rộng lượng
công chúng độc giả mới. Rõ ràng chữ Quốc ngữ, kể từ lúc mà cả dân tộc Việt
Nam có ý thức sử dụng, đã đảm nhiệm được một khối lượng công việc rất
lớn, nó vừa có ý nghĩa “phục hưng” các giá trị truyền thống, vừa là tiền đề để
vươn tới các giá trị mới giúp văn học Việt Nam từng bước hội nhập với nhân
loại, với thời đại.
Đặc biệt là báo chí thời kì này rất phát triển, chỉ trong khoảng một thời
gian rất ngắn đã xuất hiện hàng trăm tờ báo lớn nhỏ khác nhau. Sự bùng nổ của
báo chí là phương tiện hữu hiệu nhất đưa văn học đến với công chúng độc giả
mọi tầng lớp một cách nhanh nhất. Có những tờ báo chuyên đăng tải những
sáng tác văn học. Nếu không có sự “trợ giúp’ đắc lực của báo chí thì độc giả
không thể tiếp cận nhanh chóng với các tác phẩm văn học. Sẽ thật là thiếu sót
nếu không kể đến công nghệ in ấn hiện đại đã góp phần thúc đẩy quá trình hiện
đại hóa nền văn học Việt Nam. Nếu như trước đây công việc xuất bản chỉ mang
tính chất là một hoạt động mang tính tiểu thủ công, manh mún, lặt vặt thì nay
xuất bản mang tính công nghệ hiện đại đã cho ra đời các tác phẩm văn học
“tràn ngập” thị trường và đến với công chúng một cách dễ dàng nhất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Khác với văn học trung đại, văn học hiện đại được hình thành và phát
triển trên cơ sở xã hội thuộc địa. Sự xâm nhập của văn minh phương Tây đã
kéo theo những nhu cầu văn hoá có tính thương mại. Văn học giờ đây đã trở
thành một nghề kiếm sống. Lúc này, công chúng văn học đã đông đảo hơn về
mặt số lượng, đa dạng hơn về mặt thành phần. Người sáng tác văn học là tầng
lớp trí thức Tây học đang dần thay thế cho nhà Nho làm chủ văn đàn. Cùng
với sự bùng nổ của công nghệ in ấn và báo chí là những điều kiện để hình
thành một nền văn học mới tuy ban đầu còn rất mỏng manh. Sự chuyển đổi từ
văn học trung đại sang văn học hiện đại ở nước ta diễn ra với nhịp độ nhanh
chóng và gấp gáp. Điều đáng nói nhất là nền văn học của ta được hiện đại hoá
ngay chính trong lòng xã hội thuộc địa. Những cơ sở lịch sử, văn hóa, xã hội
trên đây chính là những tiền đề quan trọng quyết định quá trình hiện đại hóa
của nền văn học Việt Nam.
1.1.2. Sự ra đời của Tự lực văn đoàn
Sự ra đời
Nhắc đến Tự lực văn đoàn, người ta không thể không nhắc tới Nhất Linh,
ông là người sáng lập đồng thời cũng là vị thủ lĩnh lãnh đạo văn đoàn.
Tháng 3 năm 1933, Tự lực văn đoàn chính thức công bố thành lập trên
báo Phong hóa với 7 thành viên chính thức (thất tinh) gồm: Nhất Linh
(Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Dư), Hoàng Đạo (Nguyễn
Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ),
Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Xuân Diệu (Ngô Xuân Diệu). Ngoài 7 thành viên
chính thức, Tự lực văn đoàn đã tập hợp được một đội ngũ cộng tác viên đông
đảo bao gồm các nhà thơ của phong trào Thơ mới như: Huy Cận, Anh Thơ,
Lưu Trọng Lư, Đoàn Phú Tứ, Thanh Tịnh; các nhà văn như: Nguyên Hồng,
Đỗ Đức Thu, Phan Văn Dật, Mạnh Phú Tư, Vi Huyền Đắc…; các họa sĩ nổi
tiếng như: Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Cát Tường…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
Nhóm hoạt động với tư cách độc lập không tuân theo một chỉ thị nào
ngoài đường lối do chính họ vạch ra. Nhờ tinh thần đoàn kết, niềm say mê văn
chương, Tự lực văn đoàn đã gặt hái được nhiều thành công vang dội, hoạt
động của nhóm có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với nền văn học hiện đại Việt
Nam đầu thế kỉ XX.
Mục đích của Tự lực văn đoàn gồm 4 điểm:
1. Tự lực văn đoàn họp những người đồng chí trong văn giới. Người
trong đoàn đến với nhau cốt có liên lạc về tinh thần, cùng nhau theo đuổi một
tôn chỉ, hết sức giúp nhau để đạt được mục đích chung, hết sức che chở nhau
trong những công cuộc văn chương.
2. Người trong đoàn có quyền đề dưới tên mình chữ Tự lực văn đoàn và
bao nhiêu tác phẩm của mình đều được văn đoàn nhận và đặt dấu hiệu.
3. Những sách của người ngoài, hoặc đã xuất bản, hoặc còn là bản thảo
gửi đến để văn đoàn xét, nếu 2/3 người trong đoàn có mặt ở Hội đồng xét là
có giá trị và hợp với tôn chỉ thì sẽ nhận đặt dấu hiệu của đoàn và sẽ tùy sức cổ
động giúp. Tự lực văn đoàn không phải là một hội buôn bán sách.
4. Sau này, nếu có thể được, văn đoàn sẽ đặt giải thưởng gọi là Giải
thưởng Tự lực văn đoàn để thưởng những tác phẩm có giá trị và hợp với tôn
chỉ của văn đoàn.
Tháng 6 năm 1934, tôn chỉ của Tự lực văn đoàn được chính thức công
bố trên Phong hóa gồm 10 điểm:
1. Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không
phiên dịch sách nước ngoài nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương
thôi. Mục đích để làm giàu thêm văn sản trong nước.
2. Soạn hay dịch những sách có tư tưởng xã hội, chú ý làm cho người và
xã hội ngày một hay hơn lên.
3. Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những cuốn sách có tính chất bình dân
và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
4. Dùng một lối văn giản dị dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có tính
cách An Nam.
5. Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ.
6. Ca ngợi những nét hay, vẻ đẹp của nước nhà mà có tính cách bình dân.
Không có tính cách trưởng giả, quý phái.
7. Trọng tự do cá nhân.
8. Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa.
9. Đem phương pháp Thái Tây ứng dụng vào văn chương An Nam.
10. Theo một điều trong 9 điều trên đây cũng được miễn là đừng trái
ngược với những điều khác.
Với mục đích và tôn chỉ đã đề ra, Tự lực văn đoàn đã mở ra một quan
niệm văn chương hết sức tiến bộ, thể hiện khát vọng xây dựng một nền văn
học dân tộc theo xu hướng hiện đại và niềm mong mỏi được đấu tranh cho sự
giải phóng cái tôi cá nhân, giải phóng sự ràng buộc con người khỏi hệ tư
tưởng phong kiến, đồng thời muốn đem lại sự trong sáng cho ngôn ngữ tiếng
Việt và hiện đại hóa các thể loại văn học, nhất là thể loại tiểu thuyết.
Cơ quan ngôn luận của nhóm là hai tờ báo Phong hóa và Ngày nay. Ngay
từ khi mới ra đời, tuần báo Phong hóa đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình
của độc giả: “Tờ báo nổ ra như một trái bom, mang lại cho xã hội Việt Nam
khi đó một món quà người ta chưa hề được thưởng thức: Cái cười” [24, 22].
Phong hóa đã chinh phục độc giả mọi tầng lớp bằng tiếng cười trào phúng
sảng khoái, đả phá những tục lệ cổ, những nhân vật tai to mặt lớn thời bấy giờ.
Đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến việc năm 1935 tờ báo bị đình bản
trong suốt 3 tháng. Đến năm 1936, tờ báo bị đóng cửa và được thay thế bằng
Ngày nay. Trên cơ sở sáp nhập và đổi tên một số nội dung của Phong hóa,
Ngày nay đã hạn chế bớt nội dung trào phúng và đi sâu vào các mặt của đời
sống xã hội. Thông qua Phong hóa và Ngày nay, Tự lực văn đoàn đả kích bọn
địa chủ và quan lại phong kiến, phơi bày và phê phán những hủ tục lạc hậu và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
lố bịch của xã hội phong kiến. Đồng thời lên tiếng ủng hộ, tuyên truyền cho
một đời sống tiến bộ.
