Đối tượng của hạch toán Kế toán

Lời mở đầu Hạch toán kế toán là một môn khoa học kinh tế phản ánh và giám đốc các mặt hoạt động kinh tế tài chính ở tất cả các doanh nghiệp, tổ chức hành chính sự nghiệp và các cơ quan khác. Hạch toán kế toán là cơ sở quan trọng để đi vào nghiên cứu các chuyên ngành kế toán. Để có thể thành công trong việc nắm vững và vận dụng nó, chúng ta phải nhận biết bản chất, quy luật vận động của các đối tượng hạch toán kế toán. Sự phát triển của xã hội nói chung của nền kinh tế nói riêng làm cho đối tượn

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2674 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Đối tượng của hạch toán Kế toán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g của hạch toán kế toán cũng có sự biến đổi. Với nhận thức trên, tôi đi sâu nghiên cứu và viết đề tài: “Đối tượng của hạch toán kế toán.” Trong bài viết này, tôi xin trình bày lý luận chung và những quan điểm khác nhau về đối tượng chung của hạch toán kế toán qua các thời kỳ khác nhau ở nước ta. Bài viết gồm ba chương: Chương I: Lý luận chung về đối tượng của hạch toán kế toán. Chương II: Đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán. Chương III: Biểu hiện của đối tượng kế toán trong các đơn vị khác. Đây là kết quả của việc nghiên cứu nghiêm túc, kết hợp với những kiến thức thu được từ sự giảng dạy của các thầy cô trường đại học kinh tế quốc dân. Song do quá trình nghiên cứu có nhiều hạn chế nên không tránh khỏi những khiếm khuyết, kính mong các thầy cô đóng góp, giúp đỡ để kiến thức của tôi về môn học ngày càng được hoàn thiện hơn. Xin trân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 16 tháng 9 năm 2003 Chương I Lý luận chung về đối tượng của hạch toán kế toán I. Khái quát về hạch toán kế toán. Sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Con người hình thành và phát triển dẫn đến sự hình thành và phát triển của xã hội. Bằng các hoạt động lao động sản xuất, con người tạo ra được của cải vật chất để duy trì cuộc sống bản thân, gia đình và cộng đồng xã hội. Hoạt động lao động sản xuất của con người là hoạt động tự giác, có ý thức, có mục đích nó được lặp đi lặp lại và không ngừng được đổi mới hình thành nên quá trình tái sản xuất giản đơn và sau đó cùng với sự phát triển của sản xuất là quá trình tái sản xuất mở rộng. Sản xuất phát triển kéo theo sự phát triển của xã hội loài người qua các hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội con người đều phải tiến hành hoạt động lao động sản xuất. Trong khi tiến hành hoạt động lao động sản xuất con người luôn có sự quan tâm đến thời gian lao động đã bỏ ra, kết quả đó đem lại sự tích luỹ kinh nghiệm. Để tiến hành hoạt động lao động sản xuất ngày càng có hiệu quả hơn đem lại kết quả nhiều hơn, hữu ích hơn nhằm đảm bảo nhu cầu ngày càng tăng của cộng đồng xã hội. ý thức và sự quan tâm của con người đối với hoạt động lao động sản xuất hình thành nên hoạt động tổ chức quản lý của con người đối với quá trình tái sản xuất xã hội, trong đó con người đã thực hiện việc quan sát đo lường tính toán và ghi chép kinh tế nói trên nhằm thực hiện chức năng phản ánh và giám sát các hoạt động kinh tế gọi là hạch toán. Vì vậy hạch toán là nhu cầu khách quan của xã hội và là công cụ quan trọng cho quản lý kinh tế. Hạch toán ra đời cùng với quá trình kinh tế với tư cách là do yêu cầu của của sản xuất đòi hỏi phải có sự kiểm tra giám sát về lượng hao phí và kết quả mà quá trình sản xuất tạo ra. Như vậy hạch toán là một hệ thống điều tra quan sát, tính toán, đo lường và ghi chép các quá trình kinh tế nhằm quản lý các quá trình đó ngày một chặt chẽ hơn. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, các hoạt động kinh tế trong quá trình tái sản xuất xã hội, đặc biệt đối với nền sản xuất hàng hoá ngày càng phong phú, đa dạng và phức tạp. Để đáp ứng những thông tin về hoạt động đó một cách chi tiết, cụ thể, hạch toán đã phát triển phân chia thành ba loại khác nhau. (Hạch toán thống kê, hạch toán nghiệp vụ, hạch toán kế toán.) Cả ba loại hạch toán đều nhằm thu thập thông tin, ghi chép và truyền đạt những tin tức tài chính, là những khâu cơ bản trong hệ thống thông tin kinh tế. Mọi thông tin kinh tế trong đơn vị phải dựa trên cơ sở số liệu thống nhất do ba loại hạch toán cung cấp. Trong ba loại hạch toán thì kế toán có vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý xí nghiệp. Vì vậy người ta coi kế toán là quy tắc đâu tiên của quản lý; không có kế toán thì không thể quản lý được kinh tế. Kế toán không phải là công việc giấy tờ, một loại nghiệp vụ đơn giản, mà là một môn học về quản lý rất tinh vi. Hạch toán kế toán ra đời chính là để đáp ứng nhu cầu thông tin về các hoạt động kinh tế tài chính phát sinh trong hoạt động lao động sản xuất của con người. Tất cả các hình thái xã hội đều phải tiến hành hạch toán. Tuy nhiên mỗi chế độ xã hội đều có công thức sản xuất riêng, phương thức sản xuất thay đổi làm cho toàn bộ cơ cấu kinh tế, xã hội và chính trị thay đổi. Bên cạnh đó cùng với sự phát triển sản xuất của xã hội hạch toán cũng không ngừng được phát triển và hoàn thiện về phương pháp cũng như định hướng tổ chức. Trong xã hội có giai cấp, hạch toán bao giờ cũng là công cụ trong tay giai cấp thông trị sử dụng quản lý kinh tế phục vụ trực tiếp quyền lợi của giai cấp đó. Trải qua các quá trình hình thái kinh tế xã hội khác nhau cũng đã có nhiều quan điểm khác nhau về hạch toán kế toán, song có thể đưa ra hai quan điểm cơ bản sau. Các nhà tư bản nhìn nhận hạch toán dưới góc độ công việc, là một hoạt động dịch vụ, là một thứ ngôn ngữ kinh doanh. Tóm lại họ coi kế toán là một phương tiện, công cụ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay hoạt động quản lý các hoạt động kinh tế ấy. Giai cấp tư bản biện luận rằng trong bất cứ chế độ xã hội nào hạch toán cũng giống nhau, có thể nghiên cứu các phương pháp hạch toán độc lập và tách rời phương thức xã hội. Họ muốn chứng minh tính chất bền vững của hạch toán tư bản chủ nghĩa nói riêng và tính chất ổn định của chế độ kinh tế tư bản chủ nghĩa nói chung. Kế toán xã hội chủ nghĩa được coi là một khoa học theo quan điểm này cũng có nhiều khái niệm về kế toán. Song dù hiểu theo cách nào thì kế toán là một khoa học nhất thiết gắn liền với thông tin về tài sản, sự vận động của tài sản và nhằm kiểm tra giám sát tài sản cũng như sự vận động ấy. Sự khác nhau về nhận thức, quan điểm giữa các nước Tư bản chủ nghĩa và các nước Xã hội chủ nghĩa đối với hạch toán kế toán là xuất phát từ sự khác nhau chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất. Vì vậy, trong điều kiện nền kinh tế dựa theo chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, hạch toán cần được hiểu là vấn đề thông tin, về vấn đề kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh tế tài chính trong các tổ chức đơn vị, theo quan điểm này nó thể hiện bản chất hạch toán kế toán ở nước ta hiện nay. II. Đối tượng nghiên cứu của hạch toán kế toán Mỗi môn khoa học có một đối tượng và phương pháp nghiên cứu riêng, khác với hạch toán kế toán tư bản, kế toán xã hội chủ nghĩa nói chung và kế toán nước ta nói riêng có đối tượng và phương pháp cụ thể bởi vì nó là một môn khoa học cụ thể. Nghiên cứu đối tượng của hạch toán kế toán là xác định nội dung mà kế toán phản ánh, giám đốc. Hạch toán kế toán là một môn khoa học kinh tế có đối tượng nghiên cứu là một nội dung của quá trình tái sản xuất xã hội, mà cụ thể đối tượng của hạch toán kế toán là tài sản và sự hình thành, vận động của tài sản trong các đơi vị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình tái sản xuất ở đơn vị nói riêng và quá trình tái sản xuất xã hội nói chung. Mỗi một đơn vị sản xuất kinh doanh hay một cơ quan khi hình thành và bước vào hoạt động thực hiện chức năng nhiệm vụ đã được xác định đều phải sử dụng một lượng tài sản nhất định. Trong quá trình hoạt động thực hiện chức năng