Đội ngũ công nhân Thái Nguyên với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta hiện nay, giai cấp công nhân không chỉ là giai cấp lãnh đạo mà còn là lực lượng đi đầu, trực tiếp thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, vấn đề xây dựng giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh về mọi mặt là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của Đảng, Nhà nước của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân. Thái Nguyên là Thủ đô trong những năm nhân dân ta kháng chiến chống thực

doc118 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1468 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đội ngũ công nhân Thái Nguyên với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dân Pháp, là thành phố công nghiệp trong hiện tại. Đội ngũ công nhân Thái Nguyên là một bộ phận của giai cấp công nhân Việt Nam với những truyền thống bất khuất kiên cường. Trải qua gần một thế kỷ phát triển, đội ngũ công nhân Thái Nguyên không ngừng trưởng thành về nhiều mặt, có vai trò to lớn trong tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đội ngũ công nhân Thái Nguyên tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng đó. Tuy nhiên, cũng như giai cấp công nhân cả nước, đội ngũ công nhân Thái Nguyên đã và đang có biến động, bắt đầu bộc lộ những mặt mạnh cũng như những mặt hạn chế và yếu kém đòi hỏi phải từng bước khắc phục để có thể đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công hoá hiện đại hoá, thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử của mình. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề phát triển đội ngũ công nhân Thái Nguyên là việc làm vừa cơ bản lâu dài, vừa cấp bách. Do vậy, tôi chọn đề tài "Đội ngũ công nhân Thái Nguyên với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá" làm luận văn tốt nghiệp cao học với hy vọng góp một chút sức lực nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu vấn đề trên. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài ở Việt Nam trong những năm gần đây, vấn đề giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó đã được nhiều công trình khoa học nghiên cứu với nhiều góc độ, những phạm vi khác nhau. Đáng chú ý là một số công trình nghiên cứu về giai cấp công nhân là gì? thực trạng giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam; những giải pháp xây dựng giai cấp công nhân hiện nay...chẳng hạn như: "Đặc điểm và xu hướng biến đổi cơ cấu - giai cấp công nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" (Đỗ Khánh Tặng - Luận án phó tiến sĩ, Hà Nội, 1990). "Giai cấp công nhân Việt Nam vai trò xu thế biến động về cơ cấu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" (Bùi Đình Bôn - Luận án phó tiến sĩ, Hà Nội, 1991). Kỷ yếu hội thảo: "Thực trạng giai cấp công nhân dưới tác động cơ thế thị trường" (Trung tâm nghiên cứu lý luận - Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hà Nội, 1993). "Một số vấn đề giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam" (GS. Văn Tạo - Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997). "Bác Hồ với giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". (PGS. TS Đỗ Quang Hưng (chủ Biên) - Nxb Lao động Hà Nội,1999). "Tích cực hoá nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình" (Trần Thị Bích Liên - Luận án tiến sĩ, 2001). "Vấn đề đình công của công nhân ở nước ta hiện nay" (Phạm Thị Xuân Hương - Luận án tiến sĩ, 2001). "Xu hướng biến động giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21" (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Viện Công nhân và công đoàn, Nxb Lao động Hà Nội, 2001)... Các công trình nêu trên đã khai thác tương đối toàn diện những vấn đề liên quan đến công nhân, xu hướng biến động của nó trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mặt khác đã đưa ra những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ công nhân không ngừng lớn mạnh đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Gần đây, còn một số công trình khác nghiên cứu trực tiếp đến mối quan hệ giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá với sự phát triển của giai cấp công nhân; vai trò của giai cấp công nhân trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước như: "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự phát triển giai cấp công nhân" (PGS Cao Văn Lượng (chủ biên) - Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001). "Sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam và vai trò của nó trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" (Trần Ngọc Sơn - Luận án tiến sĩ, 2001). Kỷ yếu hội thảo: "Về giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá". (Trường Đại học Công đoàn Việt Nam, Hà Nội, 2002). "Giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". (PGS. TS. Dương Xuân Ngọc - Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004)... Trong các công trình này đã đề cập đến mối quan hệ biện chứng giữa quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với sự phát triển của giai cấp công nhân, đặt ra những yêu cầu nhằm phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu.... để có thể đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn đặt ra. Ngoài những công trình nêu trên còn một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu thực trạng và đưa ra những phương hướng giải pháp cơ bản nhằm xây dựng, củng cố và phát triển đội ngũ công nhân ở các địa bàn cụ thể, chẳng hạn như: "Công nhân Hải Phòng trong công cuộc đổi mới những vấn đề đặt ra và phương hướng giải quyết" (Nguyễn Văn Năm, 1995). "Xu hướng biến đổi phương hướng và giải pháp xây dựng đội ngũ công nhân Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay" (Vũ Minh Thủ, 1998). "Xây dựng đội ngũ công nhân Đồng Nai đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá" (Phạm Hồng Hải, 2002)..... Riêng đối với tỉnh Thái Nguyên dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và ủy ban nhân dân tỉnh, Liên đoàn Lao động tỉnh cũng đã tiến hành khảo sát đưa ra những đánh giá bước đầu nhằm xây dựng đội ngũ công nhân lớn mạnh. Song nhìn chung chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề phát triển đội ngũ công nhân Thái Nguyên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở cấp tiến sĩ hay thạc sĩ. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Làm rõ thực trạng và xu hướng biến động của đội ngũ công nhân Thái Nguyên, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ công nhân Thái Nguyên trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 3.2. Nhiệm vụ - Làm rõ những quan niệm cơ bản như: Giai cấp công nhân Việt Nam; quan niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá; mối quan hệ giữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá với sự phát triển của giai cấp công nhân; vai trò của đội ngũ công nhân Thái Nguyên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Đánh giá thực trạng của đội ngũ công nhân Thái Nguyên, tìm ra những nguyên nhân và những vấn đề đặt ra. Từ thực trạng đó, dự báo xu hướng biến động của đội ngũ công nhân Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay. - Đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ công nhân Thái Nguyên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn, phương pháp nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn - Cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó, về công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Cơ sở thực tiễn là kết quả điều tra thực trạng công nhân ở các doanh nghiệp trong và ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Vận dụng tổng hợp phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Coi trọng phương pháp logíc - lịch sử; kết hợp phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê... - Kế thừa một cách chọn lọc các thành tựu nghiên cứu có liên quan đến luận văn. 4.3.Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu đội ngũ công nhân trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay. 5. Đóng góp mới của luận văn Nghiên cứu một cách hệ thống thực trạng đội ngũ công nhân ở Thái Nguyên, dự báo xu hướng biến động của nó, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò đội ngũ công nhân ở Thái Nguyên trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 6. ý nghĩa của luận văn - Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần tạo lập cơ sở khoa học để các cấp lãnh đạo, quản lý ở tỉnh Thái Nguyên tham khảo, vận dụng trong việc xây dựng chính sách nhằm xây dựng và củng cố đội ngũ công nhân trên địa bàn toàn tỉnh. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ giảng dạy nghiên cứu về giai cấp công nhân ở các trường chính trị tỉnh, thành phố. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được chia làm 3 chương, 6 tiết. Chương 1 Giai cấp công nhân Việt Nam và đội ngũ công nhân thái nguyên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1.1. giai cấp công nhân Việt Nam với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1.1.1. Về giai cấp công nhân và giai cấp công nhân Việt Nam 1.1.1.1. Khái niệm về giai cấp công nhân Khái niệm về giai cấp công nhân được đề cập đến ngay khi giai cấp công nhân xuất hiện trên vũ đài chính trị. Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu tùy thuộc ở lập trường giai cấp, thái độ chính trị, trình độ nhận thức và phương pháp tiếp cận khác nhau đưa ra nhiều ý kiến không giống nhau, thậm chí trái ngược nhau. Đến nay giai cấp công nhân là gì? Nó còn hay đã "biến mất"? Địa vị kinh tế - xã hội của nó ra sao? tất cả vẫn đang là trọng điểm nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học trên thế giới. Thực tiễn cho thấy, quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công nhân vẫn hàm chứa tính khách quan và khoa học hơn cả bởi nó dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận biện chứng duy vật. Trong rất nhiều tác phẩm của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xem xét khái niệm giai cấp công nhân trên tất cả các khía cạnh, các dấu hiệu đặc trưng nhất và các thuộc tính bản chất của nó. Chẳng hạn như, ngay từ 1845, khi bắt tay vào nghiên cứu giai cấp công nhân trong tác phẩm "Gia đình thần thánh" C.Mác đã đặt câu hỏi: "Vấn đề là ở chỗ giai cấp vô sản thực sự là gì, và phù hợp với sự tồn tại ấy của bản thân nó giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử" [33, tr.56]. Cũng trong giai đoạn này, C.Mác và Ph.Ăngghen còn bàn nhiều và đã sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ về giai cấp công nhân như trong Lời nói đầu tác phẩm: "Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen" (1844). C.Mác đã chỉ ra nguồn gốc kinh tế, xã hội và xu hướng phát triển của giai cấp công nhân - ở đây C.Mác sử dụng thuật ngữ giai cấp vô sản. Theo C.Mác: "Giai cấp vô sản Đức là con đẻ của nền đại công nghiệp non trẻ đang hình thành ở Đức". Quan điểm của Mác không những chỉ rõ giai cấp vô sản được hình thành từ CNTB công nghiệp mà còn là đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ đang trong giai đoạn hình thành và phát triển. Trong tác phẩm "Tình cảnh những người lao động ở Anh" (1844-1845). Ph.