1.2. Tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn
1.2.1. Khái niệm tiểu thuyết, tiểu thuyết luận đề và tiểu thuyết luận đề của
Tự lực văn đoàn
Khái niệm tiểu thuyết
Tiểu thuyết xuất hiện sớm ở Châu Âu, vào thời kì cá nhân con người
không còn cảm thấy ích lợi và nguyện vọng của mình gắn liền với cộng đồng
xã hội cổ đại. Nhưng phải tới thế kỉ XIX với sự xuất hiện của những cây bút
“đại thụ” như Xtăngđan, Banzăc, L. Tônxtôi, Đôxtôiepxki… thể loại tiểu
thuyết mới đạt tới sự hoàn thiện.
Nhà nghiên cứu M. Bakhtin cho rằng: tiểu thuyết là loại văn chương
duy nhất luôn luôn biến đổi bởi nó phản ánh được một cách sâu sắc, cơ bản và
nhạy bén hơn sự chuyển biến của bản thân hiện thực. Từ điển thuật ngữ văn
học định nghĩa tiểu thuyết là “Tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh
hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể
phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xã
hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng”
[19, 328]. Đây là một trong những thể loại quan trọng nhất của văn chương
hiện đại “Tiểu thuyết không đơn thuần chỉ là một thể loại trong nhiều thể loại.
Đó là thể loại duy nhất nảy sinh và được nuôi dưỡng bởi thời đại mới của lịch
sử thế giới và vì thế mà thân thuộc sâu sắc với thời đại ấy” [2, 21].
ở Việt Nam, thể loại tiểu thuyết phát triển muộn. Mãi tới đầu thế kỉ
XVIII với sự xuất hiện của Nam Triều công nghiệp diễn chí, Hoàng Lê nhất
thống chí, nước ta mới có tác phẩm có quy mô tiểu thuyết. Tuy nhiên những
tác phẩm này vẫn thuộc loại hình cổ điển phương Đông. Phải sang đầu thế kỉ
XX, tiểu thuyết Việt Nam mới mang tinh thần của thời đại mới, thời đại từ xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
hội phong kiến chuyển sang xã hội thực dân nửa phong kiến. Với sự giao lưu
và tiếp nhận những tinh hoa của nền văn hóa phương Tây, tiểu thuyết Việt
Nam mới thực sự trở thành tiểu thuyết hiện đại.
Tiểu thuyết luận đề
Tiểu thuyết luận đề được hiểu là tiểu thuyết mà cốt truyện và số phận
nhân vật được dùng để chứng minh cho một vấn đề triết học, đạo đức, xã hội
(tức luận đề) có trước.
Cần phải phân biệt tiểu thuyết luận đề với luận đề của tiểu thuyết. Luận
đề của tiểu thuyết chính là chủ đề, là vấn đề: “Triết lý xã hội, đạo đức và các
loại hình tư tưởng khác được đặt ra trong tác phẩm” [1, 46]. Chủ đề được hình
thành từ hiện thực cuộc sống thông qua sự khái quát hóa của nhà văn, chủ đề
toát ra từ ý nghĩa khách quan của tác phẩm.
Với tiểu thuyết luận đề, luận đề là cái có trước. Cốt truyện và nhân vật
được tác giả sử dụng nhằm chứng minh cho luận đề. Nhà nghiên cứu Phạm
Thế Ngũ cho rằng: “Tiểu thuyết luận đề là tiếng để dịch thành ngữ Pháp
Roman à thèse. Luận đề đây là chỉ cái chủ trương, cái quan niệm có hệ thống
của một tác giả về một vấn đề trọng đại của tư tưởng và liên quan đến xã hội
nhân sinh. Nhà văn viết ra một câu chuyện với chủ ý trình bày những nhân
vật, dẫn dắt các tình tiết để đi đến một kết cục, tất cả nhằm bênh vực cái quan
niệm riêng của mình… Người ta nhận ra tiểu thuyết luận đề ở chỗ, tác giả đã
rõ rệt chủ ý bênh vực một quan niệm, để chống lại một quan niệm khác và rõ
rệt uốn nắn câu chuyện, khuôn đúc nhân vật, phục vụ cho chủ ý của mình”
[53, 244].
Đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết luận đề là tính định hướng trong khai
thác nhân vật và cốt truyện. ở đó, người đọc dễ dàng nhận ra sự can thiệp của tác
giả. Nhà văn luôn luôn xây dựng hai tuyến nhân vật đối lập, có mâu thuẫn, xung
đột gay gắt với nhau, trong đó nhân vật chính diện luôn là “phát ngôn viên” cho
tư tưởng của chính tác giả. Nhân vật cũng thường được khai thác ở những bình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
diện có lợi cho luận đề. Kết thúc của Tiểu thuyết luận đề thường là kết thúc có
hậu. Vì thế tiểu thuyết luận đề thường mang màu sắc đạo đức và duy lý.
Tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn
Đầu thế kỉ XX, tầng lớp trí thức Tây học ở nước ta ngày càng phát triển
mạnh mẽ. Họ tiếp nhận và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa phương Tây
hiện đại. Vì thế ý thức cá nhân trong họ trỗi dậy mạnh mẽ, trong khi đó chế độ
gia đình phong kiến vẫn đầy rẫy những tập tục phong kiến lạc hậu. Cuộc đối
đầu giữa hai phe Cũ - Mới ngày càng căng thẳng và quyết liệt, khó có thể
dung hòa. Trước thực trạng trên của xã hội, Tự lực văn đoàn đã nhanh chóng
nắm bắt tình hình và cho ra mắt độc giả nhiều tác phẩm có nội dung chống lễ
giáo phong kiến, đòi giải phóng con người cá nhân. Những tác phẩm ấy ngay
từ khi mới ra đời đã nhận được sự ủng hộ và lòng yêu mến của đại đa số
những người trẻ tuổi đang khát khao được sống cuộc đời tự do, được hưởng
hạnh phúc cá nhân.
Mở đầu cho cuộc chiến chống lễ giáo phong kiến, giải phóng con người
cá nhân là cuốn tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng. Mặc dù luận
đề chống lễ giáo phong kiến chưa được đặt ra trực tiếp ở tiểu thuyết này,
nhưng thông qua những hành động, suy nghĩ của các nhân vật, nhà văn đã
gián tiếp phê phán lễ giáo phong kiến với những tập tục lạc hậu đã kìm hãm
quyền được yêu, được tự do lựa chọn hạnh phúc lứa đôi của tuổi trẻ. Sự đón
nhận nồng nhiệt của độc giả là minh chứng cho luận đề chống lễ giáo phong
kiến, giải phóng con người cá nhân. Tự lực văn đoàn đã nhận được sự ủng hộ
tích cực từ phía bạn đọc nói chung và của tầng lớp thanh niên nói riêng. Đây
chính là nguồn động lực thúc đẩy, cổ vũ nhóm tiếp tục sáng tác các tiểu
thuyết có luận đề chống lễ giáo phong kiến.
Tiếp sau Hồn bướm mơ tiên, các tiểu thuyết: Đoạn tuyệt, Nửa chừng
xuân, Lạnh lùng, Gia đình, Thoát ly, Thừa tự đã trực tiếp tấn công vào thành
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
trì bảo thủ của lễ giáo phong kiến. Các tiểu thuyết này đã phơi bày mặt trái
của nền luân lý bảo thủ - cái mà phái cũ gọi đó là truyền thống, là gia phong
nền nếp. Đó là chế độ đa thê với quan niệm “trai năm thê bảy thiếp, gái chính
chuyên một chồng” trong tiểu thuyết Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt; là mâu
thuẫn muôn đời giữa mẹ chồng với nàng dâu với quan niệm nghiệt ngã “mất
tiền mua mâm bà đâm cho thủng” trong Đoạn tuyệt; là chế độ hôn nhân gả
bán và quan niệm môn đăng hộ đối trong Đoạn tuyệt và Nửa chừng xuân; là
nghĩa vụ tam tòng và bổn phận thủ tiết của người đàn bà theo quan niệm “tại
gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” đã kìm hãm hạnh phúc của
biết bao người phụ nữ trẻ bất hạnh trong Lạnh lùng.
