Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay

mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã, đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở tất cả các quốc gia và dân tộc trên thế giới. Đối với nước ta, trong sự nghiệp CNH, HĐH, cuộc cách mạng KH&CN vừa tạo ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đem lại nhiều thách thức lớn. Vì vậy, nếu đất nước ta biết tiếp thu có chọn lọc, ứng dụng kịp thời và phù hợp những thành tựu mới nhất của KH&CN vào thực tiễn sẽ tạo đ

doc136 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1452 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại, nếu không biết tiếp thu và ứng dụng kịp thời thì khoảng cách chênh lệch về trình độ giữa nước ta với các nước tiên tiến ngày một xa hơn, sự nghiệp xây dựng CNXH cũng khó khăn hơn nhiều. Nhận thức rõ vấn đề này, trong Nghị quyết Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định: "Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" [25, tr. 112]. Với tư cách là chủ thể chính sáng tạo ra tri thức khoa học, đội ngũ trí thức Việt Nam chính là lực lượng đi đầu trong việc xây dựng nền tảng KH&CN cho sự phát triển của đất nước. Cho nên, nước ta cần phải phát huy tối đa tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức, đặc biệt là đội ngũ trí thức thuộc lĩnh vực KH&CN. Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội) là lực lượng nòng cốt của trí thức KH&CN Việt Nam, trong những năm qua đội ngũ này đã có những đóng góp to lớn vào đời sống chính trị, xã hội của đất nước: Tham gia chuẩn bị, góp ý kiến cho các văn kiện, nghị quyết của Đảng và Nhà nước; phổ biến kiến thức, khuyến khích đưa nhanh các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất; Tư vấn, phản biện, giám định xã hội về khoa học - công nghệ, kinh tế - xã hội. Vì vậy, để tạo điều kiện cho đội ngũ này phát huy hơn nữa vai trò của mình trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, ngày 11 - 11 - 1998, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số 45 - CT/TW: Về đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Sau bảy năm thực hiện Chỉ thị của Ban chấp hành Trung ương Đảng, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội đã đạt được nhiều thành tựu trong một số lĩnh vực quan trọng, góp phần tạo tiền đề để KH&CN Việt Nam tiếp tục phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội còn tồn tại một số hạn chế nhất định: Hiệu quả hoạt động chưa tương xứng với tiềm năng của đội ngũ này, chưa đáp ứng tốt những yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nói riêng và sự nghiệp xây dựng CNXH nói chung ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Để góp phần làm rõ vai trò, đặc điểm và nhằm phát huy tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, tôi đã chọn đề tài : "Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay " làm đề tài luận văn thạc sĩ triết học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay, ở nước ta đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đội ngũ trí thức với nhiều khía cạnh, quy mô khác nhau, trong đó có một số công trình khoa học đã đề cập đến các góc độ mà đề tài cần nghiên cứu tham khảo và kế thừa: - "Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước" (1995) - Đỗ Mười, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội : Tác phẩm tập hợp những bài phát biểu của Đỗ Mười về trí thức. Qua đó đã khẳng định quan điểm của Đảng ta về vai trò của trí thức và nhiệm vụ của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước. - "Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng" (1995) - Phạm Tất Dong (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội: Đây là một công trình nghiên cứu khá công phu, sâu sắc về đội ngũ trí thức Việt Nam. Từ lý luận đến thực tiễn, tác giả đã đi sâu phân tích quan niệm hiện đại về "trí thức", trên cơ sở đó nghiên cứu đội ngũ trí thức Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử của thế kỷ 20. Từ việc nghiên cứu thực trạng về số lượng, cơ cấu... đến tâm trạng, nguyện vọng của đội ngũ trí thức, tác giả đã đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát triển đội ngũ trí thức nước ta hiện nay. - "Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa" (2001) - GS. Phạm Tất Dong (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội : Trên cơ sở nghiên cứu khái quát tình hình CNH, HĐH đất nước và một số yêu cầu đặt ra về nguồn lực trí tuệ; tác giả đã khẳng định vai trò của đội ngũ trí thức trong CNH, HĐH, làm rõ ưu, nhược điểm của đội ngũ trí thức ở nước ta, từ đó đề xuất những định hướng trong hoạch định chính sách để xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010. - "Trí thức trong công cuộc đổi mới đất nước" (1998) - PTS. Nguyễn Quốc Bảo - Đoàn Thị Lịch, Nxb Lao động, Hà Nội: Tác phẩm đã khái quát tình hình biến đổi của trí thức Việt Nam trong công cuộc đổi mới, phân tích những hạn chế, ưu điểm của trí thức Việt Nam, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ trí thức nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước. - "Một số vấn đề về trí thức Việt Nam" (1998) - Nguyễn Thanh Tuấn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội: Tác giả đã đi sâu nghiên cứu về trí thức, vai trò của trí thức nói chung đối với tiến bộ xã hội; làm rõ những đặc điểm của trí thức Việt Nam trong tiến trình lịch sử và dự báo xu hướng phát triển của đội ngũ này. Trên cơ sở đó, tác giả đã đề ra những phương hướng đổi mới công tác quản lý và chính sách kinh tế - xã hội đối với đội ngũ trí thức Việt Nam trong giai đoạn mới. Một số bài viết về trí thức như: "Quan điểm và chính sách của V.I. Lênin đối với trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa" của Trịnh Quốc Tuấn, Nghiên cứu lý luận, số 4, 1995; "Những bài học từ quan điểm của Lênin về trí thức', Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 4/1996; "Bài học từ những quan điểm của Hồ Chí Minh về trí thức, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2/2001; "Trí thức trong khối liên minh công - nông - trí vì sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay", Tạp chí Cộng sản, tháng 11/1999 "Bài học từ những quan điểm của chủ nghĩa Mác về trí thức" trong cuốn "Học thuyết Mác với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam", Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003 của PGS.TS. Phan Thanh Khôi... Trong đó, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu các vấn đề: bản chất giai cấp của trí thức, chính sách sử dụng các chuyên gia tư sản, cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí thức mới, xây dựng khối liên minh công - nông - trí, các giải pháp phát huy vai trò của trí thức... Bên cạnh đó, có một số Luận án tiến sĩ đã nghiên cứu về vị trí, vai trò, đặc điểm, động lực sáng tạo của trí thức trong quá trình cách mạng Việt Nam như: "Vị trí và vai trò của tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam" của Phạm Việt Dũng, Luận án PTS triết học, Hà Nội, 1988; "Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo ở nước ta hiện nay " của Phan Thanh Khôi, Luận án PTS triết học, Hà Nội, 1992; "Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác - Lênin trong các trường Đại học ở nước ta hiện nay" của Phạm Văn Thanh, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2001; "Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới" của Trịnh Quang Cảnh, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2001; "Phát huy vai trò nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhân văn trong quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Đình Minh, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2003; "Vai trò của trí thức thủ đô Hà Nội trong sự nghiệp CNH, HĐH" của Nguyễn Xuân Phương, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội, 2004... Ngoài ra, còn có nhiều công trình khoa học, bài viết được đăng trên các Tạp chí liên quan ít nhiều đến trí thức, đến khoa học - công nghệ trong thời kỳ CNH, HĐH. Tuy nhiên, trên thực tế, chưa có một đề tài khoa học, một công trình nghiên cứu nào đề cập đến đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam dưới góc độ luận văn Thạc sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học. Do đó, đề tài nghiên cứu của tôi không trùng lắp với bất kỳ công trình khoa học nào trước đó. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn - Mục đích của luận văn: Trên cơ sở làm rõ thực trạng chung của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Luận văn nêu lên những quan điểm và giải pháp để xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ này trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay. - Nhiệm vụ của luận văn: + Trình bày một cách khái quát về đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay và vai trò của đội ngũ này trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, phân tích những đặc điểm cơ bản của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. + Phân tích thực trạng của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, xu hướng vận động của đội ngũ này trong tiến trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. + Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chung nhằm xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, nhất là đặc điểm, vai trò của đội ngũ này trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hoạt động của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam ở Trung ương. Thời gian từ Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), và nhất là từ khi có Chỉ thị 45-CT/TW (1998) cho đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng ta về trí thức. Luận văn cũng kế thừa các nhân tố hợp lý của những thành tựu nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn liên quan đến đề tài. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp phân tích - tổng hợp, lôgíc - lịch sử,... 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Làm rõ đặc điểm và vai trò của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. - Đề xuất một số quan điểm, giải pháp xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ này, đáp ứng yêu cầu của đổi mới và đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta hiện nay. 7. ý nghĩa của luận văn - Góp phần làm luận cứ khoa học cho việc xây dựng chính sách đối với đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. - Làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu và giảng dạy những chuyên đề liên quan đến trí thức trong các môn lý luận chính trị Mác - Lênin. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 đội ngũ trí thức thuộc liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật việt nam - một bộ phận của trí thức việt nam hiện nay 1.1. khái quát về đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay và vai trò của đội ngũ này trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 1.1.1. Khái quát về đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay Trí thức ở nước ta được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau. Một số được đào tạo từ trước cách mạng Tháng Tám, số lượng này đến nay không nhiều. Trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã cử một số cán bộ đi học tập và nghiên cứu ở nước ngoài để chuẩn bị cho công cuộc khôi phục và xây dựng đất nước sau này. Còn lại, phần lớn trí thức nước ta được đào tạo ở các nước XHCN trước đây và trong công cuộc đổi mới của đất nước. Trong thời kỳ mở cửa hội nhập với quốc tế, cơ hội học tập và nghiên cứu tại các nước trên thế giới được mở rộng. Vì vậy số lượng sinh viên Việt Nam đi du học ngày càng nhiều, lực lượng này đã bổ sung và làm phong phú hơn nguồn đào tạo của đội ngũ trí thức Việt Nam. Hiện nay, nước ta có hơn 1,8 triệu người đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học, về cơ bản có thể xem đây là trí thức. Năm 2000 nước ta mới có 1,3 triệu trí thức, sau ba năm (từ năm 2000 đến năm 2003) số lượng trí thức tăng lên thành 1.870.315 người [70, tr. 149]. Điều đó cho thấy, ngành GD&ĐT nước ta đã có bước phát triển vượt bậc trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực cho Việt Nam. Ngoài ra, đội ngũ trí thức Việt Nam còn bổ sung từ những người tự học vươn lên để có học vấn tương đương và trong thực tế có những đóng góp nhất định cho khoa học nước ta. Bên cạnh đó, còn hơn 300.000 trí thức Việt Kiều - một bộ phận của trí thức dân tộc Việt Nam. Phần lớn họ đang sinh sống ở các nước phát triển, được tiếp cận với tri thức KH&CN hiện đại của thế giới. Trong đó, có nhiều người có trình độ cao, hiện đang làm việc tại các Viện nghiên cứu, các trường đại học lớn trên thế giới. Ngoài ra, nước ta có một số lượng khá đông sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học trên toàn quốc. Sinh viên chính là nguồn bổ sung vào lực lượng trí thức trong tương lai. Chính vì vậy, thông qua phong trào sinh viên nghiên cứu khoa học, đã có một số lượng công trình của đội ngũ này được ứng dụng rộng rãi và đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội không nhỏ. Số lượng trí thức tăng lên trong những năm qua là thành quả to lớn của sự nghiệp giáo dục và đào tạo Việt Nam trong điều kiện đất nước còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, so với số dân hiện nay của nước ta với khoảng hơn 80 triệu người, tỷ lệ trí thức trong tổng số dân còn rất thấp, chiếm khoảng hơn 2% dân số của cả nước. Về trình độ, trong số 1,8 triệu người tốt nghiệp cao đẳng, đại học; có hơn 25.000 thạc sĩ, tiến sĩ; 5531 giáo sư, phó giáo sư và 519 tiến sĩ khoa học [70, tr. 149]. Trong ba năm (từ năm 2000 - 2003) trình độ của đội ngũ trí thức ở nước ta không ngừng được nâng cao. Năm 2000, nước ta mới chỉ có 10.000 thạc sĩ, 13.500 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, số người được phong hàm giáo sư là 927, phó giáo sư là 3.419 người [3, tr. 18]. Đội ngũ trí thức ở nước ta có tiềm năng trí tuệ và khả năng sáng tạo cao. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất thông qua sản phẩm tinh thần của đội ngũ này. Nhiều kết quả nghiên cứu khoa học được bạn bè, đồng nghiệp quốc tế đánh giá cao và có nhiều công trình được ứng dụng đã góp phần đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội to lớn cho đất nước. Ngoài ra, số lượng các công trình đạt những giải thưởng lớn và có uy tín như Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ, Văn học và Nghệ thuật và gần đây là Giải thưởng sáng tạo KH&CN Việt Nam đã phần nào chứng minh chất lượng cũng như sức sáng tạo không nhỏ của đội ngũ trí thức nước ta. Đội ngũ trí thức nước ta có lòng yêu nước và gắn bó với nhân dân lao động, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới và sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Sự đóng góp to lớn của đội ngũ này vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thể hiện rộng khắp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đội ngũ trí thức ngành khoa học xã hội đã góp phần bổ sung, lý giải và làm rõ thêm những quan điểm của Đảng ta về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Nhiều kết luận khoa học đã được dùng làm cơ sở để soạn thảo các nghị quyết, hoạch định các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Trong khoa học tự nhiên, các kết quả nghiên cứu của đội ngũ trí thức về điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và môi trường đã góp phần cung cấp những luận cứ cho Đảng và Nhà nước đưa ra các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, đồng thời tạo cơ sở cho quá trình tiếp thu và làm chủ những công nghệ mới như chế tạo vật liệu, những tiến bộ về di truyền học, sinh học, khoa học thông tin... Đội ngũ trí thức khoa học công nghệ chủ yếu hướng hoạt động nghiên cứu của mình vào đổi mới công nghệ trong các ngành sản xuất, dịch vụ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả của sản xuất. Do đó, đã có nhiều thành tựu về khoa học công nghệ mới được ứng dụng góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, đặc biệt trong nông nghiệp với việc ứng dụng các công nghệ kỹ thuật hiện đại, công nghệ sinh học, di truyền... đã góp phần đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Bên cạnh đó, đội ngũ trí thức khoa học công nghệ đã có những cống hiến to lớn cho nền công nghiệp Việt Nam: tiếp thu và ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới vào Việt Nam đã tạo cơ sở để nền công nghiệp nước ta có bước phát triển mạnh, chuyển dần theo hướng hiện đại hóa. Đặc biệt có nhiều lĩnh vực đã bước đầu tiếp cận với công nghệ tiên tiến của thế giới như: công nghệ tự động hóa, công nghệ laser, công nghệ xây dựng cầu, chế tạo thiết bị bưu chính viễn thông, công nghệ gen, công nghệ sinh học... Như vậy, với những đóng góp của đội ngũ trí thức nước ta trong công cuộc đổi mới đất nước đã thể hiện tiềm năng trí tuệ to lớn đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao đời sống của nhân dân và củng cố vững chắc hơn khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức. Tuy nhiên, Đội ngũ trí thức của nước ta còn có những hạn chế, trình độ của đội ngũ trí thức chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, chủ yếu là tốt nghiệp cao đẳng, đại học. Đội ngũ trí thức có trình độ sau đại học ở nước ta hiện nay có khoảng hơn 30.000 người (chiếm hơn 1,6% tổng số trí thức Việt Nam). Về cơ cấu lứa tuổi, tuổi bình quân của cán bộ khoa học công nghệ nước ta hiện nay là 40,2 (nam: 42,7 tuổi, nữ: 37,0 tuổi). Số trí thức có trình độ sau đại học tuổi khá cao, cụ thể: tuổi bình quân của người có trình độ cao đẳng là 38,2 tuổi; đại học: 40,9 tuổi; thạc sĩ: 42,6 tuổi và tiến sĩ là 52,5 tuổi. Số cán bộ khoa học công nghệ ở độ tuổi dưới 25 chỉ chiếm 9,06%, trong khi số cán bộ này ở độ tuổi trên 55 lên tới 13,55% [3, tr.19]. Đặc biệt, số trí thức có trình độ cao như tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư và cán bộ đầu ngành có tuổi rất cao. Sự chênh lệch về độ tuổi giữa các trình độ là khá cao, phản ánh sự thiếu hụt lực lượng của đội ngũ trí thức trẻ có trình độ cao trong việc kế cận các thế hệ trí thức cha anh. Về cơ cấu ngành nghề của đội ngũ trí thức, trong số 23 ngành đào tạo, giáo viên chiếm vị trí hàng đầu trong tổng số trí thức KH&CN (34,6%), tiếp theo là ngành kinh doanh và quản lý (19,3%), thứ ba là ngành kỹ thuật (8,1%), ngành nông, lâm, ngư nghiệp chiếm vị trí thứ bảy (4,41%), còn ngành chế tạo - chế biến ở vị trí thứ 17 (0,52%) [3, tr. 19]. Qua đó cho thấy, cơ cấu ngành của đội ngũ trí thức nước ta còn bất hợp lý, phần lớn là trí thức hoạt động trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, các ngành thuộc khoa học công nghệ chiếm tỷ lệ rất thấp. Chính vì vậy, nước ta đi lên xây dựng CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua nhiều năm chiến tranh, nhưng với số lượng cán bộ có trình độ đại học thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chỉ có 4,41%. Do đó khó đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn. Để thực hiện CNH, HĐH thì cần tăng số lượng trí thức trong các ngành kỹ thuật, nhất là một số ngành công nghệ mới như: công nghệ tự động hóa, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học… Mặt khác, nếu theo các cấp đào tạo thì một số ngành có số lượng trí thức ít nhưng trình độ của đội ngũ này lại cao hơn những ngành khác. Số người có trình độ sau đại học chủ yếu ở các ngành Kinh doanh và quản lý, Khoa học tự nhiên, Kỹ thuật, Y tế. (Xem bảng 1). Bảng 1.1: Cơ cấu cán bộ khoa học công nghệ và thứ tự xếp hạng các ngành đào tạo theo các cấp đào tạo đại học, thạc sĩ và tiến sĩ. STT Ngành đào tạo Đại học Thạc sĩ Tiến sĩ Cơ cấu (%) Thứ hạng Cơ cấu (%) Thứ hạng Cơ cấu (%) Thứ hạng 1 Khoa học tự nhiên 2,6 10 6,4 7 15,9 1 2 Kỹ thuật 9,3 3 7,3 6 14,7 2 3 Kinhdoanh và quản lý 25,3 1 15,3 1 10,3 3 4 Nhân văn 6,1 5 11,9 3 10,2 4 5 Y tế 7,5 4 14,7 2 8,4 5 6 Nông, Lâm, Ngư nghiệp 5,9 7 4,8 8 7,6 6 7 Khoa học sự sống 0,5 21 2,3 11 7,0 7 8 Khoa học xã hội và Hành vi 4,3 8 9,8 4 6,0 8 9 Toán và thống kê 0,9 15 3,7 10 5,8 9 10 Xây dựng và Kiến trúc 6,0 6 4,5 9 3,9 10 11 Khoa học GD&ĐT 17,2 2 7,7 5 2,7 11 Nguồn :[3, tr. 21]. Tuy nhiên, đội ngũ trí thức ở nước ta hiện nay tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các vùng đồng bằng. Theo số liệu thống kê về tình hình lao động việc làm ở Việt Nam năm 2003, số trí thức tập trung nhiều nhất là đồng bằng sông Hồng (chiếm 33,95% tổng số người tốt nghiệp cao đẳng, đại học của cả nước), thứ hai là vùng Đông Nam Bộ (23,12%), tiếp theo là vùng Đồng bằng sông Cửu Long (10,55%), Đông Bắc (9,41%), Bắc Trung Bộ (8,19%), Duyên hải Nam Trung Bộ (9,18%), Tây Nguyên (3,83%), thấp nhất là vùng Tây Bắc (1,77%) [70, tr. 135]. Sự phân bố trí thức không đồng đều giữa các vùng là một trong những yếu tố làm chậm quá trình thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo, trình độ phát triển giữa các vùng, miền trong cả nước. Trong khi các vùng đồng bằng có điều kiện thuận lợi và tiềm năng trí tuệ lớn có tốc độ phát triển, thì ngược lại ở các vùng trung du, miền núi có điều kiện khó khăn thì lại càng ít cơ hội vươn lên phát triển do nguồn lực trí tuệ tập trung không nhiều. Nhìn chung, trong điều kiện kinh tế - xã hội nước ta còn khó khăn, sự phát triển của đội ngũ trí thức Việt Nam những năm qua là một thành quả đáng tự hào. Trước những yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, để xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ở nước ta, cần phải khắc phục những hạn chế trên, nhất là về trình độ, số lượng, độ tuổi. Đồng thời cũng cần cân đối lại cơ cấu ngành nghề và sự phân bố đội ngũ trí thức giữa các vùng, miền của cả nước. 1.1.2. Trí thức Việt Nam là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Nước ta tiến hành xây dựng CNXH trong điều kiện thế giới có nhiều sự biến động. Cuộc cách mạng KH&CN hiện đại một mặt tạo ra những thời cơ, tiền đề thuận lợi để đất nước ta phát triển, mặt khác nó cũng đem lại nhiều thách thức to lớn, nhất là trong điều kiện trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta còn lạc hậu. Chính vì vậy, CNH, HĐH đất nước được Đảng ta coi là nhiệm vụ trung tâm, xuyên suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ này là chuẩn bị tiền đề cho CNH, HĐH đất nước. Nhằm cụ thể hóa tinh thần của Đại hội, Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VII) đã nêu rõ: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [19, tr. 65]. Như vậy, thực chất của quá trình CNH, HĐH đất nước là cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt tới năng suất lao động xã hội cao dựa trên nền tảng của KH&CN. Cũng chính tại Hội nghị này, Đảng ta đã nêu ra quan điểm chỉ đạo đối với quá trình CNH, HĐH như sau: - Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với nước ngoài, kết hợp kinh tế với quốc phòng- an ninh. Xây dựng nền kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả. - CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo; được vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. - Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. - Khoa học, công nghệ là nền tảng của CNH, HĐH. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định. - Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả. Tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm; đồng thời quan tâm đáp ứng những nhu cầu phát triển thiết yếu của mọi vùng trong nước; có chính sách hỗ trợ những vùng khó khăn. Trên cơ sở tổng kết mười năm đổi mới và năm năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VII), trước bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng một lần nữa đã xác định: nước ta đang đứng trước thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và đã đề ra mục tiêu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Tiếp tục khẳng định đường lối mà Nghị quyết Đại hội VIII đã đề ra, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định: Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần có và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức [25, tr. 91]. Như vậy, chủ trương phát triển "rút ngắn" của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn có thể thực hiện được trong điều kiện lịch sử hiện nay. Với những thành tựu về KH&CN mà nhân loại đạt được đã mở ra cho chúng ta cơ hội thực hiện bước "nhảy vọt", để "đi tắt", đón đầu theo kịp với trình độ phát triển của các nước mà không cần tiến hành CNH, HĐH theo trình tự truyền thống mà các nước tư bản chủ nghĩa trước đây đã trải qua. Tuy nhiên, chúng ta đang đứng trước nhiều vấn đề nan giải về vốn, công nghệ, đặc biệt là trình độ của người lao động. Để thực hiện được những mục tiêu trên, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có những chính sách hợp lý để phát triển KH&CN, GD&ĐT, trước hết là với đội ngũ trí thức trong lĩnh vực này. Đội ngũ trí thức có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay - khi khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Cho nên, khi nghiên cứu lịch sử phát triển của loài người, C.Mác đã đánh giá cao vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức đối với sự tiến bộ của xã hội. Kế thừa những tư tưởng của C.Mác về trí thức, trong quá trình xây dựng CNXH hiện thực, V.I. Lênin đã khẳng định: Không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm thì không thể chuyển lên chủ nghĩa xã hội được, vì chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một bước tiến có ý thức và có tính chất quần chúng để đi tới một năng suất lao động cao hơn năng suất của chủ nghĩa tư bản đã đạt được [46, tr. 217]. Khi nói về vai trò của trí thức đối với cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: "Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc", "Những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không có những người đó thì công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều" [62, tr. 235]. Trên thực tế, đội ngũ trí thức nước ta đã có những đóng góp hết sức to lớn, cùng với giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi. Sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước những năm qua cũng có phần công sức không nhỏ của đội ngũ này. Đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước hiện nay, đội ngũ trí thức của nước ta ngày càng giữ vai trò quan trọng, thể hiện qua một số nội dung cơ bản sau: - Thứ nhất, trí thức là người góp phần nghiên cứu, đưa ra những luận cứ khoa học cho việc xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về CNH, HĐH. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: "Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh" [25, tr. 83]. Kiên định theo con đường XHCN, chúng ta không thể áp dụng một cách máy móc những nguyên lý, quan điểm của chủ nghĩa xã hội khoa học, mà đòi hỏi phải vận dụng sáng tạo, linh hoạt vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Thông qua việc nghiên cứu lý luận, trí thức khoa học Mác-Lênin đã góp phần làm rõ hơn về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, cung cấp những luận cứ khoa học để Đảng và Nhà nước ta hoạch định các chủ trương, chính sách về CNH, HĐH không mắc phải sai lầm của việc vận dụng rập khuôn, máy móc. Hơn nữa, xuất phát từ một nền nông nghiệp lạc hậu, để thực hiện CNH, HĐH thành công, ngoài lý luận khoa học, Đảng và Nhà nước ta cần phải có các kết quả nghiên cứu về tình hình thực tế, đặc điểm của từng vùng, từng lĩnh vực, ngành nghề... làm căn cứ khách quan. Đây chính là nguồn tư liệu quý giá, phong phú giúp cho việc đưa ra các chiến lược xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của mỗi thời kỳ đạt kết quả cao, không rơi vào bệnh chủ quan, duy ý chí. Với tư cách là nhà khoa học, trí thức nước ta đã tham mưu cho Đảng và Nhà nước những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn, vừa đảm bảo phát triển đúng định hướng XHCN, đồng thời đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. - Thứ hai, trí thức Việt Nam là lực lượng quan trọng trong việc tuyên truyền những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về CNH, HĐH đến nhân dân, đưa những chủ trương đó vào cuộc sống. Xây dựng CNXH là sự nghiệp của toàn thể nhân dân lao động, nó phải được thực hiện thông qua hoạt động tự giác của đông đảo quần chúng có ý thức giác ngộ về CNXH và CNCS. Do đó, công tác giáo dục tư tưởng, tuyên truyền lý luận cách mạng phải đi trước một bước. Bản thân lý luận không thể làm biến đổi hiện thực, nhưng nó có thể trở thành "lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng" [57, tr. 580]. Trong quá trình CNH, HĐH của nước ta, để thành công thì những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cần được phổ biến sâu rộng, làm cho nhân dân nhận thức được sự cần thiết, lợi ích cũng như vai trò, nhiệm vụ của mình, từ đó thôi thúc mọi người dân tham gia một cách tự giác, tích cực vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Khi ấy, CNH, HĐH từ lý luận mới trở thành sức mạnh vật chất làm thay đổi sản xuất và đời sống xã hội. Với chức năng cơ bản là phổ biến, truyền bá kiến thức, trí thức Việt Nam, nhất là những người trực tiếp công tác trong ngành văn hóa, tư tưởng là lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ này. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng (báo viết, báo nói, báo hình) và các chương trình tập huấn, họ đã góp phần triển khai các nghị quyết, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách của ._.Nhà nước về CNH, HĐH nhanh chóng tuyên truyền đến mọi người dân, khắp các vùng miền của Tổ quốc. Trên cơ sở đó, giúp nhân dân hiểu, tích cực và chủ động tham gia vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Ngoài ra, việc đưa những quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước còn được đội ngũ trí thức thực hiện dưới nhiều hình thức khác như lồng ghép vào các chương trình giảng dạy của các môn khoa học Mác - Lênin trong các trường, các lớp bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên, v.v. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu CNH, HĐH đất nước, công tác tuyên truyền phải không ngừng được nâng cao, kịp thời, phải phù hợp với từng đối tượng nhằm làm cho nhân dân hiểu rõ quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước. Ngoài việc đưa lý luận vào thực tiễn, công tác này nhằm ngăn chặn mọi sự xuyên tạc của kẻ thù hòng làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. - Thứ ba, với tư cách là chủ thể của quá trình CNH, HĐH, đội ngũ trí thức Việt Nam là nguồn lực tham gia trực tiếp thực hiện nội dung của sự nghiệp đó. Việt Nam quá độ đi lên xây dựng CNXH từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến có nền kinh tế lạc hậu, trình độ dân trí thấp. Vì vậy, bước chuyển từ lao động thủ công, lạc hậu sang lao động sử dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại là một bước tiến lớn về trình độ của lực lượng sản xuất nhưng khó khăn và lâu dài. Nó không thể thực hiện được nhanh chóng nếu không có sự tham gia của các chuyên gia và nhà khoa học. Việc xây dựng nền tảng KH&CN cho quá trình CNH, HĐH là nhiệm vụ của toàn thể nhân dân, trong đó đi đầu là đội ngũ trí thức. Thông qua hoạt động nghiên cứu khoa học, đội ngũ này đã góp phần sáng tạo ra những tri thức mới, có giá trị thúc đẩy xã hội phát triển. Ngoài ra, họ còn có thể dự báo xu hướng vận động của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy. Những thông tin đó có thể làm căn cứ khách quan cho các nhà quản lý, hoạch định chính sách khi xây dựng các chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Do đặc thù trong lao động sáng tạo, trí thức luôn phải đi trước một bước để đáp ứng những yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa đã và đang tạo ra những điều kiện thuận lợi để các nước lạc hậu như nước ta có thể thực hiện bước phát triển "nhảy vọt" bằng cách tiếp thu hợp lý những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến nhất. Thực hiện nhiệm vụ này, trách nhiệm trước hết là của các chuyên gia, nhà khoa học - những người có trình độ chuyên môn và am hiểu sâu sắc về lĩnh vực này. Họ chính là những chiếc cầu nối đưa thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới vào Việt Nam. Nhờ đó, trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta không ngừng được nâng cao nhanh chóng. Vì vậy, với tư cách là người đi tiên phong trong khoa học và công nghệ, đội ngũ trí thức Việt Nam cần phải phát huy hơn nữa vai trò của mình để thực hiện tốt các nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho, đặc biệt trên lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ mới, góp phần cùng giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động tạo dựng nền tảng KH&CN vững chắc cho sự nghiệp CNH, HĐH nhanh chóng đi đến thắng lợi. - Thứ tư, đội ngũ trí thức Việt Nam góp phần chủ yếu đào tạo nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: Muốn xây dựng CNXH trước hết cần phải có con người XHCN. Đó chính là những người "vừa hồng, vừa chuyên", sống có lý tưởng, vì hạnh phúc của nhân dân lao động. Vì vậy, sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay cần những con người có tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn dân tộc, có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm đến hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên về KH&CN..., những con người có năng lực sáng tạo, tiếp thu và ứng dụng những tri thức khoa học công nghệ mới vào phục vụ sản xuất và đời sống xã hội. Bởi đây là chính quá trình cải biến từ một xã hội cổ truyền thành một xã hội hiện đại, có trình độ văn minh cao hơn thể hiện không chỉ ở trình độ KH&CN tiên tiến, có nền kinh tế phát triển, xã hội được tổ chức khoa học và hợp lý mà còn ở đời sống chính trị, văn hóa, tinh thần của xã hội, ở sự phát triển con người, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Việc đào tạo con người đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng đất nước có thể được thực hiện với nhiều hình thức, phương pháp khác nhau. Để có con