mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hòa nhập với xu hướng chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ trương xã hội hóa dịch vụ công, các đơn vị sự nghiệp ở Việt nam không còn đơn thuần thực hiện chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao mà còn tự tổ chức cung ứng dịch vụ cho xã hội. Nguồn tài chính của các đơn vị này không chỉ do ngân sách nhà nước cấp mà từng đơn vị đều khai thác thêm các nguồn thu từ hoạt động dịch vụ cho xã hội. Trong những năm gần đây, số thu từ hoạt động
100 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1584 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cung ứng dịch vụ không chỉ là nguồn thu bổ sung mà còn chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng nguồn kinh phí của đơn vị. Tuy nhiên, nhiều đơn vị sự nghiệp vẫn còn lúng túng trong việc quản lý và sử dụng nguồn vốn này. Gần đây, Chính phủ đã ra Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16.1.2002 về chế độ tài chớnh ỏp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu, trong đó đã quy định tạm thời quy chế quản lý tài chính các đơn vị sự nghiệp theo hướng tự chủ, nhưng trên thực tế việc triển khai Nghị định này còn gặp không ít khó khăn.
Thông tấn xã Việt nam (TTXVN), với tư cách là một đơn vị sự nghiệp, cũng nằm trong tình trạng như thế. Mặc dù trong những năm vừa qua, công tác quản lý tài chính của TTXVN đã đạt được một số kết quả nhất định, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đề ra, song cơ chế quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp của TTXVN hiện cũng bộc lộ những hạn chế, khiếm khuyết. Để góp phần làm cho công tác quản lý tài chính của TTXVN ngày càng tốt hơn, phù hợp hơn với tiến trình đổi mới của đất nước trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, đề tài: “Đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam” được chọn làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chuyển các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước sang hoạt động theo cơ chế quản lý phù hợp với kinh tế thị trường là lĩnh vực vấp phải nhiều lúng túng ở nước ta. Mặc dù từ đầu những năm 90 Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương xã hội hóa một phần các dịch vụ công của Nhà nước, nhưng quá trình xã hội hóa diễn ra chậm chạp. Gần đây, với việc ban hành Nghị định số10/ 2002/CP Nhà nước ta đã thể hiện quyết tâm đổi mới trong quản lý các đơn vị hành chính, sự nghiệp. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này còn rất ít, mới chỉ có một số công trình đề cập đến ba góc độ sau:
* Bàn về chủ trương xã hội hóa các dịch vụ công của nhà nước. Điển hình cho các công trình nghiên cứu này là:
+ Mở rộng hơn nữa quyền tự chủ đối với các ĐVSN (Huỳnh Thị Nhân, Tạp chí tài chính số 1 năm 2005)
+ Mở rộng quyền chủ động tài chính cho các đơn vị sử dụng ngân sách (Vĩnh Sang, Tạp chí Tài chính số 8 năm 2005)
+ Cơ chế tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu, ( caicachhanhchinh.gov.vn, ngày 14/10/2004)
+ Cơ chế khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính thu ( caicachhanhchinh.gov.vn, ngày 14/10/2004).
*Quá trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp đã được thực hiện trong một số năm gần đây. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này còn ít, mới chỉ có một số bài phân tích, bình luận trên tạp chí, một số luận văn, luận án nghiên cứu về quản lý tài chính. Chẳng hạn như:
+ Thủ trưởng đơn vị được quyền tự chủ về kinh phí quản lý hành chính (Báo Đầu Tư ra ngày 20/03/2006)
+ Một số vấn đề về đổi mới lĩnh vực sự nghiệp (Đỗ Quốc Sam, http:// WWW.irv.moi.gov.vn, ngày 2/03/2006).
+ Trao quyền tự chủ rộng hơn cho đơn vị sự nghiệp (Phỏng vấn ông Huỳnh Quang Hải, Vụ trưởng Vụ hành chính sự nghiệp, Bộ Tài chính, ngày 09/03/2006)
+ Hội thảo “ Chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công giai đoạn 2004-2005” Bộ Tài chính phối hợp với Dự án VIE 01/024/B-Bộ Nội vụ tổ chức với các Bộ ngành Trung ương và các địa phương (
+ Mỗi năm chuyển khoảng 20% - 25% số đơn vị sự nghiệp sang tự chủ tài chính (Xuân Quang,
Các công trình này chủ yếu bình luận về tính đúng đắn của chủ trương xã hội hóa trên các mặt tăng quy mô và chủng loại dịch vụ, nhất là dịch vụ y tế và giáo dục, tăng ý thức trách nhiệm của công dân và các đơn vị trong cung cấp, lựa chọn, kiểm soát và trả phí theo chất lượng dịch vụ, tăng tính cạnh tranh và sức ép buộc các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước phải cải thiện hoạt động của mình.. . Một số công trình cũng phân tích những yếu kém khi triển khai thực hiện chủ trương xã hội hóa dịch vụ công.
*Bàn về thực trạng đổi mới cơ chế quản lý, nhất là đổi mới cơ chế quản lý tài chính, ở các đơn vị sự nghiệp của nhà nước theo hướng mở rộng quyền tự chủ tài chính cho cơ sở. Có thể kể ra một số công trình đã công bố về lĩnh vực này như:
- Luận văn thạc sĩ của Hoàng Ngọc Tuấn về đề tài: “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quá trình quản lý tài chính tại Trung tâm dịch vụ báo chí Hà Nội”.
- Luận án tiến sỹ của Đặng Minh Hiền về đề tài: “ Một số giải pháp quản lý tài chính ở các Bệnh viện công Việt Nam”.
- Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thu Thảo về đề tài: “ Hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính đối với ĐVSN có thu tại Viện khoa học Thủy Lợi”.