Trong các tiểu thuyết luận đề, Tự lực văn đoàn đã dụng công xây dựng
nên những nhân vật lý tưởng nhằm chứng minh cho luận đề của mình, cho tôn
chỉ, mục đích hoạt động văn chương của nhóm. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn
nhận xét Tự lực văn đoàn là tập hợp những cây bút “thấm nhuần văn hóa
Pháp”. Các sáng tác của văn đoàn này chịu ảnh hưởng của văn hóa phương
Tây mới mẻ, họ là lớp nhà văn tiên phong trong công cuộc đổi mới tư duy
nghệ thuật thời bấy giờ, họ ca ngợi và cổ vũ cho cái mới. Nhanh chóng nắm
bắt và phản ánh được những xung đột giữa mới - cũ trong xã hội, họ đã dùng
văn chương như một thứ vũ khí đấu tranh chống lại các nền nếp, ý thức, tư
tưởng đã lỗi thời. Vì vậy tiểu thuyết luận đề đã nhanh chóng trở thành một
hình thức văn chương có hiệu quả, phù hợp với mục tiêu đấu tranh của Tự lực
văn đoàn. Tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn thường đi theo hai hướng:
Thứ nhất là đấu tranh chống lễ giáo phong kiến và giải phóng con
người cá nhân. Thể hiện những khát vọng về cuộc sống tự do, được hưởng
hạnh phúc cá nhân, được quyền tự do yêu đương. Trong các tác phẩm của Tự
lực văn đoàn, chúng ta nhận ra cái tôi cá nhân mạnh mẽ, luôn khát khao được
sống, được yêu, luôn muốn bứt phá khỏi sự ràng buộc của lễ giáo phong kiến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
với những hủ tục, luật lệ quá khắt khe kìm hãm hạnh phúc cá nhân. Cuộc đấu
tranh quyết liệt giữa hai phe cũ – mới đã diễn ra. Một bên là những thanh niên
trí thức đại diện cho những tư tưởng tiến bộ của thời đại. Một bên là những
nhân vật đại diện cho nền luân lý truyền thống với những quan niệm đã quá cũ
kĩ, lạc hậu luôn khăng khăng giữ lấy quan điểm của mình. Thông qua các tác
phẩm, tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn phê phán mạnh mẽ lễ giáo
phong kiến đã chà đạp lên quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc cá nhân
chính đáng của con người.
Thứ hai là cải cách xã hội: các tiểu thuyết luận đề mang nội dung cải cách
xã hội của Tự lực văn đoàn mang đậm màu sắc cải lương tư sản. Những tiểu
thuyết luận đề theo hướng này gồm: Gia đình của Khái Hưng, Con đường sáng
của Hoàng Đạo. Trong Gia đình, Khái Hưng đã ca ngợi những địa chủ tân học có
tấm lòng nhân ái, quan tâm tới cuộc sống khổ cực của người nông dân. Họ làm
nhà Ánh sáng, đào giếng, mở trường học nhằm khai sáng cuộc sống của người
nông dân. ở tiểu thuyết Con đường sáng, Hoàng Đạo lại vẽ lên bức tranh đẹp đẽ
về một cuộc sống mới của người nông dân: có sân vận động, có thư viện… Địa
chủ và nông dân cùng nhau liên hoan vui vẻ mỗi khi được mùa. Tất cả chỉ là một
hiện thực giả tạo, những viễn cảnh không bao giờ có thật.
Hiện thực được vẽ lên trong tác phẩm qua lăng kính của các nhà văn là
một hiện thực không có thật, mà nó được vẽ lên bởi trí tưởng tượng quá ngây
thơ của các nhà văn. Vì thế mà tiểu thuyết luận đề đi theo hướng này không
thu được thành công. Bởi cốt truyện và nhân vật được xây dựng một cách quá
khiên cưỡng và gượng ép nhằm chứng minh cho luận đề mà nhà văn đã đưa
ra.
1.2.2. Tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh và Khái Hưng
Tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
Tiểu thuyết luận đề thường không mở rộng diện phản ánh mà thường khái
quát từ chiều cao với rất ít sự kiện và nhân vật. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan
đánh giá: lối tiểu thuyết luận đề là lối rất mới ở nước ta. Mà trong thể loại này thì
tiểu thuyết của Nhất Linh là “những tiểu thuyết chiếm địa vị cao hơn cả”.
Bản thân nhà văn Nhất Linh cũng nhận xét: “Viết tiểu thuyết luận
đề nghĩa là viết tiểu thuyết để nêu lên một lý thuyết, để tán dương tuyên
truyền một cái gì đó mà tác giả cho là đẹp, để đả đảo một cái gì mà tác giả
cho là xấu xa” [65, 147].
Các tác phẩm của Nhất Linh bao gồm: tiểu thuyết Nho phong (1926),
Người quay tơ (1927), Đời mưa gió (viết chung với Khái Hưng – 1934),
Gánh hàng hoa (viết chung với Khái Hưng – 1934), Đoạn tuyệt (1935), Lạnh
lùng (1936), Đôi bạn (1937), Bướm trắng (1939). Truyện ngắn: Anh phải
sống (viết chung với Khái Hưng - 1933), Tối tăm (1936)…
Tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh thể hiện được những tư tưởng tiến
bộ của lớp thanh niên trẻ có học thức, được tiếp xúc với văn minh phương Tây
hiện đại. Nhà văn đã xây dựng nên những nhân vật lý tưởng đại diện cho
những tư tưởng mới. Tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh luôn có hai tuyến
nhân vật đối nghịch nhau gay gắt. Một bên đại diện cho những tư tưởng tiến
bộ. Đó thường là những trí thức Tây học được học hành, được tiếp xúc với
nền văn minh phương Tây hiện đại. Họ có ý thức sâu sắc về sự biến chuyển
của thời đại, họ cảm nhận cuộc sống thật ngột ngạt, tù túng trong các ràng
buộc của chế độ đại gia đình và hệ ý thức phong kiến cổ hủ. Vì thế họ khao
khát có được cuộc sống tự do. Những người phụ nữ trong tiểu thuyết luận đề
của Nhất Linh luôn là những người phụ nữ được học hành, có sự hiểu biết. Họ
khát khao một cuộc sống bình đẳng. Loan trong Đoạn tuyệt luôn có ước muốn
“Mình phải tạo ra một hoàn cảnh mới hợp với quan niệm mới của mình”,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
Loan luôn khẳng định rằng “Em có quyền tự lập thân em”. Trong suy nghĩ của
Loan luôn có những ý tưởng đi ngược lại xã hội phong kiến.
Trong tác phẩm của ông thường xuất hiện mâu thuẫn giữa mẹ chồng
với nàng dâu. Nhưng vượt lên trên mối xung đột cá nhân ấy là xung đột mang
tính xã hội rộng lớn. Đó là sự xung đột khốc liệt giữa hai phe cũ – mới, giữa
hai luồng tư tưởng trái ngược nhau của hai thế hệ. Sự xung đột giữa hai lối
sống, hai quan niệm sống. Cha mẹ Dũng trong Đôi bạn muốn chàng trở thành
địa chủ, nhưng chàng không thể chấp nhận cuộc sống ấy. Với Dũng một cuộc
sống nhàn nhã, hưởng thụ dựa trên sự bóc lột người khác là điều chàng không
thể làm được. Với Đoạn tuyệt đó là cuộc đấu tranh cho quyền sống, cho quyền
tự do yêu đương của con người, chống lại gia đình phong kiến với những hủ
tục lạc hậu vùi dập hạnh phúc cá nhân. Vì thế ngay từ khi mới ra đời, tác
phẩm đã được đánh giá là “Một vòng hoa tráng lệ đặt lên đầu chủ nghĩa cá
nhân”.
Tiếp sau đó là sự xuất hiện của Lạnh lùng, tác phẩm là sự tiếp nối mạch
cảm hứng khẳng định quyền được sống, được yêu của người phụ nữ. Nhất
Linh đã miêu tả một cuộc giằng xé dữ dội và quyết liệt trong tâm hồn của
Nhung - một góa phụ trẻ luôn sống trong sự phân vân, giằng xé giữa việc giữ
lấy danh tiếng hay lựa chọn tình yêu đích thực. Không chỉ có Nhung mà cả đại
gia đình phong kiến đều giả dối để bảo vệ “tiếng thơm” của mình. Ngày giỗ
chồng dù không thương nhớ gì nhiều nhưng nàng cũng tỏ vẻ “Cố ý lau qua loa
để mọi người biết nàng mới khóc”. Ngay cả bà Án - mẹ chồng nàng cũng
khóc nhưng bà “khóc chẳng qua vì cái khóc đối với bà rất hay lây chứ không
vì thương con dâu hay vì nhằm ngày dỗ bà nhớ đến con”.
Khi viết Lạnh lùng, Nhất Linh đã nhằm thẳng vào đạo Khổng mà lên
án. Vì cái bảng “Tiết hạnh khả phong”, Nhung không chỉ sống giả dối với mọi
người mà nàng còn giả dối với chính lòng mình. Có lẽ đây là tấn bi kịch lớn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
nhất của cuộc đời nàng. Hạnh phúc ở ngay trong tầm tay mà nàng không đủ
can đảm “hái” lấy trái ngọt của hạnh phúc. Bởi những quy tắc đạo đức theo tư
tưởng Khổng giáo đã trói buộc, đã bóp chết bao ước mơ và quyền được hưởng
hạnh phúc chính đáng của con người nói chung và người phụ nữ nói riêng.
Một người phụ nữ còn trẻ không yêu chồng mà vẫn phải hi sinh tuổi thanh
xuân, hi sinh cả tình yêu hạnh phúc của mình để ở vậy thờ chồng, để giữ tiếng
thơm cho gia đình. Đây là một điều vô lý, trái với lẽ tự nhiên. Nhung chính là
một nạn nhân đáng thương của những luân lý khắt khe của xã hội phong kiến.