của đơn vị, các hoạt động kinh tế tài chính nảy sinh gây ra sự biến động về phạm vi, qui mô của tài sản cũng như sự thay đổi chuyển hoá hình thành của tài sản từ hình thái này sang hình thái khác. Hạch toán kế toán với vai trò rất quan trọng trong hệ thống quản lý kinh tế quốc dân cũng như trong từng đơn vị cần phải nhận biết số tài sản đang sử dụng trong đơn vị, nhận biết được các hoạt động kinh tế tài chính nảy sinh gây nên sự biến động của tài sản. Do vậy hạch toán kế toán cần thiết phải thu nhận sử lý thông tin, cung cấp thông tin về tài sản đơn vị đang sử dụng, về các hoạt động kinh tế tài chính gây nên sự biến động thay đổi tài sản trong đơn vị. Thực hiện phản ánh kiểm tra giám sát số tài sản hiện có và các hoạt động kinh tế tài chính đó, góp phần sử dụng có hiệu quả các tài sản trong đơn vị hơn. Có thể cụ thể hoá đặc điểm đối tượng hạch toán kế toán. Thứ nhất: Hạch toán kế toán nghiên cứu các yếu tố của quá trình tái sản xuất trên góc độ tài sản (tài sản cố định và tài sản lưu động) trong kinh doanh tài sản này được gọi là vốn, nguồn hình thành các tài sản này gọi là nguồn vốn. Nghiên cứu tài sản trong mối liên hệ giữa hai mặt vốn và nguồn vốn là đặc trưng nổi bật của hạch toán kế toán. Thứ hai: Hạch toán kế toán không chỉ nghiên cứu tài sản trong trạng thái tĩnh mà còn phải nghiên cứu cả trong trạng thái động của tài sản trong quá trình sản xuất kinh doanh. Thứ ba: Trong quá trình kinh doanh của đơn vị ngoài các mối quan hệ trực tiếp đến tài sản của đơn vị còn phát sinh cả những mối quan hệ kinh tế pháp lý ngoài vốn của đơn vị như: Sử dụng tài sản thuê ngoài, nhận vật liệu gia công, thực hiện các nghĩa vụ trong các hợp đồng kinh tế, liên kết kinh tế. Những mối quan hệ kinh tế pháp lý này ngày nay đang đặt ra các nhu cầu cấp bách đòi hỏi kế toán phải nghiên cứu giải quyết. Thứ tư: Việc cụ thể hoá đối tượng nghiên cứu của hạch toán kế toán chỉ có thể đạt được khi nắm được cả phạm vi biểu hiện của đối tượng này. Rõ ràng khó có thể thấy được quá trình tái sản xuất với đầy đủ các giai đoạn của nó trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân với hàng loạt những mối quan hệ qua lại của các doanh nghiệp, tổ chức cơ quan. Mặt khác trong phạm vi rộng lớn đó giữa các đơn vị kinh tế với nhau hay với các đơn vị, tổ chức phi kinh tế, các mặt biểu hiện của tài sản khác nhau. Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý toàn bộ nền kinh tế nói chung và của mỗi tổ chức kinh tế nói riêng thì nhiệm vụ của hạch toán kế toán là phải nắm bắt được các mặt biểu hiện này để phản ánh, giám sát các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nói tóm lại hạch toán kế toán có vai trò quan trọng trong công tác quản lý kinh tế, là công cụ không thể thiếu trong hệ thống các công cụ quản lý nền kinh tế quốc dân cũng như trong từng đơn vị. Do đó kế toán cần nhận biêt chính xác đối tượng của hạch toán kế toán thấy được sự biến động và nhân tố gây ra sự biến động đó để từ đó có thể có được những quyết định hợp lý nhằm giúp cho hệ thống hoạt động một cách có hiệu quả tiến tới mục tiêu đã được đề ra. Muốn có được như vậy nhất thiết kế toán phải thực hiện việc thu thập thông tin, xử lý, tổng hợp và cung cấp thông tin về các tài sản đang sử dụng, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh gây ra sự biến động, chuyển hoá tài sản trong đơn vị. Việc xác định đối tượng của hạch toán kế toán một cách chi tiết cụ thể, đúng đắn sẽ giúp cho việc thu nhặt thông tin về số tài sản, kinh phí hiện có, về tình hình kết quả hoạt động của đơn vị một cách chính xác, trung thực, khách quan, kịp thời và toàn diện. Từ đó kiểm tra việc thực hiện sử dụng tài sản, sử dụng kinh phí, việc kiểm tra thực hiện các chỉ tiêu, việc chấp hành chính sách chế độ, đảm bảo hoạt động có hiệu quả, tránh được các tổn thất cho đơn vị và cho xã hội. III. Những quan điểm khác nhau về đối tượng nghiên cứu của hạch toán kế toán Giống như hạch toán kế toán, cũng có