Đổi mới tổ chức, quản lý ở Công ty Vận tải đa phương thức theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, ngành giao thông vận tải nói chung và Công ty Vận tải đa phương thức nói riêng đã đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng; vừa đóng góp vào sự tăng trưởng và phát triển chung của nền kinh tế quốc gia, vừa tiếp tục củng cố và tăng cường tiềm lực cho ngành vận tải và cho chính Công ty Vận tải đa phương thức. Thành công bước đầu này đã tạo điều kiện cần thiết để thực hiện chiến lược nân

doc117 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1459 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Đổi mới tổ chức, quản lý ở Công ty Vận tải đa phương thức theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiện đại hoá dây chuyền vận tải đa phương thức. Đặc biệt là năng lực vận tải hàng siêu trường, siêu trọng và thiết bị toàn bộ để từng bước hội nhập vào thị trường vận tải khu vực và quốc tế. Để thực hiện mục tiêu nói trên song song với mục tiêu hiện đại hoá năng lực vận tải, phương tiện xếp dỡ là việc áp dụng các công nghệ tiên tiến, hiện đại vào dây chuyền vận tải đa phương thức (bao gồm cả công nghệ quản lý), mở rộng và đa dạng hoá ngành nghề sản xuất, mở rộng phạm vi hoạt động nhằm tạo thế chủ động để mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Để giảm chi phí, hạ giá thành vận tải, các đơn vị vận tải phải lựa chọn mô hình tổ chức, quản lý sản xuất phù hợp nhất để vừa bảo đảm tiết kiệm chi phí, đảm bảo an toàn trong sản xuất vừa nâng cao được năng lực cạnh tranh, vừa nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Vấn đề dặt ra là phải tìm ra mô hình tổ chức quản lý phù hợp để thúc đẩy sản xuất kinh doanh của công ty ngày càng phát triển; đây là vấn đề hết sức cấp bách. Vì mục tiêu trên, đề tài “Đổi mới tổ chức, quản lý ở Công ty Vận tải đa phương thức theo mô hình Công ty mẹ - công ty con” được chọn để nghiên cứu trong luận văn này. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Đổi mới tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước là một trong những nội dung trọng trâm trong toàn bộ quá trình chuyển đổi của nền kinh tế nước ta, do đó có nhiều công trình nghiên cứu đã công bố, cũng như nhiều luận văn, luận án đã bảo vệ liên quan đến chủ đề này. Có thể nêu một số công trình như: - “Kinh tế nhà nước và quá trình đổi mới DNNN", Nxb Chính trị quốc gia -2004. - “Tổng công ty nhà nước Việt nam thực trạng và phát triển” của thạc sĩ Bùi Văn Huyền, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - 2004. - "Đổi mới tổ chức, quản lý ở Tổng công ty xây dựng 4 - Thực trạng và giải pháp", Phạm Đình Hanh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh -2005. - "Đổi mới tổ chức, quản lý ở Tổng công ty xây dựng công nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" của Thạc sĩ Trương Văn Diện, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - 2002. Các công trình trên đã nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của đổi mới ở Việt Nam nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu đề tài “Đổi mới tổ chức, quản lý doanh nghiệp theo mô hình Công ty mẹ-công ty con” nói chung và của ngành vận tải nói riêng. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài - Mục đích nghiên cứu nhằm luận chứng tính hiệu quả của việc tổ chức quản lý theo mô hình Công ty mẹ - công ty con và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình Công ty mẹ – công ty con ở Công ty Vận tải đa phương thức. - Để phù hợp với mục đích, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu những vấn đề sau: + Khái quát những vấn đề cơ bản về tổ chức theo mô hình Công ty mẹ - công ty con. + Phân tích hiện trạng của tổ chức, quản lý ở Công ty Vận tải đa phương thức theo mô hình Công ty mẹ - công ty con. + Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty Vận tải đa phương thức theo mô hình Công ty mẹ - công ty con. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu tổ chức quản lý của mô hình Công ty mẹ - Công ty con. - Phạm vi nghiên cứu: Dây chuyền vận tải đa phương thức bao gồm nhiều ngành và lĩnh vực vận tải như vận tải đường biển, vận tải đường sắt, vận tải đường hàng không, vận tải đường bộ, vận tải quá cảnh quốc tế, giao nhận, xếp dỡ hàng hoá, kho bãi... Tất cả những lĩnh vực đó được đặt trong dây chuyền sản xuất thống nhất, đồng bộ. Do nhiều lần sắp xếp, sáp nhập nên số liệu dùng để so sánh giũa các thời kỳ có nhiều khó khăn. Trong luận văn này chỉ tập trung khảo sát số liệu từ năm 2003 đến năm 2006. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, vận dụng quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, nghị quyết của Đảng bộ Công ty Vận tải đa phương thức, đồng thời có kế thừa chuyển đổi tổ chức theo mô hình Công ty mẹ - công ty con của Công ty Vận tải đa phương thức. Ngoài ra, luận văn có sử dụng phương pháp điều tra; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh với các mô hình khác để làm nỗi bật chủ đề nghiên cứu. 6. Đóng góp của luận văn Luận chứng cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức, quản lý theo mô hình Công ty mẹ - công ty con, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Vận tải đa phương thức để khẳng định sự đúng đắn của quá trình đổi mới tổ chức, quản lý theo mô hình này. 7. Kết cấu luận văn  Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ MÔ HÌNH CÔNG TY MẸ - CÔNG TY CON 1.1. MÔ HÌNH CÔNG TY MẸ - CÔNG TY CON 1.1.1. Khái lược sự hình thành và phát triển mô hình Công ty mẹ - công ty con Theo Các Mác hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa là hình thức khởi đầu của tổ chức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự hình thành các công ty xuyên quốc gia (Transnational Corporation - TNC) tổ chức và quản lý theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con là kết quả phát triển lâu dài của nền sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế. Chúng bắt nguồn từ sự tích tụ, tập trung tư bản và tập trung sản xuất cao độ, dẫn đến sự độc quyền của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển dần lên của hiệp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí đã làm nảy sinh các hình thức tổ chức sản xuất xã hội ngày một hoàn thiện, từ các xưởng thợ thủ công, đến công trường thủ công, từ công xưởng công nghiệp đến xí nghiệp sản xuất lớn, đến các loại hình công ty với nhiều hình thức khác nhau. Phát triển song song với quy mô sản xuất là các hình thức (hay còn gọi là kiểu tổ chức) quản lý tương ứng và linh hoạt nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Các TNC với mô hình quản lý hiện đại là một sự tiến bộ lịch sử vô cùng cao, và là một thủ đoạn bóc lột văn minh và tinh vi, khi người công nhân cũng lại là người có cổ phần trong chính công ty mà họ làm việc. Trong tác phẩm “Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”, V.I.Lênin cho rằng tự do cạnh tranh sẽ làm tập trung sản xuất, và sự tập trung đó đạt đến mức độ nhất định sẽ dẫn đến độc quyền. V.I.Lênin nêu các nét cơ bản của lịch sử độc quyền như sau: "- Những năm 1860 - 1870 nấc thang phát triển cao nhất của tự do cạnh tranh. Độc quyền chỉ là mầm mống bước đầu nhìn thấy. - Sau khủng hoảng năm 1873, các cartel bắt đầu phát triển, và cũng chỉ là những hiện tượng thoáng qua. - Cuối thế kỷ XIX và khủng hoảng những năm1900 - 1903, cartel trở thành một trong những cơ sở của toàn bộ đời sống kinh tế. Chủ nghĩa tư bản trở thành chủ nghĩa đế quốc" [17, tr.142]. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, từ giữa phần ba cuối thế kỷ XVIII đến đầu nửa sau thế kỷ XIX là thời kỳ của công xưởng cơ khí công nghiệp. Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các tổ chức độc quyền bắt đầu ngự trị trên thế giới. V.I.Lênin cũng chỉ rõ chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn phát triển đã diễn ra sự thống trị của các độc quyền và tư bản tài chính. Xuất khẩu tư bản có ý nghĩa to lớn, sự phân chia thế giới của các Tơrơt (Trust) quốc tế đã bắt đầu và đã phân chia xong toàn bộ lãnh thổ thế giới bởi các nước tư bản phát triển nhất. Độc quyền chỉ có thể phát triển trên cơ sở tập trung sản xuất và tư bản đạt mức độ cao, tư bản công nghiệp và tư bản ngân hàng đã phát triển tới mức liên kết chặt chẽ với nhau, vươn rộng ra bên ngoài thông qua xuất khẩu tư bản ngày càng nhiều. Đồng thời với sự phát triển mạnh mẽ đó, các liên minh độc quyền và các cường quốc tư bản đã tiến hành phân chia thế giới về kinh tế và lãnh thổ, từ đó các công ty xuyên quốc gia với hình thức liên kết đa dạng và mô hình tổ chức Công ty mẹ - Công ty con cũng hình thành và phát triển. 1.1.2 Đặc trưng và phân loại mô hình Công ty mẹ - công ty con 1.1.2.1. Quan niệm về mô hình Công ty mẹ - công ty con Trong cơ chế thị trường, quá trình cạnh tranh giữa các doanh nghiệp luôn đi liền với quá trình liên kết dưới những hình thức và mức độ khác nhau. Các doanh nghiệp có thể đầu tư vốn vào các công ty cổ phần hiện có, hoặc đầu tư vốn trực tiếp thành lập doanh nghiệp thành viên của mình. Với sự phong phú đa dạng loại hình doanh nghiệp là điều kiện để phát triển các mối liên kết. Cạnh tranh một mặt là quá trình phân hoá và đào thải các doanh nghiệp kém phát triển, mặt khác sẽ tạo dựng các doanh nghiệp quy mô lớn có tiềm lực kinh tế mạnh. Sự cạnh tranh cũng dẫn đến việc thâu tóm, mua bán giữa các doanh nghiệp tạo nên những doanh nghiệp có quy mô lớn mạnh. Cạnh tranh vừa dẫn đến sự phân hoá các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, mặt khác thúc đẩy hình thành các sợi dây liên kết, kết nối giữa các doanh nghiệp nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh bảo đảm sự tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Liên kết giữa các doanh nghiệp bao gồm liên kết dọc hoặc liên kết ngang, hoặc cả hai. Các mối liên kết ngày càng trở nên quan trọng khi có sự phát triển cao của khoa học, công nghệ và mức độ cạnh tranh trên thị trường diễn ra gay gắt. Theo đó xuất hiện một dạng liên kết phụ thuộc, như có thể lệ thuộc về vốn, về khoa học công nghệ, liên kết theo dây chuyền sản xuất. Một số doanh nghiệp phụ thuộc và chịu sự tác động về chiến lược phát triển kinh doanh của mình bởi một doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp đó có thể hoạt động trên nhiều lĩnh vực hay một lĩnh vực nhưng dựa vào sự chi phối bằng sự góp vốn, cổ phần của mình ở các doanh nghiệp khác để điều khiển hoạt động của cả một tổ hợp kinh tế. Dựa trên sự liên kết chi phối về vốn, các tổ hợp kinh tế này phát triển thành các tập đoàn kinh tế dựa trên mô hình Công ty mẹ - công ty con. Mô hình này về bản chất, là sự liên kết chi phối về vốn, sự chi phối này tạo nên sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong mô hình. Có thể khái quát bản chất mô hình Công ty mẹ - công ty con như sau: Công ty mẹ - công ty con là một hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh được thực hiện bởi sự liên kết của nhiều pháp nhân kinh doanh nhằm hợp nhất các nguồn lực của một nhóm doanh nghiệp, đồng thời thực hiện sự phân công, hợp tác về chiến lược dài hạn cũng như kế hoạch ngắn hạn trong sản xuất - kinh doanh để tạo ra sức mạnh chung và nâng cao hiệu quả hoạt động. Sự liên kết giữa Công ty mẹ và các Công ty con chủ yếu là liên kết về vốn, ngoài ra có thể gắn kết về bản quyền, về công nghệ hoặc thị trường. Ở đây chỉ tập trung phân tích về liên kết vốn. Hình thức liên kết là Công ty mẹ giữ vai trò trung tâm, đầu tư vốn của Công ty mẹ vào các công ty con có thể là 100% vốn, đầu tư giữ cổ phần chi phối, giữ cổ phần không chi phối. Các doanh nghiệp là Công ty con tham gia liên kết theo kiểu mô hình này đều là những pháp nhân đầy đủ, liên kết với Công ty con theo các mức độ khác nhau: chặt chẽ, nửa chặt chẽ, không chặt chẽ, thông qua sự chi phối vốn, phân công và hợp tác của Công ty mẹ. Công ty mẹ (Parent Company) Công ty mẹ là một công ty nắm giữ cổ phần của một hoặc nhiều công ty khác và có quyền chi phối những công ty ấy. Nhìn từ góc độ lịch sử, việc hình thành Công ty mẹ có liên quan đến sự phát triển của các công ty khống chế bằng cổ phiếu. Công ty mẹ có thể nắm giữ cổ phiếu và các trái phiếu có giá trị khác mà tự mình không tham gia vào hoạt động kinh doanh cũng như quản lý các công ty mà nó nắm giữ cổ phiếu thì Công ty mẹ này được gọi là: công ty khống chế cổ phần đơn thuần. Theo quy định pháp luật của một số nước, các công ty nắm giữ cổ phần đơn thuần này không tiến hành các hoạt động thương mại, sản xuất, đồng thời cũng không giao dịch với bên ngoài. Tuy nhiên, trong thực tế hầu hết các Công ty mẹ vừa nắm giữ và khống chế cổ phần, vừa tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Những công ty này gọi là: công ty khống chế hỗn hợp. Hình thức công ty này không chỉ phổ biến ở các ngành sản xuất, chế tạo mà còn có mặt ở lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Luật pháp ở các nước phát triển có các quy định khác nhau về hình thức công ty khống chế cổ phần loại này và chúng đều có chung một đặc điểm cho phép các công ty được quyền nắm giữ cổ phiếu của các công ty khác. Tại các TNC trên thế giới, Công ty mẹ không chỉ là các công ty khống chế cổ phần đơn thuần, mà đa số là các công ty hỗn hợp như vừa nêu trên. Việc tham gia của Công ty mẹ vào các hoạt đông của Công ty con chủ yếu là sự tham dự về phương châm chiến lược chứ không phải là các hoạt động thường ngày. Từ các vấn đề được đề cập trên có thể hiểu: Công ty mẹ là một công ty tạo ra quyền kiểm soát các công ty có liên kết với nó, là chủ sở hữu toàn bộ hoặc chi phối vốn điều lệ, vốn đầu tư, vốn cổ phần ở các công ty khác đủ để chi phối các quyết định quan trọng đối với công ty đó. Công ty con (Subsidiary) Luật pháp các nước không giống nhau, do vậy khó có một định nghĩa chính xác và đầy đủ về Công ty con. Nhìn chung có thể hình dung giữa Công ty mẹ và Công ty con luôn tồn tại song song hai mối quan hệ là: mối quan hệ về quyền sở hữu và mối quan hệ giữa bên khống chế và bên bị khống chế. Những công ty bị nắm cổ phiếu và bị kiểm soát hoạt động này gọi là Công ty con. Công ty mẹ có ảnh hưởng rất lớn đến Công ty con, nhưng các Công ty con cũng có quyền độc lập, tự chủ tương đối trong kinh doanh. Công ty con là một pháp nhân độc lập, có tên và điều lệ riêng, có con dấu và tài sản riêng, có thể độc lập tiến hành các hoạt động tố tụng, độc lập về tài chính, tự chịu lỗ lãi, có quyền phát hành cổ phiếu, đồng thời có thể độc lập đi vay nợ. Khi chấm dứt hoạt đông có thể phát mãi tài sản để thu hồi vốn. Nếu một Công ty con được thành lập ở nước ngoài, khi đăng ký kinh doanh ở nước sở tại nhất thiết phải chịu sự quản lý về pháp luật của nước sở tại mà không còn được sự bảo hộ ngoại giao của Nhà nước sở tại của Công ty mẹ. Công ty con là công ty do một công ty khác đầu tư toàn bộ vốn điều lệ hoặc nắm giữ cổ phần chi phối, trong đó cổ phần chi phối là cổ phần đa số hoặc ở mức mà theo quy định của pháp luật và điều lệ của công ty đó đủ chi phối các quyết định quan trọng của công ty đó. Công ty con có tư cách pháp nhân, có tài sản riêng, tên gọi, con dấu và là các pháp nhân độc lập của Công ty mẹ. Công ty con được tổ chức theo loại hình mà doanh nghiệp đăng ký kinh doanh. Công ty con còn biểu hiện dưới các dạng: công ty liên kết, là công ty trách nhiệm hữu hạn ở nước chủ nhà (nước có Công ty con của Công ty mẹ TNC hoạt động), trong đó nhà đầu tư có sở hữu ít nhất là 10%, nhưng không lớn hơn một nửa quyền biểu quyết của các cổ đông; công ty chi nhánh là công ty trách nhiệm vô hạn có toàn bộ vốn ở nước chủ nhà. 1.1.2.2. Những đặc trưng và phân loại mô hình Công ty mẹ - công ty con * Đặc trưng về mô hình Công ty mẹ - công ty con - Về hình thức hình thành: Quá trình hình thành, liên kết thành lập có thể theo tự nguyện hoặc bắt buộc theo cơ chế cạnh tranh. - Về quy mô: Các doanh nghiệp áp dụng mô hình Công ty mẹ - Công ty con hay còn gọi là các tập đoàn kinh tế thường có quy mô vốn, lao động, doanh thu và phạm vi hoạt động lớn. - Về chức năng: Công ty mẹ có thể có cùng một lúc hai chức năng cơ bản, vừa sản xuất kinh doanh, vừa đầu tư tài chính hoặc chỉ thực hiện chức năng đầu tư tài chính. Công ty con có chức năng sản xuất - kinh doanh, đồng thời cũng có khả năng thực hiện đầu tư tài chính mở rộng mô hình Công ty mẹ - Công ty con. - Về lĩnh vực hoạt động: Hầu hết các tập đoàn kinh tế đều hoạt động kinh doanh đa ngành để phân tán rủi ro, tận dụng được cơ sở vật chất và khả năng lao động, tuy nhiên cũng có một số tập đoàn kinh tế trong một số lĩnh vực tương đối hẹp tập trung khai thác thế mạnh về chuyên môn, bí quyết công nghệ, uy tín đặc biệt trong ngành. Các xu hướng này được thể hiện tuỳ theo ngành nghề kinh doanh, lĩnh vực hoạt động. - Về liên kết: Công ty mẹ đầu tư toàn bộ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối các công ty con và chi phối công ty này qua mức độ đầu tư, các công ty con đầu tư tiếp vào các công ty cháu. Các công ty đầu tư vào nhau tạo nên mối quan hệ cơ bản, chủ đạo xuyên suốt là quan hệ Công ty mẹ - Công ty con. Quyền và mức độ chi phối của Công ty mẹ đối với Công ty con được quy định trong điều lệ công ty phù hợp với pháp luật về loại hình của quốc gia nơi công ty đăng ký kinh doanh. Quyền lợi kinh tế của Công ty mẹ được đảm bảo thông qua chế độ phân chia lợi nhuận theo phần vốn góp. * Phân loại mô hình Công ty mẹ - công ty con Hiện nay việc liên kết giữa Công ty mẹ với các Công ty con rất đa dạng tuỳ thuộc vào loại hình kinh doanh, khả năng tiềm lực sức mạnh và khả năng chi phối của Công ty mẹ, dưới đây là một số dạng mô hình liên kết chính. - Mô hình kiên kết chủ yếu bằng vốn Mô hình này đòi hỏi các Công ty mẹ có tiềm lực tài chính mạnh, thường là các ngân hàng hoặc các công ty tài chính, hình thành thông qua con đường nhất thể hoá kinh doanh bằng cách thôn tín, sát nhập. Qua việc nắm giữ số lượng cổ phần chi phối, Công ty mẹ nắm giữ quyền lãnh đạo các doanh nghiệp trong việc đưa ra các quyết sách về nhân lực, vật lực, tài lực.... biến chúng thành các doanh nghiệp cấp dưới trực tiếp (Công ty con). Các Công ty con này vẫn có tư cách pháp nhân, tiến hành các hoạt động kinh doanh độc lập tương đối. Bằng cách tham dự cổ phần vào một số doanh nghiệp, Công ty mẹ biến những doanh nghiệp có tư cách pháp nhân khác thành các doanh nghiệp phụ thuộc nửa trực tiếp. Thực hiện các mô hình liên kết bằng vốn là các Cheabol (Hàn quốc) như Samsung, Daewoo; các tập đoàn của Nhật bản lấy ngân hàng làm trung tâm như Bank of Tokyo Mitsubishi với 690,461 tỷ USD năm 1997, Sumitomo bank 182,707 tỷ USD năm 1997. - Mô hình liên kết theo dây chuyền sản xuất-kinh doanh Mô hình này thường áp dụng đối với những ngành mà sản phẩm có cấu tạo nhiều cấp, nhiều bộ phận. Công ty mẹ có tiềm năng lớn, thực hiện chức năng trung tâm như xây dựng chức năng kinh doanh tiếp thị, phát triển sản phẩm, huy động vốn và phân bổ vốn đầu tư, quan hệ đối ngoại, đào tạo nhân lực, lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Công ty mẹ kiểm soát một mạng lưới các Công ty con, công ty cháu theo dạng hình chóp (cấp 1, cấp 2, cấp 3), tạo thành một quần thể doanh nghiệp khổng lồ. Ví dụ: Để sản xuất một chiếc máy bay Boeing 747 phải có 4,5 triệu linh kiện do 1.500 xí nghiệp lớn, 10.000 xí nghiệp nhỏ và vừa của 6 nước cùng tham gia chế tạo; Vào cuối những năm 1990 có tới 40 - 50% linh kiện và bán thành phẩm thông qua các Công ty con của các công ty đa quốc gia sản xuất. Sự phối hợp và kiểm soát hoạt động của Công ty mẹ đối với Công ty con, công ty cháu được thực hiện rất chặt chẽ, thông qua chiến lược sản phẩm và kế hoạch kinh doanh đồng bộ từ trên xuống dưới, Công ty mẹ tham gia góp cổ phần, trợ giúp về mặt kỹ thuật, đào tạo cán bộ,... sự phân công hợp tác trong nội bộ tập đoàn hết sức cụ thể và khoa học. Tuy nhiên theo mô hình liên kết nhiều tầng này, Công ty mẹ có thể không cho phép các Công ty con thuộc tầng liên kết không chặt chẽ góp vốn để thành lập các công ty cháu nhằm giảm thiểu rắc rối trong quản lý tài sản. - Mô hình liên kết giữa nghiên cứu khoa học với sản xuất - kinh doanh Theo mô hình này Công ty mẹ thường là những trung tâm nghiên cứu ứng dụng lớn, lấy việc phát triển công nghệ mới là đầu mối cho sự liên kết. Các Công ty con là đơn vị sản xuất - kinh doanh, có chức năng ứng dụng những kết quả nghiên cứu công nghệ mới của Công ty mẹ, biến nó thành sản phẩm có ưu thế trên thị trường. Năng lực cạnh tranh của cả tập đoàn chính là khả năng liên kết, từ nghiên cứu đến ứng dụng. Mô hình này thường áp dụng ở những ngành kỹ nghệ cao. Tuy các dạng mô hình liên kết giữa Công ty mẹ với các Công ty con dựa trên các nền tảng khác nhau, song suy cho cùng đều là sự chi phối bởi yếu tố tài sản, trong đó bao gồm cả tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Sức mạnh chi phối của Công ty mẹ phụ thuộc rất nhiều vào khả năng nắm giữ các nguồn tài sản trên và chính những tài sản vô hình như sở hữu công nghiệp, phát minh khoa học công nghệ, uy tín sản phẩm, thị trường, thương hiệu,.. lại có tác động hỗ trợ hết sức hiệu quả, tạo cơ sở vững chắc để cũng cố, tăng cường quan hệ hợp tác và lợi ích kinh tế giữa Công ty mẹ và các Công ty con. Công ty mẹ có thể sử dụng được các lợi thế của Công ty con về các mặt lao động, tài nguyên, thị trường... khi Công ty con đặt ở các quốc gia có ưu thế về các mặt này. Đây chính là cơ sở để giải thích việc đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài của các tập đoàn xuyên quốc gia. Ví dụ các tập đoàn kinh doanh ở châu Á Thái Bình Dương (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc) đều chọn đa dạng hoá hoạt động kinh doanh làm chiến lược phất triển và thường có ba mô hình sau: - Liên kết theo chiều dọc: Các công ty lớn thường thâm nhập rộng rãi vào các ngành khác, có liên quan như những bước trung gian của sản xuất và lưu thông. Những năm gần đây, liên kết theo chiều dọc được mở rộng sang cả những ngành sản xuất khác nhau, không có mối liên hệ trực tiếp với ngành sản xuất chính của hảng để hình thành các công ty lớn kinh doanh trên quy mô quốc tế. - Liên kết theo chiều ngang: Là sự liên kết giữa các công ty lớn trong một ngành nhất định để hình thành nên các công ty quốc tế khổng lồ. - Liên kết Conglomerat: Tiến hành vào các ngành công nghiệp tăng trưởng mới, không liên quan tới lĩnh vực kinh doanh ban đầu. Mối liên hệ giữa Công ty mẹ và các chi nhánh (Công ty con) chủ yếu là tài chính; Điều hành thông qua cơ cấu quyền lực và liên kết với các ngân hàng đầu tư, thương mại, công ty bảo hiểm... Cơ cấu của Conglomerat rất gọn nhẹ, linh hoạt và phi tập trung hoá, chủ yếu là kiểm soát hoạt động của Công ty con thông qua hệ thống tài chính và chỉ đạo hành chính nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động kinh doanh của các công ty, chi nhánh qua sự dao động giá cả cổ phiếu của nó trên thị trường chứng khoán. 