Qua tác phẩm, nhà văn đã lên tiếng tố cáo mạnh mẽ chế độ đại gia đình
phong kiến với quyền uy lạnh lùng của cộng đồng đã ràng buộc, thúc ép mọi
cá nhân phải sống theo khuôn phép đã quy định. Một xã hội mà không ai đếm
xỉa và ý thức về cái được gọi là hạnh phúc riêng tư của người phụ nữ. Hạnh
phúc cá nhân là thứ mà người ta không quen nhắc tới nên nó bị coi rẻ, con
người phải sống cam chịu, héo mòn dần theo năm tháng cho tới khi mà “Cùng
với hai hàm răng long, mái tóc bạc, cái phần thưởng quý hóa ấy sẽ đến để kết
liễu đời nàng, đời một người đàn bà góa trẻ, ở vậy thờ chồng, giữ được vẹn
toàn tiếng thơm”. [42, 268]. So với Khái Hưng, tính luận đề trong tiểu thuyết
của Nhất Linh rõ ràng hơn, và sự đấu tranh của các nhân vật trong tác phẩm
của ông cũng mạnh mẽ quyết liệt hơn: “Nhất Linh cho rằng cái khí giới ôn
hòa của Khái Hưng chưa đủ hiệu lực để đánh đổ kẻ thù còn đang mạnh lắm.
Ông chủ trương phải tuyên chiến đánh thẳng vào địch, hạ cho nó nằm xuống
thì mới hòng cứu vãn được” [34, 723].
Tiểu thuyết luận đề của Khái Hưng
Khái Hưng sáng tác ở nhiều thể loại: kịch, truyện ngắn, tiểu thuyết.
Kịch gồm: Tục lụy (1937), Đồng bệnh (1942). Truyện ngắn gồm: Dọc đường
gió bụi (1936), Tiếng suối reo (1937), Đợi chờ (1939), Đội mũ lệch (1941).
Tiểu thuyết gồm: Hồn bướm mơ tiên (1933), Nửa chừng xuân (1934), Gia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
đình (1935), Trống mái (1936), Thoát ly (1936), Thừa tự (1940), Hạnh
(1940), Những ngày vui (1941), Đẹp (1941);
Chống lễ giáo phong kiến, giải phóng con người cá nhân là cảm hứng
chủ đạo và cũng là cảm hứng dồi dào nhất trong suốt chặng đường sáng tạo
nghệ thuật của Khái Hưng.
Với hai cuốn tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên và Nửa chừng xuân, Khái
Hưng đã trở thành người mở đầu cho những tiểu thuyết chống lễ giáo phong
kiến của Tự lực văn đoàn. Nếu như trong Hồn bướm mơ tiên mới chỉ là sự hé
mở về một cuộc chiến chống lại tư tưởng bảo thủ của chế độ đại gia đình
phong kiến thì đến Nửa chừng xuân, ngòi bút của nhà văn đã trực diện tấn
công vào những quy tắc nghiệt ngã mà chế độ đại gia đình đã kìm hãm cuộc
sống hạnh phúc cá nhân của con người. Qua tác phẩm, Khái Hưng đã khẳng
định quyền tự do kết hôn của thế hệ thanh niên tiến bộ có nhận thức mới về
quyền sống cá nhân, về hạnh phúc lứa đôi.
ở các tiểu thuyết tiếp theo: Gia đình, Thoát ly, Thừa tự, Khái Hưng tiếp
tục chĩa mũi nhọn vào thành trì của lễ giáo phong kiến. Mỗi tác phẩm, nhà văn
đi sâu khai thác một khía cạnh, nhưng tất cả đều tập trung thể hiện tinh thần
phản phong quyết liệt, mạnh mẽ. Trong tiểu thuyết Gia đình, tác giả đi vào mô
tả sự rạn nứt của đại gia đình phong kiến do tác động của trào lưu xã hội tiến
bộ. ở Thoát ly, nhà văn đã mô tả rất chân thật và sinh động sự vô nhân đạo của
chế độ đa thê, cảnh mẹ ghẻ áp bức, hành hạ con chồng. Thừa tự lại dựng lên
một bức tranh với những mảng màu đen tối về cuộc sống gia đình quyền thế
toàn những kẻ hám lợi, ghen ghét thù oán lẫn nhau. Vẫn dựa trên mạch cảm
hứng phê phán chế độ đa thê, nhưng ngòi bút của Khái Hưng tập trung vào mối
quan hệ giữa dì ghẻ – con chồng xoay quanh vấn đề thừa tự. Miếng mồi “thừa
tự” được trưng ra gây nên mối bất hòa, sự thù hận giữa những người ruột thịt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
Trong tiểu thuyết luận đề, Khái Hưng không chỉ tấn công vào lễ giáo
phong kiến, đòi giải phóng con người cá nhân, nhà văn còn gửi gắm vào đó
ước mơ cải cách xã hội, mong muốn đem đến cuộc sống mới tốt đẹp hơn cho
người dân quê nghèo khổ. Những nhân vật tân địa chủ trong tiểu thuyết luận
đề của Khái Hưng không chỉ có ý thức về quyền sống cá nhân, có lối sống
mới, mà họ đặc biệt quan tâm đến đời sống của người nông dân. Họ gần gũi,
giúp đỡ những người nghèo khổ, đói rách, ước muốn của họ là cải cách xã hội
và cuộc sống của người dân quê. Ở tiểu thuyết Gia đình, Khái Hưng đã ca
ngợi những địa chủ tân học có tấm lòng nhân ái đã làm nhà Ánh sáng, đào
giếng, mở trường học mang đến một cuộc sống văn minh cho người nông dân.
Tuy nhiên, tiểu thuyết luận đề theo hướng cải cách xã hội của Khái Hưng
mang đậm màu sắc cải lương tư sản, thiên về dung hòa mâu thuẫn giữa nông
dân với địa chủ. Đây chính là điểm hạn chế trong tiểu thuyết luận đề của ông.
Trong tác phẩm của mình, Khái Hưng tập trung thể hiện xung đột giữa
mới và cũ. Lớp thanh niên thấm nhuần tư tưởng hiện đại của phương Tây, họ
coi trọng tự do yêu đương, tự do kết hôn. Trong khi đó, các bậc phụ huynh đại
diện cho gia đình truyền thống thì quan niệm lấy vợ là phải tìm nơi môn đăng
hộ đối để sau này còn nhờ cậy để tiến thân và coi đó như một nấc thang danh
vọng. Trong tiểu thuyết Nửa chừng xuân, Khái Hưng đã đả phá mạnh mẽ
quan niệm môn đăng hộ đối, những tập tục đã không còn hợp thời của chế độ
phong kiến đang từng ngày từng giờ phong tỏa cuộc sống tự do của con
người. Qua đó, ông tố cáo chế độ đại gia đình phong kiến hàng ngàn năm qua
đã đặt quy tắc lên trên tự do, hạnh phúc của con người; đã ._.sừng sững to tát
nguy nga, ngọn núi lù mù lẫn trong ngàn mây xám” [41, 45]. Những bức
tranh thiên nhiên thấm đẫm tâm trạng nhân vật là một trong những nét đặc
trưng của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Nhất Linh và Khái Hưng đã sử dụng
ngôn ngữ trong sáng, hình ảnh sinh động khi miêu tả thiên nhiên. Qua ngòi
bút của hai tác giả, những bức tranh thiên nhiên trong Đoạn tuyệt và Nửa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
101
chừng xuân hiện lên sống động với đầy đủ âm thanh, sắc màu đầy quyến rũ và
hấp dẫn. Không sử dụng những nét chấm phá sơn thủy hữu tình theo kiểu
thiên nhiên trong văn học Trung đại, mà thiên nhiên trong tiểu thuyết Tự lực
văn đoàn vừa nên thơ trữ tình vừa thẫm đẫm cảm xúc chủ quan của nhà văn.
Tất cả những điều đó đã tạo nên sự khác biệt và mới lạ trong ngôn ngữ miêu
tả của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn so với tiểu thuyết truyền thống.