Trong khuôn khổ quản lý tài chính của TTXVN, cũng đã có một số công trình nghiên cứu nhưng mang tính kỹ thuật và báo chí. Riêng nghiên cứu về đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN hiện vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: là đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN. Vì TTXVN là một đơn vị sự nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước, trong nó lại bao gồm nhiều đơn vị trực thuộc, nên đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN bao hàm nhiều nội dung phức tạp như đổi mới quản lý tài chính của Nhà nước với tư cách chủ sở hữu đối với TTXVN, đổi mới quản lý tài chính của Văn phòng TTXVN đối với đơn vị trực thuộc và đổi mới quản lý tài chính của từng đơn vị trực thuộc TTXVN … Do khuôn khổ hạn chế nên luận văn chỉ tập trung nghiên cứu quản lý tài chính của Văn phòng TTXVN và của đơn vị trực thuộc. Cơ chế, chế độ quản lý tài chính của Nhà nước đối với TTXVN được giới hạn trong các văn bản có giá trị thi hành hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ khảo sát các đơn vị trong nước của TTXVN, không đề cập đến quản lý tài chính các đại diện ở nước ngoài. Thời gian khảo sát chủ yếu tập trung trong giai đoạn 5 năm trước và sau năm 2006.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp của TTXVN trong thời gian tới.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận của quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN.
- Phân tích thực trạng quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN.
- Đề xuất giải pháp đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN trong thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu kinh tế phổ biến như phương pháp phân tích, tổng hợp dựa trên các số liệu thống kê có sẵn và tự điều tra, kết hợp với so sánh, hệ thống hóa, mô hình hóa nhằm rút ra các kết luận và đề xuất cần thiết.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa những vấn đề lý thuyết về quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp phù hợp với điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Đưa ra được bức tranh về thực trạng quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN trên cơ sở chế độ quản lý của Nhà nước hiện hành.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc TTXVN trong thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.
Chương 1
Cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý
tài chính ở các đơn vị sự nghiệp
1.1. Một số khái niệm liên quan đến quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp
1.1.1. Hoạt động sự nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm hoạt động sự nghiệp
Trong xã hội, con người tạo ra và tham gia vào nhiều hoạt động khác nhau như sản xuất ra của cải để nuôi sống mình, tự nhận thức thế giới và giáo dục cho thế hệ sau những tri thức và kỹ năng mình đã tích lũy được, nghiên cứu và tìm cách chữa bệnh cho mình, rèn luyện thể lực và giải trí…Các Mác, và sau này là các học trò và người kế tục Người, đã quan niệm xã hội gồm nhiều tầng cấu trúc, trong đó quá trình tạo ra của cải vật chất là cơ sở hạ tầng, bên trên nó là kiến trúc thượng tầng chính trị, văn hóa, nghệ thuật, khoa học, tinh thần…Khi xây dựng mô hình xã hội chủ nghĩa hiện thực, các lý luận gia của các nước xã hội chủ nghĩa đã coi các hoạt động sản xuất là hoạt động kinh tế, các hoạt động của bộ máy nhà nước là hành chính và các hoạt động giáo dục, nghiên cứu, y tế, văn hóa, nghệ thuật là hoạt động sự nghiệp. Hơn nữa, trong mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa thời bao cấp, ngoài các cơ sở sản xuất và thương mại quốc doanh bao trùm quá trình tái sản xuất xã hội, Nhà nước còn thành lập các cơ sở cung cấp dịch vụ giáo dục, y tế, nghiên cứu…Để phân biệt chức năng và cơ chế hoạt động của các loại hình đơn vị cơ sở như thế, Nhà nước gọi các hoạt động sản xuất và thương mại là hoạt động kinh tế, các hoạt động nghiên cứu, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, nghệ thuật… là các hoạt động sự nghiệp. Từ đó cho đến nay thuật ngữ hoạt động sự nghiệp được sử dụng thường xuyên trong các văn bản pháp lý về quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, về mặt lý luận, chưa có công trình nào đưa ra định nghĩa về hoạt động sự nghiệp.
Theo chúng tôi, hoạt động sự nghiệp là những hoạt động do Nhà nước thực hiện nhằm cung cấp những dịch vụ có lợi ích chung và lâu dài cho cộng đồng xã hội. Hoạt động sự nghiệp không trực tiếp tham gia vào quá trình tái sản xuất ra của cải vật chất, nhưng nó tác động đến lực lượng sản xuất và xã hội thông qua việc nâng cao trình độ học vấn và kỹ năng lao động cho nhân dân, cải thiện chất lượng sống của con người, duy trì, bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa, nghệ thuật, tinh thần của dân tộc, phát triển khoa học… Kết quả hoạt động sự nghiệp ảnh hưởng đến không chỉ phát triển kinh tế mà còn đến sự phát triển xã hội và đất nước.
1.1.1.2. Đặc điểm hoạt động sự nghiệp
Hoạt động sự nghiệp có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, hoạt động sự nghiệp có xu hướng cung cấp các loại hàng hóa, dịch vụ có tính chất của hàng hóa công cộng hoặc hàng hóa khuyến dụng.
Kết quả của hoạt động sự nghiệp chủ yếu là học vấn, kỹ năng lao động của nhân dân, các giá trị văn hóa, khoa học, nghệ thuật khó đánh giá được giá trị kinh tế bằng tiền, nhưng có ý nghĩa tăng hiệu quả kinh tế xã hội chung, tăng năng lực sản xuất của quốc gia, tăng chất lượng sống của nhân dân, tăng phúc lợi xã hội, tạo hiệu ứng tích cực cho các lĩnh vực khác, lợi ích đem lại không chỉ cho người hưởng thụ trực tiếp mà còn cho những người khác …. Nhiều sản phẩm của các đơn vị sự nghiệp có giá trị sử dụng tăng thêm khi tăng người sử dụng mà không tăng chi phí như phát thanh, truyền hình… Theo ý kiến của nhà kinh tế được giải thưởng Nôben J. Stieglits, nhà nước cung cấp hàng hóa công cộng sẽ có lợi hơn tư nhân [14, tr.170-173].