1.1.2.3. Một số mô hình Công ty mẹ - công ty con Cartel: là hình thức tập đoàn kinh tế theo một ngành chuyên môn hoá, chỉ bao gồm các công ty sản xuất cùng một loại sản phẩm hoặc dịch vụ nhằm mục đích hạn chế cạnh tranh thông qua các thoả thuận thống nhất về giá cả, thị trường tiêu thụ, nguyên liệu, thống nhất các chuẩn mực về mẫu mã, kiểu dáng, kích thước sản phẩm, dịch vụ... Trong Cartel các doanh nghiệp thành viên giữ tính độc lập về mặt pháp lý, còn tính độc lập về kinh tế được đảm bảo hợp đồng kinh tế. Đây là hình thức tập đoàn có liên kết thấp nhất, xuất hiện lần đầu tiên ở Mỹ. Syndicate là một dạng đặc biệt của Cartel. Sự khác biệt căn bản là Syndicate có một phòng thương mại chung do một ban quản trị điều hành và tất cả các công ty phải tiêu thụ hàng hoá qua kênh văn phòng này. Như vậy doanh nghiệp thành viên vẫn giữ được tính độc lập về mặt sản xuất, nhưng bị phụ thuộc về mặt tiêu thụ sản phẩm. Tính liên kết của tập đoàn chỉ ở khâu tiêu thụ. Trust là một tổ chức cao hơn Syndicate ở chổ Trust không những liên kết về mặt tiêu thụ sản phẩm mà còn liên kết về mặt sản xuất. Trust bao gồm nhiều doanh nghiệp công nghiệp do một ban quản trị thống nhất điều hành. Khác với hai loại trên và các thành viên của Trust đều bị mất quyền độc lập cả về sản xuất và thương mại. Việc thành lập Trust là nhằm độc chiếm nguồn nguyên liệu, khu vực đầu tư và thu lợi nhuận cao. Consrtium là một trong những hình thức của tổ chức độc quyền ngân hàng nhằm mục đích chia nhau mua chứng khoán trong hoặc ngoài nước, hoặc tiến hành một vụ mua bán nào đó. Nó thường do một ngân hàng lớn đứng đầu, điều hành hoạt động của cả tập đoàn. Concern là một hình thức tổ chức kinh tế được áp dụng phổ biến hiện nay dưới hình thức Công ty mẹ đầu tư vào các công ty khác, lập nên mối quan hệ Công ty mẹ - Công ty con. Công ty mẹ điều hành hoạt động của cả tập đoàn, các Công ty con chịu trách nhiệm hữu hạn trên phần vốn kinh doanh của mình và độc lập về pháp lý, phụ thuộc vào tập đoàn về mục tiêu hoạt động nhằm thực hiện mục đích chung của cả tập đoàn. Concern thường được tạo nên bởi hai doanh nghiệp độc lập và có pháp nhân đầy đủ. Các Concern thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhà nước thông qua hợp đồng, đơn đặt hàng, quan hệ cá nhân tài trợ cho các thế lực chính trị. Tiền đề chính để ra đời một Concern là tồn tại một công ty chủ chốt đủ khả năng để quản lý và kiểm soát hoạt động, đặc biệt là kiểm tra tài chính các công ty khác. Để làm được điều đó, Concern phải có một ngân hàng có khả năng đảm bảo phần lớn tín dụng cho toàn Concern, thường tổng tư bản không dưới 1 tỷ USD. Conglomrate là tập đoàn đa ngành, các công ty thành viên không có mối quan hệ về công nghệ sản xuất nhưng có mối liên hệ chặt chẽ về tài chính. Đây là một tập đoàn tài chính, thông qua mua bán chứng khoán trên thị trường để đầu tư vào để đầu tư vào những công ty có lợi nhuận cao nhất và các ngành có hiệu quả cao nhất. Chính mối quan hệ này là cơ sở quan trọng để hình thành một Conglomerate. Sự hoạt đông tích cực của thị trường chứng khoán đã giúp cho Conglomerate “nuốt” dần các công ty có lãi suất cao và làm cho cơ cấu của Conglomerate thay đổi nhanh chóng. Trong đó Concern và Conglomerate là hai hình thức tổ chức phổ biến của TNC hiện đại và có những đặc thù khác nhau như sau: * Cơ sở hình thành: Concern hình thành trên cơ sở công ty lớn của ngành thâu tóm, khống chế và đi đến nuốt gọn các công ty nhỏ trong cùng một ngành sản xuất hoặc các doanh nghiệp ở các ngành khác có kỹ thuật gần tương đồng với công ty gốc bằng vốn của công ty. Conglomerate nhằm vào các doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận cao, bất kể ngành nghề nào trong nền kinh tế thông qua thị trường chứng khoán. Đặc trưng hình thành của Concern là liên kết theo chiều ngang, có tính chuyên ngành hoạt động trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Đặc trưng hình thành của Conglomerate là liên kết theo chiều dọc, có tính đa dạng và hỗn hợp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ. * Cơ cấu điều hành và cơ chế hoạt động Kết cấu của Concern luôn có một công ty gốc làm trụ cột, cơ cấu tổ chức của nó được thiết lập tập trung thẳng đứng theo tầng, bậc ma trận. Thông tin điều hành truyền từ trung tâm xuống các chi nhánh đều qua khâu trung gian của hệ thống quản lý, nên duy trì tính quyền lực, tính kế hoạch tổng thể đảm bảo được sự thống nhất và có hiệu lực của các quyết sách. Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm là hệ thống điều hành cồng kềnh, thông tin truyền từ trên xuống chậm, dễ bị sai lệch qua phần xử lý của các cáp trung gian. Kết cấu của Conglomerate là kết cấu mạng lưới tư bản hoạt động ở nhiều ngành đan xen, xâm nhập vào nhau tạo nên nhiều trung tâm quyền lực cân bằng. Quyền lực điều hành trực tiếp đối với hệ thống từng bước chuyển sang tay tư bản chức năng và tập trung vào tay các nhà quản trị cao cấp. Tuy nhiên quyền lực thực tế nằm trong tay các tập đoàn sở hữu lớn. Giới chủ điều chỉnh hoạt động của tập đoàn gián tiếp bằng hoạt động mua bán cổ phiếu của các công ty, chi nhánh trên thi trường chứng khoán. Điều hành của Conglomerate linh hoạt và mềm dẻo. Hệ thống điều hành gọn nhẹ, hiệu quả kinh tế cao do phát huy được tính chủ động sáng tạo của các Công ty con và kịp thời chuyển rủi ro trong hoạt động công ty ra ngoài thị trường. * Về lĩnh vực hoạt động: Nhờ hoạt động trên thị trường chứng khoán thông qua mua bán cổ phiếu của các chi nhánh đã giúp cho Conglomerate thay đổi lĩnh vực hoạt động nhanh chóng và luôn thu hút được các công ty thuộc các ngành có công nghệ mũi nhọn, hàm lượng khoa học kết tinh trong sản phẩm cao và có tỷ suất lợi nhuận lớn. Lợi nhuận của Conglomerate chủ yếu được tạo ra trên thị trường chứng khoán thông qua việc mua bán và đầu cơ cổ phiếu nhờ kinh nghiệm và biện pháp hoạt động trên thị trường vốn. Còn Concern do phải duy trì một ngành nghề chủ chốt buộc Concern có cơ cấu sản xuất kinh doanh ổn định và biến đổi ở một phạm vi nhỏ bé và chậm chạp hơn. Việc mở rộng công ty của Concern chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất. Concern chỉ thu hút các công ty thuộc các ngành dịch vụ ở mức độ cần thiết cho hoạt động bình thường của tập đoàn. Khối lượng lợi nhuận chủ yếu mà các Concern thu được là từ lĩnh vực sản xuất. 1.1.3. Cơ chế hoạt động của mô hình Công ty mẹ - công ty con 1.1.3.1. Cấu trúc của mô hình Công ty mẹ - công ty con Sơ đồ 1.1: Cấu trúc của mô hình Công ty mẹ - Công ty con CÔNG TY MẸ D 2 C 2 B 2 D33 D32 D31 B33 B32 B31 E 4 Mối liên kết hình thành giữa Công ty mẹ với các Công ty con phụ thuộc chủ yếu vào sự chi phối về vốn và tài sản, phương thức đầu tư, góp vốn cổ phần để hình thành các Công ty con. Bằng sự khống chế về vốn góp ở nhiều mức độ khác nhau, một doanh nghiệp trở thành Công ty mẹ của nhiều Công ty con, từ đó hình thành nên mối liên kết nhiều tầng giữa Công ty mẹ với các Công ty con chặt chẽ, nữa chặt chẽ hay lỏng lẻo. Công ty con nào được Công ty mẹ góp vốn nhiều hơn thì có mối liên hệ chặt chẽ hơn. Quan hệ giữa Công ty mẹ và Công ty con ở mức độ chặt chẽ nếu Công ty mẹ đầu tư vốn 100%. Khi đó Công ty mẹ với tư cách thực hiện quyền của chủ sở hữu vốn có quyền quyết định về cơ cấu tổ chức quản lý, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật các chức danh chủ yếu; quyết định điều chỉnh vốn điều lệ, chuyển nhượng một phần hay toàn bộ vốn cho doanh nghiệp khác, quyết định bổ sung điều lệ Công ty con, giám sát đánh giá hoạt động của Công ty con, duyệt báo cáo tài chính hàng năm, quyết định sử dụng lợi nhuận của Công ty con... Các Công ty con thuộc tầng liên kết chặt chẽ có thể tham gia góp vốn, tài sản để hình thành các Công ty con của mình (gọi là công ty cháu). Tuy nhiên Công ty mẹ có thể không cho phép các Công ty con thuộc tầng liên kết không chặt chẽ góp vốn để thành lập các công ty cháu nhằm giảm thiểu sự rắc rối trong quản lý tài sản. Trong thực tế, nhờ cấu trúc linh hoạt như vậy, nhiều công ty lớn ở các nước công nghiệp phát triển đã tăng trưởng hết sức nhanh chóng, trở thành những tập đoàn kinh doanh với qui mô và năng lực lớn, vượt ra ngoài phạm vi một ngành, một lĩnh vực sản xuất kinh doanh như Hyundai, IBM... 1.1.3.2. Cơ chế hoạt động của mô hình Công ty mẹ - công ty con Cơ cấu tổ chức quản lý của mô hình Công ty mẹ - Công ty con gồm có hội đồng quản trị (HĐQT), Ban kiểm soát, Bộ máy điều hành và các đơn vị thành viên. Hội đồng quản trị: là cơ quan quản lý cấp cao nhất đối với toàn bộ mô hình (sau đây được gọi là tập đoàn kinh tế). HĐQT bao gồm các chủ sở hữu hoặc đại diện chủ sở hữu. HĐQT chịu trách nhiệm trước pháp luật và chủ sở hữu về việc sử._. dụng, bảo toàn và phát triển vốn, thực thi các nhiệm vụ được giao. HĐQT quyết định các vấn đề lớn và quan trọng như: chiến lược phát triển, phương án sản xuất kinh doanh, điều hoà quản lý vốn, lựa chọn và quyết định tổng giám đốc, giám đốc các đơn vị thành viên. Thành viên HĐQT có thể được cử làm chủ tịch HĐQT công ty cổ phần con hoặc cháu. Ban kiểm soát: Trưởng ban kiểm soát có thể là thành viên HĐQT hoặc không phải thành viên HĐQT. Ban kiểm soát có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hoạt động của tập đoàn và quá trình điều hành của bộ máy điều hành trong việc chấp hành các quyết định, nghị quyết của HĐQT. Bộ máy điều hành: Gồm Tổng giám đốc (TGĐ) các phó tổng giám đốc và bộ máy giúp việc. TGĐ là đại diện pháp nhân của tập đoàn kinh tế, là người xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, là người điều hành những công việc thường ngày của doanh nghiệp. TGĐ là người được HĐQT lựa chọn và được Thủ tướng chính phủ quyết định bổ nhiệm (đối với tập đoàn kinh tế mà nhà nước nắm giữ 100% vốn) hoặc HĐQT ký hợp đồng thuê. Các phó tổng giám đốc do TGĐ kiến nghị và được HĐQT bổ nhiệm. Bộ máy giúp việc do TGĐ lựa chọn và quyết định sau khi được sự chấp thuận của HĐQT. Giám đốc các đơn vị thành viên: có trách nhiệm điều hành hoạt động của đơn vị thành viên theo chiến lược phát triển dài hạn cũng như kế hoạch ngắn hạn của Công ty mẹ. Tuy nhiên trên thực tế, cơ cấu tổ chức quản lý của mô hình Công ty mẹ - Công ty con phức tạp hơn nhiều khi mô hình phát triển nhiều cấp Công ty mẹ - Công ty con. Hệ thống này đan xen và xuyên suốt cả mô hình từ Công ty mẹ đến các Công ty con, công ty cháu, công ty chắt... Cơ chế hoạt động Công ty mẹ - Công ty con dựa vào chi phối về vốn, ở các Công ty con là công ty cổ phần, công ty TNHH; Công ty mẹ sẽ giám sát và quản lý, điều chỉnh mục tiêu của Công ty con thông qua HĐQT Công ty mẹ, lấy quyền chi phối về vốn để tác động đến nhân sự, chiến lược sản xuất kinh doanh, kế hoạch đầu tư. Về sở hữu: Mô hình Công ty mẹ - Công ty con xác lập rõ đầy đủ quyền của chủ sở hữu và quyền của doanh nghiệp (quyền sở hữu vốn, tài sản của pháp nhân, quyền độc lập và tự chịu trách nhiệm trong các giao dịch dân sự..). Công ty mẹ và Công ty con có thể tổ chức theo nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, với nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Về quan hệ pháp lý: Nền tảng của quan hệ cơ bản này là việc đầu tư và sở hữu vốn của Công ty mẹ ở các Công ty con, quyền của chủ đầu tư và quyền của doanh nghiệp được tách bạch rõ ràng. Công ty con được tự chủ về kinh doanh, tự chủ về tài chính, cũng như từ đó tạo nên mối quan hệ vững chắc về lợi ích kinh tế, đồng thời phân định rõ ràng quyền của chủ đầu tư và quyền của doanh nghiệp. Về tài chính: Công ty mẹ và Công ty con đều có qui chế tài chính riêng, phù hợp với hình thức sở hữu, luật điều chỉnh công ty. Báo cáo tài chính của Công ty mẹ chỉ phản ánh hoạt động kinh doanh tại Công ty mẹ, vốn tài sản của Công ty mẹ và phần vốn đầu tư vào Công ty con, không bao gồm tài sản và kết quả hoạt động của Công ty con. 1.1.4 Những điều kiện áp dụng mô hình Công ty mẹ - công ty con - Điều kiện về vị trí: vai trò của ngành, lĩnh vực hoạt động đối với những ngành nghề then chốt, là xương sống, rường cột của một nền kinh tế thì việc áp dụng mô hình Công ty mẹ - Công ty con trở nên tất yếu đảm bảo sự vững chắc không chỉ cho một ngành mà cho cả nền kinh tế. Vì vậy doanh nghiệp hoạt động trong ngành, lĩnh vực có tầm quan trọng thì việc xây dựng, tổ chức áp dụng mô hình Công ty mẹ - Công ty con sẽ giúp cho doanh nghiệp có chỗ đứng vững chắc