Một khía cạnh nữa cũng hết sức quan trọng trong việc sử dụng ngôn
ngữ miêu tả trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đó là ngôn ngữ miêu tả thế giới
nội tâm, những rung cảm xúc động tinh tế trong tâm hồn nhân vật: “Bỗng
nàng luôn luôn chớp mắt cảm động, nàng nghĩ đến chiếc gương này trước kia
không biết đã bao nhiêu lần in bóng người nàng yêu, mà có lẽ bấy lâu chỉ in
vẻ mặt đau đớn, ưu tư của người đó. Nay người soi gương đã đi xa, thật xa…
và bỏ nàng lại với những ngày dài đằng đẵng của một đời mà nàng chắc là
buồn tẻ, đìu hiu. Nàng chưa từng thấy bao giờ yêu Dũng một cách tha thiết
như lúc đó” [41, 44 – 45]. Thông qua ngôn ngữ miêu tả, tình yêu trong Đoạn
tuyệt và Nửa chừng xuân được thể hiện với nhiều cung bậc khác nhau, khi thì
nhẹ nhàng tinh tế: “Bữa cơm hôm ấy, Mai cố làm thật lịch sự, tuy chỉ có cơm
hẩm và một con cá chép, vừa nấu, vừa rán, bày trong một cái mâm gỗ sơn
son, nhưng mà Lộc cho là xưa nay chưa được ăn bữa cơm nào ngon miệng
bằng” [25, 81], lúc thì hết sức sâu sắc và cảm động: “Rồi một buổi chiều, buổi
chiều ấy Mai còn bao giờ quên được! Đứng bên làn nước biếc in trời. Lộc ngỏ
lời xin lấy Mai làm vợ. Biết bao âu yếm trong đôi cặp mắt nhìn nhau… Mai
nhỏ lụy rồi quay mặt đi… Mai sung sướng quá… Mai không ngờ đâu lại có
ngày hôm ấy trong đời Mai” [25, 83].
Để diễn tả những cung bậc khác nhau trong thế giới tình yêu đầy màu
sắc, Nhất Linh và Khái Hưng đã sử dụng rất nhiều từ láy để mô tả cảm xúc
của nhân vật như: mê man, nồng nàn, sung sướng, êm đềm, dịu dàng, man
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
102
mác, đắm đuối, đằm thắm, nũng nịu, bẽn lẽn, lạnh lùng… Khi diễn tả thế giới
nội tâm phong phú trong tâm hồn nhân vật, hàng loạt các từ láy đã được sử
dụng như: hồi hộp, lo lắng, thấp thỏm… Việc sử dụng nhiều từ láy trong tác
phẩm có tác dụng làm tăng sắc thái biểu cảm, làm câu văn trở nên giàu tính
nhạc, tăng số lượng từ thuần Việt và hạn chế sử dụng các từ Hán Việt:
“Không chỉ làm tăng số lượng từ thuần Việt trong câu văn của tiểu thuyết Tự
lực văn đoàn mà còn làm tăng lên rất nhiều sắc thái biểu cảm của câu văn,
làm cho câu văn của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn không chỉ diễn tả được
những trạng thái phong phú, tế vi nhất của đời sống tâm hồn con người và
làm cho câu văn của Tự lực văn đoàn giàu tính nhạc giàu chất họa và chất
thơ” [63, 200]. Với những đặc điểm trên, ngôn ngữ của tiểu thuyết Tự lực văn
đoàn đã đạt đến sự tinh tế và giàu sắc thái biểu cảm, để lại những ấn tượng
khó quên trong lòng người đọc. Đánh giá về ngôn ngữ trong tiểu thuyết Tự
lực văn đoàn, Giáo sư Phan Cự Đệ đã cho rằng: “Các nhà văn Tự lực văn
đoàn đã xây dựng được một thứ ngôn ngữ giản dị, trong sáng, có khả năng
phản ánh được những tâm lý phức tạp, tinh tế” [10, 95].
3.3.2. Hiện đại hóa trong giọng điệu
Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi người có một giọng điệu riêng mang
đậm dấu ấn cá nhân. Đó có thể là giọng bình tĩnh, nhẹ nhàng hay gắt gỏng thô
lỗ. Giọng điệu trong cuộc sống hàng ngày là sắc thái tình cảm, cảm xúc của
chủ thể phát ngôn được biểu hiện qua lời nói. Giọng điệu của mỗi người được
quy định bởi cá tính, trình độ học vấn của người đó.
Khi đi vào tác phẩm văn chương, giọng điệu nghệ thuật đã trở nên phức
tạp hơn rất nhiều so với giọng điệu ngoài cuộc sống. Các tác giả trong cuốn
Từ điển thuật ngữ văn học đã định nghĩa giọng điệu là: “Thái độ, tình cảm lập
trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể
hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
103
cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm
biếm” [19, 134]. Ngoài ra giọng điệu còn “phản ánh lập trường xã hội, thái độ
tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên
phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc” [19, 134].
Mỗi nhà văn có một giọng điệu riêng, người đọc có thể nhận ra tác giả
là ai khi đọc một tác phẩm văn học. Vì thế, giọng điệu đã trở thành một trong
những tiêu chí quan trọng để nhận diện nhà văn.
Cần chú ý phân biệt giọng điệu trong lời nói với giọng điệu trong văn
học. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thái Hòa trong cuốn Những vấn đề thi pháp
của truyện đã định nghĩa giọng văn là: “cấu trúc bất biến của một nhà văn có
phong cách riêng đánh dấu đặc trưng sử dụng ngôn ngữ, trong đó phản ánh
quan hệ giữa nhà văn với hiện thực cuộc sống, với ngôn ngữ đang dùng và
không phụ thuộc vào thể loại và đối tượng được nói đến” [21, 160].
Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ phản ánh sự sáng tạo của nhà văn,
gắn với cách nói, điệu nói là sắc thái tình cảm của người nghệ sĩ trước những
vấn đề hiện thực được phản ánh. Nó góp phần vào việc định hình phong cách
của nhà văn cũng như giúp cho các hình thức nghệ thuật khác như: ngôn ngữ,
nhịp điệu, kết cấu có sự liên kết chặt chẽ với nhau, tạo nên tính chỉnh thể,
toàn vẹn và thống nhất trong tác phẩm. M. B. Khrapchencô đã khẳng định:
“Đề tài, tư tưởng, hình tượng chỉ được thể hiện trong một môi trường giọng
điệu nhất định, trong phạm vi của một thái độ cảm xúc nhất định đối với đối
tượng sáng tác, đối với những mặt khác nhau của nó” [31, 167].
Trong một tác phẩm, có thể xuất hiện nhiều giọng điệu khác nhau,
nhưng bao giờ cũng nổi lên một chất giọng chủ đạo mà Khrapchecô gọi đó là
hiện tượng “âm chủ”. Bên cạnh giọng chủ đạo, các giọng điệu khác sẽ tạo nên
sự phong phú, tránh sự đơn điệu và hỗ trợ cho giọng chủ đạo. Nói về vấn đề
này, Trần Đăng Suyền trong Chủ nghiã hiện thực Nam Cao đã nhận xét: “Có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
104
giọng điệu chủ yếu và có giọng điệu khác. Giọng điệu chủ yếu tạo thành âm
hưởng chung, bao trùm lên toàn bộ tác phẩm. Nó quyết định nhiều khâu, nhiều
yếu tố trong việc xây dựng tác phẩm, kể cả cách thức phương thức xây dựng
nhân vật” [58, 222 – 223]. Vì vậy, vấn đề đặt ra khi nghiên cứu giọng điệu
trong tác phẩm là phải chỉ ra đâu là giọng điệu chủ đạo trong tác phẩm đó.
Giọng điệu nghệ thuật có mối quan hệ chặt chẽ với cảm hứng sáng tác
của nhà văn. Nếu cảm hứng chủ đạo là cảm hứng ngợi ca thì trong tác phẩm
của mình, nhà văn sẽ sử dụng giọng điệu chủ đạo mang âm hưởng ngợi ca.
Ngược lại, nếu nhà văn có cảm hứng phê phán, giọng điệu châm biếm mỉa
mai sẽ trở thành giọng điệu chủ đạo xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Vì thế, bên
trong cảm hứng, giọng điệu luôn ẩn chứa tình cảm, thái độ của người nghệ sĩ.
Xuất phát từ sự cảm thông sâu sắc với cuộc sống bất hạnh của con
người trong chế độ đại gia đình phong kiến và những quan niệm nghệ thuật
mới mẻ, các nhà tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã thể hiện quan niệm nghệ
thuật mới về con người, mở ra khả năng khám phá con người trên nhiều bình
diện. Các nhà văn đặc biệt quan tâm tới vấn đề giải phóng cái tôi cá nhân khỏi
những ràng buộc của lễ giáo phong kiến, mong muốn con người có cuộc sống
tự do, hạnh phúc, đồng thời lên tiếng tố cáo sự bất hợp thời của xã hội phong
kiến đang chà đạp lên nhân quyền con người. Chính cái nhìn ấy đã chi phối
phần lớn giọng điệu của các nhà văn Tự lực văn đoàn, tạo nên nét đặc sắc
riêng cho giọng điệu trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nói chung và của hai
tác giả Nhất Linh, Khái Hưng nói riêng.