Hơn nữa, trong xã hội hiện đại, để đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội, Nhà nước nên cung cấp nhiều hàng hóa công cộng. Bởi vì, nhờ sử dụng những hàng hóa công cộng do hoạt động sự nghiệp tạo ra mà quá trình sản xuất của cải vật chất được thuận lợi và ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. Hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, thể dục thể thao đem đến tri thức và bảo đảm sức khỏe cho lực lượng lao động, tạo điều kiện cho lao động có chất lượng ngày càng tốt hơn; hoạt động sự nghiệp khoa học, văn hóa thông tin mang lại những hiểu biết của con người về tự nhiên, xã hội, tạo ra những công nghệ mới phục vụ sản xuất và đời sống... Nếu không có sự cung cấp của Nhà nước, nhiều người không có cơ hội hưởng thụ những loại hàng hóa, dịch vụ đó.
Thứ hai, hoạt động sự nghiệp không nhằm mục đích thu lợi nhuận trực tiếp.
Trong nền kinh tế thị trường, một số sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp tạo ra có thể trở thành hàng hóa đem lại thu nhập cho đơn vị cung cấp. Song do nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như nếu trao đổi theo nguyên tắc thị trường thì nhiều người không có khả năng tiêu dùng hoặc không khuyến khích tiêu dùng đủ mức…, trong khi đó mở rộng tối đa sự tiêu dùng các loại hàng hóa đó có ý nghĩa vừa làm tăng năng lực sản xuất của đất nước, vừa có giá trị tiến bộ và công bằng. Chính vì thế, Nhà nước cần tổ chức cung ứng hoặc duy trì các tài trợ để các hoạt động sự nghiệp cung cấp những sản phẩm, dịch vụ không thu tiền hoặc thu tiền chỉ để hoàn một phần chi phí, không nhằm thu lợi nhuận. Ngoài ra, khi cung cấp các dịch vụ sự nghiệp không theo nguyên tắc thương mại bình thường, Nhà nước hướng đến mục tiêu phân phối lại thu nhập và tăng phúc lợi công cộng.
Tuy nhiên, xét về mặt quản lý vi mô, Nhà nước mong muốn các đơn vị cung cấp hàng hóa, dịch vụ sự nghiệp phải hoạt động có hiệu quả, có nghĩa là hoạt động với chi phí tối thiểu. Do đó, các biện pháp khoán kinh phí hay buộc các đơn vị sự nghiệp phải hạch toán thu chi không phải là giải pháp tăng thu lợi nhuận như các biện pháp quản lý doanh nghiệp, mà đơn thuần chỉ là giải pháp quản lý khuyến khích đơn vị sự nghiệp chủ động phát huy hết mọi năng lực của mình để tiết kiệm chi phí.
Thứ ba, hoạt động sự nghiệp luôn gắn liền và bị chi phối bởi các chương trình phát triển kinh tế xã hội và ngân sách của Nhà nước.
Trong kinh tế thị trường, các hoạt động sự nghiệp cũng là công cụ để Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, nhất là các chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng, chương trình dân số, kế hoạch hóa gia đình, chương trình phát triển giáo dục, chương trình phát triển văn hóa... Những chương trình mục tiêu quốc gia chi phối hoạt động sự nghiệp nằm trong tổng thể chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Hơn nữa, nhu cầu về các sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp của xã hội thì nhiều vô hạn, trong khi đó nguồn tài chính của Nhà nước giành cho các hoạt động này lại bị hạn chế bởi ngân sách nhà nước cũng như mối quan hệ với các nhu cầu chi tiêu khác của Nhà nước. Chính vì thế, cung sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp luôn thấp hơn nhu cầu và việc xác định phải cung cấp các loại sản phẩm, dịch vụ sự nghiệp với quy mô bao nhiêu luôn là vấn đề hóc búa của các Nhà nước.
Thứ tư, sản phẩm của các hoạt động sự nghiệp có tính ích lợi chung và lâu dài.
Sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp tạo ra chủ yếu là những giá trị về tri thức, văn hóa, phát minh, sức khỏe, đạo đức, các giá trị về xã hội... Đây là những sản phẩm thường mang lại lợi ích cho nhiều người, cho nhiều đối tượng trên phạm vi rộng. Nhiều sản phẩm sự nghiệp có tác dụng lâu dài như các phát minh khoa học, các giá trị văn hóa, trình độ học vấn, kỹ năng lao động…
Nhìn chung, đại bộ phận các sản phẩm do hoạt động sự nghiệp tạo ra là sản phẩm có tính phục vụ không chỉ bó hẹp trong một ngành hoặc một lĩnh vực nhất định, những sản phẩm đó khi tiêu dùng thường có tác dụng lan toả và vựcđược sử dụng đi, sử dụng lại nhiều lần.
1.1.1.3. Phân loại hoạt động sự nghiệp
Hoạt động sự nghiệp trong xã hội rất đa dạng, phong phú và có thể phân loại chúng theo nhiều tiêu thức khác nhau.
- Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, các hoạt động sự nghiệp được chia thành:
+ Sự nghiệp kinh tế: Là hoạt động sự nghiệp nhằm phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp cho yêu cầu sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho các ngành kinh tế hoạt động bình thường, thuận lợi.
+ Sự nghiệp văn hóa xã hội (gọi tắt là sự nghiệp văn xã): Là các hoạt động phục vụ cho các yêu cầu phát triển của xã hội về văn hóa, sức khỏe và các nhu cầu về đời sống tinh thần của nhân dân.