trong suốt quá trình kinh doanh, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. - Nhu cầu phát triển về cạnh tranh: Để đáp ứng được quá trình cạnh tranh ngày càng phức tạp, gay gắt, các doanh nghiệp đứng trước nhiều nguy cơ và khó khăn, để làm tăng khả năng cạnh tranh cũng như vị thế trên thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải phát triển, mở rộng qui mô. Sự phát triển của doanh nghiệp sẽ quyết định sự tồn vong của chính doanh nghiệp đó. - Điều kiện về tính chặt chẽ trong liên kết giữa các doanh nghiệp. Đây là điều kiện quan trọng, các doanh nghiệp liên kết với nhau phải dựa trên cơ sở liên kết kinh tế thì hiệu quả hoạt động của cả một hệ thống mới đạt được hiệu quả cao nhất. - Khả năng thu hút sự tham gia rộng rãi và có hiệu quả của các thành phần kinh tế khác, kể cả đầu tư nước ngoài. Huy động vốn của doanh nghiệp cũng như nhu cầu liên kết tạo ra những thuận lợi cho việc thu hút các thành phần kinh tế trong xã hội. Tuy nhiên để có thể thu hút được các thành phần kinh tế này, đòi hỏi doanh nghiệp phải có một cơ chế quản lý cũng như hình thức liên kết hợp lý và có hiệu quả. Sự liên kết phải dựa trên cơ sở bình đẵng các lợi ích kinh tế. Đó là đông lực cuốn hút các thành phần kinh tế khác. - Điều kiện về qui mô và phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Đây là điều kiện mang tính chất thừa kế của các điều kiện đã được đề cập ở trên. Một doanh nghiệp muốn liên kết với doanh nghiệp khác phải tự tạo ra những lợi thế nhất định, uy tín trên thị trường cũng như tầm ảnh hưởng của doanh nghiệp thì quá trình liên kết mới thực sự phát huy hiệu quả. Mặt khác để thu hút vốn của các nhà đầu tư thì doanh nghiệp phải chứng minh khả năng hoạt động kinh doanh của mình có hiệu quả, ổn định và có tiền đề phát triển. 1.2. QUÁ TRÌNH THÍ ĐIỂM ÁP DỤNG MÔ HÌNH CÔNG TY MẸ - CÔNG TY CON Ở VIỆT NAM 1.2.1. Khái quát quá trình đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước Nhận rõ sự yếu kém của hệ thống quản lý tập trung, quan liêu bao cấp là vật cản đối với nhu cầu tăng tốc độ phát triển kinh tế, nhận thấy hội nhập kinh tế thế giới là xu thế tất yếu. Ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã khởi xướng sự nghiệp đổi mới ở Việt nam. Về mặt kinh tế đó là quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trừơng có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ nhiệm vụ “Hoàn thành về cơ bản việc sắp xếp, tổ chức lại và đổi mới quản lý DNNN, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh, đảm bao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Đảm bảo quyền tự chủ sản xuất kinh doanh; thực hiện việc tách quyền sở hữu nhà nước của các cơ quan nhà nước với quyền sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, xoá bỏ chế độ cơ quan cấp hành chính chủ quản, chuyển một bộ phận DNNN sang hoạt động theo hình thức công ty TNHH hoặc công ty cổ phần. Hoàn thành cơ bản việc cổ phần hoá các DNNN mà nhà nước không cần nắm giữ 100% sở hữu vốn. Ưu tiên bán cổ phần cho người lao động, mở rộng bán cổ phần cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả các tổng công ty theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con, kinh doanh đa ngành tổng hợp trên cơ sở ngành chuyên môn hoá, gọi vốn thuộc nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia kinh doanh, làm nòng cốt để hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh ở một số ngành và lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế quốc dân...” [8]. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “Khẩn trương hoàn thành kế hoạch sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước theo hướng hình thành loại hình công ty nhà nước đa sở hữu, chủ yếu là các công ty cổ phần. Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước mạnh, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có ngành chính; có nhiều chủ sở hữu, sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phôi. Đẩy nạnh và mở rộng diện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được sử dụng có hiệu quả và ngày càng tăng lên, đồng thời thu hút mạnh các nguồn lực trong, ngoài nước cho phát triển. Thực hiện nguyên tắc thị trường trong việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Đối với những tổng công ty lớn chưa cổ phần hoá toàn bộ tổng công ty, thực hiện cổ phần hoá hầu hết các doanh nghiệp thành viên và chuyển các doanh nghiệp thành viên còn lại sang hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn một hoặc nhiều thành viên mà chủ sở hữu là Nhà nước; đồng thời, chuyển các tổng công ty này sang hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - công ty con. Tổ chức lại hội đồng quản trị để thực sự là đại diện trực tiếp của chủ sở hữu tại tổng công ty” [9, tr. 232-233].   Từ năm 1988 thực hiện nghị quyết 217/ HĐBT của Hội đồng bộ trưởng (nay là chính phủ) về việc giao quyền cho các xí nghiệp quốc doanh (XNQD) tự chủ sản xuất kinh doanh và tự hạch toán kinh tế. Từ năm 1990 đến nay các XNQD đã trải qua các lần sắp xếp lớn như sau: Lần thứ nhất: Được thực hiện trong những năm1990 – 1993, đây là lần thực hiện các giải pháp mang tính chất tình thế nhằm tập trung giải quyết về tổ chức, xây dựng cơ chế chính sách về tài chính để sắp xếp lại các đơn vị cơ sở. Căn cứ pháp lý của đợt sắp xếp này là Quyết định 315/HĐBT ngày 01/09/1990 về giải thể và tổ chức lại những XNQD yếu kém, Nghị định 388/HĐBT của Hội đồng bộ trưởng ngày 20/11/1991 về nguyên tắc, điều kiện thành lập lại XNQD. Đây là lần đầu tiên nhà nước tiến hành tổng kiểm kê lại toàn bộ XNQD, phân tích và đánh giá tình hình hoạt động của XNQD trên cơ sở đó thực hiện đăng ký lại doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn để tồn tại là một DNNN. Tính đến cuối năm 1993 số lượng DNNN đã giảm từ 12.296 doanh nghiệp xuống còn 6.300 doanh nghiệp. Việc sắp xếp lại các DNNN theo nghị định 388/HĐBTđã làm thay đổi đáng kể cơ cấu vốn và lao động của doanh nghiệp. Tỷ trọng giá trị sản lượng của khối DNNN tăng từ 32,5% năm 1990 lên 40,2% năm 1994. Số DNNN làm ăn có lãi tăng từ 65% năm 1991 lên 78% năm 1994. Lần thứ hai: Được thực hiện từ năm 1994 đến năm 1997. Thực hiện các Quyết định 90/TTg và 91/TTg ngày 7/3/1994, chỉ thị 500/TTg ngày 28/5/1994 của Thủ tướng chính phủ về việc sắp xếp tổng thể các DNNN, các liên hiệp xí nghiệp, Tổng công ty có tính chất hành chính trung gian để thành lập mới các Tổng công ty nhà nước trong những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Chuyển một bộ phận DNNN thành công ty cổ phần theo nghị định 28/CP ngày 07/05/1996 của Chính phủ, đưa các doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo luật DNNN. Đồng thời từng bước xoá bỏ chế độ chủ quản của các cơ quan hành chính nhà nước. Luật doanh nghiệp nhà nước ban hành ngày 20/04/1995 là cơ sở pháp lý quan trọng quy định mô hình tổ chức và cơ chế quản lý DNNN. Trong đó quy định rõ từng loại cụ thể: DNNN có HĐQT và DNNN không có HĐQT về các nội dung: nhiệm vụ, quyền hạn của HĐQT, cơ cấu các thành viên của HĐQT; Chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc; quyền và nghĩa vụ của người lao động. Lần thứ ba: Tiến hành từ sau hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII. Chính phủ ban hành nghị định 44/1998/NĐ-CP về thúc đẩy việc chuyển DNNN thành các công ty cổ phần, Nghị định 103/1999/NĐ-CP về giao, bán, khoán, cho thuê DNNN và chỉ thị 20/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới DNNN. Chính phủ tiến hành phân loại DNNN để tiếp tục cổ phần hoá các doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn. Giao khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp có qui mô nhỏ, thua lỗ kéo dài hoặc không cần duy trì sở hữu nhà nước. Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 3 (khoá IX) đã khẳng định DNNN đã góp phần quan trọng để kinh tế nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần; chi phối được các ngành và lĩnh vực then chốt; là lực lượng nòng cốt tăng trưởng kinh tế, trong xuất khẩu và đóng góp cho ngân sách nhà nước; góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và đang phát huy vai trò là lực lượng chính trong việc đảm bảo các sản phẩm và dịch vụ công ích chủ yếu của xã hội. Hội nghị cũng phân tích sâu sắc và toàn diện tình hình và nguyên nhân, xác định rõ quan điểm, chủ trương và phương hướng phát triển và nâng cao hiệu quả của DNNN trong nền kinh tế thị trường, đổi mới về phương thức quản lý, cơ cấu tổ chức. Trên cơ sở đó Chính phủ đã ban hành nghị định 153/ 2004/NĐ-CP ngày 09/08/2004 “Về việc tổ chức, quản lý tổng công ty nhà nước và chuyển đổi tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước độc lập theo mô hình Công ty mẹ - công ty con” làm cơ sở để đổi mới các tổng công ty và DNNN. 1.2.2. Quá trình thí điểm áp dụng mô hình Công ty mẹ - công ty con ở Việt nam Mục đích áp dụng mô hình Công ty mẹ - công ty con Công tác tổ chức hoạt động và chuyển đổi các tổng công ty, DNNN theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con nhằm chuyển từ liên kết hành chính, cơ chế giao vốn sang cơ chế đầu tư tài chính, tạo sự liên kết bền chặt, xác định rõ quyền lợi, trách nhiệm về vốn và lợi ích kinh tế giữa các công ty có tư cách pháp nhân hoạt động trong một hoặc một số chuyên ngành kinh tế kỹ thuật, tăng cường năng lực sản xuất và cung cấp các dịch vụ thông tin, tiếp thị, tiêu thụ, cung ứng, nghiên cứu, đào tạo, cho các đơn vị tham gia liên kết, tạo điều kiện để phát triển thành các tập đoàn. Đối tượng thí điểm áp dụng mô hình Công ty mẹ - công ty con Nghị định 153/2004/NĐ-CP ngày 09/08/2004 đã nêu rõ quy định về tổ chức, quản lý, cơ chế hoạt động của tổng công ty, DNNN theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con; mối quan hệ giữa Công ty mẹ nhà nước với các Công ty con và các doanh nghiệp có vốn của Công ty mẹ; trình tự thủ tục chuyển đổi Tổng công ty, DNNN theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con. Trong khi nghị định về Công ty mẹ - Công ty con đang trong quá trình soạn thảo trình Thủ tướng Chính phủ quyết định, Nghị định nêu trên được các doanh nghiệp xem xét như cơ sở pháp lý để thí điểm chuyển đổi sang mô hình Công ty mẹ - Công ty con. Theo đó Tổng công ty, DNNN độc lập doanh nghiệp thành viên Tổng công ty đáp ứng đủ các điều kiện sau đây thì được xem xét quyết định chuyển đổi tổ chức thành Công ty mẹ nhà nước. -Thuộc danh mục DNNN được củng cố, phát triển, tiếp tục duy trì 100% sở hữu Công ty mẹ; đang có vốn góp chi phối ở nhiều doanh nghiệp khác hoặc có kế hoạch cổ phần hoá các doanh nghiệp của Tổng công ty, công ty liên kết có khả năng phát triển. - Kinh doanh đa ngành nghề, trong đó có một ngành kinh doanh chính; có chi nhánh, văn phòng đại diện ở trong nước và nước ngoài; có qui mô vốn lớn để thực hiện việc đầu tư vốn vào các Công ty con, công ty liên kết có khả năng phát triển. Các Tổng công ty, DNNN không đáp ứng được các điều kiện nêu trên thì có thể chuyển đổi thành các hình thức Công ty mẹ như sau: - Công ty mẹ là công ty TNHH một thành viên là nhà nước. - Công ty mẹ là công ty TNHH hai thành viên trở lên có vốn góp chi phối của nhà nước hoặc không chi phối của nhà nước. - Công ty mẹ là công ty cổ phần có cổ phần chi phối hoặc không chi phối của nhà nước. Quan hệ giữa Công ty mẹ - công ty con Công ty mẹ có quyền quyết định về điều lệ công ty, chiến lược kinh doanh, cơ cấu HĐQT của Công ty con; có quyền và trách nhiệm đối với toàn bộ số vốn của mình tại các Công ty con. Đối với các công ty mà Công ty mẹ không nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối, Công ty mẹ giữ vai trò thành viên trong HĐQT và có quyền và trách nhiệm đối với phần vốn góp của mình. Các công ty con có quyền sử dụng hợp lý số vốn của