nhiều quan điểm khác nhau về đối tượng của hạch toán kế toán. Nhưng nhìn chung có hai quan điểm cơ bản sau: - Quan điểm thứ nhất cho rằng: Đối tượng của kế toán nghiên cứu là tài sản xã hội chủ nghĩa và sự vận động của các tài sản đó, các quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng (không kể tiêu dùng cá nhân), tổng sản phẩm xã hội. - Quan điểm thứ hai lại cho rằng: Đối tượng kế toán được nhìn nhận là tài sản và sự vận động của tài sản trong đơn vị. Thực chất về mặt bản chất, hai quan điểm trên có sự thống nhất về đối tượng mà kế toán phản ánh, chỉ khác nhau về mặt phạm vi biểu hiện của đối tượng ấy. Quan điểm thứ nhất được đưa ra trong điều kiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung bao cấp. Trong chế độ này, do chỉ tồn tại duy nhất loại hình kinh tế Nhà nước, mọi hoạt động đều được sự tài trợ và đảm bảo của nhà nước, tài sản của các đơn vị đều là tài sản chung - tài sản xã hội chủ nghĩa. Khi chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế mới - vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước - Nền kinh tế gồm nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Các đơn vị không phải chỉ có các đơn vị thuộc quốc doanh mà còn có cả các đơn vị ngoài quốc doanh. Mọi hoạt động kinh tế tài chính trong đơn vị hoạt động theo nguyên tắc tự chủ trong phạm vi chính sách chế độ thể lệ về kinh tế, tài chính của nhà nước. Tài chính mỗi đơn vị này không chỉ duy nhất thuộc quyền sở hữu của nhà nước mà còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác tham gia trong nền kinh tế. Với vai trò của mình, hạch toán kế toán phải phản ánh được tất cả các tài sản, sự vận động của tài sản ấy. Như vậy là ở đây đối tượng của hạch toán kế toán được biểu hiện ở phạm vi rộng hơn, đầy đủ hơn. Đó là “tài sản và sự vận động của tài sản nói chung trong hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị”. Tuy nhiên trên đây mới chỉ là những nhận thức khái quát về đối tượng của hạch toán kế toán. Để có thể hiểu được đầy đủ, rõ ràng đối tượng của kế toán chúng ta cần phải đi sâu vào nghiên cứu đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán trong các đơn vị mà tiêu biểu là đơn vị sản xuất - một đơn vị kinh tế cơ sở của nền kinh tế quốc doanh sử dụng tài sản và có các hoạt động kinh tế tài chính đa dạng, phong phú. Nghiên cứu đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán trong đơn vị sản xuất và với phương pháp luận khoa học giúp ta có khả năng nghiên cứu, nhận biết được đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán trong các đơn vị khác. Chương II Đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán Trong thực tế, quá trình tái sản xuất được thực hiện trước hết và chủ yếu ở các đơn vị cơ sở của nền kinh tế: Các doanh nghiệp, các công ty, hợp tác xã tư nhân. . . các đơn vị này là những tế bào của nền kinh tế luôn có sự vận động không ngừng. Trong cơ chế quản lý, các đơn vị này có tính độc lập tương đối về nghiệp vụ kinh doanh cũng như công tác quản lý, tự bù đắp chi phí và tối đa hoá doanh thu. Để nghiên cứu về đối tượng của hạch toán kế toán trong doanh nghiệp, trong các đơn vị nói chung trước hết là tìm hiểu nó trong đơn vị sản xuất - một đơn vị kinh tế cơ sở của nền kinh tế quốc dân sử dụng tài sản và có hoạt động kinh tế tài chính đa dạng, phong phú. Khái niệm về đơn vị sản xuất kinh doanh là đơn vị cơ sở của nền kinh tế quốc dân với chức năng sản xuất ra các sản phẩm vật chất hữu ích để đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống xã hội. Để có thể thực hiện chức năng sản xuất ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của xã hội, đơn vị sản xuất cần thiết phải có một số lượng tài sản nhất định như: máy móc, thiết bị sản xuất, các phương tiện kỹ thuật, các loại nguyên, nhiên vật liệu. . . trong điều kiện nền kinh tế sản xuất hàng hoá, các loại tài sản trong đơn vị đều được đo lường bằng thước đo tiền tệ bên cạnh thước đo hiện vật. Biểu hiện