- Căn cứ vào đặc điểm nguồn tài chính đảm bảo cho hoạt động sự nghiệp, hoạt động sự nghiệp được chia thành:
+ Hoạt động sự nghiệp không có thu: Là hoạt động do Nhà nước đảm bảo hoàn toàn nhu cầu tài chính. Những hoạt động này thường là những hoạt động cung cấp các dịch vụ thiết yếu cho xã hội, phạm vi tiêu dùng rộng rãi và chỉ có Nhà nước mới có thể thực hiện một cách hiệu quả nhất. Thuộc về những hoạt động này gồm có các hoạt động về văn hóa tuyên truyền, giáo dục tiểu học, đào tạo, khoa học, y tế cho người nghèo, đảm bảo xã hội,...
+ Hoạt động sự nghiệp có thu: Là những hoạt động mà nguồn tài chính đảm bảo vừa do Nhà nước cung cấp, vừa do người tiêu dùng đóng góp một phần dưới dạng phí, lệ phí. Những hoạt động này thường là những hoạt động cung cấp các dịch vụ có tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất và đời sống mà người tiêu dùng có thể trả tiền do họ thấy ngay hiệu quả sử dụng dịch vụ, hoặc là họ muốn nhận được những dịch vụ có phí phân biệt theo chất lượng.
- Căn cứ vào tính chất hoạt động của chúng, hoạt động sự nghiệp được chia thành:
+ Hoạt động sự nghiệp thường xuyên: Là những hoạt động được tổ chức và duy trì hoạt động liên tục và xã hội luôn luôn có nhu cầu tiêu dùng sản phẩm dịch vụ của nó, bất luận điều kiện kinh tế xã hội trong từng giai đoạn như thế nào. Thuộc về hoạt động sự nghiệp thường xuyên là các hoạt động về giáo dục tiểu học, đào tạo, khoa học, y tế, văn hóa …
+ Hoạt động sự nghiệp không thường xuyên: Là những hoạt động sự nghiệp để thực hiện các chương trình cụ thể của Nhà nước trong một giai đoạn nhất định.
1.1.1.4. Vai trò của hoạt động sự nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Trong thời đại ngày nay, một nước giầu hay nghèo, lạc hậu hay phát triển không phải chỉ phụ thuộc vào khối lượng hàng hóa tư nhân mà người dân có được do trao đổi trên thị trường, mà còn phụ thuộc vào khối lượng phúc lợi xã hội mà họ được hưởng, trong đó có các sản phẩm, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp cung cấp. Hơn nữa, tiềm năng phát triển nhanh hay chậm trong tương lai của một nước không những do số lượng lao động, tài nguyên thiên nhiên và vốn đã tích lũy được quyết định, mà chủ yếu là do khả năng phát huy tiềm năng sáng tạo của con người chi phối. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành con người về trình độ văn hóa, tri thức khoa học, thể lực, tâm hồn, đạo đức lối sống, thị hiếu, thẩm mỹ, giao tiếp của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng… Đa phần yếu tố cấu thành tiềm năng sáng tạo của con người do hoạt động sự nghiệp cung cấp trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Hoạt động sự nghiệp là động lực to lớn giúp dân tộc bảo tồn và phát triển văn hóa, truyền thống, các giá trị đạo đức… Nghị quyết Đại hội toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X đã khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội” [13].
Hoạt động sự nghiệp đóng vai trò động lực cải cách, đổi mới, phát triển giáo dục - đào tạo. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 (khóa VIII) của Đảng ta đã khẳng định quan điểm khoa học công nghệ cùng với giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu trong phát triển đất nước.
Thể dục - thể thao là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển khoa học xã hội của Đảng và Nhà nước ta nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, góp phần tích cực nâng cao sức khoẻ, thể lực, giáo dục nhânnhân cách, đạo đức lối sống lành mạnh, làm phong phú đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân, nâng cao năng suất lao động xã hội và sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII) của Đảng ta đã khẳng định “Sức khỏe là vốn quý của mỗi con người và của toàn xã hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [11]. Hoạt động sự nghiệp có vai trò quan trọng trong lĩnh vực này.
1.1.2. Đơn vị sự nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm đơn vị sự nghiệp ở Việt Nam
Trong nền kinh tế-xã hội, để thực hiện các hoạt động sự nghiệp cần có các tổ chức tiến hành các hoạt động đó, các tổ chức này được gọi là đơn vị sự nghiệp (ĐVSN). Tuy nhiên, theo ngôn ngữ quen dùng ở Việt Nam, ĐVSN thường phải là các cơ quan của Nhà nước.
“Chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công giai đoạn 2004-2005”, ban hành theo Quyết định số 08/2004/QĐ-TTg ngày 15/01/2004 của Thủ tướng Chính phủ đã xác định: ĐVSN là một loại hình đơn vị được Nhà nước ra quyết định thành lập, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn nhất định nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao trên lĩnh vực quản lý, thực hiện các hoạt động sự nghiệp. Đó là đơn vị thuộc sở hữu nhà nước, hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, văn hóa, thông tin, nghiên cứu khoa học, y tế,... không theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh [24].
ĐVSN thuộc khu vực phi lợi nhuận, sự chi tiêu của các đơn vị này, theo con mắt của các nhà quản lý tài chính nhà nước, mất đi, không thu hồi lại được vốn gốc, mặc dù các đơn vị này vẫn tính khấu hao tài sản cố định. Trong quá trình hoạt động, các ĐVSN được Nhà nước trang trải kinh phí đáp ứng nhu cầu chi tiêu từ ngân sách nhà nước hoặc được bổ sung từ các nguồn khác.