người toàn diện cần phải kết hợp giáo dục và tự giáo dục, cần có sự liên kết giữa gia đình - nhà trường - xã hội. Do chức năng đặc thù là truyền bá và phổ biến tri thức khoa học, đội ngũ trí thức, nhất là những người hoạt động trong khối hành chính sự nghiệp có vai trò quyết định đến nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Không có sự tham gia của trí thức, không thể đào tạo được nguồn lực con người đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Bằng chứng cho thấy mỗi năm đội ngũ trí thức trong lĩnh vực GD&ĐT đã góp phần đào tạo hàng nghìn chuyên gia, cử nhân, kỹ sư, kỹ thuật viên, công nhân lành nghề phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Năm 2003, số sinh viên tốt nghiệp các trường cao đẳng, đại học là 163.960 người, tốt nghiệp các trường trung học chuyên nghiệp, dạy nghề là 36.683 người [3, tr. 18]. - Thứ năm, trí thức Việt Nam có vai trò quan trọng trong tư vấn, phản biện và giám định xã hội về KH&CN nhằm giữ vững định hướng XHCN trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tính đặc thù của quá trình CNH, HĐH ở nước ta chính là tính định hướng XHCN, điều đó quy định mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nước ta đang tiến hành cách mạng KH&CN đồng thời cùng với cách mạng giải phóng con người và giải phóng xã hội, do vậy, con đường phát triển của Việt Nam hiện nay là xây dựng các yếu tố của XHCN trên tất cả các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, đề phòng sự chệch hướng XHCN diễn ra dưới mọi hình thức. Để làm được như vậy, Đảng và Nhà nước ta trước hết phải đảm bảo những yêu cầu cơ bản sau: - Phát triển KH&CN là nhằm tạo ra động lực và tiền đề để tăng trưởng kinh tế đồng thời phải gắn với phát triển bền vững theo chiều sâu, triệt tiêu những hậu quả tiêu cực đối với môi trường, cả môi trường thiên nhiên, sinh thái và nhân văn. - Phân công lao động xã hội theo hướng tiến bộ, nghĩa là toàn bộ xã hội có công ăn việc làm, lao động có tay nghề, hàm lượng khoa học - công nghệ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu lao động, đây là một trong những tiêu chí định hướng XHCN trong phát triển KH&CN. - Xuất phát từ trình độ KH&CN rất thấp, lại phân bố không đều và bị mất cân đối lớn giữa các ngành, vùng, lãnh thổ như hiện nay, để khắc phục chúng ta cần phải ứng dụng nhanh và có hiệu quả những tiến bộ KH&CN vào các ngành, vùng của nền kinh tế, trong thời gian trước mắt cần hướng vào khu vực nông nghiệp - nông thôn, nhằm thu hẹp sự chênh lệch giữa các vùng miền, nhất là giữa nông thôn và thành thị trong cả nước. - Mọi thành quả kinh tế - xã hội của việc phát triển, ứng dụng KH&CN vào thực tiễn phải vì mục tiêu phục vụ lợi ích cho toàn thể nhân dân lao động, cho sự nghiệp xây dựng CNXH, nó thể hiện chủ yếu trong việc phân phối công bằng những thành quả của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Do vậy, trong quá trình phát triển KH&CN đòi hỏi phải quan tâm ngay từ đầu không chỉ hiệu quả kinh tế - kỹ thuật mà cả hiệu quả xã hội và nhân văn của nó. Để những mục tiêu trên được thực hiện, mọi chủ trương, đường lối, chính sách liên quan đến KH&CN phải được xây dựng trên cơ sở khoa học, đồng thời việc đánh giá hiệu quả cũng cần đảm bảo tính độc lập, khách quan. Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội có vai trò vô cùng quan trọng, giúp cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách, chiến lược về KH&CN của Đảng và Nhà nước đảm bảo đúng định hướng XHCN. Những đóng góp của đội ngũ trí thức nước ta thông qua hoạt động này đã đem lại hiệu quả cao như: Công trình xây dựng thủy điện Sơn La, Đường Hồ Chí Minh (đoạn qua rừng quốc gia Cúc Phương), Dự án thay nước Hồ Tây, v.v... Với tư cách là người nghiên cứu khoa học, trí thức Việt Nam đã góp phần quan trọng vào việc hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực và đảm bảo đúng định hướng XHCN của các công trình, đề án kinh tế - xã hội. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, cùng với sự phát triển của KH&CN, đội ngũ trí thức Việt Nam cũng không ngừng tăng cao cả số lượng và chất lượng, ngày càng giữ vị trí quan trọng trong xã hội, cùng với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, họ chính là một lực lượng nòng cốt của qua trình xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới. 1.2. Đặc điểm của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam 1.2.1. Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam hoạt động trong một tổ chức chính trị - xã hội của trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam Đội ngũ trí thức KH&CN Việt Nam hoạt động rộng khắp trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do làm việc trong nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau nên ít có điều kiện hợp tác, trao đổi học thuật và kinh nghiệm với những người cùng chuyên môn, ngành nghề, cùng lĩnh vực nghiên cứu. Đáp ứng nhu cầu này của trí thức, một số Hội chuyên ngành đã ra đời. Sớm nhất là Hội Luật gia Việt Nam (1955), Tổng hội Y - Dược học Việt Nam (1955) và Hội Y học cổ truyền Việt Nam (1957). Sau đó là hàng loạt các Hội Khoa học và Kỹ thuật khác được thành lập như: Hội Cơ học Việt Nam (1982), Hội Xây dựng Việt Nam (1982), Hội Lâm nghiệp Việt Nam và Hội các ngành sinh học Việt Nam (1982)... Qua một thời gian hoạt động, các Hội Khoa học và Kỹ thuật cùng nhiều nhà khoa học Việt Nam mong muốn có một tổ chức chung để đoàn kết, điều hòa và phối hợp các hoạt động phong phú và đa dạng, để nói lên tiếng nói thống nhất, đề đạt những nguyện vọng và kiến nghị chung với Đảng và Nhà nước, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã ra đời vào năm 1983 (26-3-1983) và chính thức trở thành tổ chức chính trị - xã hội của trí thức KH&CN Việt Nam. Với vai trò của một tổ chức chính trị - xã hội, Liên hiệp Hội có chức năng cơ bản là tập hợp, đoàn kết đội ngũ trí thức thuộc lĩnh vực KH&CN ở trong nước và trí thức người Việt Nam ở nước ngoài; làm đầu mối giữa các hội thành viên với các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức khác nhằm giải quyết những vấn đề chung trong Liên hiệp Hội, đồng thời, đại diện, bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của các hội thành viên, của trí thức KH&CN Việt Nam. Mục đích của Liên hiệp Hội là phát huy tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức KH&CN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung trên đã chi phối toàn bộ hoạt động của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội. Nếu trong các tổ chức xã hội - nghề nghiệp khác nội dung hoạt động chủ yếu là trao đổi học thuật, phối hợp nghiên cứu nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và hiệu quả công việc cho hội viên của mình, thì mục tiêu của Liên hiệp Hội không chỉ dừng lại ở học thuật, quyền lợi của trí thức, mà cao hơn là đem lại lợi ích cho đất nước, góp phần thực hiện các mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đề ra và giao cho. Sự khác biệt này được thể hiện rõ nét nhất qua các cuộc hội thảo khoa học. ở đây ngoài mục đích tìm tòi, sáng tạo tri thức mới, tìm ra chân lý trong khoa học còn nhằm nghiên cứu ứng dụng những tri thức KH&CN hiện đại đó vào trong thực tiễn để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Bản thân khoa học không có tính chính trị, nhưng làm khoa học phục vụ mục tiêu phát triển đất nước là làm chính trị. Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội, mặc dù được tổ chức trong các Hội ngành Trung ương - hội mang tính chuyên môn, nghề nghiệp cao - nhưng hướng các hoạt động của mình phục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước, cho sự nghiệp CNH, HĐH tức là hướng đến thực hiện những mục tiêu chính trị - xã hội mà Đảng và Nhà nước đề ra. Điều này cho thấy tính đặc thù của đội ngũ này so với trí thức hoạt động trong các tổ chức chỉ thuần túy mang tính xã hội - nghề nghiệp. Đồng thời, khác với các tổ chức phi chính phủ (NGO) hoạt động hoàn toàn mang tính độc lập, không liên quan đến các cơ quan nhà nước, các đảng chính trị, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua Đảng Đoàn của Liên hiệp Hội.Theo Chỉ thị số 45 - CT/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Đảng đoàn của Liên hiệp Hội chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Chính trị. Ban Khoa giáo Trung ương giúp Bộ Chính trị theo dõi, chỉ đạo hoạt động của Liên hiệp Hội, Ban Dân vận Trung ương và các ban khác của Đảng có trách nhiệm giúp đỡ hoạt động của Liên hiệp Hội. Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ xã hội hóa các hoạt động KH&CN, GD&ĐT, chăm sóc sức khỏe nhân dân, với tính chất là tổ chức chính trị - xã hội, Liên hiệp Hội còn có nhiệm vụ vận động trí thức KH&CN phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm công dân, tinh thần hợp tác, tính cộng đồng, tính trung thực và đạo đức nghề nghiệp. Nhằm thực hiện chủ trương xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, Liên hiệp Hội có nhiệm vụ vận động trí thức KH&CN người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp công sức, trí tuệ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những nhiệm vụ này đã được Liên hiệp Hội triển khai thực hiện và bước đầu mang lại hiệu quả nhất định, đặc biệt là việc thu hút trí thức Việt kiều về quê hương, một số người đã quyết định trở về định cư ở Việt Nam để được đóng góp trí tuệ cho sự nghiệp chung của đất nước. Với những chức năng và nhiệm vụ cơ bản trên, Liên hiệp Hội thực sự đã là một tổ chức chính trị - xã hội quan trọng và lớn nhất của trí thức KH&CN Việt Nam. Việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội của đội ngũ này còn thể hiện rõ nét thông qua hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội nhằm góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chủ trương, chính sách, pháp luật, các chương trình, kế hoạch của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế - xã hội, KH&CN, GD&ĐT, bảo vệ môi trường, tăng cường củng cố an ninh - quốc phòng; tham gia giám sát độc lập đối với các đề án, công trình quan trọng của đất nước. Điểm khác biệt trong việc thực hiện tư vấn, phản biện và giám định xã hội của các dịch vụ tư vấn chuyên nghiệp dành cho mọi tổ chức và cá nhân có pháp nhân tư vấn, với một tổ chức chính trị - xã hội như Liên hiệp Hội thể hiện ở chỗ: Một mặt, đây là nhiệm vụ đặt ra cho tổ chức chính trị - xã hội của trí thức KH&CN. Bên cạnh việc tư vấn xã hội nó còn bao gồm cả phản biện xã hội và giám định xã hội. Ngoài những đề án được giao, Liên hiệp Hội cùng các Hội thành viên có điều kiện chủ động tự đề xuất nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định xã hội đối với các đề án quan tâm, tổ chức thực hiện và đề xuất kiến nghị gửi tới các cơ quan có liên quan và các cấp có thẩm quyền xem xét. Mặt khác, Liên hiệp Hội thực hiện hoạt động này không vì mục tiêu lợi nhuận. Điều này cho thấy, Liên hiệp Hội đề cao mục tiêu chính trị - xã hội, thực hiện trước hết bởi trách nhiệm của một nhà khoa học và tâm huyết muốn cống hiến cho đất nước. Đây không chỉ là tôn chỉ mà Liên hiệp Hội đề ra, thực tế đã khẳng định tính phi lợi nhuận trong hoạt động này. Như công trình thủy điện Sơn La, nếu theo chi phí thuê các chuyên gia nước ngoài thì hết hàng trăm tỷ, nhưng trong mười năm thực hiện nghiên cứu tư vấn đề án tối ưu cho