bằng tiền của các tài sản trong đơn vị sản xuất được gọi là vốn kinh doanh của đơn vị. Tài sản trong đơn vị sản xuất có nhiều loại khác nhau, được hình thành từ các nguồn khác nhau, do vậy vốn kinh doanh trong đơn vị sản xuất cũng có nhiều loại khác nhau và cũng được hình thành từ các nguồn khác nhau. Như vậy các loại vốn kinh doanh và các nguồn vốn kinh doanh là hai mặt biểu hiện của cùng một lực lượng tài sản - một lượng vốn kinh doanh trong đơn vị sản xuất là đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán trong quá trình sản xuất. Để sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn vốn kinh doanh, khai thác, huy động triệt để các nguồn vốn kinh doanh cần phải nhận biết đầy đủ các loại vốn kinh doanh (xem trong doanh nghiệp có những loại vốn cụ thể gì), các nguồn vốn kinh doanh trong đơn vị (nguồn hình thành các loại vốn mà doanh nghiệp đang sử dụng), cũng có nghĩa là cần việc nghiên cứu, phân loại vốn kinh doanh trong đơn vị theo kết cấu vốn kinh doanh và theo nguồn hình thành vốn kinh doanh. I. Phân loại vốn kinh doanh theo kết cấu Trong đơn vị sản xuất, vốn kinh doanh được phân loại theo kết cấu gồm: vốn lưu động và vốn cố định. 1. Vốn lưu động Vốn lưu động được biểu hiện bằng tiền (giá trị) của tài sản lưu động. Đặc điểm của vốn lưu động là thời gian luân chuyển ngắn, thường là trong vòng một chu kỳ kinh doanh hay trong vòng một năm. Trong đơn vị sản xuất, vốn lưu động bao gồm: các loại tiền, chứng khoán ngắn hạn, tài sản trong thanh toán, tài sản dự trữ trong sản xuất kinh doanh, do đó vốn kinh doanh trong đơn vị sản xuất cũng chia thành các loại vốn tương ứng: vốn bằng tiền và các khoản đầu tư ngắn hạn, vốn trong thanh toán, vốn dự trữ sản xuất kinh doanh. Chúng ta hãy lần lượt xem xét từng loại vốn dưới đây. - Vốn bằng tiền và các khoản đầu tư ngắn hạn: là trị giá của các loại tiền như tiền mặt ở quỹ (bao gồm cả tiền Việt Nam và ngoại tệ), tiền gửi ở ngân hàng kho bạc, ở công ty tài chính vàng bạc, kim khí đá quý ở quỹ hay gửi ở ngân hàng, ở kho bạc, ở công ty tài chính; trị giá các loại chứng khoán ngắn hạn, các khoản góp vốn liên doanh ngắn hạn và cho vay ngắn hạn. Thông thường các khoản đầu tư chứng khoán hay cho vay ngắn hạn có thể bán đi, nói một cách khác là chuyển đổi thành tiền trong vòng một năm. - Vốn trong thanh toán là trị giá tài sản của đơn vị đang nằm trong quá trình thanh toán như các khoản phải thu của khách hàng, khoản tạm ứng cho nhân viên, khoản phải thu khác. Đó là những tài sản của doanh nghiệp nhưng do quan hệ thanh toán những khoản vốn đó vẫn do cá nhân hay các đơn vị khác sử dụng chưa trả cho doanh nghiệp. - Vốn dự trữ sản xuất kinh doanh là trị giá tài sản của đơn vị đang trong quá trình dự trữ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục, không gián đoạn như: các loại nguyên vật liệu, công cụ dự trữ trong kho chuẩn bị đưa vào sản xuất, các loại sản phẩm chế biến dở dang trên dây chuyền sản xuất, các loại sản phẩm trong kho chuẩn bị bán ra. . . 2. Vốn cố định Vốn cố định là biểu hiện bằng tiền (giá trị của tài sản cố định và các khoản đầu tư dài hạn). Tài sản cố định là những tài sản có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài. Theo quy định của nước ta hiện nay, những tài sản có trị giá 5 triệu đồng trở lên và thời gian sử dụng trên 1 năm trở lên được coi là tài sản cố định của đơn vị. Tài sản cố định trong đơn vị là các cơ sở vật chất kỹ thuật và điều kiện quan trọng đảm bảo cho đơn vị thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Tính chất chung của tài sản cố định là có thể tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất trong quá trình sản xuất, nó hao mòn dần và chuyển từng phần hao mòn đó vào giá trị của sản phẩm mới sản xuất ra, nhưng hình thái bên ngoài và thuộc tính của nó vẫn giữ nguyên sau mỗi chu kỳ sản xuất. Hiện nay tài sản cố định trong đơn vị sản xuất bao gồm: - Tài sản cố định hữu hình: là những tài sản có hình thái