Đặc điểm hoạt động của các ĐVSN là rất đa dạng, bắt nguồn từ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Mục đích hoạt động của các ĐVSN là phục vụ lợi ích cộng đồng, xã hội, đất nước. Trong quá trình cung cấp hàng hóa và dịch vụ công cho xã hội, các ĐVSN được phép tạo lập nguồn thu nhập nhất định thông qua các khoản thu phí và các khoản thu từ cung ứng dịch vụ do Nhà nước quy định để trang trải các khoản chi tiêu. Quản lý tài chính ĐVSN phải tuân thủ theo những quy định pháp lý của Nhà nước. Tùy theo đặc điểm tạo lập nguồn thu của các ĐVSN, Nhà nước áp dụng cơ chế tài chính thích hợp để các ĐVSN thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Phù hợp với xu hướng cải cách khu vực công trong bối cảnh hội nhập, Nhà nước thực hiện chính sách đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các ĐVSN theo hướng nâng cao quyền tự chủ tài chính nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ công phục vụ xã hội.
ĐVSN có những đặc điểm khác với cơ quan hành chính. Cơ quan hành chính là những tổ chức cung cấp trực tiếp các dịch vụ hành chính công cho người dân khi thực hiện chức năng quản lý Nhà nước của mình. Các dịch vụ hành chính công được cung cấp theo luật định, với chất lượng đồng nhất cho mọi người tiêu dùng và được chi trả trực tiếp bằng ngân sách nhà nước. Dịch vụ hành chính công là chức năng của cơ quan hành chính Nhà nước, là trách nhiệm và nghĩa vụ của bộ máy Nhà nước với nhân dân và chỉ có Nhà nước (chứ không có một tổ chức tư nhân nào khác) có đủ thẩm quyền thực hiện chức năng đó. Nhà nước với tư cách là một tổ chức công quyền phải có nghĩa vụ cung cấp các dịch vụ này cho nhân dân, còn người dân có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước dưới hình thức thuế. Như vậy, quan hệ trao đổi các dịch vụ hành chính công không phản ánh quan hệ thị trường, mà phản ánh quan hệ nghĩa vụ của Nhà nước và phương tiện thực hiện nghĩa vụ do xã hội công dân cung cấp. Người sử dụng dịch vụ có thể trả một phần hoặc không phải trả tiền cho việc sử dụng dịch vụ đó, nhưng phải đóng thuế để chi trả cho chúng. Chính vì vậy cơ quan hành chính chỉ được tự chủ tài chính trong phần kinh phí ngân sách nhà nước cấp (cơ chế khoán chi), không được tự do mở rộng dịch vụ và nguồn thu. Dịch vụ và nguồn thu là cố định theo luật.Trong khi đó, dịch vụ của ĐVSN cung ứng có thể cạnh tranh với khu vực tư nhân và cung ứng theo nhu cầu nên các đơn vị này được phép khai thác và mở rộng nguồn thu từ các hoạt động sự nghiệp của mình. Đặc điểm khác biệt này cho phép ĐVSN có thể hoạt động theo nguyên tắc tự chủ tài chính.
ĐVSN có những điểm khác với loại hình doanh nghiệp. Trong kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tuân thủ nguyên tắc hạch toán kinh doanh, hướng tới mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận bằng cách tự bù đắp đủ chi phí và có lãi. Doanh nghiệp phải hoạt động theo quy luật thị trường. ĐVSN không hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường và không coi lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của mình.
Lĩnh vực sự nghiệp tạo ra những sản phẩm đặc biệt vừa mang tính phục vụ chính trị-xã hội, vừa mang tính hàng hóa đòi hỏi phải bù đắp chi phí. Với chức năng phục vụ xã hội, sản phẩm của hoạt động sự nghiệp không thể đo bằng giá trị tiền tệ hữu hình. Những đơn vị tạo ra sản phẩm đó không thể và càng không hạch toán được lỗ lãi đơn thuần bởi sản phẩm của nó thuộc chức năng phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội. Mặt khác, mỗi sản phẩm này đều mang trong nó giá trị đã hao phí để tạo ra nó. Để tái sản xuất giản đơn, các ĐVSN phải thu lại từ ngân sách nhà nước và từ chi trả của người hưởng thụ.
Hiệu quả hoạt động của ĐVSN không đơn thuần đo đếm bằng tiền, mà thường được tính bằng các giá trị phi tiền tệ. Chính vì thế, việc đánh giá hiệu quả hoạt động của các ĐVSN thường khó khăn.
1.1.2.2. Các loại hình đơn vị sự nghiệp ở Việt Nam
Có rất nhiều tiêu thức để phân loại ĐVSN.
* Căn cứ vào vị trí, ĐVSN được phân loại thành:
- ĐVSN ở Trung ương là những ĐVSN trực thuộc Chính phủ như TTXVN, Đài Phát thanh Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, các bệnh viện, trường học, các nhà xuất bản quốc gia…
- ĐVSN ở địa phương như đài phát thanh truyền hình ở địa phương, các bệnh viện, trường học, do địa phương quản lý,...
* Căn cứ vào từng lĩnh vực hoạt động sự nghiệp cụ thể, ĐVSN bao gồm:
- ĐVSN giáo dục, đào tạo.
- ĐVSN y tế (Bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân)
- ĐVSN văn hóa, thông tin
- ĐVSN phát thanh, truyền hình
- ĐVSN dân số-trẻ em, kế hoạch hóa gia đình
- ĐVSN thể dục, thể thao
- ĐVSN khoa học công nghệ, môi trường
- ĐVSN kinh tế (Duy tu, sửa chữa đê điều, trạm trại,...)
- Đơn vị sự nghiệp khác.
* Căn cứ vào nguồn thu thì ĐVSN được chia thành hai loại:
- Đơn vị sự nghiệp không có thu: Là đơn vị được Nhà nước cấp toàn bộ kinh phí để đảm bảo hoạt động của đơn vị và kinh phí được cấp theo nguyên tắc không hoàn lại trực tiếp.
- ĐVSN có thu gồm hai loại:
+ ĐVSN có thu tự đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên: Là đơn vị có nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp ổn định, bảo đảm được toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, ngân sách nhà nước không phải cấp kinh phí cho hoạt động thường xuyên cho đơn vị.