Nếu giọng điệu nghệ thuật chủ đạo của Nam Cao là giọng xót xa
thương cảm trước bi kịch của những kiếp người khốn khổ; giọng điệu nghệ
thuật của Nguyên Hồng là giọng châm biếm, hài hước nhằm phê phán sự giả
dối của xã hội thực dân phong kiến thì ở Nhất Linh, Khái Hưng là sự pha trộn
đan xen giữa nhiều giọng điệu tạo nên sắc thái đa dạng, phong phú. Đó là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
105
giọng điệu tâm sự thể hiện những băn khoăn trăn trở, giọng điệu triết lý suy
ngẫm, giọng điệu mỉa mai châm biếm, giọng điệu trữ tình nhẹ nhàng bay
bổng, giọng điệu lạc quan tin tưởng.
Trong Nửa chừng xuân, người đọc bắt gặp rất nhiều khung cảnh thơ
mộng, đẹp đẽ và êm ái. Các nhân vật trong đó thường là những con người lạc
quan, yêu đời, tin tưởng vào cuộc sống và mang trong mình một tình yêu lý
tưởng mộng mơ. Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm là một giọng văn nhẹ nhàng
bay bổng đầy chất lãng mạn và hấp dẫn người đọc: “Văn Khái Hưng nhẹ
nhàng, bay bướm, giàu hình ảnh và nhạc điệu, phù hợp với nội dung lãng
mạn” [66, 317]. Vì vậy, người đọc dễ dàng nhận ra giọng điệu chủ đạo trong
Nửa chừng xuân là giọng điệu trữ tình nhẹ nhàng mà sâu lắng: “Mai vui chân
rảo bước trên đường, chẳng bao lâu đã đến Bến Cốc. Cô ngồi nghỉ chờ phà
trên bờ sông cao thẳng như bức tường, cúi xuống ngắm nước trong xanh chảy
mạnh khiến cái phà ở bờ bên kia chở sang bị trôi giạt mãi ra xa, và người lái
phải lấy sào đẩy phà lên ngược dòng rất là khó nhọc. Mai ngắm chú lái phà
lấy làm thương hại. Khi sang tới bờ bên kia cô đưa đãi chú những năm xu tiền
đò; cô muốn ai ai cũng sung sướng như cô” [25, 53]. Hay: “Mảnh trăng
thượng tuần như cặp sừng trâu treo lơ lửng trên nóc nhà hàng xóm trông nhợt
nhạt có vẻ lãnh đạm vô tình. Tiếng bà chủ nhà láng giềng the thé tính tiền
công tát nước với bọn điền tốt ở bên cạnh ngọn đèn dầu, ánh sáng lấp loáng
qua khe hàng rào tre khô nhắc người lão bộc nhớ tới cảnh trù phú tấp nập của
nhà cụ Tú mười năm về trước” [25, 57]. Yếu tố tạo nên giọng trữ tình sâu
lắng trong đoạn văn trên là trạng thái tâm hồn nuối tiếc, vấn vương của người
lão bộc về một thời dĩ vãng xa xôi. Những hồi tưởng về một thời quá khứ tươi
đẹp là yếu tố cơ bản tạo nên âm hưởng giọng điệu này. Người đọc thực sự xúc
động mỗi khi được chứng kiến những phút giây Mai thả hồn vào không gian
êm đềm thơ mộng: “Hai bên đường, lá ngô trước gió rung động, lao xao. Cô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
106
cũng thấy người cô rung động. Cái rung động, cái cảm giác của sự sung
sướng hồn nhiên của tuổi thanh xuân chứa chan hi vọng như cái khí lực bồng
bột chứa trong cây, phát ra các búp non trên cành tơ mơn mởn” [25, 52].
Các nhân vật trong Nửa chừng xuân là những con người yêu đời, lạc
quan, nên cái nhìn cuộc sống của họ cũng phản chiếu một sắc hồng tươi mới.
Vì vậy ngoài giọng trữ tình nhẹ nhàng sâu lắng, tác phẩm còn có giọng điệu
lạc quan tin tưởng: “Nhưng em ạ, sao anh không nghĩ tới xã hội đem hết nghị
lực, tài trí ra làm việc cho đời. Rồi thỉnh thoảng hưởng một vài giờ thư nhàn
mà tưởng nhớ tới em, mà yêu dấu cái hình ảnh dịu dàng của em, cái linh hồn
cao thượng của em. Trời ơi! Anh sung sướng quá, anh trông thấy rõ rệt con
đường tương lai sáng sủa của anh rồi. Đời anh từ nay thế nào rồi cũng đổi
khác hẳn” [25, 262]. Hay diễn tả tâm trạng phấn chấn vui sướng của hai tâm
hồn đang sống trong những giây phút hạnh phúc: “Trong lò sưởi ngọn lửa đỏ
tươi vùn vụt bốc lên. Bụi than văng lấm tấm như hoa, tiếng củi cháy lách tách
reo vui. Hạnh phúc như bao bọc âu yếm hai tâm hồn khoáng đạt…” [25, 262].
Trong Đoạn tuyệt, người đọc cũng thường bắt gặp giọng điệu này trong suy
nghĩ của Dũng và Loan: “Có lẽ em còn vất vả nhiều, nhưng em không ngại.
Trong bao lâu em chỉ ao ước sống cái đời tự do rộng rãi, không bó buộc, bây
giờ được như thế này, em hãy vui đã” [41, 177]. Thoát ly khỏi gia đình chồng,
được sống cuộc đời tự do, tự lập là niềm mơ ước bấy lâu của Loan, cô cảm
thấy sung sướng và hạnh phúc vô cùng: “Loan thấy trong lòng vui sướng vì
nàng nhận ra rằng nàng không lầm, sự ao ước bấy lâu sống một cuộc đời
khoáng đạt là sự ao ước đích đáng do sự nhu cầu thiết thực của tâm hồn mà
ra… có sống thế này, nàng mới được nếm cái vui thú của sự làm việc, của sự
phấn đấu, nàng mới nhận thấy cái giá trị của một đời rộng rãi, tự lập” [41,
187]. Đặc biệt, giọng điệu lạc quan tin tưởng thể hiện rõ trong suy nghĩ và
hành động của nhân vật Dũng. Chàng mơ ước một cuộc sống tương lai tốt đẹp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
107
sẽ đến với người dân quê. Chàng ước và chàng tin vào điều đó: “Tôi không
nghĩ như anh, vì tin ở sự tiến bộ. Ta có thể làm cho họ hơn lên được. Có lẽ họ
đã quen với cái khổ lắm nên họ không biết khổ nữa… Ta phải tin rằng sự ao
ước ấy có thể thành sự thực và làm cho dân quê cũng ước mong một cách
thiết tha như ta” [41, 93 – 94]. Những nhân vật trí thức tiến bộ trong Đoạn
tuyệt thường thể hiện những băn khoăn trăn trở về cuộc sống, mong tìm cho
mình một lối thoát giữa xã hội đầy rẫy những tập tục phong kiến lạc hậu.
Thông qua các nhân vật, nhà văn đã bộc lộ những suy nghĩ, cảm nhận về cuộc
đời, về con người và thế giới xung quanh. Vì thế người đọc còn bắt gặp giọng
điệu triết lý, suy ngẫm thể hiện những suy nghĩ tâm sự của nhân vật và cũng
là của chính nhà văn: “Chế độ đại gia đình, không có những sợi dây thân ái tự
nhiên ràng buộc người nọ với người kia, thì đành lấy những dây liên lạc giả
dối mà ràng buộc lấy nhau vậy” [41, 68]. Là một con người có ý thức sâu sắc
về nhân quyền và vị trí của cá nhân trong cuộc sống, Loan cảm thấy đau đớn
xót xa cho kiếp sống chỉ mang tính chất tồn tại của mình, cô nhận ra cuộc
sống của mình thật vô nghĩa và cô thà chết còn hơn phải sống một kiếp “sống
mòn”: “Nếu như phải gặp cái chết chăng nữa, cái chết ấy cũng không đáng
thương bằng chết dần chết mòn” [41, 88]. Nghịch lý thay, Loan nhận ra tấn bi
kịch tinh thần mà cô đang phải chịu đựng lại do chính sự có học, có hiểu biết
của cô gây ra: “Chứ nếu sự học đó chỉ là một tai ách thì thà đừng đi học còn
hơn. Chị nghĩ mà xem em không đi học thì có lẽ em đã không đến nỗi khổ sở”
[41, 90]. Giọng điệu triết lý suy ngẫm giúp người đọc hiểu hơn về cuộc xung
đột giữa hai phe cũ – mới và nhận thức về cuộc sống thêm sâu sắc. Có thể nói
rằng, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn có sự hòa hợp giữa các giọng điệu, và chính
điều đó đã làm nên sức hấp dẫn cho tiểu thuyết của văn đoàn này.