Ăngghen khẳng định: Giai cấp công nhân Anh là kết quả chủ yếu của cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh. Lịch sử giai cấp công nhân Anh bắt đầu từ nửa thứ hai của thế kỷ XVIII. Công nghiệp nhỏ đã làm nảy sinh ra giai cấp tư sản, công nghiệp lớn đã nảy sinh ra giai cấp công nhân. Công nhân công nghiệp là hạt nhân của phong trào công nhân [33, tr.354]. Ngoài ra, C.Mác và Ph.Ăngghen còn sử dụng một số thuật ngữ khác ngoài "giai cấp vô sản", "giai cấp công nhân" để biểu đạt khái niệm "giai cấp công nhân". Chẳng hạn như: "giai cấp vô sản công nghiệp", "giai cấp vô sản hiện đại", "giai cấp công nhân hiện đại', "giai cấp công nhân công xưởng, nhà máy", "giai cấp công nhân đại cơ khí"... Bên cạnh đó, trong một số điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, các ông còn sử dụng một số hình thức diễn đạt khác như "lao động làm thuê", "giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ sống dựa vào bán sức lao động của mình", "giai cấp của những người hoàn toàn không có của", "giai cấp công nhân làm thuê thế kỷ XIX"... Có thể khẳng định rằng, các thuật ngữ đã nêu chỉ là sự khác nhau về hình thức biểu đạt trong những văn cảnh cụ thể của một khái niệm: "Giai cấp công nhân" với sự thống nhất về bản chất: lực lượng lao động trong nền sản xuất công nghiệp hiện đại. C.Mác, Ph.Ăngghen phân biệt giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử thế giới và bản chất cách mạng với bộ phận công nhân đã bị tha hóa, đánh mất mình bằng những thuật ngữ đối ngược nhau: giữa một bên là "giai cấp vô sản cách mạng" với một bên là "tầng lớp vô sản lưu manh" mất gốc, những phần tử cặn bã của xã hội, và như vậy cũng đồng nghĩa với việc phân biệt giai cấp công nhân cách mạng với bộ phận công nhân đã khuất phục, trở thành công cụ của giai cấp tư sản để phá hoại phong trào công nhân từ bên trong, mưu toan kìm hãm và khuôn cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân trong trật tự của "chủ nghĩa tư bản" vì mục tiêu kinh tế và lợi ích tầm thường do hệ tư tưởng tư sản và tiểu tư sản thao túng mà ở đây các ông đã sử dụng thuật ngữ: "Công nhân quý tộc". Theo các ông "công nhân quý tộc" và tầng lớp vô sản lưu manh không còn là bộ phận của giai cấp công nhân nữa mà đã trở thành một bộ phận của giai cấp tư sản hoặc đã là tầng lớp cặn bã của xã hội. Tựu chung lại, tuy có khác nhau trong cách gọi, cách diễn đạt tùy từng hoàn cảnh lịch sử. Nhưng những thuật ngữ không giống nhau nêu trên về khái niệm giai cấp công nhân đều được các nhà kinh điển Mác xít sử dụng như một khái niệm đồng nhất dựa trên hai tiêu chí cơ bản để phân định giai cấp công nhân với các giai tầng xã hội khác là: Vị trí của giai cấp công nhân trong lực lượng sản xuất Giai cấp công nhân là những người (tập đoàn người) lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa, quốc tế hóa cao. Đây cũng là tiêu chí cơ bản phân biệt người công nhân hiện đại với người thợ thủ công thời trung cổ hay người thợ trong công trường thủ công. C.Mác chỉ rõ: "Trong công trường thủ công và trong nghề thủ công, người công nhân sử dụng công cụ của mình, còn trong công xưởng thì người công nhân phải phục tùng máy móc" [36, tr.605]. Điều đó cho thấy, hai ông luôn nói đến giai cấp công nhân với tư cách là tập đoàn người bao gồm những công nhân công xưởng, là sản phẩm của nền đại công nghiệp và phát triển cùng với sự phát triển của đại công nghiệp. Theo các ông: "Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp" [33, tr.610] hay "Công nhân là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc vậy". Như vậy, giai cấp công nhân ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của đại công nghiệp. Chính vì thế giai cấp công nhân là hiện thân của lực lượng sản xuất hiện đại, đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến và mang trong mình những đặc trưng riêng có mà không một giai tầng nào có được đó là: Tính tiên tiến, hiện đại, tinh thần khoa học và cách mạng triệt để; ý thức tổ chức kỷ luật; tình đoàn kết giai cấp. Vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động, làm thuê cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại - tức giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm được việc làm, nếu lao động của họ tăng thêm tư bản cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là món hàng đem bán như bất cứ món hàng nào khác; vì thế, họ phải chịu hết sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường... [34, tr.605]. Điều này đã khiến giai cấp công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản. Xuất phát hai tiêu chí trên, trong "Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản" (1847) Ph.Ăngghen đã đưa ra định nghĩa về giai cấp công nhân: Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán sức lao động của mình chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ số tư bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc hay đau khổ, sống và chết toàn bộ sự sống còn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là vào tình hình chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những sự biến động của cuộc cạnh tranh không gì ngăn cản nổi. Nói tóm lại, giai cấp vô sản hay giai cấp của những người vô sản là giai cấp lao động làm thuê trong thế kỷ XIX... giai cấp vô sản là do cuộc cách mạng công nghiệp sản sinh ra [34, tr.456-457]. Như vậy, mặc dù C.Mác và Ph.Ăngghen chưa nêu lên thành một định nghĩa hoàn chỉnh về giai cấp công nhân, nhưng qua những tác phẩm của mình, với những cách tiếp cận khác nhau các ông đã nêu một cách khách quan nhất những đặc trưng cơ bản, những thuộc tính bản chất của giai cấp công nhân, nhờ đó, khiến người ta có thể dễ dàng nhận diện được giai cấp công nhân trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Phát triển học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen trong thời đại mới, thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản - thời đại chủ nghĩa xã hội hiện thực. Lênin đã bổ sung, phát triển những thuộc tính mới của giai cấp công nhân. Lênin chỉ rõ: Sự phân chia giai cấp trong xã hội phải dựa vào địa vị và sự khác nhau của các tập đoàn người trong quan hệ đối với chế độ sở hữu tư liệu sản xuất, trong quan hệ đối với quản lý sản xuất, trong quan hệ phân phối sản phẩm. Từ nhận thức mới về giai cấp như vậy, trong rất nhiều tác phẩm của mình như "Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga", "Nhà nước và cách mạng", "Sáng kiến vĩ đại"... Lênin đã chỉ ra rằng, sau khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền. Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân đã hoàn toàn thay đổi, từ thân phận nô lệ làm thuê trở thành giai cấp thống trị về chính trị, thông qua Đảng tiên phong của mình lãnh đạo toàn xã hội cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Theo Lênin, giai cấp công nhân là giai cấp thống trị về chính trị, là giai cấp lãnh đạo toàn xã hội trong cuộc đấu tranh lật đổ tư bản, trong sự nghiệp sáng tạo ra xã hội mới, trong toàn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp. Xu hướng phát triển của giai cấp công nhân là đi tới tự thủ tiêu mình với tư cách là giai cấp... Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và sự tác động mạnh mẽ của nó vào mọi khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội đã không những làm cho quan hệ giai cấp, dân tộc và cuộc đấu tranh giai cấp, dân tộc dịu đi mà nó diễn ra ngày càng gay gắt với những biểu hiện hết sức phức tạp. Điều đó đã khiến nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới trong đó có nước ta đưa ra quan niệm mới về giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay. Trước hết phải kể đến định nghĩa của các tác giả trong công trình: "Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay: "Giai cấp công nhân là giai cấp những người lao động hoạt động sản xuất trong các ngành công nghiệp thuộc các trình độ kỹ thuật khác nhau mà địa vị kinh tế - xã hội tùy thuộc vào chế độ xã hội đương thời: ở các nước tư bản, họ là những người không có hoặc cơ bản không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là những người đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng hợp tác lao động cho mình [22, tr.97]. Tiếp đến là định nghĩa trong cuốn "Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học" do Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin đã viết: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại và nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội, là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. ở các nước tư bản, giai cấp công nhân là những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước XHCN, họ là người đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân họ. Ngoài ra, một số Trung tâm như Trung tâm Nghiên cứu thông tin lý luận - Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Viện Công nhân và công đoàn Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam... cũng đưa ra định nghĩa về giai cấp công nhân trên cơ sở hai tiêu chí cơ bản mà các nhà kinh điển Mác xít đã nêu. Về phía cá nhân các nhà nghiên cứu, có một số định nghĩa sau: GS.TS Đỗ Nguyên Phương trong tác phẩm: "Những vấn đề chính trị - xã hội của cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta" do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia và Nhà xuất bản Khoa học - kỹ thuật phát hành năm 1993, viết: "Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội hình thành và phát triển cùng với cách mạng công nghiệp, là lực lượng sản xuất cơ bản, tiên tiến trong sản xuất của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội, động lực chính của tiến trình lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội" [40, tr.55]. GS. Phạm Xuân Nam trong cuốn "Đổi mới chính sách xã hội, luận cứ và giải pháp", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997 đưa ra định nghĩa: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội rộng lớn những người lao động làm việc trong các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ công nghiệp có thu nhập chủ yếu bằng tiền lương hoặc tiền công, do trực tiếp vận hành những tư liệu sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng hiện đại trong các ngành then chốt của nền kinh tế quốc dân, đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến... [39, tr.31]. Nhìn chung các định nghĩa đã nêu đều thống nhất khi tập trung đề cập tới khía cạnh bản chất của giai cấp công nhân là người lao động công nghiệp gắn với khoa học, kỹ thuật công nghệ cao, địa vị kinh tế - xã hội, vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân... Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã diễn ra với tốc độ rất nhanh và đang tác động trực tiếp, sâu sắc tới sự biến đổi về cơ cấu, số lượng, chất lượng, ngành nghề, phương thức và phong cách lao động cũng như năng lực trí tuệ của giai cấp công nhân. Vì vậy, sẽ không thể đưa ra một định nghĩa về giai cấp công nhân một cách khoa học, nếu như không đổi mới nhận thức về giai cấp công nhân trong sự phát triển của kinh tế tri thức. Một vấn đề nữa gây nhiều tranh cãi về định nghĩa giai cấp công nhân là địa vị của nó trong chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay là gì? Một là, ở các nước TBCN hiện nay một bộ phận công nhân có cổ phần, cổ phiếu. Hai là, ở các nước xã hội chủ nghĩa đang tiến hành đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế đó, ngoài bộ phận công nhân trong thành phần kinh tế nhà nước còn có bộ phận công nhân trong các thành phần kinh tế tư bản tư nhân và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vẫn là công nhân làm thuê và vẫn bị bóc lột về giá trị thặng dư, do vậy vấn đề làm chủ của giai cấp công nhân sẽ như thế nào? Trên cơ sở cơ sở kế thừa tư tưởng của các nhà kinh điển Mác xít; những điểm cơ bản của các định nghĩa nêu trên kết hợp với thực tiễn phong trào công nhân, chúng tôi xin đưa ra định nghĩa về giai cấp công nhân như sau: Giai cấp công nhân là một tập đoàn người ổn định, hình thành và phát triển cùng với nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại, là lực lượng sản xuất cơ bản và tiên tiến của thời đại ngày nay, là lực lượng lãnh đạo và là động lực chủ yếu của quá trình chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước và trên phạm vi toàn thế giới. Trong các nước tư bản chủ nghĩa do không có hoặc cơ bản không có những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, họ phải bán sức lao động làm thuê cho giai cấp tư sản và bị bóc lột giá trị thặng dư; trong các nước xã hội chủ nghĩa, họ cùng nhân dân lao động làm chủ các tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động sáng tạo vì lợi ích chung toàn xã hội và của bản thân giai cấp mình. 1.1.1.2. Khái niệm về giai cấp công nhân Việt Nam Giai cấp công nhân Việt Nam là một bộ phận của giai cấp công nhân thế giới ra đời ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Do hoàn cảnh, đặc điểm ra đời và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam sớm trở thành một lực lượng chính trị độc lập, thống nhất trong cả nước, nhanh chóng vươn lên nắm quyền lãnh đạo cách mạng. Điều đó khẳng định: giai cấp công nhân Việt Nam vừa có đầy đủ những đặc điểm của giai cấp công nhân nói chung, đồng thời còn có những nét riêng biệt do hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở Việt Nam quy định. Giai cấp công nhân Việt Nam là gì? bao gồm những bộ phận nào? giai cấp công nhân Việt Nam có vai trò lịch sử của nó trong cách mạng Việt Nam như thế nào là những vấn đề cần phải nghiên cứu. Xuất phát từ những yêu cầu đó, khi nghiên cứu về giai cấp công nhân Việt Nam các nhà khoa học ở nước ta đã đưa ra khá nhiều quan niệm khác nhau. Thí dụ: GS. Trần Văn Giàu trong cuốn: Giai cấp công nhân Việt Nam, sự hình thành và phát triển của nó từ giai cấp tự mình đến giai cấp cho mình (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1958), mặc dù không đưa ra một định nghĩa cụ thể về giai cấp công nhân Việt Nam song toàn bộ công trình đã thể hiện rất rõ nội hàm khái niệm giai cấp công nhân Việt Nam từ khi mới hình thành và vai trò của nó trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Trong cuốn: "Đổi mới chính sách đối với công nhân và thợ thủ công" của Trung tâm nghiên cứu thông tin lý luận, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam đưa ra định nghĩa: Giai cấp công nhân Việt Nam là một tập đoàn xã hội những người lao động ở Việt Nam có thu nhập chủ yếu bằng lao động làm công ăn lương, sống và làm việc gắn với sản xuất, kinh doanh, dịch vụ công nghiệp. Do nắm giữ những cơ sở vật chất then chốt và đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến của xã hội nên giai cấp công nhân tất yếu có vai trò đi tiên phong trong tiến trình phát triển của lịch sử hiện đại [43, tr.113]. Tác giả Đan Tâm trong bài "Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại - một cách tiếp cận" lại khẳng định: Giai cấp công nhân Việt Nam là cộng đồng xã hội những người làm công ăn lương, nguồn thu nhập chủ yếu bằng tiền công; trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất công nghiệp, tạo ra sản phẩm công nghiệp hoặc có tính công nghiệp; nắm giữ những cơ sở vật chất kỹ thuật then chốt của xã hội và tiêu biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến của xã hội [42, tr.29]. Định nghĩa của GS. Văn Tạo trong tác phẩm "Một số vấn đề về giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam" thì cho rằng: Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay là một tập đoàn những người lao động có thu nhập chủ yếu bằng lao động làm công ăn lương sống và làm việc gắn với sản xuất kinh doanh, dịch vụ công nghiệp. Do lao động và quản lý một nền công nghiệp hiện đại, then chốt của nền kinh tế quốc dân và đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến trong xã hội nên giai cấp công nhân Việt Nam có vai trò đi tiên phong trong tiến trình phát triển lịch sử của xã hội Việt Nam [41, tr.39]. Bên cạnh đó, cũng còn có một số định nghĩa về giai cấp công nhân Việt Nam của các tác giả như GS. Cao Văn Lượng, TS. Bùi Đình Bôn và một vài quan niệm một số tác giả trong các luận án tiến sĩ và thạc sĩ triết học gần đây. Trên cơ sở khái niệm giai cấp công nhân nói chung, căn cứ những đặc trưng riêng của giai cấp công nhân Việt Nam gắn với thực tiễn cách mạng Việt Nam, đồng thời kế thừa các công trình nghiên cứu trước đây về giai cấp công nhân Việt Nam, chúng tôi hiểu về giai cấp công nhân Việt Nam như sau: Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ đầu thế kỷ XX gắn liền với sự xuất hiện các cơ sở kinh tế của tư sản Pháp, là một tập đoàn gồm những người lao động trên lĩnh vực công nghiệp với trình độ kỹ thuật hiện đại và xã hội hóa ngày càng cao, thu nhập chủ yếu của họ là tiền công. Họ là lực lượng tiên phong trong quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và đang lãnh đạo quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm xây dựng một nền kinh tế hiện đại, xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; đảm bảo giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. 1.1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển của giai cấp công nhân 1.1.2.1. Về khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình phát triển tất yếu của thời đại ngày nay, là con đường đưa mỗi quốc gia thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước khác trên thế giới và khu vực. Không phải đến bây giờ, các quốc gia trên thế giới mới tiến hành công nghiệp hóa mà công nghiệp hóa đã được khởi đầu từ cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra ở Anh cuối thế kỷ XVIII và sau đó kéo theo một loạt nước khác ở Tây Âu (Hà Lan, Pháp, Đức, Italia...). Mặc dù công nghiệp hóa được tiến hành sớm như vậy nhưng phải mãi đến cuối thế kỷ XIX thuật ngữ "công nghiệp hóa" mới xuất hiện với ý nghĩa là biến một lĩnh vực sản xuất nào đó sang hoạt động theo tính chất của công nghiệp cơ khí. Mãi đến nửa sau thế kỷ XX, khái niệm công nghiệp hóa mới được hiểu như một giai đoạn lịch sử phát triển kinh tế mà nội dung của nó bao hàm cuộc cách mạng công nghiệp. Từ đó đến nay, cùng với hàng loạt các cuộc cách mạng công nghiệp: từ kỹ thuật cơ khí giản đơn với máy hơi nước làm động lực tới cơ khí phức tạp với động cơ đốt trong rồi điện năng và các dạng năng lượng mới làm động lực, tiếp theo đó là tự động hóa, điện tử hóa... Quan niệm về công nghiệp hóa dần được mở rộng trên nhiều khía cạnh và lĩnh vực nghiên cứu khác nhau: Ví dụ: quan niệm của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu (cũ) cho rằng: "Công nghiệp hóa là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp. Đó là sự phát triển công nghiệp nặng với ngành trung tâm là chế tạo máy" [25, tr.49]. Năm 1963 UNIDO (Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc) đã đưa ra định nghĩa: Công nghiệp hóa là một quá trình phát triển kinh tế trong đó một bộ phận năng lực quốc gia ngày càng lớn được huy động để xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công nghiệp hiện đại để chế tạo ra các phương tiện sản xuất, hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo một nhịp tăng trưởng cao trong toàn nền kinh tế và đảm bảo sự tiến bộ kinh tế và xã hội [5, tr.6]... Tóm lại: Tuy có rất nhiều quan niệm khác nhau về công nghiệp hóa nhưng chủ yếu là hai quan niệm sau: Một là: Theo nghĩa hẹp, công nghiệp hóa là quá trình phát triển công nghiệp trong một thời kỳ nhất định, trong đó nền sản xuất xã hội được tổ chức theo lối công nghiệp dựa trên cơ sở thay thế lao động thủ công bằng máy móc và máy móc chiếm ưu thế. Hai là: Theo nghĩa rộng, công nghiệp hóa là quá trình công nghiệp liên tục, cải tổ thường xuyên cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hiện đại, ngày càng đa dạng. Có nhiều quan niệm khác nhau về công nghiệp hóa như vậy là bởi trên thực tế, công nghiệp hóa là quá trình phức tạp, lâu dài mà._. việc phân biệt các mốc giới, định tính, định lượng và về thời gian không phải là điều dễ dàng. Mặt khác, sự biểu hiện về mô hình của nó gắn với mỗi quốc gia dân tộc do những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau cũng không thể thuần nhất. Dù như vậy, cũng cần hiểu một cách khái quát nhất: Công nghiệp hóa là quá trình phát triển kinh tế diễn ra lâu dài, bắt đầu từ khi xuất hiện công nghiệp và đến khi nền kinh tế với công nghiệp phát triển cao cũng chưa phải là điểm kết thúc mà lại có thể là mở đầu cho một cuộc cách mạng công nghiệp mới. Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn, hậu quả chiến tranh nặng nề lại phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc XHCN, Đảng ta đã sớm nhận thức được vị trí vai trò của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngay từ Đại hội III Đảng ta đã xác định công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ, cách mạng kỹ thuật giữ vị trí then chốt. Tiếp sau đó Đại hội IV, V, tư tưởng này lại được tiếp tục khẳng định. Tuy nhiên trong thời gian này tư tưởng công nghiệp hóa chủ yếu tập trung phát triển công nghiệp nặng mặc dù có được điều chỉnh qua các kỳ Đại hội IV, V: Công nghiệp hóa chính là "quá trình thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực hiện sự phân công mới về lao động xã hội và là quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa để không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng" [12, tr.182]. Đường lối đưa ra để tiến hành công nghiệp hóa lúc đó được xác định: Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Khách quan mà đánh giá, quan niệm và cách tiến hành đó là phù hợp với điều kiện hiện tại của nước ta và thế giới trong bối cảnh đất nước có chiến tranh và tồn tại sự độc lập giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Trên thực tế, chúng ta đã xây dựng được một số cơ sở công nghiệp quan trọng then chốt cho nền kinh tế quốc dân. Nhưng về cơ bản nước ta vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân còn rất thấp. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986) bên cạnh việc tiếp tục khẳng định vị trí nền tảng của công nghiệp trong thời kỳ quá độ, đã có sự chuyển hướng chiến lược về công nghiệp hóa từ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng sang lấy nông nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm. Từ đó đến nay, việc nhận thức về đường lối công nghiệp hóa được đưa ra từng bước phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước. Công nghiệp hóa có thể hiểu một cách cơ bản: Là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xã hội theo hướng phát triển mạnh công nghiệp, tạo ra sự vượt trội của công nghiệp trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, áp dụng rộng rãi với hiệu quả cao những tiến bộ khoa học, công nghệ mới hiện đại, làm nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển nhanh, vững chắc của toàn bộ nền kinh tế - xã hội [45, tr.63]. Quan niệm này không những phản ánh được nội dung của quá trình công nghiệp hóa mà nêu bật được mục tiêu công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa chính là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, bao hàm tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động chứ không riêng chỉ phát triển ở lĩnh vực công nghiệp. Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ đã tiến lên một nấc thang mới, loài người đang bước vào kinh tế tri thức. Vì vậy, công nghiệp hóa đòi hỏi phải gắn với quá trình hiện đại hóa, kể cả những nước có nền kinh tế lạc hậu như nước ta. Không thể tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu "cổ điển" như ở phương Tây thế kỷ XVIII mà công nghiệp hóa phải gắn với việc tận dụng những thành quả khoa học - kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến của thế giới. Công nghệ truyền thống gắn với ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của thời đại, là giải pháp quyết định đưa nước ta thoát khỏi đói nghèo lạc hậu và nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế - công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa. Hay nói cách khác, để có quan niệm đúng đắn, đầy đủ về công nghiệp hóa phải đặt nó trong mối quan hệ với hiện đại hóa. Tất nhiên công nghiệp hóa và hiện đại hóa là hai khái niệm khác nhau nhưng lại đan xen, tích hợp, lồng ghép và bổ sung cho nhau. Nếu như công nghiệp hóa là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển mạnh công nghiệp thì hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ chỗ theo những quy trình công nghệ thủ công là chính sang chỗ sử dụng một cách phổ biến những quy trình công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của tiến bộ khoa học - kỹ thuật, tạo ra năng suất lao động, hiệu quả và trình độ văn minh kinh tế xã hội cao [45, tr.63]. Sự gắn kết giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã và đang trở thành xu thế tất yếu của các nước đang phát triển. Nó trở thành khái niệm "kép" trong nhận thức về mục tiêu phát triển kinh tế của nhiều quốc gia. Trên tinh thần đó, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa VII đã xác định nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao [14, tr.65]. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng ta đã phản ánh được phạm vi rộng lớn, xác định được vai trò quan trọng của công nghiệp và khoa học - công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó thực chất là quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải biến nước ta thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, thực hiện mục tiêu: dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đánh giá một cách khách quan, khoa học những tiền đề được tạo ra sau 10 năm đổi mới đã chỉ rõ: nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu: Xây dựng nước ta thành một nước có cơ sở - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp [15, tr.80]. Nước ta với gần 80% dân cư là nông dân, 70% lực lượng lao động làm nông nghiệp, thu nhập từ nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu nhập quốc dân, thì vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân vẫn là cơ sở của sự phát triển xã hội. Bởi vậy, giai đoạn đầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trước hết và thực chất là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn mà nội dung cơ bản của nó là thực hiện sự chuyển đổi cơ bản cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội nông thôn, nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. 1.1.2.2. Sự tác động qua lại giữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển của giai cấp công nhân Khi luận chứng về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định rằng: Vai trò, vị trí của giai cấp công nhân được xác định từ vai trò của đại công nghiệp, của lực lượng sản xuất mà giai cấp công nhân là người đại diện. Đại công nghiệp đã sinh ra giai cấp công nhân, đồng thời cũng là cơ sở vật chất thông qua đó, giai cấp công nhân tác động vào tiến trình phát triển xã hội như một lực lượng chủ đạo. Như vậy, có thể thấy rằng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển của giai cấp công nhân có mối quan hệ biện chứng. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện để giai cấp công nhân phát triển về số lượng và chất lượng, đáp ứng được yêu cầu đặt ra của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngược lại, sự phát triển về mặt số lượng, chất lượng của giai cấp công nhân cũng sẽ tác động trở lại, là nguyên nhân, là nhân tố cơ bản quyết định thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: Giai cấp công nhân vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện để giai cấp công nhân phát triển và lớn mạnh về mọi mặt. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường phát triển tất yếu của xã hội loài người, là con đường duy nhất đưa nước ta thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên để có thể tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải có được một lực lượng lao động phát triển hiện đại. Sự thiếu hụt trầm trọng đội ngũ công nhân lành nghề có thể áp dụng được khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ tiên tiến vào sản xuất đang là một lực cản đối với sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Đại hội Đảng lần thứ VIII, khi quyết định đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cũng chỉ ra rằng: Một trong những tiền đề quan trọng bậc nhất để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là phải nâng cao trình độ và phát triển nguồn nhân lực trong đó phát triển và nâng cao nguồn nhân lực từ giai cấp công nhân. Như vậy, có thể khẳng định rằng: Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới và sự hình thành, phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất đã kéo theo và đặt ra những yêu cầu mới về số lượng, cơ cấu, chất lượng của lực lượng lao động xã hội đặc biệt là công nhân, đội quân nòng cốt đi tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thứ nhất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện để giai cấp công nhân phát triển về số lượng. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà trọng tâm trong những năm đầu thế kỷ XXI là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; cơ cấu nền kinh tế sẽ có chuyển dịch sâu sắc. Xu hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ sẽ là điều kiện phát triển mạnh mẽ số lượng giai cấp công nhân. Đường lối đổi mới của Đảng đã tác động mạnh mẽ đến sự biến động và đặt ra yêu cầu phát triển đối với giai cấp công nhân. Hiện nay, đội ngũ công nhân nước ta không đơn thuần làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tập thể mà gồm cả những công nhân làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp doanh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... và cả đội ngũ công nhân, lao động làm thuê, làm công hưởng lương trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh cá thể. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tính đến đầu năm 2004, đội ngũ công nhân làm việc trực tiếp trong các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế là 7,396 triệu (56% nam, 44% nữ) chiếm 9,14% dân số, 17,49% lực lượng lao động xã hội. Như vậy sau gần 10 năm số lượng công nhân nước ta đã tăng 2,64 lần so với năm 1995, trong đó, số lượng công nhân doanh nghiệp nhà nước tăng 1,17 lần; số lượng công nhân doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 4,77 lần, số lượng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 8,77 lần, số lượng công nhân thuộc các cơ sở sản xuất, kinh doanh cá thể tăng 4,8 lần. Trong quá trình đổi mới, cơ cấu kinh tế, số lượng công nhân đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng công nhân thuộc lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, dịch vụ và giảm số lượng công nhân thuộc lĩnh vực nông lâm thủy sản. Trong các loại hình doanh nghiệp, công nhân làm trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 70,9%, trong lĩnh vực dịch vụ và thương mại chiếm 24,3%, trong lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 4,8%. Trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh cá thể thì chủ yếu công nhân hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ và thương mại ước tính khoảng 66,67%. Thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước, đặc biệt sau khi Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 được ban hành, nước ta đã tiếp nhận được rất nhiều dự án và vốn đầu tư nước ngoài. Tính từ năm 1988 đến đầu năm 2004 theo số liệu của Tổng cục thống kê dựa trên kết quả điều tra doanh nghiệp, cả nước đã có 4892 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép còn hiệu lực từ 66 quốc gia và vùng lãnh thổ với vốn đăng ký lên đến 44,4 tỷ USD. Chính vì vậy mà thu hút hơn 859.000 công nhân với 688.000 công nhân doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, 171.000 công nhân thuộc công ty liên doanh làm việc trong hơn 2300 doanh nghiệp. Hơn thế nữa việc đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa kéo theo sự ra đời của hàng loạt cơ sở công nghiệp mới so với trước thời kỳ đổi mới như: công nghệ thông tin, cơ điện tử, vật liệu mới, công nghệ sinh học đồng nghĩa với số lượng công nhân cũng được tăng lên (đặc biệt là công nhân có trình độ cao). Cùng với điều đó là các ngành kinh tế mũi nhọn cũng được quan tâm đầu tư, mở rộng sản xuất và số lượng công nhân cũng tăng lên rõ rệt như: công nghiệp chế biến, dầu khí, bưu chính viễn thông, hàng không và các ngành dịch vụ khác. Không chỉ dừng lại ở đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng với sự ra đời của các khu công nghiệp tập trung, khu công nghệ cao, khu chế xuất với xu hướng đa thành phần, đa sản phẩm đang hình thành và phát triển cùng với quá trình đô thị hóa đã khiến cho giai cấp công nhân phát triển nhanh chóng và tập trung hơn về số lượng. Trong những năm tới, trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xu hướng tăng về số lượng giai cấp công nhân vẫn là tất yếu. Thứ hai, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều kiện để nâng cao chất lượng giai cấp công nhân Chất lượng giai cấp công nhân là tổng hợp các yếu tố, thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân bao gồm trình độ học vấn, trình độ tay nghề gắn với máy móc hiện đại, kỹ thuật, công nghệ cao, ý thức chính trị, tính tổ chức kỷ luật cao, tính tiên phong, tác phong công nghiệp... trong đó trình độ học vấn, tay nghề, trình độ khoa học kỹ thuật và ý thức giác ngộ chính trị của giai cấp công nhân là những yếu tố cơ bản nhất. Chất lượng của giai cấp công nhân ở mỗi quốc gia dân tộc chủ yếu được đánh giá thông qua các yếu tố cơ bản này. Mục tiêu của mỗi quốc gia với phát triển chất lượng giai cấp công nhân cũng như lực lượng lao động nói chung cũng không thể nằm ngoài việc xây dựng và củng cố các yếu tố đó. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đặt ra yêu cầu phải có đội ngũ công nhân có trình độ học vấn, tay nghề cao, có tác phong công nghiệp để tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới. Vì cốt lõi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa chính là "cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt tới năng suất lao động xã hội cao" [14, tr.43]. Quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức, kinh tế hiện đại đã và sẽ tạo điều kiện thuận lợi, đồng thời cũng đặt cho giai cấp công nhân một thách thức: nếu không vươn lên trong học tập và phấn đấu để tự nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tác phong công nghiệp thì sẽ bị chính nền kinh tế đó đào thải - xu hướng trí thức hóa công nhân ngày càng tăng lên rõ rệt. Tri thức là chìa khóa để tiếp nhận khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Thực tế cho thấy, trình độ học vấn, trình độ tay nghề của công nhân nước ta không ngừng tăng nhanh so với trước thời kỳ đổi mới, song so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì còn là quá thấp. (Hiện nay chỉ có 62,22% công nhân có trình độ trung học phổ thông. 27,24% trình độ trung học cơ sở, 4,12 trình độ tiểu học, 0,23% không biết chữ, 11,10% tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, 1,56 trình độ đại học và trên đại học) [39, tr.132]. Số công nhân trẻ dưới 30 tuổi - thường có trình độ cao hơn. Trình độ tay nghề trung bình của công nhân mới ở thợ 3/7; bậc thợ 7/7 mới có 2,38%. Trình độ công nhân cũng không đồng đều, đồng bằng cao hơn miền núi, vùng sâu, vùng xa. Công nhân ngoài quốc doanh có trình độ cao hơn công nhân lao động trong khu vực doanh nghiệp nhà nước. Đội ngũ có trình độ cao đẳng, đại học chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực hành chính sự nghiệp. Từ thực tế đó, Nhà nước cần phải có chính sách tích cực để tạo điều kiện nâng cao trình độ học vấn, tay nghề cho công nhân, tăng cường đầu tư, củng cố và phát triển các trường dạy nghề, xây dựng các trường trọng điểm, đào tạo đủ công nhân lành nghề cho các khu công nghiệp, khu chế xuất có tính đến nhu cầu xuất khẩu lao động là hướng đi thích hợp với nền kinh tế phát triển. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không những tạo điều kiện, đặt ra nhu cầu nâng cao trình độ học vấn, trình độ tay nghề cho giai cấp công nhân mà bản thân quá trình đó cũng tạo ra điều kiện khách quan để giai cấp công nhân rèn luyện tính tổ chức kỷ luật cao, tác phong lao động công nghiệp và ý thức giác ngộ chính trị. Một nền công nghiệp hiện đại với các dây chuyền sản xuất theo công nghệ tiên tiến không cho phép người vận hành nó - giai cấp công nhân thiếu tính tổ chức kỷ luật, tự do, tùy tiện, thiếu sự liên kết cộng đồng thiếu tác phong công nghiệp. Từ tính tổ chức kỷ luật, tự giác trong sản xuất, tác phong công nghiệp và tinh thần cộng đồng dần hình thành nên sự cố kết chặt chẽ trong giai cấp công nhân tạo nên sức mạnh đoàn kết trong lao động sản xuất cũng như trong mọi hoạt động khác. Cùng với quá trình hoàn thiện mình giai cấp công nhân không ngừng nâng cao ý thức giác ngộ chính trị thể hiện ở nhận thức về vai trò, vị trí và sứ mệnh của giai cấp công nhân, cũng như vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị, mà sự biểu hiện rõ nhất về việc nâng cao ý thức giác ngộ chính trị chính là thái độ đồng tình của đa số công nhân với sự nghiệp đổi mới của Đảng, công tác phát triển Đảng trong công nhân có nhiều tiến bộ, số lượng công nhân được kết nạp vào Đảng và tham gia vào các tổ chức đoàn thể trong tất cả các loại hình doanh nghiệp không ngừng tăng lên rõ rệt. Chính những điều đó, đã và đang tạo ra một chất lượng mới trong giai cấp công nhân hiện nay. Vai trò tích cực của giai cấp công nhân Việt Nam đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - Giai cấp công nhân Việt Nam thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. "Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc" [13, tr.2]. Đảng bao gồm những đại biểu ưu tú nhất của giai cấp, là đội tiên phong, là bộ phận tham mưu chiến đấu, là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân là cơ sở chính trị, xã hội của Đảng, lực lượng nòng cốt trong khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, trong khối đại đoàn kết dân tộc. Việc giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp cách mạng và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước không phải là sự áp đặt vô căn cứ mà vai trò và vị trí đó do chính lịch sử khách quan của cách mạng Việt Nam quy định. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng: trước khi giai cấp công nhân và đảng tiền phong của nó bước lên vũ đài chính trị và nắm quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam, phong trào cách mạng nước ta đứng trước khủng hoảng lớn về đường lối cứu nước. Các giai tầng khác trong xã hội Việt Nam không đủ sức lãnh đạo cách mạng, nhân dân ta chịu sự đàn áp dã man của đế quốc thực dân và tay sai bán nước, chỉ đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm ra con đường cứu nước là chủ nghĩa Mác - Lênin với đường lối cách mạng đúng đắn thì cách mạng Việt Nam mới từng bước đánh đổ thực dân xâm lược, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và cuộc sống tự do. Trong giai đoạn mới của cách mạng nước ta, xét về tương quan lực lượng xã hội giai cấp công nhân vẫn là giai cấp lãnh đạo cách mạng, mà không có một giai tầng nào có thể thay thế được. Trí thức Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, như trí thức không thể là giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đội ngũ trí thức Việt Nam là trí thức của giai cấp công nhân Việt Nam, đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, theo đường lối chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam, đã và đang có những đóng góp hết sức to lớn vào sự phát triển của đất nước. Vai trò ấy cần phải được khẳng định một cách rõ ràng rằng: không có trí thức không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, cũng như hiện nay, không thể hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nếu không có trí thức. Nhưng lãnh đạo quá trình ấy vẫn phải là giai cấp công nhân thông qua chính đảng của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đương nhiên, trong điều kiện phát triển nhanh chóng của kinh tế tri thức, khi khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì bản thân giai cấp công nhân và Đảng của nó phải không ngừng tự vươn lên trình độ cao của trí tuệ để đảm đương một cách xứng đáng vai trò của mình, nhất là trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặt khác, giai cấp công nhân thông qua Đảng lãnh đạo phải đặc biệt chú trọng xây dựng đội ngũ trí thức, có chính sách thu hút trí thức tạo điều kiện cho tri thức phục vụ sự nghiệp cách mạng, phục vụ lợi ích xã hội và của dân tộc, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Giai cấp công nhân là lực lượng lao động cơ bản đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giai cấp công nhân là "con đẻ của nền đại công nghiệp", là một trong những yếu tố cơ bản nhất của lực lượng sản xuất. Vì vậy, sự phát triển và hoàn thiện về mọi mặt của giai cấp công nhân sẽ tác động trở lại tạo điều kiện thúc đẩy nền công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng chủ yếu đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bởi lẽ, họ là lực lượng có mặt trong mọi ngành, mọi thành phần kinh tế, mọi cơ sở sản xuất kinh doanh, trong những trung tâm kinh tế quan trọng, trong những lĩnh vực kinh tế then chốt của đất nước. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước muốn thành công đòi hỏi phải hội tụ nhiều yếu tố khách quan, chủ quan như: đường lối, chính sách phát triển kinh tế đúng đắn phù hợp điều kiện trong nước và quốc tế; có vốn, khoa học - kỹ thuật công nghệ hiện đại, tài nguyên thiên nhiên, thông tin... trong những điều kiện, yếu tố ấy thì người công nhân có vai trò quan trọng nhất. Không ai có thể thay thế được người công nhân trong quá trình sản xuất. Máy móc dù có hiện đại đến mấy, dù có thể là những rô bốt thông minh cũng đều do con người sáng tạo ra và chỉ hoạt động được nhờ có sự vận hành và điều khiển bởi bàn tay, khối óc của người công nhân. Thực tế trong những năm đổi mới đã chứng tỏ giai cấp công nhân là lực lượng tiên phong trong sản xuất vật chất. Đội ngũ của họ ngày càng được bổ sung những người lao động có trình độ học vấn và tay nghề ngày càng cao, thích ứng với cơ chế thị trường, tiếp cận nhanh với khoa học tiên tiến, công nghệ hiện đại, có nhiều phát minh, sáng kiến có giá trị kinh tế cao được áp dụng trực tiếp vào sản xuất, góp phần quyết định vào việc thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng. So với dân số hiện có, đội ngũ công nhân lao động của nước ta vẫn còn rất khiêm tốn, song họ vẫn là lực lượng sản xuất tiên tiến nhất của xã hội, đang nắm giữ những cơ sở vật chất kỹ thuật quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Kết quả lao động của họ ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế và đến đời sống hàng ngày của toàn xã hội. Với 40% tổng sản phẩm xã hội, bảo đảm hơn 60% ngân sách, gần 70% GDP, họ vẫn đã và đang là lực lượng đi đầu trong công cuộc kiến tạo đất nước. Xuất phát từ vị trí trong lực lượng sản xuất, từ vai trò trong tiến trình cách mạng Đảng ta đã chỉ rõ: "Giai cấp công nhân Việt Nam thông qua Đảng tiên phong của mình đã lãnh đạo cách mạng nước ta trong hơn nửa thế kỷ qua, ngày nay đang đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa" [14, tr.67]. Vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII Đảng ta đã định hướng: Đối với giai cấp công nhân coi trọng phát triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện "trí thức hóa công nhân", nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mớo [15, tr.124-125] Đây là một trong những nội dung quan trọng, một đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ đổi mới. - Giai cấp công nhân là nhân tố đảm bảo cho việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội là chỗ dựa vững chắc của Đảng và Nhà nước. Giai cấp công nhân không những là lực lượng lãnh đạo, đi đầu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà nó còn là cơ sở chính trị - xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, là chỗ dựa vững chắc của Đảng và Nhà nước, là hạt nhân của khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức và khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố cơ bản giữ vững ổn định chính trị xã hội. Đa số công nhân Việt Nam vững vàng về chính trị tư tưởng, tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng, mục tiêu chủ nghĩa xã hội, kiên quyết ủng hộ công cuộc đổi mới, kiên cường phấn đấu và đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong suốt tiến trình cách mạng, giai cấp công nhân Việt Nam thực sự là lực lượng tiên phong bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc XHCN, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập và cũng là lực lượng đi tiên phong trong mặt trận đấu tranh chống tiêu cực và các tệ nạn xã hội có vai trò to lớn trong giữ vững ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội. ở các cơ sở sản xuất, giai cấp công nhân tích cực tham gia trong các lực lượng kiểm tra, kiểm soát, giám sát các hoạt động kinh tế, phân phối lưu thông, phát hiện nhiều vụ tham ô, tham nhũng, cố tình làm sai chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Bên cạnh đó, giai cấp công nhân còn là lực lượng quan trọng trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân đặc biệt là trong việc xây dựng nền công nghiệp quốc phòng - yếu tố quan trọng của lực lượng vũ trang nhân dân. Cũng cần nói thêm rằng, khi bàn tới vai trò của giai cấp công nhân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, không đồng nghĩa với việc phủ nhận vai trò của các doanh nghiệp Việt Nam. Thực tiễn quá trình đổi mới Việt Nam đã khẳng định sự đóng góp của các doanh nghiệp Việt Nam ở mọi khu vực kinh tế là rất lớn. Song xét đến cùng lực lượng sản xuất trực tiếp, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế đất nước không ai khác chính là giai cấp công nhân và đội ngũ doanh nhân Việt Nam cũng được hình thành và phát triển trong thời kỳ đổi mới do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. 