Chính phủ, với sự đóng góp công sức của hơn bốn mươi nhà khoa học, chi phí chi hết khoảng 500 đến 600 triệu đồng. Không những tích kiệm được chi phí cho Nhà nước, mà các phương án của các nhà khoa học thuộc Liên hiệp Hội đưa ra còn mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao và giảm bớt chi phí khi thi công. Một ví dụ khác đó là việc trùng tu, bảo tồn khu di chỉ Hoàng thành Thăng Long - nơi Nhà nước đã có kế hoạch xây dựng công trình tòa nhà Quốc hội và Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam, trên cơ sở luận chứng khoa học các nhà nghiên cứu đã kiến nghị với Chính phủ tạm dừng thi công các công trình này và được Chính phủ chấp thuận. Đây là việc mà Liên hiệp Hội tự đề xuất, không phải nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho. Điều đó càng chứng tỏ tinh thần trách nhiệm cao của các nhà khoa học mà hoàn toàn không vì mục tiêu lợi nhuận. Do hoạt động trong một tổ chức chính trị - xã hội của đội ngũ trí thức KH&CN Việt Nam, nên cũng đem lại những ưu thế nhất định: trí thức có điều kiện để nói lên tiếng nói thống nhất, bày tỏ những tâm tư hay đề đạt nguyện vọng đối với Đảng và Nhà nước. Không những thế Liên hiệp Hội còn là tổ chức đại diện, bảo vệ những quyền lợi, lợi ích hợp pháp của trí thức KH&CN Việt Nam. Ngoài ra khi tham gia Liên hiệp Hội trí thức còn có điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, như tham gia soạn thảo các văn kiện quan trọng, tham mưu cho Đảng và Nhà nước những vấn đề quốc kế dân sinh, cung cấp những luận cứ khoa học một cách có hệ thống giúp cho việc ban hành các chủ trương, chính sách có thêm cơ sở khách quan và đạt hiệu quả… Tuy nhiên, đây là một tổ chức mang tính tự nguyện có quy mô lớn nên việc quản lý, tập hợp hội viên để phối hợp hoạt động cũng có những khó khăn nhất định. Mặt khác, hiện nay còn tồn tại tâm lý chỉ muốn làm khoa học thuần túy mà không liên quan đến các nhiệm vụ chính trị, cho nên tính chất chính trị - xã hội của Liên hiệp Hôi cũng là một trong những lý do khiến một số trí thức chưa muốn tham gia. 1.2.2. Đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam là lực lượng trí thức chuyên ngành về khoa học và công nghệ lớn nhất Việt Nam hiện nay Trong các tổ chức KH&CN ở Việt Nam hiện nay, Liên hiệp Hội là tổ chức có tiềm năng chuyên gia lớn nhất với 54/56 Hội ngành Trung ương, nơi tập hợp trí thức chuyên ngành (không tính hai Hội tập hợp chủ yếu là nông dân là Hội Nuôi ong, Hội Làm vườn Việt Nam) thuộc các lĩnh vực: - Khoa học xã hội và nhân văn gồm 08 Hội đó là: Hội Luật gia Việt Nam, Tổng Hội Y - Dược học Việt Nam, Hội Đông y Việt Nam, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Hội Khoa học Tâm lý giáo dục Việt Nam, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hội Dân tộc học Việt Nam, Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam. - Khoa học tự nhiên gồm 07 Hội: Hội Vật lý Việt Nam, Hội Toán học Việt Nam, Hội Địa lý Việt Nam, Hội Hóa học Việt Nam, Hội Khoa học Đất Việt Nam, Hội Địa Vật lý Việt Nam, Hội các ngành Sinh học Việt Nam. - 39 Hội và Tổng hội khoa học công nghệ, cụ thể: Hội Đúc - Luyện kim Việt Nam, Hội Khoa học công nghệ Mỏ Việt Nam, Tổng Hội Xây dựng Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Địa chất Việt Nam, Hội Cơ học Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Lâm nghiệp Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Cơ khí Việt Nam, Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam, Hội Tin học Việt Nam, Hội Vô tuyến Điện tử Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Trắc địa - Bản đồ Viễn thám Việt Nam, Hội Điện lực Việt Nam, Hội Chăn nuôi Việt Nam, Hội Thú y Việt Nam, Hội Bảo quản nông sản thực phẩm Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật nhiệt Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Biển Việt Nam, Hội Kế toán Việt Nam, Hội Khoa học - Công nghệ Tự động Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Phân tích Hóa, Lý và Sinh học Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Cầu đường Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật ăn mòn và bảo vệ kim loại Việt Nam, Hội Quy hoạch và Phát triển đô thị Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Mã số Mã vạch Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Không phá hủy, Hội Thông tin tư liệu KH&CN Việt Nam, Hội Sở hữu công nghiệp Việt Nam, Hội Khoa học - Kỹ thuật Đo lường Việt Nam, Hội Bảo vệ Thực vật Việt Nam, Hội Giống cây trồng Việt Nam, Hội Khoa học Kỹ thuật - An toàn thực phẩm Việt Nam, Hội Khoa học công nghệ Lương thực thực phẩm Việt Nam, Hội Vệ sinh an toàn lao động, Hội Các phòng thử nghiệm Việt Nam, Hội Thiết bị y tế Việt Nam, Hội Dược học Việt Nam, Hội Trí thức KH&CN trẻ Việt Nam, Hội Kỹ thuật Điện lạnh và Điều hòa không khí Việt Nam. Là những đơn vị mang tính chuyên ngành, các Hội trên tập hợp được nhiều chuyên gia hàng đầu của cả nước trong nhiều lĩnh vực quan trọng. Cơ cấu tổ chức rất đa dạng và phong phú với mức độ chuyên sâu và quy mô khác nhau, Có Hội hoạt động trong phạm vi chuyên ngành hẹp như: Hội Dân tộc học Việt Nam (01 đơn vị thành viên), Hội Bảo vệ thực vật Việt Nam (01 đơn vị thành viên), Hội Khoa học - Kỹ thuật ăn mòn và bảo vệ kim loại Việt Nam (10 đơn vị thành viên), Hội Vệ sinh an toàn lao động Việt Nam (03 đơn vị thành viên)… Bên cạnh đó có nhiều Hội hoạt động trong phạm vi rất rộng như Hội Khoa học Kỹ thuật Mã số Mã Vạch Việt Nam (670 đơn vị thành viên), Hội Kế toán Việt Nam (130 đơn vị thành viên),Tổng hội Y - Dược học Việt Nam (với 96 đơn vị thành viên), Hội Luật gia Việt Nam (86 đơn vị thành viên), Hội Đông y Việt Nam (70 đơn vị thành viên), Tổng Hội Xây dựng Việt Nam (47 đơn vị thành viên),… [55, tr. 14-16]. Đội ngũ trí thức thuộc các Liên hiệp Hội được tập hợp từ nhiều nguồn khác nhau (từ các cơ quan, tổ chức của Đảng và Nhà nước, các doanh nghiệp hay những người hoạt động tự do, không thuộc cơ quan, tổ chức đơn vị nào của Nhà nước, những người đã nghỉ hưu hoặc nghỉ theo các chế độ lao động), trong số họ không ít người đã và đang nắm giữ những vị trí quan trọng tại các Viện Nghiên cứu khoa học, các Bộ, ngành quan trọng của đất nước. Tuy nhiên, khi gia nhập Liên hiệp Hội, họ hoạt động với tư cách là những nhà khoa học theo đúng chuyên môn của mình. Tính chuyên ngành của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội thể hiện ở chỗ các Hội trên chỉ tập hợp những trí thức thuộc cùng chuyên môn, lĩnh vực nhất định: Hội Toán học Việt Nam là nơi tập hợp những người làm công tác giảng dạy, nghiên cứu về Toán học; Hội kế toán Việt Nam chỉ tập hợp những người thuộc chuyên ngành tài chính, kế toán, kiểm toán... Không những thế, một số Hội còn chia thành nhiều Phân hội thể hiện tính chuyên môn hóa sâu sắc. Tiêu biểu như Hội các ngành Sinh học Việt Nam có 16 Phân hội (2001) là: Động vật học, Thực vật học, Vi sinh vật học, Di chuyền học, Hóa sinh, Lý sinh, Côn trùng học, Ký sinh trùng, Công nghệ sinh học, Sinh lý người và động vật, Sinh lý thực vật, Sinh thái học, Sinh thái đất, Khoa học và công nghệ thực phẩm, Hội Sinh học phân tử và Bệnh lý thực vật, Hội những người giảng dạy Sinh học; Hội Địa chất Việt Nam gồm 10 Phân hội cụ thể là Cổ sinh - Địa tầng, Kiến tạo, Đệ tứ địa mạo, Trầm tích, Địa hóa, Khoáng học, Địa chất kinh tế, Địa chất công trình, Địa chất thủy văn, và Phân hội Công nghệ khoa,… Trong thực tế hiện nay tại một số cơ quan, đơn vị, tổ chức cũng có sự phân ngành như trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu của Nhà nước... Nhưng với tính chất là tập hợp đội ngũ trí thức chuyên ngành thì các Hội ngành Trung ương thuộc Liên hiệp Hội là nơi tập hợp được đông đảo nhất, có quy mô lớn nhất nước ta hiện nay. Toàn Liên hiệp Hội tập hợp được hơn 40 vạn trí thức KH&CN Việt Nam. Riêng các Hội ngành Trung ương tập hợp được hơn 20 vạn trí thức chuyên ngành, trong đó tiêu biểu là Hội Đông y Việt Nam (50.000 hội viên), Tổng hội Y dược học Việt Nam (hơn 10.000), Hội Luật gia Việt Nam (hơn 16.000). Với lực lượng "chất xám" chuyên ngành có quy mô và chất lượng lớn nhất nước ta hiện nay, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp Hội là lực lượng nòng cốt của trí thức KH&CN Việt Nam. Do tập hợp trí thức cùng chuyên môn, cùng lĩnh vực nghiên cứu và hoạt động nên rất thuận tiện trong việc phát huy nguồn lực trí tuệ để giải quyết những vấn đề mang tính chuyên sâu mà thực tiễn đặt ra. Sự phối hợp của nhiều nhà khoa học trong cùng lĩnh vực nghiên cứu sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn mà ngoài các Hội ngành này, các cơ quan, tổ chức khác khó có thể có được. Ngoài ra, Liên hiệp Hội có ưu thế về liên kết các ngành khoa học, khi cần có thể huy động được lực lượng đông đảo trí thức liên ngành đáp ứng được yêu cầu của những vấn đề đòi hỏi tri thức tổng hợp, toàn diện cả khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học và công nghệ. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi KH&CN phát triển mạnh thì sự phân công lao động xã hội ngày càng có tính chất chuyên môn hóa cao. Nó đòi hỏi người lao động không chỉ hiểu sâu sắc, vận dụng hiệu quả những tri thức khoa học của lĩnh vực mà mình tham gia, mà nó cần ở người lao động một lượng kiến thức tổng hợp, sâu rộng, phong phú. Tuy nhiên ngoài những lợi thế trên, đội ngũ này cũng gặp phải một số hạn chế nhất định như: do không quản lý về mặt hành chính như các cơ quan, đơn vị kinh tế - xã hội, nên cùng lúc trí thức có thể đảm nhiệm nhiều công việc, vừa tham gia sinh hoạt Hội vừa phải hoàn thành nhiệm vụ nơi công tác nên không đầu tư đúng mức cho công việc của Liên hiệp Hội. Hơn nữa, phần lớn kinh phí hoạt động không được Nhà nước cấp nên số lượng trí thức mặc dù đông nhưng không có đủ điều kiện phát huy hết năng lực của mình. Nếu khắc phục được những bất cập trên để trí thức có thể tập trung nhiều hơn cho công việc chuyên môn của Liên hiệp Hội thì sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội của đặt nước. Kết luận chương 1 Đội ngũ trí thức nước ta là một lực lượng quan trọng trong khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức. Cùng với sự phát triển của KH&CN, số lượng và chất lượng của đội ngũ này không ngừng tăng lên nhanh chóng. Tuy nhiên, đội ngũ trí thức còn nhiều bất cập trong cơ cấu và phân bố không đều, nhưng những đóng góp quan trọng cho thành công của công cuộc đổi mới đã ngày càng khẳng định vị trí và vai trò quan trọng của đội ngũ này đối với sự phát triển của đất nước. Trong quá trình CNH, HĐH, đội ngũ trí thức vừa cung cấp những luận cứ khoa học, vừa là người góp phần to lớn đưa những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống. Với vai trò chủ thể, họ chính là lực lượng trực tiếp và đi đầu trong việc thực hiện nội dung của quá trình CNH, HĐH. Thông qua chức năng cơ bản là phổ biến, truyền bá tri thức khoa học- kỹ thuật, trí thức còn giữ vai trò chính trong đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Là một bộ phận của đội ngũ trí thức Việt Nam, ngoài những đặc điểm chung, đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam có những đặc thù riêng, đó là hoạt động trong một tổ chức chính trị - xã hội, là lực lượng "chất xám" chuyên ngành lớn nhất ở nước ta hiện nay. Chính vì vậy, đội ngũ trí thức trong Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã, đang