+ ĐVSN có thu tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên: Là đơn vị có nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp nhưng chưa tự trang trải toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, ngân sách nhà nước phải cấp một phần chi phí cho hoạt động thường xuyên của đơn vị.
1.1.3. Quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
1.1.3.1. Khái niệm quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường nước ta
Quản lý là yêu cầu tất yếu để đảm bảo sự hoạt động bình thường của mọi quá trình và hệ thống kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị có sự tham gia tự giác của nhiều người. Thực chất của quản lý là thiết lập và thực hiện hệ thốngcác phương pháp và biện pháp khác nhau của chủ thể quản lý để tác động một cách có ý thức tới đối tượng quản lý nhằm đạt tới kết quả nhất định.
Quản lý bao gồm nhiều phương diện như quản lý công nghệ, quản lý thương mại, quản lý nhân sự, quản lý tài chính…Quản lý tài chính là hoạt động của chủ thể quản lý trong lĩnh vực tài chính nhằm sử dụng nguồn tài sản dưới hình thái tiền, giấy tờ có giá của một đơn vị, tổ chức vừa đảm bảo cho đơn vị, tổ chức hoạt động bình thường, vừa đảm bảo cho nguồn tài chính sử dụng tiết kiệm và sinh lợi nhiều nhất.
Chủ thể quản lý tài chính ĐVSN gồm cơ quan nhà nước chuyên trách, bộ phận quản lý tài chính trong ĐVSN.
* Quản lý tài chính ĐVSN từ phía Nhà nước (với tư cách chủ sở hữu và cơ quan quản lý hành chính của Nhà nước). Tùy theo tổ chức bộ máy nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, có các cơ quan nhà nước trực tiếp quản lý tài chính ĐVSN khác nhau. Hiện nay, cơ quan chuyên trách quản lý tài chính các ĐVSN ở trung ương là Bộ Tài Chính, Bộ chủ quản, ở địa phương là Sở Tài chính và Sở chủ quản.
Mục tiêu của Nhà nước trong quản lý tài chính các ĐVSN là đề ra chính sách, chế độ, quy chế hoạt động tài chính phù hợp với luật pháp và chức năng, nhiệm vụ của ĐVSN.
* Quản lý tài chính ở ĐVSN
Chủ thể quản lý tài chính là các bộ phận chuyên trách về tài chính trong các ĐVSN. Thông thường, đó là bộ phận kế toán-tài vụ. Nếu trong ĐVSN còn có các đơn vị độc lập có tư cách pháp nhân thì đơn vị trực thuộc đó cũng tiến hành quản lý tài chính trong đơn vị mình. Mục tiêu quản lý tài chính của ĐVSN là sử dụng đúng mục đích, đúng chế độ nhà nước và tiết kiệm nguồn tài chính của mình.
1.1.3.2. Vai trò của quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường nước ta
Quản lý tài chính là một trong những hoạt động quản lý quan trọng của bất kỳ một tổ chức nào trong điều kiện kinh tế thị trường. Bởi vì, tài chính biểu hiện tổng hợp và bao quát hoạt động của đơn vị. Thông qua quản lý tài chính, chủ thể quản lý không chỉ kiểm soát được toàn bộ chu trình hoạt động của đơn vị mà còn đánh giá được chất lượng hoạt động của chúng. Tài chính còn biểu hiện lợi ích của các chủ thể tham gia và liên quan đến đơn vị. Thông qua quản lý tài chính, chủ thể quản lý sử dụng được công cụ kích thích lợi ích một cách hữu hiệu.
Quản lý tài chính ở các ĐVSN cũng có vai trò quan trong như thế. Ngoài ra, do hoạt động của các ĐVSN rất đa dạng, tham gia trong nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và theo đuổi không chỉ mục tiêu riêng, mà còn phục vụ mục tiêu chung của toàn xã hội nên quản lý tài chính khá phức tạp, thường được quy định cụ thể cho từng ngành. Trong điều kiện kinh tế thị trường, yêu cầu về chất lượng dịch vụ công và hiệu quả hoạt động của các ĐVSN là những vấn đề còn mang tính phức tạp hơn nữa. Bên cạnh các khoản chi của ngân sách nhà nước đối với các ĐVSN, các đơn vị này còn có nguồn thu nhập từ chi trả của dân cư. Quản lý tốt tài chính của ĐVSN không những góp phần làm giảm bớt các khoản chi sự nghiệp của ngân sách nhà nước, mà còn khuyến khích cung cấp dịch vụ chất lượng cao cho xã hội với chi phí tiết kiệm.
Việc quản lý, sử dụng nguồn tài chính ở các ĐVSN liên quan trực tiếp đến hiệu quả kinh tế - xã hội và chi tiêu đóng góp của nhân dân. Do đó, nếu tài chính của các ĐVSN được quản lý, giám sát, kiểm tra tốt, sẽ góp phần hạn chế, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính công, đồng thời nâng cao hiệu quả việc sử dụng các nguồn tài chính của đất nước.
Ngoài ra, quản lý tài chính các ĐVSN còn cung cấp thông tin để tái cơ cấu hoạt động cung cấp dịch vụ văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao… trong tương quan với sự cạnh tranh của khu vực tư nhân.
1.2. Mục tiêu, nguyên tắc và nội dung quản lý tài chính ở các Đơn vị sự nghiệp
1.2.1. Mục tiêu quản lý tài chính ở đơn vị sự nghiệp
Việc quản lý tài chính ĐVSN nhằm đạt tới các mục tiêu:
- Làm cho ĐVSN h._.oạt động có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội.
- Tạo động lực khuyến khích các ĐVSN tích cực, chủ động tổ chức hoạt động hợp lý, xác định số biên chế cần có, sắp xếp, tổ chức và phân công lao động khoa học, nâng cao chất lượng công việc nhằm sử dụng kinh phí tiết kiệm.