vật chất, có đủ tiêu chuẩn của tài sản cố định về giá trị và thời gian sử dụng theo quy định trong chế độ quản lý tài chính hiện hành như: Nhà cửa, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, phương tiện truyền dẫy. . . Tài sản cố định có thể do đơn vị tự mua sắm, xây dựng hoặc đi thuê dài hạn. - Tài sản cố định vô hình: Là những tài sản cố định không có hình thức biểu hiện dưới hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị doanh nghiệp đã đầu tư hoặc đã tham gia vào hoạt động liên doanh của doanh nghiệp, nó đại diện cho một quyền hợp pháp của người chủ sở hữu nó được quyền hưởng những quyền lợi kinh tế mà nó đem lại như: chi phí thành lập doanh nghiệp, bằng sáng chế, bản quyền tác giả, chi phí nghiên cứu phát triển, chi phí về lợi thế thương mại, độc quyền nhãn hiệu. . .Tài sản này có thể do doanh nghiệp tự đầu tư xây dựng hoặc do doanh nghiệp thuê dài hạn mà có. - Tài sản cố định thuê tài chính: Là giá trị các khoản đầu tư dài hạn với mục đích kiếm lợi như: đầu tư góp vốn liên doanh dài hạn, chứng khoán dài hạn, cho thuê tài sản cố định dài hạn, cho vay vốn dài hạn hay đầu tư kinh doanh bất động sản. . . Trên đây là cách phân loại vốn kinh doanh theo kết cấu được áp dụng từ năm 1995 trở lại đây (xem bảng tóm tắt số 2). Trước năm 1995, việc phân loại vốn kinh doanh cũng có tất cả các nội dung của phân loại hiện nay, chỉ khác nhau về sự sắp xếp trật tự hai loại vốn (xem bảng số 1). Trước kia, các doanh nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào nhà nước, khi mà chế độ kế hoạch hoá tập trung bao cấp đã từng tồn tại trong một thời gian dài ở nước ta. Nhà nước cung cấp vốn sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp vừa chịu trách nhiệm phân phối sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra, vấn đề cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hoàn toàn không được đề cao. Do vậy vốn cố định luôn chiếm một tỷ trọng lớn và yêu cầu quản lý loại vốn này luôn được đặt lên hàng đầu. Việc phân loại vốn cố định chỉ gồm có tài sản cố định hữu hình là do trong cơ chế cũ, tài sản chủ yếu của đơn vị là chỉ là tài sản cố định hữu hình như máy móc thiết bị, dụng cụ lao động. . . Tài sản cố định vô hình cũng như tài sản cố định thuê tài chính chưa được đầu tư cũng như chưa được quan tâm đúng mức. Thực tế trong cơ chế cũ hai loại tài sản cố định này không có điều kiện tồn tại và phát triển. Vốn lưu động trong doanh nghiệp ở chế độ cũ chiếm tỷ trọng nhỏ được quản lý theo định mức, các định mức sử dụng loại vốn này đều do Nhà nước quy định sẵn tuy theo mục đích chỉ đạo của Nhà nước. Chính vì vậy vốn này còn có tên gọi là vốn lưu động định mức. Mặt khác vốn lưu động này được sắp xếp theo trật tự: vốn dự trữ, vốn sản xuất, vốn thành phẩm, vốn bằng tiền và vốn thanh toán. Sắp xếp như vậy là hoàn toàn hợp lý với cơ chế quản lý cũ cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội bấy giờ. Thời đó doanh nghiệp sản xuất trên cơ sở cái mà mình có, vậy nên vốn dự trữ là cái doanh nghiệp có trước trong hoạt động sản xuất. Việc sản xuất sản phẩm theo định mức Nhà nước yêu cầu theo nguồn vốn dự trữ đã có. Tiếp đó đến vốn thành phẩm bởi sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất và sẽ phân phối theo sự chỉ đạo của Nhà nước. Vốn bằng tiền phục vụ cho các hoạt động của doanh nghiệp không cần nhiều vì điều kiện trao đổi còn hạn chế. Vốn trong thanh toán chưa được quan tâm trong hoạt động của doanh nghiệp bởi trong quan hệ thanh toán này luôn có sự can thiệp tài trợ của Nhà nước. Sự thiếu hụt vốn bằng tiền hay thiếu vốn hoạt động do ứ đọng trong sản xuất hay trong thanh toán đều được nhà nước tài trợ hay cấp thêm vốn để doanh nghiệp tiếp tục hoạt động. Chính vì vậy doanh nghiệp trong cơ chế cũ không phát huy được tính năng động, tự chủ sáng tạo. Suốt một thời gian dài doanh nghiệp ở thế bị động, thậm chí có tư tưởng trông chờ vào sự can thiệp giúp đỡ của Nhà nước. * Trước năm 