mình, thực hiện các kế hoạch kinh doanh theo mục tiêu, chiến lược chung của Công ty mẹ; có quyền tự chủ hoạt động kinh doanh như tham gia các dự án, đầu tư vào các công ty khác, thực hiện các nghĩa vụ đối với Công ty mẹ dựa trên cơ sở hợp đồng kinh tế đối với Công ty mẹ, chịu trách nhiệm với Công ty mẹ về hiệu quả sử dụng vốn và các nguồn lực; thông báo kết quả hoạt động kinh doanh với Công ty mẹ. Quan hệ chủ sở hữu nhà nước với công ty mẹ nhà nước Chủ sở hữu nhà nước có quyền quyết định mục tiêu, thành lập, tổ chức lại, giải thể, chuyển đổi sở hữu công ty, phê duyệt điều lệ tổ chức hoạt động, tăng giảm vốn điều lệ của công ty, quyết định các dự án đầu tư, góp vốn, mua cổ phần của các công ty khác, bán tài sản của Công ty mẹ có giá trị trên 50% vốn điều lệ hoặc theo tỷ lệ khác được quy định tại điều lệ công ty; quyết định chế độ tài chính, bổ nhiệm, bãi miễn các chức danh trong HĐQT; kiểm tra giám sát các hoạt động kinh doanh. Chính phủ có thể phân cấp quản lý cho các bộ ngành, uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phối hợp quản lý, kiểm tra, đánh giá hoạt động kinh doanh của Công ty mẹ nhà nước. Chính phủ có thể phân cấp quyền chủ sở hữu cho các cơ quan chức năng hoặc HĐQT để thực hiện quyền sở hữu của mình. Sơ đồ 1.2: Quan hệ chủ sở hữu nhà nước với công ty mẹ nhà nước CHÍNH PHỦ UBND CẤP TỈNH CÁC BỘ, NGÀNH CÔNG TY MẸ (TẬP ĐOÀN) Công ty TNHH 1 thành viên hạch toán phụ thuộc Công ty TNHH 2 thành viên trở lên/ Công ty cổ phần không chi phối Công ty cổ phần chi phối Công ty TNHH một thành viên hạch toán độc lập 1.3. VẬN DỤNG KINH NGHIỆM CỦA THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC VỀ MÔ HÌNH CÔNG TY MẸ- CÔNG TY CON VÀO ĐIỀU KIỆN THỰC TIỄN CỦA CÔNG TY VẬN TẢI ĐA PHƯƠNG THỨC Hầu hết các nước trên thế giới đều có DNNN. Về tỷ trọng trong nền kinh tế quốc doanh, các nước tư bản phát triển, DNNN chiếm khoảng trên dưới 10% tư bản sản xuất. ở những nước đang phát triển, tỷ lệ này cao hơn nhiều (70% ở Cộng hoà Ả rập Ai cập). Đặc điểm nỗi bật bao quát toàn bộ các khu vực DNNN trên thế giới là, bên cạnh sự cần thiết và tác động tích cực không thể phủ nhận của DNNN thì đây là khu vực hoạt động kém hiệu quả nhất về kinh tế, kỹ thuật, gây ra những tổn thất to lớn cho nguồn lực phát triển. Vì thế, xu thế cần thiết phải cải cách khu vực DNNN đã mang tính toàn cầu. Dù diễn ra ở bất cứ nước công nghiệp phát triển hay các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi nào, cải cách khu vực DNNN cũng được xem xét và triển khai theo 2 hướng sau: Thứ nhất, tiến hành thanh lọc, sắp xếp lại và hợp lý hoá từng đơn vị và toàn bộ khu vực DNNN. Thứ hai, thiết lập môi trường kinh tế - xã hội vĩ mô nhằm thúc đẩy và tạo điều kiện tăng hiệu quả hoạt động của DNNN. Thành lập công ty theo mô hình Công ty mẹ - công ty con theo hướng thứ nhất. Học tập kinh nghiệm của các nước trên thế giới, trong đổi mới sắp xếp DNNN, trong thời gian qua có một nội dung quan trọng là chuyển tổng công ty, công ty nhà nước độc lập sang mô hình Công ty mẹ - công ty con mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành TƯ Đảng khoá IX đã chỉ ra phải thí điểm, rút ra kinh nghiệm để nhân rộng. Tính đến cuối tháng 9 năm 2005 Thủ tướng chính phủ đã cho phép 52 doanh nghiệp thí điểm mô hình Công ty mẹ- công ty con. Còn đến cuối tháng 12 năm 2006 thì các doanh nghiệp theo mô hình này đã lên đến 70 doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này được phân theo nhiều cơ quan quản lý. Đối với tổng công ty nhà nước chuyển đổi sang hoạt động theo mô hình này, công ty mẹ được hình thành theo một trong các phương thức sau: - Trên cơ sở tổ chức lại văn phòng, cơ quan quản lý của tổng công ty, một số đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc vào một vài công ty thành viên hạch toán độc lập có vị thế then chốt hoặc hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chính của tổng công ty. - Trên cơ sở tổ chức lại văn phòng, cơ quan quản lý của tổng công ty và một công ty thành viên hạch toán độc lập có vị trí then chốt hoặc hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chính của tổng công ty. - Các công ty con, công ty liên kết được hình thành từ việc chuyển đổi DNNN thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và cổ phần hoá các đơn vị thành viên hạch toán độc lập (hoặc phụ thuộc) và các công ty khác do công ty mẹ góp vốn thành lập, hoặc trực tiếp nhận các công ty cổ phần khác. Hầu hết các nước tư bản phát triển (Nhật, Pháp, Anh..) việc tổ chức quản lý của công ty mẹ, theo các mô hình: - Công ty mẹ có Hội đồng quản trị (HĐQT)- mô hình (1). Cơ cấu tổ chức quản lý công ty mẹ gồm có HĐQT, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (TGĐ), các Phó Tổng giám đốc (PTGĐ) và bộ máy giúp việc. - Công ty mẹ có Hội đồng giám đốc - mô hình (2) Hội đồng giám đốc (HĐGĐ) là cơ quan quản lý và điều hành của tổ hợp Công ty mẹ- công ty con, cơ cấu gồm có: Chủ tịch hội đồng quản trị kiêm tổng giám đốc công ty mẹ, Giám đốc các công ty con. HĐGĐ làm việc theo chế độ tập thể, có chức năng quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, định hướng chiến lược phát triển, điều tiết các hoạt động cho cả tổ hợp. - Công ty mẹ không có HĐQT- mô hình (3). Theo mô hình này Tổng Giám đốc công ty mẹ là người đại diện trực tiếp chủ sở hữu vốn nhà nước tại công ty mẹ; bộ máy quản lý côngty mẹ gọn nhẹ, khắc phục được những nhược điểm trong phân định chức năng nhiệm vụ giữa HĐQT và Tổng giám đốc. Bên cạnh những ưu việt của mô hình Công ty mẹ- công ty con đang phát triển ở nhiều nước, thì trong thực tế ở nước ta mô hình này vẫn bộc lộ một số vấn đề cần tháo gỡ: Thứ nhất, về bộ máy quản lý của công ty mẹ và các công ty con. Theo nghị định 153/2004/NĐ-CP ngày 9 tháng 8 năm 2004 của Chính phủ thì bộ máy quản lý của công ty mẹ là bộ máy quản lý tổng công ty. ở đây đã có sự nhầm lẫn giữa tổ chức doanh nghiệp theo mô hình Tổng công ty và theo mô hình Công ty mẹ- công ty con. Trong mô hình tổng công ty, tổng công ty đã có các thành viên hạch toán phụ thuộc và thành viên hạch toán độc lập. Các công ty thành viên này dù là hạch toán độc lập hay hạch toán phụ thuộc đều là đơn vị trực thuộc tổng công ty, do đó chỉ có tổng công ty mới có tư cách pháp nhân, còn các công ty thành viên thì không có tư cách pháp nhân độc lập. Còn theo mô hình Công ty mẹ- công ty con thì tổ hợp công ty mẹ và các công ty con đều có tư cách pháp nhân riêng, quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con là bình đẳng như giữa các pháp nhân kinh tế với nhau. Theo kinh nghiệm của nhiều nước thì công ty mẹ chỉ có thể là một doanh nghiệp, nhưng đa phần là một tổng công ty (theo cách gọi của ta) hoặc là một tập đoàn doanh nghiệp lớn. Nó đầu tư tài chính vào các công ty khác, gọi là công ty con để thu lợi nhuận hoặc kiêm cả việc sản xuất với tư cách là một pháp nhân độc lập bình đẳng với các doanh nghiệp pháp nhân khác có bộ máy quản lý riêng. Lãnh đạo công ty mẹ có thể sử dụng bộ máy này để theo dõi kiểm soát phần vốn góp của mình vào các công ty khác không dùng nó để quản lý các công ty khác. Và như vậy, đứng về mặt pháp lý thì Tổng giám đốc công ty mẹ không có "quyền chỉ huy" các công ty con. Việc theo dõi kiểm soát phần vốn góp vào các công ty con được thực hiện thông qua người đại diện phần vốn góp của công ty mẹ tại công ty con. Theo kinh nghiệm của nước ngoài thì thường người của công ty mẹ nắm giữ chức chủ tịch hội đồng quản trị và giám đốc điều hành công ty con. Với hai vị trí này thực chất công ty mẹ đã điều hành trực tiếp các hoạt động tác nghiệp của cong ty con. Nhưng điều đó không có nghĩa công ty con mất đi quyền độc lập tự chủ về mặt pháp lý của họ. Thứ hai, liên quan đến thương hiệu và con dấu. Thực tế hoạt động của các công ty nước ngoài theo mô hình “Mẹ- con” cho thấy tổ hợp các công ty mẹ, công ty con thường sử dụng chung thương hiệu của công ty mẹ. Tuy nhiên cùng có những trường hợp một số công ty hiện không liên quan gì đến công ty mẹ nhưng vẫn lấy "họ mẹ" đặt cho mình. Nhiều công ty Việt nam lấy thương hiệu của mẹ ghép thêm địa điểm đóng trụ sở của công ty con làm thương hiệu của công ty con. (Bia Sài gòn Phú yên; Bia Sài gòn Sóc trăng...). Tuy nhiên Việt Tiến lại áp dụng con dấu chung cho tất cả các công ty của mình. Trong thực tiễn quản lý của ta, con dấu là biểu hiện của một pháp nhân độc lập. Theo Luật định, chỉ sau khi được cấp đăng ký kinh doanh thì doanh nghiệp mới có quyền khắc con dấu. Như vậy theo cách làm của Việt Tiến thì tính chất pháp nhân độc lập của các công ty con không còn nữa. Thứ ba, theo nghị định số 153/2004/NĐCP ngày 9 tháng 8 năm 2004 thì công ty con là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty liên doanh công ty ở nước ngoài có cổ phần, vốn góp chi phối của công ty mẹ... (mục 1, Điều 25). Trong trường hợp này, nếu công ty con có chiến lược kinh doanh mới, muốn tăng vốn trong khi công ty mẹ không có vốn để góp thêm thì sẽ dễ xảy ra trường hợp là công ty mẹ sẽ dùng quyền phủ quyết không tăng vốn. Và đây là nguy cơ cản trở công ty con phát triển. Theo Luật doanh nghiệp thì đại hội cổ đông chứ không phải công ty mẹ quyết định cơ cấu vốn đầu tư nhưng công ty mẹ chiếm 51% thì vẫn chiếm đa số. Vì thế cần tôn trọng ý kiến của đại hội cổ đông. Nếu công ty mẹ không đủ vốn nộp thêm thì "đành chịu" giảm tỷ lệ góp vốn. Mặt khác tại mục 1 điều 18 quy định: "Tổng công ty theo mô hình Công ty mẹ- công ty con là hình thức liên kết và chi phối lẫn nhau bằng đầu tư, góp vốn, bí quyết công nghệ, thương hiệu hoặc thị trường giữa các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân". Như thế có nghĩa là không chỉ chi phối bằng cổ phần hay vốn góp mà còn chi phối bằng bí quyết công nghệ, thương hiệu hoặc thị trường. Và như vậy thì một công ty không có cổ phần hay vốn góp chi phối nhưng có thương hiệu mạnh, có thị trường rộng hoặc công nghệ hiện đại vẫn có thể giữ vai trò là công ty mẹ. Điều này khắc phục được tình trạng khi các công ty con có nhu cầu tăng vốn, nhưng công ty mẹ không còn vốn để tăng vẫn có thể tiếp tục giữ vai trò là công ty mẹ nếu có thể chi phối được bằng thị trường, thương hiệu hoặc công nghệ. Thứ tư, về cơ cấu tổ chức của công ty mẹ, hiện nay trên thế giới cũng như trong nước ta đang hoạt động bằng một số mô hình sau: - Theo mô hình tổ chức quản lý dạng (1) cơ cấu tổ chức không khác gì cơ cấu tổ chức của Tổng công ty. Vẫn là cơ cấu tổ chức ấy, vẫn những con người ấy. Trên phương diện giấy tờ văn bản thì một tổ chức mới đã thay thế cho một tổ chức cũ nhưng cơ chế hoạt động chưa có thực sự đổi mới cần thiết. Điều lệ hoạt động của khá nhiều Công ty mẹ- Công ty con chưa thể hiện sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp - pháp nhân độc lập, dành quyền cho công ty mẹ quá nhiều và cho công ty con quá ít. Trong điều lệ hoạt động của một công ty ở Thành phố Hồ Chí Minh còn quy định công ty mẹ có quyền huy động và điều hoà ngoại tệ giữa các công ty nhằm sử dụng vốn có hiệu quả nhất trong toàn công ty. Quy định như vậy đã tước bỏ toàn bộ quyền hội nhập kinh tế quốc tế của các công ty con. - Mô hình tổ chức quản lý dạng (2) không có trong các quy định hiện hành về mô hình Công ty mẹ- công ty con. Đây là mô hình có sự phù hợp và kết quả bước đầu là tốt. Nhưng một số vấn đề đặt ra là: + Tổng giám đốc là người đại diện trực tiếp chủ sở hữu vốn nhà nước tại công ty mẹ nên về nguyên tắc TGĐ có quyền phải chịu trách nhiệm về toàn bộ các quyết định quản lý có liên quan đến vốn nhà nước tại công ty mẹ; còn HĐGĐ là cơ quan quản lý công ty mẹ và các thành viên trong HĐGĐ phải cùng chịu trách nhiệm về các kết luận của HĐGĐ. Với sự phân quyền trách nhiệm giữa TGĐ và các thành viên HĐGĐ như thế nào? + Mặt