- Nêu cao ý thức trách nhiệm, tăng cường đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong sử dụng tài chính.
- Tạo điều kiện để công chức phát huy khả năng, nâng cao chất lượng công tác và tăng thu nhập vật chất cho cá nhân và tập thể.
1.2.2. Nguyên tắc quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp
- Nguyên tắc hiệu quả: Là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong quản lý tài chính nói chung và trong quản lý các ĐVSN nói riêng. Hiệu quả trong quản lý tài chính thể hiện ở sự so sánh giữa kết quả đạt được trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội với chi phí bỏ ra. Tuân thủ nguyên tắc này là khi tiến hành quản lý tài chính các ĐVSN, Nhà nước cần quan tâm cả hiệu quả về xã hội và hiệu quả kinh tế. Mặc dù rất khó định lượng hiệu quả về xã hội, song những lợi ích đem lại về xã hội luôn được đề cập, cân nhắc thận trọng trong quá trình quản lý tài chính công. Nhà nước phải cân đối giữa việc thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu trên cơ sở lợi ích của toàn thể cộng đồng, những mục tiêu chính trị quan trọng cần phải đạt được trong từng giai đoạn nhất định với định mức chi hợp lý. Hiệu quả kinh tế là tiêu thức quan trọng để các cá nhân hoặc cơ quan có thẩm quyền cân nhắc khi xem xét các phương án, dự án hoạt động sự nghiệp khác nhau. Hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế là hai nội dung quan trọng phải được xem xét đồng thời khi hình thành một quyết định hay một chính sách chi tiêu ngân sách liên quan đến hoạt động sự nghiệp.
- Nguyên tắc thống nhất: Là thống nhất quản lý tài chính ĐVSN bằng những văn bản luật pháp thống nhất trong cả nước. Thống nhất quản lý chính là việc tuân theo một khuôn khổ chung từ việc hình thành, sử dụng, thanh tra, kiểm tra, thanh quyết toán, xử lý những vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện quản lý thu, chi tài chính ở các ĐVSN. Thực hiện nguyên tắc quản lý này sẽ đảm bảo tính công bằng, bình đẳng trong đối xử với các ĐVSN khác nhau, hạn chế những tiêu cực và rủi ro trong hoạt động tài chính, nhất là những rủi ro có tính chất chủ quan khi quyết định các khoản thu, chi.
- Nguyên tắc tập trung, dân chủ: Là nguyên tắc quan trọng trong quản lý tài chính đối với các ĐVSN thụ hưởng ngân sách nhà nước. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý tài chính ĐVSN đảm bảo cho các nguồn lực của xã hội được sử dụng hợp lý cả ở quy mô nền kinh tế quốc dân lẫn quy mô ĐVSN.
- Nguyên tắc công khai, minh bạch: ĐVSN là tổ chức công nên việc quản lý tài chính các đơn vị này phải đáp ứng yêu cầu chung trong quản lý tài chính công, đó là công khai, minh bạch trong động viên, phân phối các nguồn lực xã hội, nhất là nguồn lực về tài chính. Bởi vì tài chính công là đóng góp của xã hội. Thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý sẽ tạo điều kiện cho cộng đồng có thể giám sát, kiểm soát các quyết định về thu, chi tài chính công, hạn chế những thất thoát và đảm bảo tính hợp lý trong chi tiêu của bộ máy nhà nước.
1.2.3. Nội dung quản lý tài chính ở đơn vị sự nghiệp
1.2.3.1. Quản lý nguồn thu
* Các nguồn thu tài chính ở ĐVSN:
Tài chính của các ĐVSN hình thành từ các nguồn sau:
- Nguồn thu từ ngân sách nhà nước: Đặc điểm của nguồn ngân sách là Nhà nước cấp phát theo dự toán xác định cho những nhiệm vụ, chương trình mục tiêu đã được duyệt. Để có được nguồn kinh phí ngân sách cấp, các đơn vị phải thực hiện tốt công tác lập kế hoạch, dự toán theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, các văn bản đặc thù cho từng ngành, từng lĩnh vực, quy chế được duyệt của đơn vị.
- Nguồn thu có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước (được phép để lại đơn vị từ các nguồn thu theo chế độ): các khoản thu từ quyên góp, tặng, biếu không phải nộp ngân sách nhà nước theo chế độ.
- Nguồn thu do dân cư chi trả: là nguồn thu của các ĐVSN do người nhận dịch vụ đóng góp. Nguồn này gồm các khoản sau:
+ Các khoản phí: Phí thực chất là giá cả của hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng phải trả cho người cung cấp khi được hưởng các hàng hóa, dịch vụ do hoạt động sự nghiệp tạo ra. Nói cách khác, đây là khoản tiền mà người tiêu dùng phải trả trực tiếp cho người cung cấp. Tùy tính chất và mục đích sử dụng của từng loại hàng hóa, dịch vụ cụ thể mà Nhà nước quy định mức phí ĐVSN được phép thu.
Phí thường được thu trong các lĩnh vực: Văn hóa-thông tin, giáo dục-đào tạo, khoa học công nghệ, y tế, giao thông vận tải, nông nghiệp, hải sản, lao động thương binh xã hội..., ví dụ như học phí, viện phí, thủy lợi phí, phí bảo vệ môi trường,...
+ Các khoản thu sự nghiệp: Thông qua các hoạt động sự nghiệp, các đơn vị ứng dụng sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ văn hóa, thông tin, khoa học, thể thao, y tế... tạo ra nguồn thu. Thu sự nghiệp gồm các khoản thu trong các lĩnh vực sau:
ã Thu sự nghiệp giáo dục, đào tạo: Thu hợp đồng giảng dạy nghiệp vụ chuyên môn khoa học kỹ thuật, thu từ kết quả hoạt động sản xuất và ứng dụng khoa học của các trường trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, các trường cao đẳng, đại học.