Tự lực văn đoàn đã kế thừa có chọn lọc và sáng tạo, đồng thời tiếp thu
những tinh hoa của tiểu thuyết phương Tây hiện đại, các nhà tiểu thuyết Tự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
108
lực văn đoàn đã thể hiện được tài năng của mình trong quá trình sáng tạo nghệ
thuật. Từ bỏ hệ thống thi pháp văn học Trung đại, đến với hệ thống thi pháp
văn học hiện đại, Tự lực văn đoàn đã mang đến một luồng sinh khí mới cho
tiểu thuyết Việt Nam. Từ cách miêu tả tâm lý nhân vật, cách kết cấu tác phẩm
cho đến ngôn ngữ, giọng điệu đều thể hiện sự đổi mới, cách tân. Nhân vật của
tiểu thuyết Tự lực văn đoàn không còn là những biểu tượng của đạo đức
phong kiến mà là những “nhân vật sống” có chân dung sinh động, đặc biệt, có
đời sống nội tâm phong phú và diễn biến tâm lý phức tạp. Điểm cách tân nổi
bật của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là đã xóa bỏ lối kết cấu chương hồi, tổ
chức tác phẩm theo kết cấu hiện đại: kết cấu theo quy luật tâm lý. Thời gian
nghệ thuật linh hoạt hơn, không theo trình tự thời gian cơ học mà theo dòng
cảm xúc của nhân vật. Không gian nghệ thuật đã mở ra nhiều lĩnh vực của đời
sống. Thiên nhiên được chú ý miêu tả, đặc biệt qua tâm lý nhân vật. Ngôn
ngữ được sử dụng trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn trong sáng, giản dị và
gần gũi với đời thường.
Có thể nói, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là một sự kết hợp hài hòa giữa
truyền thống và hiện đại. Tinh hoa của nền văn học quá khứ, cổ truyền của
dân tộc đã được hòa quyện nhuần nhụy với thành tựu của nền văn học hiện
đại phương Tây tạo nên sắc màu mới cho tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, đáp
ứng được thị hiếu thẩm mĩ của con người thời đại mới. Mặc dù còn những
điểm hạn chế nhất định, nhưng chúng ta không thể phủ nhận những đóng góp
quan trọng của Tự lực văn đoàn vào việc hiện đại hóa văn học Việt Nam.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
109
KẾT LUẬN
1. Sự ra đời của Tự lực văn đoàn đã mở ra một hướng đi mới cho văn
học Việt Nam trong chặng đầu của quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc.
Các tác giả đã có nhiều sáng tạo trong việc kết hợp giữa văn minh phương
Tây hiện đại và chắt lọc những tinh hoa văn học dân tộc để làm nên những
đặc điểm nổi bật cho tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Với những cách tân, đổi
mới trên cả hai phương diện: nội dung và hình thức nghệ thuật, Tự lực văn
đoàn đã đem đến cho tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 một diện
mạo mới, góp phần đưa tiểu thuyết hòa nhập vào quỹ đạo chung của công
cuộc hiện đại hóa văn học nước nhà.
So với hoàn cảnh xã hội thời bấy giờ, Tự lực văn đoàn đã đưa ra những
quan niệm hết sức tiến bộ về nội dung cũng như những thủ pháp nghệ thuật
rất mới mẻ có ý nghĩa khởi đầu cho quá trình hiện đại hóa nền tiểu thuyết Việt
Nam đầu thế kỉ XX. Dù không phải nhóm duy nhất, nhưng là nhóm đầu tiên
và quan trọng nhất đã tham gia vào công cuộc cải cách nền văn học Việt
Nam. Những đóng góp của Tự lực văn đoàn nói chung và của Nhất Linh Khái
Hưng nói riêng cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại là không thể phủ nhận.
2. Tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn nổi bật tư tưởng chống lễ
giáo phong kiến, đòi giải phóng con người cá nhân. Đặc biệt, các tác giả rất
chú trọng vấn đề tự do cá nhân và hạnh phúc riêng tư của người phụ nữ. Tuy
nhiên, vấn đề này mới chỉ được đặt ra đối với những người phụ nữ thuộc tầng
lớp trên, tầng lớp trung lưu tư sản hay tiểu tư sản thành thị. Vấn đề cải cách
xã hội cũng đã được đặt ra trong tiểu thuyết luận đề của Tự lực văn đoàn.
Mục đích của họ khi viết loại tiểu thuyết này là soi rọi luồng ánh sáng văn
minh, mới lạ vào cuộc sống vốn ảm đạm của người dân quê. Vấn đề cải cách
nông thôn cũng đã được các tác giả Tự lực văn đoàn nhìn nhận ra. Đây là một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
110
điểm tiến bộ của văn đoàn so với thời điểm bấy giờ, nhưng tiếc rằng họ lại
giải quyết vấn đề theo tinh thần cải lương tư sản.
Nhất Linh, Khái Hưng đã xây dựng được một hệ thống nhân vật nữ đặc
sắc gồm hai tuyến đối lập nhau. Một bên là những người phụ nữ tân học đại
diện cho hệ tư tưởng tư sản, một bên là những người phụ nữ đại diện cho gia
đình phong kiến với những lề thói cổ hủ, bất hợp thời. Trong cuộc đấu tranh
giữa hai tuyến nhân vật này, các nhà văn luôn đứng về phía những người phụ
nữ có học, có lý tưởng sống, bênh vực và bảo vệ quyền tự do cá nhân, quyền
tự do lựa chọn hạnh phúc của họ. Thông qua hệ thống nhân vật nữ trong hai
tác phẩm Đoạn tuyệt và Nửa chừng xuân, Nhất Linh và Khái Hưng đã đề cập
được một vấn đề có tính chất thời sự mang ý nghĩa xã hội sâu sắc và bước đầu
mở ra hướng đi mới cho những nạn nhân của xã hội phong kiến. Hình tượng
và luận đề trong hai tác phẩm có sự gắn bó kết hợp nhuần nhị nên đã tạo được
sức khái quát cao mà vẫn không đẩy tác phẩm vào tình trạng minh họa một
cách công thức, cứng nhắc.
3. Không chỉ đóng góp về mặt nội dung, ở phương diện nghệ thuật,
Nhất Linh và Khái Hưng đã có nhiều đóng góp cho quá trình hiện đại hóa thể
loại tiểu thuyết. Bằng bút pháp nghệ thuật hiện đại, tiểu thuyết Nhất Linh,
Khái Hưng đã phá vỡ cốt truyện, kết cấu, chủ đề và những mô típ quen thuộc
trong văn học truyền thống. Đặc biệt phải kể tới sự cách tân về mặt ngôn ngữ,
giọng điệu và nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật.
Các nhà văn thường đi sâu vào thế giới cảm giác để miêu tả thế giới nội
tâm nhân vật. Nhân vật của họ có khả năng cảm nhận sự biến chuyển của thời
cuộc, của thế giới xung quanh, có thể cảm nhận và thấu hiểu được tâm tư của
người khác. Đó là một điểm mà trước đó chưa có trong văn học trung đại.
Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm là những dòng hồi ức, những kỉ niệm, chúng
đóng vai trò là tác nhân thúc đẩy sự vận động và phát triển tâm lý của nhân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
111
vật. Nhờ đó người đọc có thể khám phá thế giới nội tâm nhân vật ở tầng rộng
hơn, sâu hơn. Không gian nghệ thuật được mở ra với sự xuất hiện của những
bức tranh thiên nhiên sinh động và chân thực làm nền cho nhân vật bộc lộ tâm
lý, tính cách. Thời gian nghệ thuật được mở ra nhiều chiều, linh hoạt hơn, sắc
nét hơn chứ không đơn thuần theo trình tự thời gian vật lý. Sự xuất hiện thời
gian tâm lý với sự đan xen giữa quá khứ – hiện tại và tương lai đã tạo nên sức
hấp dẫn cho tác phẩm. Điểm nổi bật trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là đã
xóa bỏ lối kết cấu chương hồi, tác phẩm được kết cấu theo quy luật tâm lý,
diễn tiến của cốt truyện diễn ra theo dòng cảm xúc của nhân vật. Những dòng
độc thoại nội tâm trong Đoạn tuyệt và Nửa chừng xuân giúp người đọc thấy
được sự phát triển trong suy nghĩ và tính cách của mỗi nhân vật. Ngôn ngữ
đối thoại cũng đã phần nào được cá thể hóa rõ nét.
Có thể nói thành công mà Tự lực văn đoàn đã thu được trong việc cách
tân thể loại tiểu thuyết đã đưa văn học Việt Nam thoát khỏi hệ thống thi pháp
văn học trung đại, tiến đến hệ thống thi pháp văn học hiện đại, nhanh chóng
bắt kịp với sự phát triển chung của văn học trong khu vực và trên thế giới.
Đây là một sự nỗ lực đáng ghi nhận và cũng là đóng góp rất lớn mà Tự lực
văn đoàn đã đem đến cho văn học Việt Nam.