1.2. Tính đặc thù của đội ngũ công nhân Thái Nguyên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa 1.2.1. Đặc điểm đội ngũ công nhân Thái Nguyên Là một bộ phận của giai cấp công nhân Việt Nam, đội ngũ công nhân Thái Nguyên là những người trực tiếp lao động sản xuất hoặc tham gia các hoạt động dịch vụ có tính chất công nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh, họ có mặt trong mọi thành phần kinh tế và có vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Cũng như giai cấp công nhân Việt Nam, đội ngũ công nhân Thái Nguyên có đầy đủ những đặc điểm mà giai cấp công nhân Việt Nam có được. Tuy nhiên, do những điều kiện lịch sử, tự nhiên, kinh tế, xã hội quy định mà đội ngũ công nhân Thái Nguyên có những điểm riêng đặc thù đó là: - Đội ngũ công nhân Thái Nguyên ra đời rất sớm bắt nguồn từ vị trí địa lý (địa chính trị, địa kinh tế) của Thái Nguyên. Đội ngũ công nhân Thái Nguyên ra đời sớm, gần như đồng thời với sự ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam nói chung do những thuận lợi về vị trí địa lý cũng như điều kiện kinh tế - xã hội riêng có. Thái Nguyên là một tỉnh miền núi và trung du thuộc Bắc Bộ , có địa giới hành chính chung với 6 tỉnh trong cả nước. Phía Bắc giáp với tỉnh Bắc Kạn, phía Đông Nam giáp với tỉnh Bắc Giang, Đông Bắc giáp với tỉnh Lạng Sơn, phía Nam giáp với thủ đô Hà Nội; Tây Nam giáp với tỉnh Vĩnh Phúc và phía Tây giáp với tỉnh Tuyên Quang. Thái Nguyên có tổng diện tích tự nhiên là 3.541 km2. Dân số là 1.083.779 người, với mật độ trung bình là 306 người/km2. Việc tiếp giáp với 6 tỉnh và thành phố đã tạo nên một vị thế hết sức đặc biệt xét về góc độ địa lý: Xưa nay Thái Nguyên vẫn thường được xem như một nét gạch nối giữa vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng với vùng đại ngàn Việt Bắc, với địa thế "tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ", nên ngay trong thời kỳ chống sự xâm lược của các triều đại phong kiến phương Bắc, Thái Nguyên đã được cha ông ta chọn là một trong những phòng tuyến quan trọng nhất nhằm bảo vệ thủ đô thân yêu cũng như làm bàn đạp phản công để tiêu diệt quân địch. Địa hình Thái Nguyên mang đặc trưng 3 vùng: Vùng trung du gồm thành phố Thái Nguyên, thị xã Sông Công và các huyện Phổ Yên, Phú Bình. Vùng núi gồm huyện Định Hóa, Đại Từ, Phú Lương, Đồng Hỷ. Vùng cao là huyện Võ Nhai. Chính vì đặc điểm địa hình tự nhiên vừa miền núi, vừa trung du nên tiềm năng đất đai rất đa dạng cả về đất nông nghiệp, đất công nghiệp và đất rừng. Đất Thái Nguyên thuộc loại Feralit, đất đá vôi và đất ruộng, thích hợp cho việc phát triển cây lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp và chăn nuôi đại gia súc. Vùng đô thị thành phố Thái Nguyên và hai huyện liền kề: Phú Bình, Phổ Yên địa hình tương đối bằng phẳng, kết cấu đất ổn định, gần đường giao thông liên tỉnh rất thuận lợi cho việc phát triển các khu công nghiệp. Đặc biệt Thái Nguyên là vùng đất nổi tiếng giàu về tài nguyên, khoáng sản có trữ lượng tương đối lớn với nhiều chủng loại phong phú như các mỏ sắt, vàng, chì, kẽm... từ lâu đã là nguồn hấp dẫn đối với nhiều nhà khai khoáng trong và ngoài nước. Chỉ tính riêng khoảng thời gian trị vì 4 triều vua: Gia Long, Minh Mạng, Thiên Trị, Tự Đức, cả nước có 4 mỏ chì được khai thác thì mỏ chì ở Quán Triều - Thái Nguyên l._.riển kinh tế xã hội, góp phần ổn định chính trị, thiết thực xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh. Trên cơ sở quán triệt Chỉ thị 35/CT-TW năm 1998 của Bộ Chính trị về công tác thi đua khen thưởng, Luật thi đua khen thưởng được Quốc hội thông qua 2003 và có hiệu lực từ ngày 01.7.2004. Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, UBND đặc biệt là Liên đoàn lao động tỉnh đã phát động phong trào thi đua rộng khắp trong toàn thể cán bộ, công nhân, viên chức lao động trong toàn tỉnh. Cụ thể hóa phong trào thi đua thành 5 nội dung chủ yếu là: - Phong trào thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo, tiết kiệm phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch sản xuất kinh doanh và công tác hàng năm. - Phong trào thi đua giỏi việc nước, đảm việc nhà trong nữ công nhân lao động. - Phong trào thi đua vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. - Phong trào xanh, sạch đẹp, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động. - Phong trào học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hàng năm đều có sự tổng kết, đánh giá. Nhìn chung kết quả đạt được rất khả quan, song trong phong trào còn tồn tại khá nhiều hạn chế; hiệu quả còn thấp như phong trào "Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng"; có những nhận thức sai lệch về thi đua khen thưởng; chính sách động viên thi đua còn bất cập; nội dung thi đua chưa thật phù hợp với một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong thời gian tới để phong trào thi đua được đẩy mạnh hơn nữa, có tác dụng tích cực trực tiếp đến sự phát triển chung, các cấp ủy Đảng, chính quyền của tỉnh cần tập trung vào những nội dung cụ thể sau: - Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát huy nội lực trong công nhân lao động trọng tâm là thi đua lao động giỏi, lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật, cải tiến mẫu mã, giữ vững thương hiệu sản phẩm của nền kinh tế tỉnh nhà, tăng hiệu quả cạnh tranh, mục tiêu tăng thu nhập, nâng cao đời sống công nhân lao động. - Đẩy mạnh phong trào thi đua học tập nâng cao trình độ trong công nhân lao động. - Đẩy mạnh phong trào thi đua thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, thực hiện tốt các chính sách xã hội và quy chế dân chủ cơ sở. - Động viên cán bộ công nhân lao động tham gia đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn 2000 - 2010, xây dựng nền nông nghiệp hàng hóa, củng cố khối liên minh công - nông - trí thức; tích cực tham gia liên kết 4 nhà, xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng/1 ha, hộ nông dân thu nhập 50 triệu đồng/năm. - Phát triển và nâng cao chất lượng các phong trào thi đua "Giỏi việc nước, đảm việc nhà" và phong trào "xanh, sạch, đẹp, đảm bảo an toàn vệ sinh lao động"... Trên cơ sở những nội dung chủ yếu đó, tranh thủ sự ủng hộ của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương các cấp công đoàn cũng cần có những biện pháp tích cực nhằm đẩy mạnh hơn nữa phong trào thi đua yêu nước trên địa bàn tỉnh như: + Tuyên truyền sâu rộng trong công nhân lao động, chủ các doanh nghiệp về chủ trương, chính sách của Đảng, của công đoàn về thi đua khen thưởng trong tình hình mới. + Công đoàn chủ động phối hợp với chính quyền, cơ quan quản lý các cấp và người sử dụng lao động để tổ chức chỉ đạo phong trào. + Nghiên cứu, rà soát phân loại đối tượng, tính chất nghề, giới để đưa nội dung thi đua cho phù hợp. + Tổ chức tốt Đại hội công nhân viên chức, Hội nghị người lao động cơ sở để tạo điều kiện tổ chức thi đua tốt. + Kiện toàn bộ phận theo dõi, chỉ đạo phong trào thi đua. Bên cạnh đẩy nhanh phong trào thi đua yêu nước, tỉnh cũng cần chú trọng đẩy mạnh phong trào xây dựng nếp sống văn hóa trong công nhân lao động. Cần lưu ý rằng trong điều kiện kinh tế thị trường, người lao động quan tâm tới việc làm và thu nhập, đó là một khách quan. Song điều đó cũng không có nghĩa là họ chỉ dừng lại ở đời sống vật chất đơn thuần không quan tâm đến đời sống văn hóa tinh thần. Việc 'xây dựng nếp sống văn hóa trong công nhân lao động không chỉ tạo điều kiện để giai cấp công nhân có điều kiện sinh hoạt, thưởng thức giá trị văn hóa cộng đồng mà còn có tác động tích cực tới việc tái sản xuất sức lao động hình thành lối sống mới, lối sống có văn hóa mà những mặt trái của cơ chế thị trường có thể ảnh hưởng khá mạnh mẽ. Xây dựng nếp sống văn hóa trong công nhân lao động cần được kết hợp với các phong trào chung của đất nước, nhằm nâng cao hiệu quả của phong trào như phong trào xây dựng nếp sống mới ở khu dân cư, toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng gia đình văn hóa... Để đẩy mạnh nếp sống văn hóa trong công nhân lao động cần thực hiện một số giải pháp sau: - Xây dựng nếp sống văn hóa trước hết phải quan tâm đến việc tuyên truyền, giáo dục cho công nhân lao động ý thức làm việc có kỷ cương, kỷ luật, tuân thủ Hiến pháp pháp luật và chấp hành đúng quy định của cơ sở sản xuất kinh doanh. Có lối sống lành mạnh, nhân ái, tình nghĩa theo phương châm "mình vì mọi người, mọi người vì mình". - Tổ chức tốt việc thực hiện sinh đẻ có kế hoạch, gắn chính sách sinh đẻ có kế hoạch với chính sách giáo dục, đào tạo, phúc lợi xã hội nhằm khuyến khích công nhân thực hiện thật tốt các chính sách đó. - Phát triển các hoạt động văn hóa quần chúng, thể dục thể thao, giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, ngăn chặn bài trừ những trào lưu, tài liệu phi văn hóa, mở rộng mạng lưới thư viện, cung cấp sách báo và văn hóa phẩm đến tận tay người công nhân. Giáo dục tinh thần gương mẫu, gương điển hình tiên tiến trong thực hiện các chủ trương, trong các phong trào thi đua, trong chống quan liêu, tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác. - Thường xuyên tổ chức các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ trong công nhân, tổ chức cho công nhân đi tham quan, du lịch, nghỉ dưỡng sức định kỳ... Thực hiện tốt những điều đó sẽ tạo ra những điều kiện cho sự phát triển ngày càng lớn mạnh của đội ngũ công nhân trong giai đoạn mới. 3.2.6. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, trách nhiệm của chính quyền các cấp trong xây dựng đội ngũ công nhân Đảng Cộng sản Việt Nam là đội quân tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân là cơ sở chính trị chủ yếu của Đảng, vì thế giai cấp công nhân có vững mạnh thì Đảng mới có thể vững mạnh, đủ sức lãnh đạo toàn thể nhân dân trong suốt tiến trình cách mạng. Mối quan hệ đặc biệt đó đã quy định tính tất yếu là khi Đảng đã lãnh đạo cách mạng thành công, giành được chính quyền thì biện pháp tiên quyết là phải chăm lo xây dựng giai cấp công nhân ngày càng vững mạnh. Để thực hiện được điều đó, Đảng thông qua các tổ chức cơ sở của mình để xây dựng công nhân cả về tổ chức lẫn giác ngộ về lập trường giai cấp, có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng được đòi hỏi đặt ra từ thực tiễn. Trong điều kiện kinh tế thị trường, nhiều loại hình sản xuất, kinh doanh của nhiều thành phần kinh tế đan xen đã làm cho quá trình xây dựng và hoạt động của các tổ chức cơ sở Đảng gặp không ít khó khăn nhất là trong loại hình, doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong những năm vừa qua Thái Nguyên đã quan tâm đến vấn đề phát triển đảng viên và xây dựng cơ sở đảng trong các loại hình doanh nghiệp này nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong mọi bộ phận công nhân. Tuy nhiên, còn rất nhiều doanh nghiệp tư nhân hoặc doanh nghiệp có vốn nước ngoài và hầu hết các cơ sở sản xuất nhỏ chưa có tổ chức cơ sở đảng. Có nơi có tổ chức song điều kiện hoạt động lại vô cùng khó khăn. Vì vậy, một vấn đề đặt ra là phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở mọi loại hình doanh nghiệp, mọi cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm mục đích xây dựng cho được đội ngũ công nhân lớn mạnh với đầy đủ những phẩm chất: trình độ lý luận, trình độ tri thức chuyên môn, nghiệp vụ, yêu nước, có tinh thần vượt khó, có tinh thần vươn lên xây dựng một nước Việt Nam XHCN công bằng, dân chủ, văn minh, giàu mạnh. Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện hiện nay, điều quan trọng nhất là Đảng phải đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo phù hợp hơn. Hội nghị Trung ương 3 khóa IX đã chỉ rõ "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở tất cả các cấp, các ngành đối với việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, phát huy vai trò của các đoàn thể quần chúng tại doanh nghiệp" [17, tr.8]. Trên tinh thần đó, các cấp ủy Đảng cần đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong xây dựng và phát triển giai cấp công nhân, trong đó cần chú trọng các nội chủ cơ bản sau: - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cho công nhân lao động cho các cán bộ, đảng viên về vị trí, tầm quan trọng của tổ chức đảng trong các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh` đối với việc phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng giai cấp công nhân. Việc thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng như uy tín của các tổ chức đảng sẽ tạo điều kiện cho giai cấp công nhân có nhận thức đúng đắn, tin yêu Đảng, ủng hộ Đảng, giác ngộ ý thức giai cấp, hình thành ý thức tự giác trong xây dựng đảng. - Mở rộng dân chủ trong sinh hoạt đảng ở cơ sở, không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt của chi ủy và chi bộ trong các doanh nghiệp. Chú trọng đến việc phát triển đảng viên trong đội ngũ công nhân lao động nhất là trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tạo điều kiện để hình thành các cơ sở đảng trong các doanh nghiệp, khắc phục tình trạng trắng đảng viên trong các loại hình doanh nghiệp. - Riêng đối với các doanh nghiệp tư nhân, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, việc phát triển Đảng và xây dựng cơ sở Đảng là hết sức khó khăn. Do vậy cần sử dụng các biện pháp hết sức mềm dẻo nhất là chuẩn bị đảng viên có năng lực từ trước để đảng viên sang hoạt động ngay để chuẩn bị thành lập cơ sở đảng khi có điều kiện... Việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc và có ý nghĩa quyết định đến nâng cao chất lượng đội ngũ công nhân Thái Nguyên. Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam là nơi thể hiện tập trung sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời thể hiện tập trung quyền làm chủ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì vậy chính quyền các cấp không thể đứng ngoài quá trình xây dựng giai cấp công nhân. Để phát triển đội ngũ công nhân ngày càng lớn mạnh, các cấp chính quyền tỉnh Thái Nguyên cần phải: - Đưa nội dung xây dựng đội ngũ công nhân lớn mạnh vào trong chương trình, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội địa phương, coi đó là một trong những nhiệm vụ cơ bản của chiến lược. - Thành lập các bộ phận chuyên trách và giám sát việc thực hiện chính sách của doanh nghiệp nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của công nhân lao động. - Thành lập các quỹ phúc lợi riêng nhằm giúp đỡ công nhân trong các giai đoạn khó khăn như: thất nghiệp, bệnh tật, thai sản... - Phối hợp với các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh trong đào tạo nhằm nâng cao trình độ cho đội ngũ công nhân. - Quan tâm đến nâng cao đời sống tinh thần đội ngũ công nhân như đầu tư xây dựng khu vui chơi giải trí, câu lạc bộ, nhà văn hóa cho công nhân lao động... Sự lãnh đạo của Đảng ngày càng được tăng cường, các cấp chính quyền ngày càng quan tâm và có trách nhiệm trong phát triển đội ngũ công nhân sẽ là giải pháp cơ bản nhất làm cho đội ngũ công nhân không ngừng lớn mạnh, đáp ứng được những yêu cầu đặt ra cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà. 3.2.7. Xây dựng, củng cố tổ chức công đoàn, tổ chức đoàn thanh niên trong tất cả các doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và cổ phần hóa) Công đoàn là một tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của giai cấp công nhân. Điều này đã được quy định trong Hiến pháp nước ta 1992(chương 2, điều 10) và Luật công đoàn được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 7, khóa VIII ngày 30-6-1990. Vai trò của công đoàn thể hiện ở chỗ nó là sợi dây liên hệ Đảng, Nhà nước với giai cấp công nhân. Chức năng chủ yếu của nó là bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp của công nhân lao động, đại diện cho họ tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, giáo dục, tuyên truyền, giác ngộ ý thức XHCN để công nhân lao động gương mẫu trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Với chức năng đó công đoàn là 1 tổ chức không thể thiếu của giai cấp công nhân. Vì vậy, xây dựng, củng cố công đoàn vững mạnh là điều kiện để phát huy vai trò của công nhân đồng thời sự lớn mạnh của công nhân càng củng cố tổ chức công đoàn ngày càng vững chắc hơn nữa. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, vai trò của công đoàn ngày càng được mở rộng, ngoài bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động, công đoàn cũng là người đứng ra hòa giải khi tranh chấp lao động xảy ra, là người giám sát việc thực hiện thỏa ước lao động giữa hai bên và có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của người sử dụng lao động khi họ bị những người lao động cố tình vi phạm. Trong những năm qua, Thái Nguyên là một tỉnh có tổ chức công đoàn hoạt động tương đối mạnh. Vai trò của công đoàn được phát huy rất tốt và trở thành chỗ dựa tin cậy cho đội ngũ công nhân lao động. Tính đến thời điểm 2004, Thái Nguyên đã có 9 Liên đoàn lao động cấp huyện, thành phố, thị xã, 11 công đoàn ngành và tương đương, 899 công đoàn cơ sở trong đó có 198 công đoàn cơ sở ngoài nhà nước. Tổng số 40.609 đoàn viên. Sáu tháng đầu năm 2005 đã tăng thêm hơn 1000 đoàn viên với trên 50 công đoàn cơ sở. Để xây dựng và phát triển tổ chức công đoàn ngày càng vững mạnh hơn nữa, nhất là xây dựng và phát triển tổ chức công đoàn trong tất cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và cổ phần hóa cần thiết phải thực hiện những biện pháp sau: - Các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương cần tiếp tục quan tâm hơn nữa và có sự đầu tư cả về kinh phí, đào tạo cán bộ chuyên trách đến việc phát triển các tổ chức công đoàn nhất là tổ chức công đoàn cơ sở tại các doanh nghiệp. - Bản thân công đoàn phải đổi mới phương thức vận động công nhân nhằm tập hợp vào tổ chức của mình đại đa số công nhân lao động, tiến tới là tập hợp toàn bộ công nhân vào tổ chức công đoàn làm cho tổ chức công đoàn thực sự lớn mạnh. - Đổi mới công tác cán bộ công đoàn theo hướng chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa. Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, công đoàn muốn vững mạnh phụ thuộc rất lớn vào yếu tố cán bộ. Do vậy, phải coi việc đào tạo, bồi dưỡng, trang bị những tri thức toàn diện, những kỹ năng nghiệp vụ cụ thể, hình thành một đội ngũ cán bộ làm công tác công đoàn chuyên nghiệp là việc làm cấp bách của Liên đoàn lao động và các cấp chính quyền trong tỉnh hiện nay. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là một tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên, trong đó có thanh niên công nhân, vì thế tổ chức Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh có vai trò quan trọng trong tập hợp công nhân lao động trẻ, hướng họ vào các hoạt động chung, có định hướng chính trị, định hướng nghề nghiệp, tạo điều kiện cho họ có cơ hội phát triển tài năng, sở thích để trở thành người công nhân tốt, những quần chúng ưu tú có thể giới thiệu họ vào Đảng. Thực tế hiện nay ở Thái Nguyên hoạt động của đoàn thanh niên cũng đang đặt ra những điểm đáng lưu ý: Tổ chức đoàn chủ yếu hoạt động có hiệu quả trong khối hành chính sự nghiệp và trong các doanh nghiệp quốc doanh. Còn đa số doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hoạt động đoàn còn nhiều yếu kém. Lợi thế của đoàn thanh niên trong vận động, tập hợp công nhân trẻ là ở phương thức hoạt động rất dễ lôi cuốn có thể thông qua các hoạt động vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa thể thao. Trên cơ sở những hoạt động đó đoàn thanh niên có thể lồng ghép có hiệu quả các nội dung tuyên truyền mục tiêu, lý tưởng, định hướng chính trị, giác ngộ giai cấp cho thanh niên công nhân. Trong điều kiện hiện nay, để đẩy mạnh hoạt động của đoàn thanh niên, xây dựng và củng cố tổ chức đoàn trong sạch, vững mạnh trong tất cả các loại hình doanh nghiệp, tổ chức đoàn cần đổi mới nội dung, phương thức, hình thức hoạt động cho phù hợp để tập hợp, thu hút thanh niên công nhân tham gia vào các hoạt động do đoàn tổ chức như: Tổ chức các cuộc thi tay nghề, luyện thợ giỏi, thi đua lao động sáng tạo, khuyến khích các phong trào học văn hóa, ngoại ngữ, tin học, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật; tổ chức nghe thời sự, các cuộc thi tìm hiểu về đường lối, chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước, tìm hiểu về Đảng, Đoàn, vị trí, vai trò lịch sử của giai cấp công nhân. Qua những hoạt động trên làm cho thanh niên công nhân thấy rõ vinh dự, tự hào cũng như trách nhiệm của mình trong xây dựng tổ chức Đoàn, Đảng phấn đấu trở thành những công nhân hội đủ những phẩm chất cần thiết đáp ứng đòi hỏi của công cuộc đổi mới. Để thực hiện tốt những điều này, tổ chức Đoàn phải được kiện toàn từ cấp tỉnh xuống đến từng cơ sở sản xuất. Nếu không xây dựng được tổ chức đoàn thì việc tập hợp, vận động thanh niên công nhân để thực hiện những nhiệm vụ chính trị của đoàn là vô cùng khó khăn. Nếu chưa thành lập được tổ chức Đoàn thanh niên thì phải gấp rút xây dựng thành lập cho được Hội Liên hiệp thanh niên để tập hợp đoàn kết thanh niên công nhân nhất là ở các khu vực ngoài quốc doanh. Tỉnh phải đầu tư về kinh phí để hỗ trợ cho các hoạt động của đoàn, tăng hiệu quả thu hút đoàn viên. Công tác cán bộ cũng cần phải được chú trọng, không thể có tổ chức đoàn vững mạnh trong khi cán bộ làm công đoàn yếu kém về năng lực và trình độ. Tổ chức công đoàn và Đoàn thanh niên là những tổ chức chính trị - xã hội hết sức quan trọng, có điều kiện thu hút số lượng lớn công nhân tham gia. Vì thế, cần đẩy mạnh công tác tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động