khác, trừ Tổng giám đốc, các thành viên trong HĐGĐ đều chịu sự chi phối của Tổng giám đốc công ty mẹ trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm do đó họ chưa thực sự có vị trí độc lập với Tổng giám đốc trong HĐGĐ để có thể tạo ra một môi trường bình đẳng, dân chủ thực sự trong HĐGĐ khi bàn bạc, quyết định công việc, vậy họ có phải chịu liên đới chịu trách nhiệm ngang cùng Tổng giám đốc công ty mẹ về các quyết định quản lý toàn tổ hợp hay không? Từ đó chúng ta thấy rằng, ở mô hình này, việc chịu trách nhiệm pháp lý cuối cùng đối với vốn nhà nước tại công ty mẹ là không rõ ràng. Mặt khác đối với công ty con là công ty cổ phần thì HĐQT (đại diện là Chủ tịch HĐQT) chứ không phải là Tổng giám đốc/giám đốc) của công ty mới là chủ sở hữu và có thẩm quyền quyết định những vấn đề lớn của công ty, do đó đặt ra vấn đề ai sẽ là người đại diện công ty tham gia trong HĐGĐ (theo quy định của mô hình này thì chủ tịch HĐQT) không phải là thành viên của hội đồng giám đốc của công ty mẹ. + Mô hình tổ chức quản lý dạng mô hình (3) có những nhược điểm là: việc tổ chức quản lý công ty nhà nước quy mô lớn, giữ quyền chi phối doanh nghiệp khác không có HĐQT là không đúng với quy định của Luật doanh nghiệp, không phát huy được trí tuệ tập thể khi quyết định những vấn đề lớn của công ty, dễ dẫn đến xu hướng chuyên quyền, độc đoán trong tổ chức quản lý doanh nghiệp. Đó là chưa kể nếu xét về khả năng điều hành một công ty mẹ có quy mô lớn, có nhiều công ty con thì một mình giám đốc khó có thể quán xuyến được hết mọi công việc cần thiết. Công ty May Việt Tiến và các công ty (xây lắp điện 3, dầu thực vật và Hương liệu mỹ phẩm, XNK và hợp tác đầu tư GTVT, Dệt- may và viện Máy và dụng cụ công nghiệp) áp dụng mô hình công ty mẹ không có HĐQT, cũng không có HĐGĐ. Trong khi đó như Tổng công ty Dệt may Việt Nam và các công ty con của Việt Tiến thì có HĐQT nhưng thành phần của hai loại HĐQT ấy là rất khác nhau. Một do Nhà nước và một do các cổ đông bầu ra. Thực tế hoạt động và điều hành của HĐQT của các công ty nhà nước thời gian qua ở nước ta đã bộc lộ nhiều bất cập, có nhiều quyền nhưng không chịu trách nhiệm về các quyết định do mình đưa ra, ít gắn bó thiết tha với sự thành bại của tổng công ty, nhất là với việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Thứ năm, liên quan đến việc chuyển đổi tổng công ty sang hoạt động theo mô hình Công ty mẹ- công ty con khi tất cả các công ty thành viên của tổng công ty đã được cổ phần hoá. Khi các công ty thành viên của tổng công ty đã chủ sở hữu thì bản thân tổng công ty là chủ sở hữu phần lớn hoặc một phần vốn (dưới dạng cổ phần) của các công ty cổ phần này thì bản thân tổng công ty là chủ sở hữu phần lớn hoặc không nắm giữ cổ phần nào nếu bán hết toàn bộ số vốn nhà nước có tại công ty. Khi đó tổng công ty tham gia hoạt động của các công ty cổ phần với tư cách là những cổ đông chứ không phải với tư cách là cấp trên chủ quản như trước nữa. Một doanh nghiệp đã đầu tư hay góp vốn vào một hay nhiều công ty khác thì đó là công ty mẹ. Công ty này có thể có tên gọi là "Công ty" hoặc "Tổng công ty" thậm chí là một tập đoàn. Điều đó không quan trọng, miễn là nó có đủ vốn để góp hoặc đầu tư vào các công ty khác. Như vậy về thực chất tổng công ty đã là công ty mẹ của các công ty cổ phần. Trong trường hợp này việc chuyển đổi tổng công ty sang hoạt động theo mô hình Công ty mẹ- công ty con là không cần thiết. Có chăng chỉ là hình thức về thủ tục hành chính mà thôi mà không tạo lập được bất cứ lợi ích nào cho doanh nghiệp. Thứ sáu: vấn đề thích nghi với sự đổi mới tổ chức quản lý doanh nghiệp theo mô hình Công ty mẹ - công ty con. Một số doanh nghiệp đã chuyển sang mô hình Công ty mẹ- công ty con nhưng vẫn giữ thói quen bằng mệnh lệnh hành chính trong mối quan hệ giữa công ty mẹ với các công ty con mà chưa thực sự thông q._.cấu vốn..). Theo hướng này, Hội đồng quản trị và ban điều hành của công ty mẹ cần có sự phối hợp chặt chẽ với Phòng tài chính kế toán và các bộ phận khác của Công ty mẹ cũng như của các doanh nghiệp thành viên để có sự chỉ đạo đúng đắn, chi tiết và rõ ràng. Xét một cách biện chứng, không thể thuần tuý nhấn mạnh quyền tự chủ của công ty mẹ và các công ty con mà bỏ qua sự kiểm soát của công ty mẹ. Việc thực thi một mức độ kiểm soát hợp lý lại càng quan trọng để đạt hiệu quả cao, đồng thời bảo toàn được vốn và hạn chế các rủi ro có thể xảy ra. Tuy nhiên, một trong những vấn đề khó khăn nhất là kiểm soát ở mức độ nào để không ảnh hưởng xấu đối với hoạt động của công ty con. Chính vì vậy để đạt được mục tiêu thúc đẩy công ty mẹ và công ty con cùng phát triển vững chắc và có hiệu quả, hệ thống kiểm soát tài chính nội bộ không nên dàn trải quá nhiều chỉ tiêu mà chỉ nên tập trung vào những chỉ tiêu cơ bản nhất, có ý nghĩa quyết định. Như vậy hệ thống kiểm soát tài chính nội bộ không những là công cụ hữu hiệu tác động tích cực tới quá trình đổi mới cơ chế quản lý vốn của cả hệ thống công ty mẹ và công ty con mà còn thúc đẩy quá trình cơ cấu lại hệ thống quản lý tài chính theo mô hình Công ty mẹ - công ty con. 3.2.2.4. Kiện toàn hệ thống kiểm soát nội bộ Hệ thống kiểm soát nội bộ (HTKSNB) là toàn bộ các chính sách và thủ tục kiểm soát được thiết lập nhằm bảo đảm hiệu năng và hiệu quả của các hoạt động trong công ty; bảo đảm sự tuân thủ của các đơn vị đối với điều lệ của công ty và pháp luật của Nhà nước; bảo đảm độ tin cậy của thông tin và bảo vệ tài sản của công ty. Nói cách khác HTKSNB là toàn bộ các chính sách và thủ tục kiểm soát được ban hành mọi hoạt động trong công ty. Vì vậy, phạm vi của HTKSNB tương đối rộng bao trùm toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của công ty từ tổ chức nhân sự, lao động tiền lương cho đến tài chính kế toán, kỹ thuật công nghệ.. Thực tế cho thấy HTKSNB tại các doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay nói chung và ở Công ty Vận tải đa phương thức nói riêng còn bộc lộ nhiều hạn chế, thể hiện ở các mặt sau: Nhận thức về ý nghĩa và tác dụng của HTKSNB của các cấp lãnh đạo công ty còn hạn chế; hệ thống các qui định và qui chế kiểm soát của công ty thường kém hiệu lực và không đồng bộ; bộ phận kiểm toán nội bộ của công ty mẹ chưa được coi trọng. Để khắc phục nhũng hạn chế trên, khi chuyển sang hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con đòi hỏi HTKSNB phải có sự thay đổi cho phù hợp với mô hình, đồng thời phát huy được vai trò của HTKSNB trong công tác quản lý. Để cho HTKSNB trong mô hình Công ty mẹ - Công ty con tại Công ty Vận tải đa phương thức thực sự có hiệu quả cần tập trung vào một số điểm như sau: Một là: Cần xây dựng, ban hành các qui chế và thủ tục kiểm soát theo hướng mở và linh hoạt. Chuyển sang mô hình Công ty mẹ - Công ty con, công ty mẹ thuộc sở hữu nhà nước cùng các thành phần kinh tế khác đầu tư vào các công ty con. Công ty mẹ với tư cách là nhà đầu tư không thể can thiệp quá sâu vào các hoạt động của công ty con. Vì vậy các qui chế kiểm soát chỉ mang tính định hướng không qui định chi tiết cụ thể để các công ty con chủ động vận dụng một cách linh hoạt. Các qui chế và thủ tục kiểm soát trong mô hình mới gọn nhẹ hơn nhưng sẽ có hiệu quả hơn mô hình Tổng công ty. Quyền kiểm soát của Công ty mẹ đối với công ty con được xác định bằng quyền biểu quyết. Vì thế công ty mẹ không phải kiểm soát công ty con bằng hệ thống qui chế và bằng chính sự hiện diện của Công ty mẹ tại Công ty con. Mặt khác, khi quyền lợi và nghĩa vụ được phân định một cách rõ ràng thì bản thân các qui chế kiểm soát sẽ có hiệu lực tự thân, các đơn vị sẽ tự giác thực hiện. Hai là: Mối quan hệ về kiểm soát giữa công ty mẹ và công ty con phải được xác định rõ ràng, rành mạch. Trong mô hình Công ty mẹ - công ty con, các công ty con có HTKSNB riêng và tương đối độc lập với HTKSNB của Công ty mẹ. Vì vậy, sự can thiệp về kiểm soát của công ty mẹ đối với công ty con đến đâu và kiểm soát như thế nào cần phải được thống nhất rõ ràng. Với tư cách là cổ đông có cổ phần chi phối tại công ty con, công ty mẹ tham gia ý kiến xây dựng các qui định, qui chế kiểm soát của công ty con trong đó qui định rõ hoạt động nào, lĩnh vực nào cần phải có sự kiểm soát của công ty mẹ và cơ chế kiểm soát như thế nào. Ba là: Bộ phận kiểm toán nội bộ phải được thành lập và cần được coi là bộ phận cấu thành quan trọng nhất của HTKSNB. Kiểm toán nội bộ là bộ phận không thể thiếu trong mô hình Công ty mẹ - công ty con. Bộ phận này thực hiện việc kiểm tra, đánh giá các hoạt động của công ty mẹ và các công ty con nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đồng thời qua đó hoàn thiện HTKSNB của toàn hệ thống công ty. Trong mô hình Công ty mẹ - công ty con kiểm toán nội bộ có điều kiện phát huy vai trò theo đúng nghĩa của nó: Mối quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con là tài sản, trách nhiệm của công ty mẹ đối với công ty con nặng nề hơn, mọi hoạt động của công ty con đều có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Công ty mẹ. Vì vậy hoạt động của công ty con cũng như hoạt động của công ty mẹ tại công ty con cần thiết phải có sự kiểm tra, đánh giá của bộ phận kiểm toán nội bộ. Bốn là: Hệ thống kế toán phải được tổ chức theo cấu trúc mới bảo đảm cung cấp thông tin kế toán tin cậy, kịp thời phục vụ cho việc ra quyết định quản lý. Với mô hình Công ty mẹ - công ty con, thông tin kế toán trở nên vô cùng quan trọng bởi công ty mẹ là nhà đầu tư và kinh doanh trực tiếp tại các công ty con. Trong mô hình này, hệ thống kế toán giữa công ty mẹ và các công ty con có thể không đồng bộ do các công ty con thộc các loại hình sở hữu khác nhau, quan hệ hạch toán khác nhau. Tuy vậy, nhu cầu về độ tin cậy, kịp thời của thông tin lại được đặt lên hàng đầu. Do đó hệ thống kế toán phải đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu về thông tin phục vụ công tác quản lý. HTKSNB đang dần trở nên quen thuộc và phổ biến cả về mặt lý luận và thực tiễn. Vai trò, vị trí của HTKSNB đối với công tác quản lý ngày càng được khẳng định đặc biệt trong các doanh nghiệp, vì lẽ đó việc hoàn thiện HTKSNB là bước đi quan trọng đối với mô hình Công ty mẹ - công ty con tại Công ty Vận tải đa phương thức. 3.2.3. Xây dựng và thực hiện chiến lược đầu tư đổi mới công nghệ 3.2.3.1. Hiện đại hoá phương tiện vận tải, xếp dỡ với công nghệ tiên tiến của thế giới, phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế Viêt Nam Thế mạnh của Công ty Vận tải đa phương thức là vận tải hàng siêu trường, siêu trọng và thiết bị toàn bộ. Với sự phát triển của ngành Xi măng, ngành Điện, ngành Dầu khí, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ các dây chuyền thiết bị toàn bộ ngày càng có nhiều kiện hàng siêu trường siêu trọng, đặc biệt có những kiện hàng của dàn khoan dầu khí nặng tới 3.000 tấn. Vì vậy nếu không có chiến lược đầu tư hiện đại hoá phương tiện vận tải, xếp dỡ để đón đầu chiến lược phát triển công nghiệp hoá của nước ta, thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu của thị trường vận tải. Mặt khác, sau khi Việt Nam đã gia nhập WTO các công ty vận tải quốc tế có điều kiện đưa các thiết bị hiện đại xâm nhập vào thị trường vận tải nội địa của Việt Nam, do vậy nếu không hiện đại hoá phương tiện thiết bị thì không có đủ điều kiện để cạnh tranh ở ngay thị trường trong nước. Hiện đại hoá phương tiện vận tải, xếp dỡ là xu hướng tất yếu, phải xây dựng chiến lược đầu tư phù hợp vừa bảo đảm công nghệ tiên tiến, hiện đại, nhưng vừa phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường thì mới khai thác có hiệu quả. Trên cơ sở đó chiến lược đầu tư của công ty được xác định là: - Phải đầu tư những phương tiện vận tải, xếp dỡ hiện đại, công nghệ tiên tiến phù hợp với sự phát triển của thị trường hàng siêu trường siêu trọng. - Đầu tư phải có chọn lọc, các loại phương tiện phải phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. - Không đầu tư tràn lan, bảo đảm khai thác có hiệu quả, có khả năng khấu hao nhanh, để có điều kiện thường xuyên đổi mới công nghệ. 3.2.3.2. Đầu tư chiều sâu cho các công ty con để tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường Thị trường hàng siêu trường, siêu trọng phát triển gắn liền với sự phát triển của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Tất cả các tỉnh, thành phố đều có các khu công nghiệp, khu chế xuất. Sự phát triển của khu công nghiệp, khu chế xuất là thị trường rộng mở của ngành vận tải hàng siêu trường, siêu trọng và thiết bị toàn bộ; do đó thị trường của ngành vận tải hàng thiết bị không phải chỉ ở một địa điểm, hay một khu vực mà trải rộng trên cả nước. Do vậy nếu tập trung đầu tư toàn bộ phương tiện thiết bị cho công ty mẹ mà không chú trọng đầu tư cho công ty con, thì công ty mẹ sẽ lãng phí chi phí huy động phương tiện từ vùng này qua vùng khác, hoặc từ miền Bắc vào miền Nam và ngược lại. Do đó, phải chú trọng đầu tư chiều sâu cho các công ty con, để các công ty con vừa có đủ điều kiện cùng tham gia vào dây chuyền sản xuất của công ty mẹ, vừa có đủ năng lực để khai thác các nguồn hàng vừa và nhỏ trên địa bàn đóng quân. Như vậy tạo điều kiện cho công ty mẹ huy động được phương tiện thiết bị sẵn có tại chỗ của công ty con sẽ giảm được chi phí huy động phương tiện thiết bị từ khu vực khác đến; vừa tạo điều kiện giảm chi phí làm tăng năng lực cạnh tranh trên thương trường. 