1995 -Nhà cửa - Vật kiến trúc - Máy móc thiết bị - Phương tiện VT TSCĐ Bảng số 1: Tài sản của đơn vị sản xuất kinh doanh theo kết cấu vốn kinh doanh - Thanh toán với người mua... Vốn trong thanh toán - Nguyên liệu - Vật liệu - Công cụ lao động thô sơ - Nửa thành phẩm tự chế - Sản phẩm dở dang - Thành phẩm - Tiền mặt - Tiền gửi ngân hàng Vốn bằng tiền Vốn thành phẩm Vốn sản xuất Vốn dự trữ Vốn lưu động Vốn cố định Sau năm 1995 Bảng số 2 - Chứng khoán dài hạn - Góp vốn liên doanh dài hạn - Đầu tư kinh doanh dài hạn - TSCĐ hữu hình - TSCĐ vô hình - TSCĐ thuê tài chính Vốn cố định - Tiền mặt ở quỹ - Tiền gửi NH, kho bạc -Chứng khoán ngắn hạn - Góp vốn liên doanh ngắn hạn Vốn bằng tiền và đầu tư ngắn hạn Tài sản cố định Đầu tư dài hạn Vốn lưu động - NVL - Công cụ dụng cụ - Sản phẩm chế dở - Thành phẩm - Khoản phải thu của khách hàng - Tạm ứng cho CNV - Khoản phải thu khác Vốn dự trữ sản xuất kinh doanh Vốn trong thanh toán Vốn kinh doanh Khi chuyển sang cơ chế thị trường, vấn đề cạnh tranh được đặt lên hàng đầu. Doanh nghiệp muốn khẳng định mình thì phải có một vị thế vững vàng trên thị trường, muốn vậy doanh nghiệp phải có tính tự chủ cao để có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú đa dạng về chủng loại mẫu mã hàng hoá, doanh nghiệp phải đảm bảo đáp ứng được một lượng vốn đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra một cách thường xuyên liên tục và có hiệu quả theo đúng yêu cầu của sản xuất. Như vậy vốn này phải có khả năng thanh toán cao, dễ chuyển đổi. Cơ cấu vốn trong doanh nghiệp mà có nền tảng là tài sản cố định không thể đáp ứng được yêu cầu này, thậm trí còn có thể dẫn đến kìm hãm, trì trệ hoạt động của doanh nghiệp. Chỉ có vốn lưu động mới giải quyết được vấn đề đó, mặt khác vốn lưu động lại dễ mất mát vì thế vốn lưu động trong doanh nghiệp được nâng lên, yêu cầu đặt ra của việc quản lý của loại vốn này đòi hỏi phải tăng cường tránh mất mát, thất thoát. Ngày nay nhìn vào hoạt động của một doanh nghiệp có hiệu quả hay không người ta chỉ xem xét qui mô và giá trị của tài sản cố định, điều quan tâm hơn cả của vốn lưu động doanh nghiệp lớn hay nhỏ. Trong vốn lưu động, vốn bằng tiền là vốn có khả năng thanh toán, khả năng chuyển đổi nhanh nhất đáp ứng nhu cầu kịp thời thanh toán giao dịch phát sinh trong hoạt động của doanh nghiệp vì thế nó được xem xét đến trước tiên. Vốn trong thanh toán có khả năng thanh toán bằng các loại vốn bằng tiền song lại cao hơn so với vốn dự trữ trong sản xuất kinh doanh. Trong hoạt động tự chủ, tự hạch toán, vốn trong thanh toán đóng vai trò quan trọng trong việc quay vòng vốn của doanh nghiệp, vốn trong thanh toán bị ứ đọng nhiều thì sẽ làm giảm tốc độ chu chuyển vốn sản xuất kinh doanh, giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị. Ngược lại vốn trong thanh toán chuyển hoá thành tiền càng nhanh thì sẽ làm tăng tính hiệu quả của việc sử dụng vốn kinh doanh. Với vị trí quan trọng như vậy nên vốn trong thanh toán đòi hỏi phải được quan tâm để đưa ra những quyết định thích hợp chuyển hoá vốn này thành tiền, đảm bảo tốt nhất, đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường vốn dự trữ sản xuất kinh doanh chiếm một tỉ trọng nhỏ vì nó luôn được chuyển hoá nhanh chóng sang một biểu hiện khác của vốn lưu động, mặt khác các sản phẩm dự trữ cho hoạt động của đơn vị có thể đáp ứng đầy đủ, kịp thời với điều kiện có vốn bằng tiền, do đó vốn dự trữ trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không còn vị thế như thời kỳ trước nữa. Sắp xếp thứ tự như trên là muốn nhấn mạnh sự quan trọng trong hoạt động thanh toán, chi trả của doanh nghiệp. Hoạt động này quyết định tốc độ vòng quay của vốn. Trong nền kinh tế thị trường tốc độ vòng quay của vốn nhanh hay chậm ảnh hưởng nhiều đến toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Vốn cố định giờ không còn là nhân tố chủ yếu trong kết cấu vốn kinh doanh, song việc phân vốn cố định theo ba loại như ở trên