nhằm thu hút tập hợp nhiều hơn nữa công nhân tham gia sinh hoạt. Kết luận Là một thành phố công nghiệp, với những điều kiện tự nhiên và xã hội rất thuận lợi cho Thái Nguyên phát triển đội ngũ công nhân cả về số lượng và chất lượng. Trong những năm qua, chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng, đội ngũ công nhân Thái Nguyên càng có cơ hội để phát triển hơn nữa. Tuy nhiên, thực trạng quá trình phát triển của đội ngũ công nhân Thái Nguyên cho thấy, ngoài những mặt mạnh, đội ngũ công nhân Thái Nguyên cũng bộc lộ không ít những hạn chế, yếu kém. Số lượng đội ngũ tăng khá nhanh nhưng thiếu cân đối giữa các ngành nghề và khu vực kinh tế, cơ cấu công nhân còn nhiều bất cập, số công nhân thuộc các dân tộc ít người, ít tham gia lao động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, nếu có tham gia thì hầu như chỉ là lao động giản đơn. Do vậy, vẫn còn rất nhiều lao động nông thôn dư thừa nhưng cũng không gia nhập đội ngũ công nhân, làm chậm lại quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề, trình độ nhận thức chính trị, giác ngộ giai cấp còn yếu, tác phong lao động công nghiệp còn kém, sự hiểu biết về xã hội, pháp luật còn nông cạn nên còn một bộ phận công nhân nhận thức mơ hồ về chính trị. Thu nhập và đời sống công nhân còn nhiều khó khăn. Tệ nạn xã hội vẫn tồn tại, các tổ chức đảng, công đoàn, đoàn thanh niên trong các khu vực kinh tế, trong các doanh nghiệp mặc dù đã được cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm song chất lượng hoạt động còn nhiều thiếu sót. Tất cả những vấn đề trên sẽ tiếp tục tồn tại trong thời gian dài và xu hướng sẽ tiếp tục gia tăng nếu không có những giải pháp tích cực nhằm giảm thiểu sự phát triển của những xu hướng tiêu cực đó. Vấn đề đặt ra ở đây là để khắc phục những mặt hạn chế, yếu kém đó, điều cốt yếu là phải tiến hành đồng thời, kết hợp đồng bộ những giải pháp cơ bản trên tất cả các lĩnh vực chính trị - tư tưởng, kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục, khoa học, kỹ thuật, công nghệ với những biện pháp cụ thể như tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục... thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, qua các hạt nhân tiêu biểu trong phong trào công nhân để xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân Thái Nguyên ngày càng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu đang đặt ra của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đứng ở góc độ cá nhân, chúng tôi cũng xin đề xuất một vài kiến nghị như sau: Thứ nhất, các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể ở Thái Nguyên cần quan tâm hơn nữa đến sự phát triển giai cấp công nhân, coi đây là một nhiệm vụ cấp bách cho sự phát triển chung của tỉnh. Sự quan tâm ở đây không chỉ dừng lại ở góc độ chủ trương, đường lối mà phải có sự đầu tư thỏa đáng về mặt kinh phí. Kinh phí cho tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và của tất cả mọi người về vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kinh phí cho đào tạo, nâng cao trình độ văn hóa, trình độ khoa học kỹ thuật và chuyên môn nghiệp vụ cho công nhân lao động. Kinh phí cho việc tuyên truyền đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong công nhân lao động. Kinh phí cho tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, xây dựng các công trình văn hóa phục vụ công nhân... chỉ có sự quan tâm và đầu tư phù hợp thì quá trình xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân mới thực sự thuận lợi. Thứ hai, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, tiến hành khảo sát điều tra một cách toàn diện thực trạng đội ngũ công nhân Thái Nguyên, tìm ra những điểm hạn chế, những nguyên nhân làm cản trở cho sự phát triển của đội ngũ công nhân tỉnh, từ đó điều chỉnh chủ trương, chính sách phù hợp nhằm tạo động lực cho sự phát triển đó. Thứ ba, tỉnh cần có chính sách cụ thể thu hút nhân tài, thu hút những nhà đầu tư ở những lĩnh vực yêu cầu trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ cao, tạo ra những ngành nghề mới để hình thành bộ phận công nhân trình độ cao, thúc đẩy sự phát triển chung của đại đa số công nhân trên địa bàn. Thứ tư, trên cơ sở sự quan tâm và nỗ lực chung của các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể trong xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân lớn mạnh, bản thân đội ngũ công nhân Thái Nguyên cũng cần nhận thức được một cách đầy đủ vị thế của mình trong sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, có ý thức tự nâng cao năng lực, trình độ, tự giác thúc đẩy sự phát triển của bản thân giai cấp mình, đáp ứng những đòi hỏi đặt ra của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cuối cùng, cũng như nhiều nhà khoa học, nhiều luận văn, luận án tiến sĩ, tôi cũng mong Đảng ta cần phải có Nghị quyết về xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, có giá trị chỉ đạo khoảng 15 năm tới (2006-2020). Danh mục tài liệu tham khảo Đỗ Trọng Bá (1996), "Giai cấp công nhân - một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Thông tin lý luận, (7), tr.36-38. Nguyễn Đức Bách, Lê Văn Yên, Nhị Lê (1998), Một số vấn đề về định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương (177), Văn kiện Đảng 1930-1945, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. Lê Đức Bình (1963), Giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1996), Bài học về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Trung tâm thông tin, Hà Nội. Bộ Khoa học công nghệ và môi trường - Viện Nghiên cứu chiến lược và chính sách khoa học và công nghệ (1996), Chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và cách mạng công nghệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên, Niên giám thống kê 1998-2002. Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên, Niên giám thống kê 2004. Cục Thống kê - Liên đoàn Lao động tỉnh Thái Nguyên (2004), Thực trạng đội ngũ công nhân tỉnh Thái Nguyên theo kết quả điều tra xã hội học. Nguyễn Hoàng Chi (1996), "Công nghiệp hóa ở nước ta hiện nay có gì khác trước", Công nghiệp tư tưởng văn hóa, (8), tr.19-20. Phạm Thế Duyệt (1986), "Giai cấp công nhân Việt Nam - quá khứ và hiện tại", Tạp chí Cộng sản, (4), tr.37-42. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam (9-1960), Văn kiện Đại hội, tập 1, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam xuất bản. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XV, Nxb Tổng hợp, Thái Nguyên. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI, Nxb Tổng hợp, Thái Nguyên. Trần Văn Giàu (1958), Giai cấp công nhân Việt Nam sự hình thành và phát triển của nó từ giai cấp "tự mình" đến giai cấp "cho mình", Nxb Sự thật, Hà Nội. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn bộ giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (1996), Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Cảnh Hưng (2001), "Thành tựu 15 năm phát triển kinh tế", Tạp chí Cộng sản, (1), tr.14. Phạm Thị Xuân Hương (2001), Vấn đề đình công của công nhân ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Phạm Khiêm ích, Nguyễn Đình Phan (1994), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam và các nước trong khu vực, Nxb Thống kê, Hà Nội. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. Trần Thị Bích Liên (2001), Tích cực hóa nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân Việt Nam thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Cao Văn Lượng (chủ biên) (2001), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển giai cấp công nhân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Liên đoàn tỉnh Thái Nguyên (2004), Tình hình lao động và việc làm của tỉnh Thái Nguyên. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Xuân Nam (1997), Đổi mới chính sách xã hội, luận cứ và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đỗ Nguyên Phương (1993), Những vấn đề chính trị - xã hội của cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Tạo (1997), Một số vấn đề về giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đan Tâm (1997), "Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại - một cách tiếp cận", Tạp chí Cộng sản, (5), tr.29. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (1995), Đổi mới chính sách đối với công nhân và thợ thủ công, Nxb Lao động, Hà Nội. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Viện Công nhân và công đoàn (2004), Số liệu thống kê về lao động và việc làm. "Tìm hiểu khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa" (1994), Tạp chí Cộng sản , (8), tr.63. Tỉnh ủy Thái Nguyên (2003), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác 2003. Tỉnh ủy Thái Nguyên (2004), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác 2004. Tỉnh ủy Thái Nguyên (2001), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, tập 1, Nxb Tổng hợp Thái Nguyên. Tỉnh ủy Thái Nguyên (2005), Sơ thảo lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, tập 2. Phụ lục Phụ lục 1 Thực trạng đội ngũ công nhân Thái Nguyên năm 2004 (chia theo giới tính, độ tuổi và dân tộc) Đơn vị: % Toàn tỉnh Khu vực kinh tế Giới tính Dân tộc Quốc doanh Ngoài quốc doanh Nam Nữ Kinh Tày Nùng Dao Mông Khác Tổng số 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100% 100% Từ 16-25 tuổi 29,6 25,4 34,8 36,2 24,2 28,71 27,52 38,19 42,07 50,47 45,33 26-35 tuổi 37,3 36,3 38,3 39,4 35,2 35,25 38,91 31,23 37,59 29,94 29,47 Trên 35 tuổi 32,62 39,22 24,92 35,24 31,20 33,12 31,27 27,61 16,24 18,19 24,58 Nguồn: Cục Thống kê tỉnh, Liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên. Số liệu điều tra về tình hình công nhân lao động tỉnh Thái Nguyên, tháng 2-2005. Phụ lục 2 Thực trạng đội ngũ công nhân Thái Nguyên năm 2004 (chia theo thu nhập đầu người) Đơn vị tính: % Toàn tỉnh Khu vực kinh tế Giới tính Quốc doanh Ngoài quốc doanh Nam Nữ 1. Thu nhập dưới 200.000đ 20,42 0,51 0,33 0,27 0,55 2. Thu nhập từ 200-300.000đ 3,1 4,21 2,01 3,81 2,41 3. Thu nhập từ 300-500.000đ 8,98 7,26 10,61 5,34 10,52 4. Thu nhập từ 500-1.000.000đ 38,72 32,27 46,75 44,25 33,97 5. Thu nhập từ 1.000.000-1.500.000đ 27,91 39,81 23,81 31,82 25,90 6. Thu nhập trên 1.500.000đ 12,42 15,32 9,52 14,56 10,36 Nguồn: Cục Thống kê tỉnh, Liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên. Số liệu điều tra về tình hình công nhân lao động tỉnh Thái Nguyên, tháng 2-2005. Phụ lục 3 Thực trạng đội ngũ công nhân Thái Nguyên năm 2004 (chia theo Đảng, đoàn thể) Đơn vị tính: % Toàn tỉnh Khu vực kinh tế Giới tính Quốc doanh Ngoài quốc doanh Nam Nữ Tổng số 100% 100% 100% 100% 100% A. Chưa tham gia đoàn thể 7,46 5,21 13,21 6,78 8,14 B. Đã tham gia 92,54 94,72 86,79 93,22 91,86 Trong tổgn số: 1. Đảng Cộng sản Việt Nam 9,92 14,89 4,94 11,87 7,22 2. Đoàn TNCS 40,2 49,55 30,55 45,72 34,28 3. Công đoàn 89,78 92,13 80,3 94,52 85,48 4. Hội Phụ nữ 9,52 11,47 7,55 11,26 7,76 5. Khác 4,5 6,37 3,63 6,12 3,88 Nguồn: Cục Thống kê tỉnh, Liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên. Số liệu điều tra về tình hình công nhân lao động tỉnh Thái Nguyên, tháng 2-2005. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van.doc
  • docthua.doc
  • doc1.doc
  • docbia.doc
  • docMot so tro luc.doc
  • docmuc luc.doc
Tài liệu liên quan