3.2.4. Hoàn thiện cơ chế và chính sách tiếp thị Trong cơ chế thị trường, tiếp thị là một khâu quan trọng trong dây chuyền sản xuất kinh doanh của môt doanh nghiệp. Một đơn vị sản xuất có cơ chế và chính sách tiếp thị tốt sẽ giúp cho đơn vị đó có thị trường ổn định và mở rộng, ngược lại đơn vị không có cơ chế và chính sách tiếp thị tốt thì thị trường sẽ bị thu hẹp dần do đó sản xuất không có điều kiện để phát triển. Đối với Công ty Vận tải đa phương thức cơ chế tiếp thị và chính sách tiếp thị có vai trò hết sức quan trọng, bởi vì mặt hàng chính của công ty là hàng siêu trường, siêu trọng và dây chuyền thiết bị toàn bộ. Việc mua bán và cung ứng các loại hàng hoá này chủ yếu do các công ty, tập đoàn lớn của nước ngoài cung cấp đến tận chân công trình. Vì vậy, nếu công ty không làm tốt công tác tiếp thị thì không thể liên doanh, liên kết với các công ty nước ngoài để dự thầu, thì không thể có hợp đông vận chuyển. 3.2.4.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách tiếp thị Sau khi chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý theo mô hình Công ty mẹ - công ty con, Công ty Vận tải đa phương thức đã thay đổi cơ cấu tổ chức tiếp thị như thành lập Ban tiếp thị, bố trí cán bộ tiếp thị chuyên trách ở các khu vực trọng điểm như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh.. xây dựng cơ chế quản lý, thu thập và xử lý thông tin vì vậy đã giúp cho công ty quản lý tốt công tác chào giá cho khách hàng, tránh được sự cạnh tranh không lành mạnh giữa công ty mẹ với công ty con và giữa các công ty con với nhau. Tuy nhiên cơ chế, chính sách tiếp thị cần hoàn thiện để phát huy tốt hiệu quả của công tác tiếp thị: Một là: Cần làm tốt hơn công tác xử lý thông tin chính xác, kịp thời để trên cơ sở đó có được phương án chào giá tốt nhất cho khách hàng. Hai là: Cơ chế, chính sách tiếp thị phải không ngừng được hoàn thiện theo sự biến động của thi trường. Phải gắn được quyền lợi của người tiếp thị và các đơn vị tiếp thị để khuyến khích công tác tiếp thị. 3.2.4.2. Củng cố phát triển mạng lưới thông tin tiếp thị Các bộ phận tiếp thị của Ban tiếp thị công ty nằm rải rác trên toàn mạng lưới của cả nước, chưa phải là các bộ phận tiếp thị chuyên trách, họ vừa thực hiện nhiệm vụ sản xuất, vừa thực hiện công tác tiếp thị. Với cách bố trí công tác tiếp thị như hiện nay tuy có ưu điểm là cán bộ tiếp thị có thể lồng ghép kinh nghiệm thực tế để thực hiện nhiệm vụ tiếp thị với khách hàng, bộ máy tiếp thi gọn nhẹ. Nhưng nhược điểm của cách tổ chức này là bộ phận cán bộ tiếp thị không chuyên trách nên kỹ năng và chuyên môn tiếp thị chưa cao, đôi lúc nhiệm vụ tiếp thị bị phân tán do người được phân công nhiệm vụ tiếp thị đang phải thực hiện nhiệm vụ sản xuất. Vì vậy, công tác củng cố mạng lưới tiếp thị phải được coi trọng đúng mức, ở những khu vực trọng điểm phải có tổ tiếp thị chuyên trách để có điều kiện thu thập và xử lý thông tin một cách kịp thời và chính xác. 3.2.5. Hoàn thiện nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp * Đổi mới công tác hoạch định kế hoạch sản xuất kinh doanh Hiện nay công tác lập kế hoach sản xuất kinh doanh ngắn hạn cũng như dài hạn của công ty đã được ban lãnh đạo công ty quan tâm nhưng phương pháp thực hiện chưa đạt hiệu quả cao. Cần có chế tài thưởng phạt cụ thể việc thực hiện hoàn thành hay không hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh, cho nên cần tạo được sự quan tâm đúng mức của các đơn vị thành viên đối với công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Hội đồng quản trị công ty cần phát huy hết vai trò chỉ đạo hướng dẫn để làm định hướng cho kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty, cụ thể là xây dựng và hoàn thiện chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh của công ty. Trên cơ sở chiến lược phát triển và kế hoạch sản xuất kinh doanh hợp lý, để quyết định chiến lược và kế hoach đầu tư đúng hướng, chủ động và kịp thời. * Giảm chi phí phục vụ sản xuất kinh doanh Giảm chi phí phục vụ sản xuất kinh doanh là mục tiêu chung của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh bất cứ lĩnh vực nào. Đối với Công ty Vận tải đa phương thức vấn đề giảm chi phí sản xuất kinh doanh đang được đặc biệt quan tâm, vì chỉ có giải pháp giảm chi phí sản xuất kinh doanh thì mới có điều kiện giảm được giá thành vận tải như vậy mới có điều kiện để nâng cao năng lực cạnh tranh. Để thực hiện được mục tiêu này trước hết công ty phải thường xuyên bổ sung và hoàn thiện bộ quy chế quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh của công ty, trong đó chú trọng hoàn thiện các quy chế khoán quản tất cả các công đoạn của cả dây chuyền sản xuất kinh doanh của công ty. Phải thường xuyên bổ sung và hoàn thiện hệ thống định mức đặc biệt là hệ thống định mức tiêu thụ nhiên liệu, vật tư phụ tùng thay thế.. là những khoản mục chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản xuất chung của công ty. Thông qua khoán quản sẽ khuyến khích được người lao động phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật cũng là giải pháp quan trọng để giảm chi phí sản xuất kinh doanh. * Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh Mức tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước của công ty trong thời gian qua so với mặt bằng chung chưa phải nằm trong tốp những doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận cao. Nhưng với chiến lược đầu tư dài hạn vào các lĩnh vực có hiệu quả cao, có giải pháp giảm chi phí sản xuất hợp lý đã từng bước giúp cho công ty nâng cao năng lực cạnh tranh trên thi trường, vì vậy sản xuất kinh doanh của công ty luôn luôn phát triển. Tuy nhiên, mục tiêu cuối cùng của công ty là sự tăng trưởng của công ty phải gắn liền với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Ngoài việc hoàn thiện quy chế quản lý để giảm chi phí sản xuất kinh doanh công ty cần tập trung giải quyết tốt một số vấn đề sau: Một là: Phải quan tâm và coi trọng công tác phân tích và đánh giá hiệu quả của từng dự án (lô hàng) trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp và biện pháp quản lý phù hợp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Hai là: Khó khăn lớn nhất của công ty hiện nay là thiếu vốn để đầu tư dài hạn và vốn lưu động phục vụ cho sản xuất kinh doanh, nhưng lượng vốn bị khách hàng chiếm dụng hiện còn khá lớn, có thời điểm bị khách chiếm dụng (nợ tiền cước vận tải) lên hơn 40 tỷ đồng. Vì vậy, công tác quyết toán khối lượng công việc hoàn thành với khách hàng và giải quyết vấn đề đòi nợ khách hàng phải được đặc biệt quan tâm. Để giải quyết vấn đề này ban lãnh đạo công ty đã quan tâm thành lập Tổ thu hồi công nợ, nhưng trong thực tế hoạt động của Tổ thu hồi công nợ chưa có hiệu quả do công ty chưa xây dựng được chế tài và chính sách cho bộ phận thu hồi công nợ nên các cá nhân được phân công làm nhiệm vụ thu hồi công nợ chưa phát huy hết trách nhiệm; Vấn đề này cần phải được ban lãnh đạo công ty đặc biệt quan tâm, khi làm tốt vấn đề thu hồi công nợ không chỉ giải quyết được vấn đề khó khăn về vốn hiện nay của công ty mà còn làm giảm được một khoản lớn chi phí lãi vay ngân hàng cũng góp phần làm tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. 3.2.6. Củng cố và phát triển thương hiệu của công ty Hiện nay thương hiệu của công ty đã được đăng ký tại Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam và là thương hiệu nỗi tiếng trong lĩnh vực vận tải hàng siêu trường siêu trọng và hàng thiết bị toàn bộ. Để củng cố giữ vững và phát triển thương hiệu của mình, công ty cần phải: - Thường xuyên kiểm soát chặt chẽ hơn công tác giám sát an toàn trong quá trình bốc xếp, vận chuyển hàng hoá. Mặc dù, các quy trình an toàn đã được công ty ban hành trong bộ quy trình tiêu chuẩn chất lượng ISO 9001-2000, nhưng việc thực hiện chưa được chặt chẽ, đôi lúc cán bộ chỉ đạo hiện trường đã không tuân thủ quy trình an toàn, quy phạm kỹ thuật, nên đã để xảy ra những sự cố kỹ thuật đáng tiếc không chỉ gây tổn hại về vật chất mà còn tổ hại đến uy tín lâu dài của công ty. Vì vậy công ty phải có những chế tài cụ thể và biện pháp cần thiết để xử lý kiên quyết những trường hợp vi phạm quy trình an toàn gây tổn hại đến uy tín thương hiệu của công ty. - Đối với các công ty con, công ty mẹ cho phép sử dụng chung thương hiệu của công ty mẹ nhưng không thu phí. Vì vậy công ty mẹ cũng phải xây dựng chế tài để xử lý khi các công ty con vi phạm làm tổn hại đến uy tín thương hiệu của công ty mẹ. - Phải coi trọng công tác quảng bá thương hiệu không chỉ trong nước mà còn phải chú trọng quảng bá thương hiệu cả trong khu vực và quốc tế. Công ty đã xây dựng Website để quảng cáo thương hiệu công ty lên mạng thông tin, nhưng việc cập nhật bổ sung thông tin cho Website chưa được chú trọng đúng mức, thông tin không được cập nhật kịp thời sẽ làm giảm tác dụng quảng bá thương hiệu của công ty. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ A. KẾT LUẬN Chuyển đổi mô hình các tổng công ty, công ty nhà nước sang mô hình Công ty mẹ - công ty con là một chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta. Công ty Vận tải đa phương thức là một trong 21 doanh nghiệp được Thủ tướng Chính phủ cho phép thí điểm chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý theo mô hình Công ty mẹ - công ty con. Sự kiện này vừa là một vinh dự lớn, vừa là một trách nhiệm nặng nề. Việc nghiên cứu để nắm vững được bản chất của mô hình, để đề xuất giải pháp đổi mới đúng đắn là góp phần thực hiện thành công một trong những chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Đề tài “Đổi mới tổ chức, quản lý ở Công ty Vận tải đa phương thức theo mô hình công ty mẹ - công ty con” với mong muốn được đóng góp một phần nhỏ bé vào việc thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý của Công ty Vận tải đa phương thức. Tuy nhiên, đây là vấn đề khá phức tạp và còn nhiều mới mẽ nên chắc chắn đề tài còn có những khiếm khuyết và hạn chế. Vì vậy sẽ còn rất nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu sâu ở nhiều khía cạnh khác nhau để góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi mô hình tổ chức, quản lý ở Công ty Vận tải đa phương thức. Từ mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra, nội dung luận văn đã đạt được các kết quả chính sau đây: Một là: Đã hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến tổ chức quản lý của mô hình Công ty mẹ- công ty con; những điều kiện để áp dụng mô hình này ở Việt Nam hiện nay. Hai là: Phân tích quá trìnhthí điểm áp dụng mô hình Công ty mẹ - công ty con ở nước ta qua các giai đoạn sắp xếp lại và đổi mới DNNN. Tìm hiểu kinh nghiệm thế giới và trong nước để có thể vận dụng và điều kiện cụ thể của Công ty Vận tải đa phương thức. Ba là: Làm rõ thực trạng tổ chức quản lý của Công ty Vận tải đa phương thức qua hai giai đoạn: trước và sau khi áp dụng mô hình Công ty mẹ - công ty con; Rút ra kết quả đạt được, các hạn chế và những vấn đề đang đặt ra hiện nay. Bốn là: Trình bày quan điểm và đề xuất các giải pháp thiết thực, phù hợp thực tiễn và có tính khả thi nhằm tiếp tục hoàn thiện tổ chức quản lý mô hình Công ty mẹ - công ty con tại Công ty Vận tải đa phương thức. B. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ Xuất phát từ mục tiêu của luận văn, người viết xin có một số kiến nghị với Nhà nước, các bộ, ngành có liên quan nhằm thúc đẩy việc áp dụng mô hình Công ty mẹ – công ty con ở Công ty Vận tải đa phương thức nói riêng và ở Việt Nam nói chung trong thời gian tới như sau: - Hoàn thiện khung pháp lý đối với mô hình Công ty mẹ – công ty con: Trong những năm gần đây việc áp dụng thí điểm mô hình Công ty mẹ – công ty con gặp trở ngại chính là các hệ thống văn bản hướng dẫn thí điểm. Do các hệ thống văn bản không thống nhất, có sự chồng chéo, sửa đổi nhiều, gây khó khăn cho việc thực hiện. Chính vì vậy, Nhà nước cần sớm ban hành hệ thống văn bản chính thống, đồng bộ để thực hiện áp dụng mô hình Công ty mẹ – công ty con. Xây dựng hệ thống văn bản phải đảm bảo có nội dung phản ánh đúng bản chất của việc áp dụng mô hình Công ty mẹ – công ty con để các doanh nghiệp hiểu rõ những khả năng cùng những khó khăn khi áp dụng, từ đó các doanh nghiệp xác định được những công việc cần phải làm, khi áp dụng mô hình đảm bảo đúng và khách quan. Thay đổi cơ chế chính sách là xúc tác kích thích nền kinh tế phát triển, tạo tiền đề để xuất hiện các mối liên kết khách quan và bản chất của mô hình Công ty mẹ – Công ty con. - Nhà nước nghiên cứu để thành lập một cơ quan hoặc tập đoàn tài chính nhằm quản lý và đầu tư vốn cho các doanh nghiệp thông qua các công ty tài chính của doanh nghiệp. Tập đoàn tài chính quốc gia là doanh nghiệp được Nhà nước thành lập. Toàn bộ vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho các DNNN được chuyển qua tập đoàn này. Toàn bộ vốn của Nhà nước bằng đất đai, hiện vật, tiền ở các DNNN được chuyển thành cổ phần của Nhà nước tại các doanh nghiệp đã và đang tiến hành cổ phần hoá và cũng do tập đoàn tài chính Nhà nước nắm giữ và kiểm soát. Tập đoàn tài chính quốc gia tiến hành vay vốn trên thị trường thông qua các hình thức tín dụng thông thường, phát hành các chứng chỉ đầu tư, nhận uỷ thác đầu tư, thực hiện nhiệm vụ đầu tư của Nhà nước theo chương trình dự án, Thông qua tập đoàn tài chính này, vốn của Nhà nước đầu tư được chuyển từ hành chính (cấp vốn, phân chia, cân đối) sang kinh doanh năng động, linh hoạt hơn mà không trùng lặp với các ngân hàng thương mại hiện hành. Việc đầu tư vốn của nhà nước thông qua tập đoàn tài chính quốc gia có nhiều ưu điểm: + Tập trung vốn thông qua một đầu mối duy nhất. + Tách bạch vốn do Nhà nước đầu tư có nguồn gốc ngân sách và vốn tự tích luỹ trong các doanh nghiệp (nếu không có sự tách bạch giữa vốn ngân sách và vốn tự tích luỹ của DNNN thì sẽ không khuyến khích doanh nghiệp phát triển vì bản thân DNNN không thấy họ được hưởng những thành quả lao động của mình). + Thông qua cơ chế tín dụng, các công ty tài chính có thể huy động các nguồn lực khác trong xã hội, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách quốc gia. Các chính sách thông thoáng có tác dụng mạnh giúp cho các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, xuất khẩu ra nước ngoài. Thông qua đó, giúp cho các doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi trong việc tích tụ vốn, nâng cao khả năng cạnh tranh. - Tạo lập và hoàn thiện môi trường kinh doanh tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được tự do kinh doanh, có lãi, phát triển và đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực kinh doanh trong khuôn khổ luật pháp cho phép. Hoàn thiện các quy chế về việc chuyển đổi mô hình quản lý của các DNNN. Xác định rõ, điều kiện cần và đủ để lựa chọn doanh nghiệp thích hợp áp dụng mô hình Công ty mẹ – công ty con có hiệu quả. Quá trình thực hiện thí điểm, các công ty con phải đảm bảo tính khách quan. Khi mà nguồn lực của Nhà nước và của doanh nghiệp không phải là vô tận, chính vì vậy việc lựa chọn doanh nghiệp chuyển đổi mô hình phải đáp ứng được các điều kiện để có thể phát huy hết hiệu quả của vốn kinh doanh. - Xây dựng từng bước chuyển đổi hợp lý, tránh sử dụng các biện pháp hành chính để chuyển đổi. Đảm bảo đầy đủ các điều kiện pháp lý, kinh tế và tổ chức cho việc ra đời và hoạt động của doanh nghiệp theo mô hình Công ty mẹ – Công ty con. Thực hiện các bước chuyển đổi từ việc đổi mới cơ cấu quản lý, cổ phần hoá, chi phối, thành lập các đơn vị thành viên, nhưng không nhất phải theo đúng tuần tự mà tuỳ theo các điều kiện của doanh nghiệp mà tổ chức chuyển đổi sao cho phù hợp và đạt kết quả cao. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Hoàng Anh (2002), “Mô hình Công ty mẹ - Công ty con: Một số ưu điểm và hạn chế của việc chuyển đổi”, Tạp chí chứng khoán Việt Nam (số 5), Tr. 41-43. Trần Lê Vân Anh (2004), “Mô hình công ty của Nhật - liệu có phải là giải pháp cho mô hình Công ty mẹ - Công ty con của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí thương mại (số 9), Tr. 8-10. Lê Văn Bằng - Nguyễn Huy Oánh (2006), “Mô hình Công ty mẹ - Công ty con, một giải pháp lớn để tăng tính minh bạch của DNNN và góp phần quan trọng định hướng XHCN của nền kinh tế nước ta”, Tạp chí nghiên cứu kinh tế (số 3), Tr. 44-47. Tuấn Cường (2002), “Các tổng công ty nhà nước cam kết thực hiện dự án xây dựng mô hình xóa đói giảm nghèo”, Tạp chí lao động và xã hội (số 193), Tr.26-27. Trần Tiến Cường (2003), “Chuyển đổi tổng công ty, DNNN theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con”, Tạp chí thị trường chứng khoán (số 1), Tr. 35-38. Nguyễn Cúc (2002), “Một số vấn đề về mô hình Công ty mẹ - Công ty con ở Công ty Constrexim”, Tạp chí cộng sản (số 26), Tr. 45-48. Chính phủ (2004), Nghị định về “Chuyển đổi công ty nhà nước độc lập theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con”, Tạp chí Kinh tế và dự báo (số 9), Tr. 38-39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Hồng Hạnh (2004), “Bàn về mô hình Công ty mẹ - Công ty con từ gốc độ pháp lý”, Tạp chí luật học (số 3), Tr.15,23. Vũ Duy Hào (2003), “Về công ty tài chính trong Tổng công ty nhà nước ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí kinh tế phát triển (số 69), Tr.8-9. Phạm Quang Huấn (2005), “Công ty mẹ - Công ty con: Những vấn đề cần tháo gỡ”, Tạp chí tài chính (số 12), Tr. 21-22. Phạm Quang Huấn (2005), “Thành lập doanh nghiệp theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con: Hiện trạng và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí nghiên cứu kinh tế (số 12), Tr. 29-35. Nguyễn Thị Lan Hương (2002), “Quan hê pháp lý Công ty mẹ - Công ty con ở Nhật Bản và một số liên hệ với pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (số 8), Tr. 24,26. Bùi Văn Huyền (2002), “Thành lập các tập đoàn kinh tế: Một hướng đi cho các Tổng công ty nhà nước”, Tạp chí lý luận chính trị (số 11), Tr. 51,53,57. Hoàng Hà (2004). “Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Tổng công ty nhà nước theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con”, Tạp chí kinh tế và phát triển (số 8), Tr. 30-32. V.I.Lênin (1975), Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hoàng Thị Bích Loan (2005), “Các công ty xuyên quốc gia với vai trò tạo việc làm ở các nước đang phát triển”, Tạp chí kinh tế và dự báo (số 1), Tr. 52-53. Hoàng Thị Bích Loan (2002), “Tính đặc thù trong hình thành và phát triển các công ty xuyên quốc gia (TNCs) của NIEs châu Á”, Tạp chí kinh tế châu Á- Thái Bình Dương (số 1), Tr. 16-32. Phạm Quốc Luyến (2003), “Một số khía cạnh tài chính khi chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang mô hình Công ty mẹ - Công ty con”, Tạp chí ngân hàng (số 7), Tr. 57-58. Hồ Kỳ Minh (2002), “Một số giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động của công ty tài chính trong tổng công ty nhà nước Việt Nam”, Tạp chí ngân hàng (số 3), Tr.3, 39. Nguyễn Đăng Nam (2003), “Xung quanh cơ chế quản lý tổng công ty hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con”, Tạp chí tài chính (số 8). Tr. 19-20. Vũ Đình Ngọc - Nguyễn Văn Huy (2005), “Những kinh nghiệm bước đầu trong chuyển đổi hoạt động tổng công ty và tổng công ty nhà nước theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con và công ty TNHH một thành viên”, Tạp chí nông nghiệp và phát triển nông thôn (số 73), Tr. 9-11. Thảo Nguyên (2005), “Để mô hình “Mẹ-Con” phát triển hiệu quả và vững chắc”, Tạp chí tài chính (số 12), Tr. 23-24. Nguyễn Minh Phong 92004), “Cổ phần hóa các tổng công ty - lợi ích và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí thương mại (số 34), Tr.5. Nguyễn Đại Phong (2003), “Mô hình Công ty mẹ - Công ty con với việc sắp xếp đổi mới tổ chức của tổng công ty nhà nước ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí kinh tế dự báo (số 4), Tr. 10-11. Võ Tấn Phong (2001), “Từ mô hình Tổng công ty sang mô hình tập đoàn kinh tế”, Tạp chí kinh tế phát triển (số 131), Tr. 27-29. Bùi Xuân Phong (2002), “Vài suy nghĩ về mô hình Công ty mẹ - Công ty con của Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam”, Tạp chí kinh tế và dự báo (số 10), Tr.9-10. Phạm Chí Quang - Võ Trọng Thanh (2003), “Tổng công ty nhà nước - đánh giá từ quan điểm kinh tế phát triển”, Tạp chí nghiên cứu kinh tế (số 40), Tr.3,24. Phạm Đình Soạn (2004), “Một số vấn đề quản lý tài chính và báo cáo tài chính của tập đoàn kinh tế Công ty mẹ - Công ty con”, Tạp chí thương mại (số 35),Tr. 6-7. Nguyễn Đức Tặng (2002), “Suy nghĩ về Công ty mẹ - Công ty con”, Tạp chí tài chính (số 8), Tr.16,22. Ngô Công Thành (2006), “Thu hút đầu tư nước ngoài thong qua mô hình Công ty mẹ - Công ty con”, Tạp chí thương mại (số 40), Tr.4-5,7. Đinh Trung Thành (2006), “Đầu tư trực tiếp của NICs Nhật Bản ở Việt Nam - Tổng quan và triển vọng”, Tạp chí nghiên cứu kinh tế (số 4), Tr. 68,73. Hồ Sĩ Thoảng (2003), “ Bàn đôi điều về Công ty mẹ - Công ty con”, Tạp chí khoa học và tổ quốc (số 10), Tr.6-7. Phạm Quang Trung (2003), “Cấu trúc Công ty mẹ - Công ty con và mô hình cấu trúc tài chính của các tổng công ty nhà nước”, Tạp chí kinh tế phát triển (số 6), Tr. 23,25. Hoàng Thị Tuyết (2005), “Hình thành tập đoàn kinh tế - Bước đột phát trong đổi mới các Tổng công ty nhà nước”, Tạp chí chứng khoán (số 4), Tr. 32-33. Đỗ Xuân Trường (2002), “Mâu thuẫn về thẩm quyền và lợi ích trong mô hình Công ty mẹ - Công ty con”, Tạp chí kinh tế phát triển (số 64), Tr. 33-34. Đỗ Xuân Trường (2002), “Mô hình Công ty mẹ - Công ty con: Mâu thuẫn về thẩm quyền, lợi ích và cơ chế giải quyết”, Tạp chí lao động và công đoàn (số 272), Tr.4, 26. Đỗ Thị Tuyết (2003), “Suy nghĩ về việc chuyển đổi công ty nhà nước sang mô hình Công ty mẹ - Công ty con”, Tạp chí thương mại (số 11), Tr. 7-8.  A 2 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2710.doc
Tài liệu liên quan