là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp. Nó phản ánh một cách toàn diện, cụ thể hơn các biểu hiện cụ thể của tài sản cố định trong nền kinh tế thị trường. Trong một đơn vị sản xuất, tuỳ theo các giai đoạn hoạt động khác nhau mà kết cấu của các loại vốn cụ thể như đã nêu là một sự thay đổi phù hợp tương ứng. Ví dụ như trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn dự trữ trong sản xuất kinh doanh: Nguyên vật liệu giảm nhưng vốn sản phẩm chế tạo dở dang, vốn thành phẩm tăng lên. Cuối kỳ sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp bán sản phẩm, vốn trong thanh toán tăng lên vốn dự trữ sản xuất kinh doanh giảm. Giữa các đơn vị sản xuất khác nhau kết cấu vốn kinh doanh của chúng cũng khác nhau. Ví dụ: Có hai đơn vị: đơn vị đại lý bán hàng và đơn vị chế tạo xe đạp. Đơn vị chế tạo xe đạp yêu cầu tỉ trọng tài sản cố định trong toàn bộ giá trị tài sản của đơn vị tương đối cao, trong khi đó yêu cầu kết cấu vốn của đơn vị đại lý bán hàng lại là vốn lưu động cần phải lớn. ở đơn vị đại lý bán hàng yêu cầu về các máy móc thiết bị ít, chủ yếu là các phương tiện vận chuyển, các công cụ dụng cụ nhỏ phục vụ bán hàng, vốn bằng tiền, vốn dự trữ, vốn trong thanh toán đáp ứng nhu cầu nhập hàng hoá để bán cần nhiều. Do đó tỉ trọng vốn lưu động chiếm ưu thế là đương nhiên. Đơn vị chế tạo xe đạp đòi hỏi phải có máy móc thiết bị chế tạo nhiều. Tài sản cố định thường là có giá trị lớn. Mặt khác để xe đạp có chất lượng cao, mẫu mã đẹp cần áp dụng thành tựu khoa học công nghệ kỹ thuật mới, phương thức, tài sản cố định vô hình. Giá trị tài sản cố định trong đơn vị này so với toàn bộ tài sản của đơn vị chiếm tỉ trọng lớn. Nếu xét trong đơn vị đại lý bán hàng thì đầu mỗi chu kỳ sản xuất vốn bằng tiền chiếm tỉ trọng cao. Bắt đầu vào kinh doanh vốn bằng tiền giảm nhanh để nhập hàng hoá làm vốn dự trữ sản xuất tăng nhanh. Kết thúc chu kỳ kinh doanh hàng đem đi bán làm cho vốn dự trữ giảm, vốn trong thanh toán của doanh nghiệp tăng lên. Qua đây ta thấy muốn hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả cao, cần phải nghiên cứu các đối tượng kinh doanh của doanh nghiệp cụ thể hay nói một cách khác đối tượng của kế toán doanh nghiệp một cách cụ thể từ đó ra quyết định đúng, để có được kết cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp là hợp lý nhất, phù hợp với từng thời kỳ hoạt động cụ thể của đơn vị. II. Phân loại vốn kinh doanh theo nguồn hình thành vốn kinh doanh Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Trong doanh nghiệp sản xuất nguồn hình thành vốn kinh doanh được chia thành hai loại sau: 1.Các khoản nợ phải trả. Các khoản nợ phải trả là các nguồn vốn mà đơn vị sản xuất huy động, khai thác trên cơ sở các chính sách, chế độ nhà nước qui định và các hợp đồng đã thoả thuận giữa đơn vị với các tổ chức, đơn vị, các cá nhân khác. Đơn vị có quyền sử dụng tạm thời hay một thời gian nhất định, sau thời gian đó đơn vị phải hoàn trả. Để khai thác huy động triệt để nguồn vốn này cần xem xét đến các biểu hiện cụ thể của nó trong đơn vị. a.Các khoản nợ ngắn hạn: Đây là những khoản nợ có thời hạn ngắn nhỏ hơn một năm hay chỉ trong một chu kỳ kinh doanh, những khoản nợ này bao gồm: - Vay ngắn hạn: là những khoản vay ngắn hạn từ các tổ chức tín dụng như ngân hàng, các công ty tài chính. - Nợ dài hạn đến hạn phải trả: là khoản nợ vay trong thời gian dài (lớn hơn một năm) song tại thời điểm xem xét, các khoản nợ này cần phải hoàn trả cho chủ sở hữu của nó. - Nợ phải trả người bán: là khoản nợ phải trả cho người bán hay cung cấp hàng hoá dịch vụ cho doanh nghiệp. - Thuế và các khoản phải nộp cho ngân sách nhà nước theo qui định chế độ đã ban hành. - Các khoản phải trả cho công nhân viên: đó là những khoản lương, phụ cấp phải trả cho công nhân viên. - Các khoản chi phí phải trả - Các khoản ký quĩ, ký cược ngắn hạn và các khoản._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKT1142.doc
Tài liệu liên quan