4. Với đề tài: Đóng góp của Tự lực văn đoàn qua hai tiểu thuyết Đoạn
tuyệt của Nhất Linh và Nửa chừng xuân của Khái Hưng, chúng tôi xin góp
một ý kiến nhỏ bé vào việc ghi nhận những đóng góp của Tự lực văn đoàn nói
chung và của Nhất Linh, Khái Hưng nói riêng cho công cuộc hiện đại hóa văn
học Việt Nam những năm 1930. Việc nghiên cứu tiểu thuyết cùng những
đóng góp của Tự lực văn đoàn là một vấn đề hấp dẫn và lý thú song cũng
không ít những khó khăn và phức tạp. Trong đề tài của chúng tôi, chắc chắn
sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy chúng tôi mong muốn sẽ nhận
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
112
được những lời góp ý chân thành của các thầy cô về những vấn đề đã triển
khai trong luận văn. Xin trân trọng cảm ơn!
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
113
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (2002), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
2. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn
Nguyễn Du – Hà Nội.
3. M. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
4. A. Brech (1965), Sân khấu (tập 2).
5. Trương Chính (1997), Tuyển tập (tập 2), Nxb Văn học, Hà Nội.
6. “Chuyện trò với Hoàng Xuân Hãn”,Tạp chí Sông Hương, Huế, số 37 tháng
4 – 1989.
7. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
8. Vũ Thị Khánh Dần (1997), Tiểu thuyết của Nhất Linh trước Cách mạng
tháng Tám, Luận án phó tiến sĩ, Viện Văn học, Hà Nội.
9. Phan Cự Đệ (2000), Tự lực văn đoàn - con người và văn chương, Tuyển
tập Phan Cự Đệ (tập 1), Nxb Văn học, Hà Nội.
10. Phan Cự Đệ (2001), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, H
11. Nhóm Lê Quý Đôn (1957), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, Tập 3,
Nxb Xây dựng, Hà Nội.
12. Hà Minh Đức (1989), Nhà văn và tác phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội.
13. Hà Minh Đức (chủ biên), (2001), Lý luận văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
14. Hà Minh Đức (2007), Tự lực văn đoàn Trào lưu – tác giả, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
15. Vu Gia (1993), Khái Hưng - nhà tiểu thuyết, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
16. Vu Gia (1994), Thạch Lam – Thân thế và sự nghiệp, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
114
17. Vu Gia (1995), Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học, Nxb Văn
hóa, Hà Nội.
18. Dương Quảng Hàm (1950), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Giáo dục Quốc
gia xuất bản, Hà Nội.
19. Lê Bá Hán (chủ biên) (2004), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
20. Lê Thị Đức Hạnh (1991), “Mấy ý kiến đánh giá về Tự lực văn đoàn”, Tạp
chí văn học (số 3).
21. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
22. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Văn học Việt Nam (từ thế kỉ X đến thế kỉ XX),
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
23. Mai Hương (Tuyển chọn) (2000), Nhất Linh cây bút trụ cột, Nxb Văn hóa
- Thông tin, Hà Nội.
24. Mai Hương (tuyển chọn) (2000), Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học
dân tộc, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
25. Khái Hưng (1992), Nửa chừng xuân, Nxb Đại học và Giáo dục chuyên
nghiệp, Hà Nội.
26. Khái Hưng (1989), Hồn bướm mơ tiên, Văn xuôi lãng mạn Việt Nam
(1930 – 1945), Tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
27. Khái Hưng (1989), Gia đình, Văn xuôi lãng mạn Việt Nam (1930 –
1945), Tập 4, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
28. Khái Hưng (1989), Thừa tự, Văn xuôi lãng mạn Việt Nam (1930 – 1945),
Tập 4, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
29. Khái Hưng (1989), Thoát ly, Văn xuôi lãng mạn Việt Nam (1930 – 1945),
Tập 4, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
115
30. Trần Đình Hượu (1991), “Tự lực văn đoàn nhìn từ góc độ tính liên tục của
lịch sử qua bước ngoặt hiện đại hóa trong lịch sử văn học phương Đông”,
Sông Hương (số 4).
31. M. B. Khrapchencô (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
của văn học (Lê Sơn và Nguyễn Minh dịch), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội
32. M. B. Khrapchenco (1984), Sáng tạo nghệ thuật – hiện thực – con
người, Nguyễn Hải Hà, Lại Nguyên Ân, Duy Lập dịch, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
33. Nguyễn Hoành Khung (1989), Văn xuôi lãng mạn Việt Nam (1930 –
1945), Tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
34. Thạch Lam (1941), Theo giòng, Nxb Đời nay, Hà Nội.
35. Mã Giang Lân (chủ biên) (2000), Quá trình hiện đại hóa văn học Việt
Nam 1900 – 1945, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
36. Phong Lê (1968), “Sống mòn – Tâm sự Nam Cao”, Tạp chí văn học (số 9).
37. Phong Lê (2003), Văn học Việt Nam hiện đại lịch sử và lý luận, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
38. Phong Lê (2009), “Tiếp tục nhìn lại Tự lực văn đoàn”, báo Giáo dục thời
đại, số xuân (157),
39. Phong Lê (2002), “Văn xuôi những năm 20 (thế kỉ XX) phòng chờ cho
bước chuyển giai đoạn sau 1932”, Tạp chí văn học (số 5).
40. Nhất Linh (1972), Viết và đọc tiểu thuyết, Nxb Đời nay.
41. Nhất Linh (1992), Đoạn tuyệt, Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp,
Hà Nội.
42. Nhất Linh (2001), Văn chương Tự lực văn đoàn, Tập 1, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
43. Phương Lựu (1995), Tìm hiểu lí luận văn học phương Tây hiện đại, Nxb
Văn học, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
116
44. G. N. Pôxpêlôp (chủ biên) (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
45. Trương Thanh Mại (1937), “Phê bình Lạnh lùng của Nhất Linh”, Sông
Hương (số 22)
46. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn, tư tưởng và phong cách, Nxb Văn
học, Hà Nội.
47. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
48. Nguyễn Đăng Mạnh (1997), “Quá trình hiện đại hóa của văn học Việt
Nam đầu thế kỉ XX”, Tạp chí văn học (số 5).
49. Vương Trí Nhàn (2000), Những lời bàn về tiểu thuyết trong Văn học Việt
Nam từ đầu thế kỉ XX đến 1945, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
50. Nhiều tác giả (1987), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
51. Nhiều tác giả (1994), Thạch Lam văn chương và cái đẹp, Nxb Hội nhà
văn, Hà Nội.
52. Nhiều tác giả (2005), Văn học Việt Nam 1900 – 1945, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
53. Phạm Thế Ngũ (1965), Văn học sử giản ước tân biên, Quốc Học tùng thư,
Sài Gòn.
54. Nhiều tác giả (1995), Những bậc thầy văn chương thế giới – tư tưởng và
quan niệm, Nxb Văn học, Hà Nội.
55. Vũ Ngọc Phan (1994), Nhà văn hiện đại, Tập 1, Nxb Văn học – Hội
nghiên cứu giảng dạy văn học thành phố HCM.
56. Hoàng Ngọc Phách (1988), Tố Tâm, Nxb Đại học và GDCN, H.
57. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam quan niệm con
người và tiến trình phát triển, Nxb Khoa học – Xã hội, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
117
58. Trần Đăng Suyền (2002), Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, Nxb Khoa học
Xã hội , Hà Nội.
59. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Tác phẩm mới - Hội nhà
văn Việt Nam, Hà Nội.
60. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
61. Trần Đình Sử (2000), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
62. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
63. Lê Thị Dục Tú (1997), Quan niệm về con người trong tiểu thuyết Tự lực
văn đoàn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
64. Hoài Thanh (1982), Đánh giá nhân sinh quan Tiêu sơn tráng sĩ, Tuyển
tập Hoài Thanh (tập 2), Nxb Văn học, Hà Nội.
65. Bùi Việt Thắng (Biên soạn) (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hóa –
Thông tin, Hà Nội.
66. Bạch Năng Thi, Phan Cự Đệ (1991), Văn học Việt Nam 1930 – 1945, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
67. Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên), (1996), Nhìn lại cuộc tranh luận nghệ
thuật 1935 – 1939, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
68. Ngô Văn Thư (2006), Bàn về tiểu thuyết Khái Hưng, Nxb Thế giới, H
69. Phan Trọng Thưởng – Nguyễn Cừ (2001) (tuyển chọn), Văn chương Tự
lực văn đoàn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
70. Trần Thị Việt Trung (2002), Lịch sử phê bình văn học Việt Nam (giai
đoạn từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
71. Nguyễn Văn Xung (1958), Bình giảng về Tự lực văn đoàn, Nxb Tân Việt,
Sài Gòn.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9180.pdf