tạo nên ưu thế nhất định trong việc kết hợp nghiên cứu khoa học chuyên sâu với các hoạt động mang tính liên ngành phục vụ sự nghiệp xây dựng CNXH và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Chương 2 Thực trạng đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 2.1. Khái quát về số lượng, chất lượng và cơ cấu của đội ngũ trí thức thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam 2.1.1. Số lượng Thực hiện Chỉ thị số 45 CT/TW (1998) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về việc đẩy mạnh hoạt động của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, trong những năm qua, Liên hiệp Hội không ngừng củng cố và phát triển tổ chức, thu hút ngày càng đông đảo trí thức KH&CN tham gia. Trong tổng số hơn 40 vạn trí thức, ước tính có hơn 20 vạn hội viên thuộc các Hội ngành Trung ương, số còn lại hoạt động trong các đơn vị khác. Theo số liệu báo cáo của Hội đồng Trung ương tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (5/2004) Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, trong 45/56 Hội ngành đã tập hợp được 179.246 người. Trong đó có 17.690 người hoạt động trong lĩnh vực khoa học tự nhiên (chiếm 9,9%), 30.500 người hoạt động trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn (chiếm 17,0%) và 131.056 người hoạt động trong lĩnh vực khoa học công nghệ (chiếm 73,1%). Những năm qua số lượng trí thức tham gia Liên hiệp Hội không ngừng gia tăng thể hiện ở sự ra đời một số Hội ngành, từ 40 hội năm 1998 lên tổng số 56 hội năm 2005 (tăng 39%). Ngoài ra nhiều Hội có thêm hội viên mới, tiêu biểu như Hội Đông y Việt Nam tăng hơn 50% (từ 24.552 người năm 1998 lên 50.000 người năm 2004), Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường năm 2001 chỉ có 200 hội viên, năm 2004 lên 3.200 (tăng 3.000 người), Hội Kế toán trong ba năm (2001 - 2004) kết nạp được 1.950 hội viên. Tương tự cùng thời gian này các Hội Thú y Việt Nam là 4.300 người, Hội Địa chất Việt Nam 1.500 người, Hội Cơ khí Việt Nam là 500 người...Tuy vậy cũng có một vài Hội không tăng, thậm chí số lượng giảm nhưng không đáng kể như Hội Khoa học kỹ thuật Nhiệt Việt Nam, Hội Địa lý Việt Nam, v.v... So với các cơ quan, đơn vị, tổ chức khác ở nước ta, hiện nay Liên hiệp Hội vẫn là nơi tập trung nhiều nhất trí thức KH&CN Việt Nam, chỉ tính riêng các Hội ngành đã chiếm hơn 10%. Nhưng với tư cách là tổ chức chính trị - xã hội thì số lượng đội ngũ trí thức trên chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của Liên hiệp Hội. Hiện nay vẫn còn một lượng lớn trí thức ở trong nước và hơn 300.000 trí thức Việt kiều chưa tham gia Liên hiệp Hội. Vì vậy, trước yêu cầu ngày càng cao của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Liên hiệp Hội cần phải thu hút được đông đảo hơn nữa trí thức KH&CN, đặc biệt là trí thức trẻ và trí thức người Việt Nam ở nước ngoài. 2.1.2. Về chất lượng Liên hiệp Hội là nơi tập hợp những chuyên gia, các nhà khoa học đầu ngành về KH&CN Việt Nam. Nhiều người trong số họ đã từng nắm giữ những vị trí chủ chốt tại các cơ quan bộ, ngành, Viện nghiên cứu của Nhà nước, có bề dày về kinh nghiệm quản lý và chuyên môn. Về trình độ chuyên môn, hầu hết trí thức thuộc Liên hiệp Hội tốt nghiệp từ cao đẳng, đại học hoặc tương đương trở lên. Nhiều Hội ngành phần lớn hội viên là những người đã tốt nghiệp đại học trở lên, tiêu biểu là Hội Luật gia Việt Nam (70% có trình độ đại học và trên đại học), Hội Toán học Việt Nam, Hội Kế toán Việt Nam... Có Hội chỉ kết nạp những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy tại các Viện Nghiên cứu và các trường Đại học có từ 3 năm kinh nghiệm trở lên. Điều đó cho thấy, trình độ chung của lực lượng trí thức thuộc Liên hiệp Hội là tương đối cao so với mặt bằng chung của trí thức Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, số lượng những người được phong hàm giáo sư, phó giáo sư và học vị tiến sĩ cũng là một nhân tố phản ánh một phần quan trọng về trình độ chuyên môn của mỗi Hội. ._.Nam (2005), Dự thảo đề cương các Văn kiện trình Đại hội X, Hà Nội. Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Ngọc Hiên (2003), "Tác động của toàn cầu hóa đối với sự phát triển đội ngũ trí thức và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam", Tin hoạt động các Hội Khoa học và Kỹ thuật, (4), tr. 15-17. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Những quan điểm cơ bản của các nhà kinh điển về tầng lớp trí thức và yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta đối với đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay, Kỷ yếu Đề tài cấp bộ 1999-2000, Hà Nội. Đặng Hữu (2000), "Phát huy đội ngũ trí thức trẻ để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Xây dựng Đảng, (11), tr. 17-19. Phan Thanh Khôi (1992), Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo ở nước ta hiện nay, Luận án phó tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Phan Thanh Khôi (1996), "Những bài học từ quan điểm của V.I.Lênin về trí thức", Thông tin khoa học xã hội, (4), tr. 3-8. Phan Thanh Khôi (1998), Đội ngũ trí thức, chuyên gia và cán bộ quản lý khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đề tài KX05. 03, Hà Nội. Phan Thanh Khôi (1998), "Luận điểm về trí thức trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" và người trí thức hôm nay", Quốc phòng toàn dân, (2), tr.26-28. Phan Thanh Khôi (1999), "Trí thức trong khối liên minh công-nông-trí vì sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay", Tạp chí cộng sản (22), tr.34-38. Phan Thanh Khôi (2000), "Tổng quan về đội ngũ trí thức nước ta hiện nay", Thông tin lý luận, (4), tr.17-19. Phan Thanh Khôi (2000), "Quan điểm đối với trí thức trong thời kỳ cải cách, mở cửa ở Trung Quốc", Nghiên cứu lý luận, (10), tr.52-56. Phan Thanh Khôi (2001), "Bài học từ những quan điểm của Hồ Chí Minh về trí thức", Lịch sử Đảng, (2), tr 4-8. Phan Thanh Khôi (2002), "Nhà khoa học và sự sáng tạo trong khoa học xã hội", Khoa học Chính trị (1), tr.33-38, 62. Phan Thanh Khôi (2005), "Trí thức hóa công nhân"- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Lao động và công đoàn, (323 + 324), tr.17-19,51. Kinh tế tri thức và công nghiệp hóa, hiện đại hóa "rút ngắn" ở Việt Nam (2003), Hội thảo khoa học, Hà Nội. Bùi Thị Ngọc Lan (2002), Nguồn lực trí thức trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ Mátxcơva. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (1993), Mười năm xây dựng và hoạt động, Hà Nội. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam nhiệm kỳ 1993 - 1998, Hà Nội. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2002), Hội thảo: "Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các Hội khoa học và kỹ thuật Trung ương", Hà Nội. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2002), Tài liệu Hội thảo khoa học triển khai Quyết định 22/2002/QĐ-TTg về tư vấn, phản biện và giám định xã hội, Hà Nội. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị Hội đồng Trung ương lần thứ tư, nhiệm kỳ I V, Hà Nội. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị Hội đồng trung ương lần thứ năm, nhiệm kỳ I V, Hà Nội. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2004), Tọa đàm Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của cơ quan thường trực Liên hiệp Hội, Hà Nội. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2004), Báo cáo của Hội đồng Trung ương tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ năm Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2004), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ năm nhiệm kỳ 2004-2009, Hà Nội. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (2005), Công văn số 516/CV-LHH ngày 09 tháng 05 về việc "Góp ý bổ sung và hoàn thiện Nghị định 88/CP về hoạt động tổ chức và quản lý Hội". C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 22, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đặng Thị Mai (2003), Đội ngũ trí thức Hải Dương trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1981), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1981), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Đình Minh (2003), Phát huy vai trò nguồn lực trí thức Khoa học xã hội và nhân văn trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội. Đỗ Mười (1995), Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Chu Tuấn Nhạ (2001), "Để khoa học và công nghệ thực sự trở thành nền tảng và động lực của sự phát triển", Tạp chí Cộng sản, (13) tr.17-22. Nguyễn Xuân Phương (2004), Vai trò của trí thức thủ đô Hà Nội trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Lê Quang Quý (2005), Xây dựng đội ngũ trí thức ngành kiến trúc trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Nguyễn Văn Sơn (2001), Cơ cấu và chất lượng trí thức giáo dục đại học ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Đỗ Thị Thạch (1999), Trí thức nữ Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay - Tiềm năng và phương hướng xây dựng, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Vũ Bá Thể (2005), Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Lao động - Xã hội. Nguyễn Duy Thông (chủ biên) (1984), Chủ nghĩa xã hội và trí thức, Nxb Sự thật, Hà Nội. Phạm Thị Ngọc Trầm (2003), Khoa học, công nghệ với nhận thức, biến đổi thế giới và con người: mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. "Trí thức kiều bào bàn việc xây dựng quê hương",Http: //www.vusta.org.vn, (17/8/2005) Nguyễn Thanh Tuấn (1991), "Về nội dung phạm trù trí thức", Triết học, (2), tr.62-64. Nguyễn Thanh Tuấn (1998), Một số vấn đề về trí thức Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trịnh Quốc Tuấn (1995), "Quan điểm của V.I. Lênin đối với trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa", Nghiên cứu lý luận, (4), tr.7-11. phụ lục Phụ lục 1 Danh mục các đề tài, chương trình cấp nhà nước TT Tên dự án Đơn vị thực hiện Thời gian thực hiện Ghi chú 1 Đề tài KHCN 09.02 Định hướng chiến lược phát triển năng lượng đến 2020 Liên hiệp hội 1996-98 Nghiệm thu 10/1999 2 Đề tài KHCN 07.07 nghiên cứu diễn biến môi trường liên quan đến công trình Sơn La Liên hiệp hội 1996-98 Nghiệm thu 3/1999 3 Đề tài KHCN 09.10 Tổng hợp chiến lược và chính sách phát triển năng lượng bền vững quốc gia Liên hiệp hội 1996-98 Nghiệm thu 1999 4 Đề tài KHCN.09.11 Liên hiệp hội 1996-98 Nghiệm thu 1999 5 Nghiên cứu đánh giá tính an toàn và hiệu lực thuốc CEDEMEX trong hỗ trợ cắt cơn nghiện ma túy nhóm opiates Viên nghiên cứu dược liệu và các bện hiểm nghèo 2002-074 Đề tài độc lập cấp Nhà nước 6 Nghiên cứu chế tạo và lắp ráp hệ thống tự động hóa giám sát, xử lý, cảnh báo môi trường tại các khu công nghiệp và đô thị lớn Liên hiệp KHKT công trình SEEN 2002-04 Chương trình trọng điểm cấp Nhà nước 7 Cơ sở khoa học cho vấn đề quản lý bền vững môi trường và nguồn lợi thủy sản vùng biển ven bờ Việt Nam thị trường Tư vấn, chuyển giao công nghệ nguồn lợi thủy sinh và môi trường ACTARE 2001-03 Báo cáo chuyên đề 8 Hoàn thiện công nghệ thiết kế, chế tạo và thi công kè thảm bê tông tự chèn lưới thép P.D.TAC-M bảo vệ bờ sông khỏi sạt lở. Hội Sở hữu Công nghiệp Việt Nam 2002-04 Chương trình KC08 9 Nghiên cứu đề xuất các giải pháp sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng sản năng lượng và bảo vệ môi trường Hội KHCN Mỏ Việt Nam 2004-05 Chương trình KC08 Nguồn: [54, tr. 67-68]. Phụ lục 3 tổng hợp số liệu về các hội thảo khoa học (Thống kê chưa đầy đủ) STT Nội dung hội thảo Thời điểm liên hiệp hội 1 Hoạt động của các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài và các tổ chức đoàn thể xã hội của Việt Nam trong phát triển cộng đồng 16-17/1999 2 Huy động các lực lượng khoa học và công nghệ thực hiện chương trình mục tiêu quôc gia 28/11/1999 3 Tầm nhìn2020 18/1/2000 4 Tâm lý học với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 9/3/2000 5 Các cơ thể sinh vật được biến đổi di truyền 26/5/2000 6 Mã số, mã vạch 28/6/2000 7 Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững 6-7/11/2001 8 Phát huy vai trò của Liên minh công - nông - trí trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 23/1/2002 9 Các giải pháp hỗ trợ cộng đồng dân tộc H'Mông ở Tây Bắc phát triển bền vững 15/3/2002 10 Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các hội khoa học và kỹ thuật ngành Trung ương 4/4/2002 11 Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các hội khoa học và kỹ thuật ngành Trung ương 6/5/2002 12 Bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên 4-5/8/2002 13 Phối hợp phát triển cộng động và xóa đói, giảm nghèo khu vực Bắc Trung bộ 20-21/02/2003 14 Tri thức Việt Nam với sự nghiệp phát triển đất nước 24/3/2003 15 Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam 29-30/7/2003 16 Tổ chức thương mại thế giới: các tác động đối với an ninh lương thực và giảm nghèo ở Việt Nam 27-28/8/2003 17 Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt 2/10/2003 18 Báo cáo kết qủa khai quật khu vực xây dựng nhà Quốc hội và Hội trường Ba Đình 13/10/2003 19 Hội thảo-Tập huấn nghị định 88/2003/NĐ-CP của Chính phủ 30/7/2003 20 Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với liên hiệp hội và nâng cao năng lực tư vấn trong xây dựng, thẩm định và quản lý Dự án 23-24/10/2003 21 Hội thảo quốc thế ASEAN 28/12/2000 22 Góp ý kiến vào dự thảo báo cáo chính trị trình đại hội IX của Đảng 20/2/2001 23 Hệ thống công nhân kỹ sư hành nghề 15/2/2001 24 Nghiên cứu các tổ chức KHCN hoạt động theo NĐ 35/HĐBT không thuộc Chính phủ khu vực Phía Nam 21/2/2001 25 Hội thảo sinh học quốc tế 02-05/7/2001 26 Xây dựng mô hình nông nghiệp, nông thôn theo hướng Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 15-15/6/2001 Các hội ngành trung ương 1 Giao lưu văn hóa pháp lý 10-12/7/1999 2 Xử lý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và thực hiện Nghi định12/CP/1999 của Chính Phủ 3/9/1999 3 Cấu trúc quần xã sinh vật đất và phát triển bền vững hệ sinh thái đất 23-24/1999 4 Vì an ninh lương thực, thực phẩm cho người tiêu dùng 14/12/1999 5 Thành tố văn hóa trong dạy-học ngoại ngữ 22/1/2000 6 Những thành tựu mới trong lĩnh vực cơ - điên từ 20-21/1/2000 7 Hội thảo khoa học về sách giáo khoa vật lý ở bậc đại học và sau đại học 5/5/2000 8 Danh pháp và thuật ngữ hóa học hữu cơ 27/5/2000 9 Công nghệ xử lý rác thải và bảo vệ môi trường 27/5/2000 10 Bếp đun tiết kiệm chất đốt 12/9/2001 11 Kiểm tra không phá hủy trong xây dựng 18//10/2001 12 Góp ý về Dự án Luật sửa đổi. bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 17/1/2002 13 Góp ý kiền cho Dự án Tổng quan về vấn đề phòng, chống tai nạn, thương tích cho trẻ em trong pháp luật Việt Nam 4/2/2002 14 Góp ý cho sách giáo khoa mới 2-3/7/2002 15 Khai thác, chế biền và sử dụng tài nguyên Boxit ở Việt Nam 22/6/2002 16 Hội thảo Ngữ học Trẻ 2003- Lần đầu tiên tổ chức tại Miền trung 15/4/2003 17 Chất lượng và Công nghệ xây dựng Nhà cao tầng 21-22/5/2003 18 Hóa học phục vụ nông nghiệp 12/6/2003 19 Một số vấn đề trong viễn thám và GIS - Triểnvọng ở Việt Nam 10/6/2003 20 Đo lường Việt Nam hội nhập quốc tế và khu vực 30/5/2003 21 Mô hình làng lấp hướng tới phát triển bền vững 14-15/8/2003 22 Chống thất thoát trong đầu tư xây dựng - nhìn từ nhiều phía 27/11/2003 Nguồn: [54, tr. 81-85]. Phụ lục 4 Hình hình đào tạo - bồi dưỡng tại cơ quan thường trực liên hiệp hội STT NộI dung Số lượng học viên Năm 1999 1 Tập huấn nghiệp vụ về công tác Đảng 30 2 Lớp Quán triệt Nghị quyết TW 6 100 3 Đào tạo ngoại ngữ Anh văn 20 4 Cử cán bộ học lớp quản lý và thẩm định DA 5 5 Lớp thẩm định Dự án 90 6 Quán triệt Nghị quyết TW 6 lần 2 và phát động xây dựng, chỉnh đống Đảng 110 7 Lớp bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí 80 8 Lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý các tổ chức KH-CN 100 9 Lớp NQ TW 7 & 8 110 10 Lớp tiếng Anh giao tiếp 20 Năm 2000 1 Lớp bối dưỡng công tác Thi đua khen thưởng 70 2 Lớp bồi dưỡng công tác Đảng và phổ biến các văn kiện Đảng 100 3 Lớp tập huấn công tác quản lý các đề tài khoa học 80 4 Lớp bồi dưỡng các kỹ năng và nghiệp vụ văn phòng 75 5 Lớp tư vấn về xây dựng, thẩm định và quản lý dự án tại Bình Định 80 6 Lớp tư vấn về xây dựng, thẩm định và quản lý dự án tại Phú Yên 50 7 Lớp tư vấn về xây dựng, thẩm định và quản lý dự án tại Thái Bình 70 8 Lớp tư vấn về xây dựng, thẩm định và quản lý dự án tại Yên Bái 60 9 Tập huấn khai thác sử dụng mạng Line, và thư điện tử 20 10 Lớp bồi dưỡng nghiệp vụ Thuế 80 Năm 2001 1 Lớp bối dưỡng nghiệp vu công tác Hội 80 2 Lớp Nghiệp vụ báo chí 100 3 Lớp bảo hoọ quyển sở hữu công nghiệp ở Việt Nam 85 4 Lớp tiếng anh 25 5 Đào tạo tin học: Sử dụng mạng Internet 20 6 Bỗi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng 100 7 Lớp Nghị Quyết 9 của Đảng 100 8 Lớp bồi dưỡng Luật KHCN 90 9 Lớp tư vấn về Ninh Bình 60 10 Lớp tư vấn về xây dựng, thẩm định và quản lý dự án tại Lào Cai 55 Năm 2002 1 Lớp bồi dưỡng công tác tổ chức và kiểm tra Đảng ủy 90 2 Lớp bồi dưỡng Nghị quyết TW 5 100 3 Lớp xây dựng khung logic cho 1 dự án 40 4 Lớp tư vấn về xây dựng, thẩm định và quản lý dự án tại Lâm Đồng 60 5 Lớp nghiệp vụ Văn phòng: Tổng hợp và phân tích báo cáo 70 6 Lớp tập huấn về các bước xây dựng dự án và Khung logic dự án 40 7 Đào tạo tiếng Anh 25 8 Lớp Tin học văn phòng 20 9 Lớp tin học; Khai thác mạng Internet và sử dụng E-mail 35 Năm 2003 1 Lớp bồi dưỡng tư tưởng Hồ Chí Minh 90 2 Năng lực tư vấn tại Bắc Giang 80 3 Lớp bồi dưỡng Nghị định 88 80 4 Tập huấn nghiệp vụ công tác Đảng 40 5 Tập huấn Nghị quyết 9 của Đảng 100 6 Bồi dưỡng kỹ năng lắng nghe 60 7 Tập huấn nâng cao năng lực tư vấn tại Kiên Giang 100 Nguồn: [54, tr. 44-45]. Phụ lục 5 tình hình đào tạo - Bối dưỡng của các hội ngành trung ương STT Hội ngành trung ương Nội dung và số lớp số học viên 1 Hội Đông y 10 lớp đào tạo, tập huấn 400 2 Hội vật lý VN 3 Hội Cơ khí 55 khóa đào tạo, tập huấn 1100 Đào tạo về lái xe ô tô du lịch và ô tô tải, lái xe máy, sửa chữa ô tô và xe máy, đào tạo thợ nguội, thợ hàn..dạy cắt may công nghiệp (làm việc theo dây truyền của xí nghiệp may) 2000 Bồi dưỡng kiễn thức về máy tính, CAD, CAm, máy công cụ điều khiển chương trình CNC 50 Đào tạo công nhân hàn bậc cao tại nhà may điện Phả Lại II, phục vụ công trình lắp máy 50 Bồi dưỡng quy phạm và tiêu chuẩn chế tạo các loại hình, bể chịu áp lực của nhà máy nhiệt điện và thuỷ điện cho các van bộ kỹ thuật và công nhân có liên quan 50 Tổ chức tập huấn về công nghệ chế biến chè xanh, sắn. dong riềng theo quy mô hộ gia đình cho một số tỉnh miền núi như Hòa Bình, Bắc Cạn... 240 Tham gia biên soạn, xây dựng và phổ biến tiêu chuẩn về Thiết bị Nông LâmNghiệp theo tiêu chuẩn ISO, tư vấn cho một số đơn vị thuộc Đắc Lắc, Gia Lai về chế biến cà phê 100 4 Hội vô tuyến điện tử VN Gia công nhiệt bằng SCT 100 Viễn thám 100 Y tế viễn thông 100 Xử lý mù tin hiệu 100 ứng dụng trường điện từ nâng cao 100 Xử lý tín hiệu số nâng cao 100 Công nghệ nén ảnh 100 Truyền tải đa sóng mạng 100 Mạng Phôtôn-Thông tin Quang nâng cao 100 Toán tin 130 Vật lý điện tư 70 Công nghệ thông tin 75 Điện tử viễn thông 75 5 Hội điện lực Đào tạo chuyên đề về quản lý nhu cầu phụ tải điện 50 Tập huấn về báo chí cho các biên tập viên tạp chí "Điện và đời sống" 25 Tập huấn và góp ý luật Điện lự cho cán bộ đầu ngành điện phía Nam 50 Tập huẫn về luật khoa học và công nghệ cho các chi hội trưởng 25 7 Hội Thú Y Việt Nam Phòng chống bệnh Lở mồm Long móng 125 Đại học thú y tại chức 56 Trung học thú y tại chức khóa 1 43 Trung học thú y tại chức khóa 2 49 Dinh dưỡng và thức ăn gia cầm 100 Thú y trong chăn nuôi lợn 80 Quản lý và sử dụng thuốc thú y 100 Dịch tễ học thú y 90 Thú y trong chăn nuôi bò sữa 150 Những bệnh viêm đường sinh dục của bò cái 150 Bệnh viêm vú và bệnh về chân của bò sữa 120 Sử dụng vacxin phòng chống bệnh chó dại và bệnh Lở mồm long móng trâu bò 800 8 Hội kế toán Việt Nam Mở 230 khóa bối dưỡng, phổ biến kiến thức về tài chính, kế toán, kiếm toán 21312 9 Hội tự động hóa 50 khóa đào tạo 1000 10 Hội KHKT cầu đường Đào tạo tư vấn giám sát cho Hội Cầu đường Quảng Bình 65 Lớp đào tạo nâng cao chuyên ngành CĐ của DA nâng cấp QL1 70 Đào tạo TVGS chuyên ngành XDCT tại Quảng Bình 65 11 Hội Mã số Mã vạch Gần 100 khóa đào tạo 2000 12 Hội thử nghiệm không phá hủy 20 khóa đào tạo 300 13 Hội thông tin tư liệu 2 khóa phục vụ thông tin cho doanh nghiệp 30 Nguồn: [54, tr. 46-48]. Phụ lục 6 Các dự án phát triển cộng đồng và xóa đói giảm nghèo STT Nôi dung dự án địa điểm Thời gian Phát triển cộng đồng, xóa đói giảm nghèo 1 Dự án "Phát triển cộng đồng huyện Hợp tỉnh Nghệ An" Tại 3 xã thuộc huyện Quỳ Hợp, Nghệ An 2 Dự án "Nâng cao năng lực quản lý các dự án phát triển của cộng đồng và tổ chức đoàn thể địa phương" 3 Dự án "Chương trình phát triển cộng động H'Mông xã Quan Thần Sán, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai" H'Mông xã Quan Thần Sán, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai 4 Dự án "Nâng cao nhận thức, hiểu biết và những kỹ năng về phát triển sản xuất, chăn nuôi, quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, Vệ sinh môi trường và chăm sóc sức khỏe cho cộng động 13 xã thuộc huyện: Minh Hóa, Tuyên Hóa và Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình" 13 xã thuộc 3 huyện: Minh hóa, Tuyên Hóa và Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình 5 Dự án "Chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng" Công ty xây dựng tổng hợp miền núi Quảng Bình thực hiện 6 Các dự án nhỏ đã được triển khai có hiệu quả trong lĩnh vực giáo dục nhận thức về thiên nhiên và môi trường của EVN... Chăm sóc sức khỏe cộng đồng 1 Dự án nghiên cứu "Tìm hiểu về sự kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS ở Việt Nam" Hải phòng, Cần Thơ 8/2002-6/2003 2 Dự án nghiên cứu cơ bản về "Hành vi sức khỏe sinh sản tại Thái Bình" Thái Bình 6-10/2002 3 Dự án nghiên cứu "Gánh nặng của phụ nữ có người thân nghiện ma túy và nhiễm HIV/AIDS Hải Phòng 10-12/2002 4 Dự án nghiên cứu "Tìm hiểu phong tục tập quán và thực hành chăm sóc thai nghén và sinh đẻ của phụ nữ dân tộc thiểu số tại Nghệ An" Nghệ An 11/2002 1/2003 5 Dự án " Nghiên cứu cơ ản và biên soạn sổ tay về chăm sóc và hỗ trợ người nhiễm HIV/AIDS 11-12/2002 6 Dự án "Củng cố năng lực nghiên cứu về tình dục và sức khỏe tình dục ở Việt Nam 7/2002 12/2003 7 Dự án "Đánh giá chương trình quốc gia phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam giai đoạn 1996-2001" 1996-2001 8 Dự án "Tư vấn giám sát cho việc triển khai các môt hình cung cấp dịch vụ sức khỏe cho các khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa" 2002-2003 9 Dự án nghiên cứu về "Những người nhiễm HIV ở Đà Nẵng, Hải Phòng, Thái Nguyên" Đà Nẵng, Hải Phòng, Thái Nguyên 10 Dự án nghiên cứu về "Kỳ thị và phân biệt đối xử gắn với tình trạng nhiễm HIV ở Hà Nội" Hà Nội 11 Dự án nghiên cứu về "Giới và giới tính với nhiễm HIV ở Quảng Ninh và An Giang"; các dự án nghiên cứu về "Lập kế hoạch dự phòng và nghiên cứu về HIV/AIDS", "Chăm sóc và tư vấn HIV/AIDS" Quảng Ninh, An Giang 1999-2002 12 Dự án nghiên cứu "Đánh giá tư liệu truyền thông phòng chống AIDS" của một số tỉnh thành trong cả nước 1995-1998 13 Dự án nghiên cứu "Đánh giá công tác giáo dục đồng đẳng" Hà Nội, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hải Phòng và Nghệ An 14 Dự án "Cải thiện tiếp cận thông tin và dịch vụ về chăm sóc sức khỏe cộng đồng" Tại 2 xã Quỳ Châu, Nghệ An 15 Dự án "Phòng chống HIV/AIDS vùng Tây Bắc Nghệ An" Tại 5 xã, trong đó có 3 xã thuộc huyện Nghĩa Đàn, 2 xã thuộc huyện Quỳ Hợp Nghệ An 16 Dự án" Sức khỏe gia đình và An ninh lương thực" Tại 6 xã thuộc huyện Quỳ Hợp, Nghệ An Giáo dục và văn hóa 1 Dự án "Chương trình xây dựng mô hình đào tạo, phát triển năng lực cộng đồng" 2 Dự án "Mô hình điểm về nghiên cứu bản sắc văn hóa cộng đồng dân tộc Mã Liềng bản Kè, xã Lâm Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình" Cộng đồng dân tộc Mã Liềng bản Kè, xã Lâm Hóa, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình" 3 Dự án "Đào tạo cán bộ y tế thôn bản" 4 Dự án "Góp phần nâng cao năng lực hoạt động của nông dân nòng cốt dân tộc H'Mông, Dao, Xinh Mun, Thái tại huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La, Tỉnh Lai Châu, huyện Bắc Hà và Huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai và huyện Ba vì, tỉnh Hà Tây Nông dân nòng cốt dân tộc H'Mông, Dao, Xinh Mun, Thái tại huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La, tỉnh Lai Châu, huyện Bắc Hà và huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai và huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây 5 Dự án "Hỗ trợ học bổng cho học sinh dân tộc thiểu số" Vấn đề giới tính và bình đẳng giới 1 Dự án nghiên cứu "Vấn đề sử dụng đất và quyền lợi của phụ nữ Việt Nam 12/2002 12/2004 2 Dự án nghiên cứu "Tình trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ' 2001 3 Dự án "Nâng cao năng lực của người dân, đặc biệt là phụ nữ trong quản lý kinh tế hộ gia đình, quản láy tiết kiêm-tín dụng, quản lý cộng động, góp phần nâng cao vai trò, vị trí của người phụ nữ trong các hoạt động phát triển " 4 Dự án nghiên cứu "Các vấn đề giới và văn hóa xã hội tại Nghệ An Nghệ An 5-8/2002 Sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và môi trường 1 Dự án "Nghiên cứu các khía cạnh, xã hội của việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên ở cửa sông Ba Lạt vùng đồng bằng Sông Hồng" Cửa sông Ba Lạt vùng đồng bằng Sông Hồng 2 Dự án nghiên cứu "Tính nhạy cảm của xã hội và sự bền vững của tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam 3 Dự án "Nâng cao năn lực quản lý kinh tế hộ gia đình, cộng đồng và tài nguyên thiên nhiên cho các nông dân nòng cốt và điều phối viên trên địa bàn 13 xã" 4 Dự án "Tạo quyền cho các cộng đòng thông qua chương trình đất, giao rừng và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên" Nguồn: [54. tr. 90-95]. Phụ lục 7 một số hội nghị và hội thảo quốc tế STT Nội dung đơn vị tổ chức thời điểm 1 Hội thảo quốc tế về kỹ thuật xử lý nền trong vung đất yếu Liên hiệp hội 4/10/1999 2 Hội nghị lần thứ 18 Liên đoàn các tổ chức kỹ sư các nươc ASEAN Liên hiệp hội 23-25/11/2000 3 Hội thảo quốc tế về sinh học Liên hiệp hội 2-5/7/2001 4 Hội thảo quốc tế về những vấn đề giáo dục và tâm lý của học sinh và sinh viên Liên hiệp hội 9-10/12/2002 5 Hội nghị Hóa học á - âu lần thứ VIII Hội nghị Hóa học á - âu lần thư X Hội hóa học 21-23/10/2003 6 Hội thảo quốc tế về giao lưu văn hóa pháp lý Hội Luật gia 10-12/7/1999 7 Hội thảo khoa học Việt - Nhập về những thành tựu mới trong lĩnh vực cơ- điện tử Hội cơ học 20-21/1/2000 8 Hội thảo về điều hòa trung tâm và tích nhiệt năng Trung tâm nghiên cứu năng lượng và môi trường 29/3/2000 9 Hội thảo về dự báo EL Nino và La Nina ở Đông Dương Trung tâm nghiên cứu, giáo dục môi trường và phát triển 21/1/2002 Nguồn: [54, tr. 99]. Phụ lục 8 Danh mục các ấn phẩm định ký của liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật việt nam TT Tên cơ quan báo chí Tên cơ quan chủ quản trực tiếp I. Báo Cơ quan thường trực liên hiệp các hội KH&KT Việt Nam 1. Báo Khoa học và Đời sống Liên hiệp các hội KH & KT Việt Nam 2. Báo Khoa học và Đời sống - Số cuối tuần Liên hiệp các hội KH & KT Việt Nam 3. Báo Khoa học và Đời sống - Chuyên đề Dân tộc thiểu số và Miền núi Liên hiệp các hội KH & KT Việt Nam Hội ngành trung ương 4. Thời báo Kinh tế Việt Nam Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam 5. Thời báo Kinh tế Việt Nam - Số cuối tuần Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam 6. Vienam Economic Times Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam 7. The Guide (Tiếng Anh) Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam 8. The Guide (Tiếng nhật) Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam 9. The Guide (Tiếng Trung Quốc) Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam 10. Thời báo Kinh tế Việt Nam -Tư vấn tiêu dùng Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam 11. Thời báo Kinh tế Việt Nam - Báo Điện tử (www.Vneconomy.com.Vn) Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam 12. Báo Kinh tế Nông thôn Hội làm vườn Việt Nam 13. Báo Kinh tế Nông thôn - Số cuối tuần Hội làm vườn Việt Nam 14. Báo kinh tế Nông thôn - Chuyên đề Dân tộc thiểu số và miền núi Hội làm vườn Việt Nam 15. Báo Đời sống và Pháp luật Hội Luật gia Việt Nam II. Tạp chí Cơ quan thường trực Liên hiệp các hội KH & KT Việt Nam 20. Tạp chí Khoa học và Tổ quốc - Diễn đàn trí thức Liên hiệp các hội KH&KT Việt Nam 21. Tạp chí Khoa học và Tổ quốc-Tri thức-Tuổi trẻ & Sáng tạo Liên hiệp các hội KH&KT Việt Nam Hội ngành trung ương 22. Tạp chí Y học Việt Nam Tổng Hội Y Dược học Việt Nam 23. Tạp chí Y học dự phòng Tổng Hội Y Dược học Việt Nam 24. Tạp chí Revue Medicale Tổng Hội Y Dược học Việt Nam 25. Tạp chí Revue Pharmacentique Tổng Hội Y Dược học Việt Nam 26. Tạp chí Nội khoa Tổng Hội Y Dược học Việt Nam 27. Tạp chí Ngoại khoa Tổng Hội Y Dược học Việt Nam 28. Tạp chí Thuốc và sức khỏe Tổng Hội Y Dược học Việt Nam-Hội Dược học Việt Nam 29. Tạp chí Tim mạch học Tổng Hội Y Dược học Việt Nam 30. Tạp chí Sinh lý học Tổng Hội Y Dược học Việt Nam 31. Tạp chí Phụ sản Tổng Hội Y Dược học Việt Nam 32. Tạp chí Đông y Việt Nam Hội Đông y Việt Nam 33. Tạp chí ứng dụng toán học Hội Toán học Việt Nam 34. Tạp chí Tin học và Đời sống Hội Tin học Việt Nam 35. Tạp chí Điện tử Hội Vô tuyến Điện tử Việt Nam 36. Tạp chí Điện tử - Coputer Fan Hội Vô tuyến Điện tử Việt Nam 37. Tạp chí Điện và Đời sống Hội Điện lực Việt Nam 38. Tạp chí kế toán Hội Kế toán Việt Nam 39. Tạp chí Vật lý Ngày nay Hội Vật lý Việt Nam 40. Tạp chí Hóa học và ứng dụng Hội Hóa học Việt Nam 41. Tạp chí Pháp lý Hội Luật gia Việt Nam 42. Tạp chí Pháp luật (Tiếng Anh và tiếng Pháp) Hội Luật gia Việt Nam 43. Tạp chí Ngôn ngữ và Đời ssóng Hội Ngôn ngữ học Việt Nam 44. Tạp chí Dân tộc và Thời đại Hội Dân tộc Việt Nam 45. Tạp chí Xưa và nay Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam 46. Tạp chí Cổ vật tinh hoa Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam 47. Tạp chí Thế giới tiêu dùng Hội KH Tâm lý Giáo dục Việt Nam 48. Tạp chí Người tiêu dùng Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam 49. Tạp chí Con đường xanh Hội Bảo vệ Thiên nhiên & Môi trường Việt Nam 50. Tạp chí Di truyền học và ứng dung Hội các ngành Sinh học Việt Nam 51. Tạp chí Phân tích Hóa, Lý và Sinh học Hội Phân tích Hóa, Lý và Sinh Học Việt Nam 52. Tạp chí Chăn nuôi Hội Chăn nuôi Việt Nam 53. Tạp chí KHKT Thú y Hội Thú y Việt Nam 54. Tạp chí Cơ khí Việt Nam Hội KHKT Cơ khí Việt Nam 55. Tạp chí Công nghệ Mỏ Hội KH&CN Mỏ Việt Nam 56. Tạp chí Khoa học Đất Hội Khoa học Đất Việt Nam 57. Tạp chí Biển Việt Nam Hội KHKT Biển Việt Nam 58. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nhiệt Hội KHKT Nhiệt Việt Nam 59. Tạp chí Trắc địa bản đồ Hội Trắc địa Bản đồ Viễn thám Việt Nam 60. Tạp chí Khoa học địa chất công trình và môi trường Hội Địa chất Việt Nam 61. Tạp chí Cầu đường Việt Nam Hội KHKT Cầu đường Việt Nam 62. Tạp chí Tự động hóa ngày nay Hội KHCN Tự động Việt Nam 63. Tạp chí Tri thức và Công nghệ Hội KHKT Đúc-Luyện Kim Việt Nam 64. Tạp chí Người Xây dựng Hội KHKT Xây dựng Việt Nam 65. Tạp chí Xây dựng Điện Việt Nam Hội KHKT Xây dựng Việt Nam 66. Tạp chí Môi trường Đô thị Hội KHKT Xây dựng Việt Nam III. Bản tin và các loại ấn phẩm định ký khác Cơ quan thường trực Liên hiệp các Hội KH&KINH Tế Việt Nam 67. Tin hoạt động các Hội Khoa học và Kỹ thuật Liên hiệp các hội KH&KT Việt Nam Hội ngành trung ương 68. Bản tin Hội KHKT Xây dựng Việt Nam Hội KHKT Xây dựng Việt Nam 69. Bản tin Môi trường Đô thị Hội KHKT Xây dựng Việt Nam 70. Công nghiệp Bê tông Việt Nam Hội KHKT Xây dựng Việt Nam 71. Địa kỹ thuật Hội KHKT Xây dựng Việt Nam 72. Trái đất xanh Hội Bảo vệ thực vật Việt Nam 73. Địa cầu Hội KHKT Địa lý Việt Nam 74. Ngữ học trẻ - Diễn đàn học tập và nghiên cứu Hội Ngôn ngữ học Việt Nam 75. Thông tin Những vấn đề sinh học ngày nay Hội các ngành Sinh học Việt Nam 76. Tin hoạt động Sở hữu công nghiệp Hội Sở hữu Công nghiệp Việt Nam 77. Tin học - chỉ dẫn và tìm kiếm Hội Tin học Việt Nam 78. Tin học và Nhà trường Hội Tin học Việt Nam 79. Thông tin Kinh doanh và Tiếp thị Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam 80. Bản tin Lâm nghiệp Hộ KHKT Lâm nghiệp Việt Nam 81. VACVINA Hội làm vườn Việt Nam 82. Bản tin Trang trại VAC Hội làm vườn Việt Nam 83. Đặc san Đo lường Hội KHKT Đo lường Việt Nam 84. Toán học & Tuổi trẻ Hội Toán học Việt Nam +Bộ GD &ĐT 85. Thông tin toán học Hội Toán học Việt Nam 86. Vật lý tuổi trẻ Hội Vật lý Việt Nam 87. Vật lý Phổ thông Hội vật lý Việt Nam 88. Kỷ yếu Olimpic Cơ học toàn quốc Hội Cơ học Việt Nam 89. Thông tin Công nghệ đồng phát nhiệt điện Hội KHKT Nhiệt Việt Nam 90. Phụ san Tri thức và Công nghệ Hội KHKT Đúc-Luyện kim VNam 91. Bản tin Hội Thông tin tư liệu KH&CN Việt Nam Hội Thông tin Tư liệu Khoa học và Công nghệ Việt Nam 92. Chuyên san Chất lượng và Hội nhập Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam Nguồn: [54, tr. 29-38]. Phụ lục 10 danh mục các dự án đầu tư có sự đóng góp ý kiến của các liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam STT Tên dự án Thời gian Số hội tham gia Số người tham gia 1 Công trình thủy điện Sơn La (Dự án khả thi) 5-1999 9 34 2 Quy hoạch lũ đồng bằng Sông Cửu Long 5-1999 4 29 3 Đường Hồ Chí Minh (đoạn qua Vườn Quốc gia cúc Phương) 10-2000 10 30 4 Thủy điện Lai Châu + thủy điện Sơn La nhỏ 1-2001 10 30 5 Thay nước Hồ Tây 5-2001 4 30 6 Quy hoạch bậc thang thủy điện trên sông Đà 1-2002 10 37 7 Công trình thủy điện Sơn La (Hồ sơ bổ sung) 1-2002 10 37 8 Thủy điện thác Đầu Đẳng - Bắc Cạn 7-2002 8 20 9 Hồ sơ nghiên cứu khả thi (cuối cùng) công trình thủy điện Sơn La 5-2003 4 9 Nguồn: [54, tr. 80]. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan van - chinh thuc.doc
  • docPhu luc 2-9-11.doc
  • docViet tat.doc
  • docBia- ThS.doc
  • docMuc luc.doc
Tài liệu liên quan