ã Sự nghiệp y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình: Thu viện phí, thu dịch vụ khám chữa bệnh, thực hiện các biện pháp tránh thai; thu bán các sản phẩm đơn vị ứng dụng khoa học sản xuất để phòng chữa bệnh (như các loại vắc xin phòng bệnh,...)
ã Sự nghiệp văn hóa-thông tin: Thu dịch vụ quảng cáo, thu bán sản phẩm văn hóa như bản tin, tạp chí; thu từ hoạt động biểu diễn của các đoàn nghệ thuật.
ã Thể dục-thể thao: Thu tiền bán vé từ hoạt động thi đấu, biểu diễn thể dục, thể thao, thu hợp đồng dịch vụ thể thao như thuê sân bãi, dụng cụ thể dục thể thao,...
ã Sự nghiệp nghiên cứu khoa học, công nghệ, môi trường: Thu bán các sản phẩm từ kết quả hoạt động sản xuất, nghiên cứu, thử nghiệm, thu dịch vụ khoa học, bảo vệ môi trường, thu hợp đồng nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước.
ã Sự nghiệp kinh tế: Thu từ dịch vụ đo đạc bản đồ, điều tra khảo sát, quy hoạch nông lâm, thiết kế trồng rừng, thu dịch vụ khí tượng thủy văn, dịch vụ kiến trúc, quy hoạch đô thị,...
+ Các khoản thu khác.
* Yêu cầu đối với quản lý nguồn thu:
- Quản lý toàn diện từ hình thức, quy mô đến các yếu tố quyết định số thu. Bởi vì tất cả các hình thức, quy mô và các yếu tố ảnh hưởng đến số thu đều quyết định số thu tài chính làm cơ sở cho mọi hoạt động của ĐVSN. Nếu không quản lý toàn diện sẽ dẫn đến thất thoát khoản thu, làm ảnh hưởng không chỉ đến hiệu quả quản lý tài chính, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của ĐVSN.
- Coi trọng công bằng xã hội, những người có điều kiện, hoàn cảnh và mức thu nhập như nhau phải đóng góp như nhau. Đây là thể hiện yêu cầu công bằng chung cho mọi hoạt động của Nhà nước.
- Thực hiện nghiêm túc, đúng đắn các chính sách, chế độ thu do cơ quan có thẩm quyền ban hành. ĐVSN không được tự ý đặt ra các khoản thu cũng như mức thu.
- Quản lý các nguồn thu theo kế hoạch, đảm bảo thu sát, thu đủ, tổ chức tốt quá trình quản lý thu, đồng thời đề ra các biện pháp tổ chức thu thích hợp.
- Đối với các đơn vị được sử dụng nhiều nguồn thu phải có biện pháp quản lý thu thống nhất nhằm thực hiện thu đúng mục đích, thu đủ và thu đúng kỳ hạn.
* Quy trình quản lý thu.
Quy trình quản lý thu ở các ĐVSN được tiến hành theo từng năm kế hoạch qua các bước sau:
- Xây dựng kế hoạch dự toán thu.
- Thực hiện kế hoạch thu theo dự toán.
- Quyết toán các khoản thu.
* Khi xây dựng kế hoạch dự toán thu phải dựa vào các căn cứ sau:
+ Phải dựa vào nhiệm vụ chính trị, xã hội được giao cho đơn vị cũng như các chỉ tiêu cụ thể, từng mặt hoạt động do cơ quan có thẩm quyền thông báo.
+ Các văn bản pháp lý quy định thu như các chế độ thu do Nhà nước quy định.
+ Số kiểm tra về dự toán thu do cơ quan có thẩm quyền thông báo.
+ Kết quả phân tích, đánh giá tình hình thực hiện dự toán thu của các năm trước (chủ yếu là năm báo cáo) và triển vọng của các năm tiếp theo.
* Thực hiện kế hoạch thu theo dự toán: Dự toán thu là căn cứ quan trọng để tổ chức thực hiện thu. Trong quá trình thu, đơn vị phải thực hiện thu đúng đối tượng, thu đủ, tuân thủ các quy định của Nhà nước để bảo đảm hoạt động của đơn vị mình.
* Quyết toán các khoản thu: Cuối năm, đơn vị phải giải quyết những vấn đề còn tồn tại trong khâu tổ chức thu nộp, sau đó tổng hợp, đánh giá tình hình chấp hành dự toán thu đã được giao, rút ra những kinh nghiệm cho việc khai thác nguồn thu, công tác xây dựng dự toán và tổ chức thu nộp trong thời gian tới, nộp báo cáo cho cơ quan quản lý cấp trên.
1.2.3.2. Quản lý quá trình sử dụng tài chính
* Các khoản chi của ĐVSN:
ĐVSN được phép chi các khoản sau:
- Chi hoạt động thường xuyên của đơn vị theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao:
+ Chi cho người lao động: Chi tiền lương, tiền công; các khoản phụ cấp lương; các khoản trích bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn theo quy định,...
+ Chi quản lý hành chính: Vật tư văn phòng, dịch vụ công cộng, thông tin liên lạc, công tác phí, hội nghị phí, thuê mướn,...
+ Chi hoạt động nghiệp vụ.
+ Chi mua sắm tài sản, sửa chữa thường xuyên tài sản; khoản kinh phí này được sử dụng để mua sắm, trang bị thêm hoặc phục hồi lại giá trị sử dụng cho những tài sản cố định đã bị xuống cấp.
+ Chi khác: Chi tiếp khách, mua bảo hiểm phương tiện, ....
- Chi thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, ngành; Chương trình mục tiêu quốc gia; chi thực hiện nhiệm vụ đặt hàng của Nhà nước; chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có vốn nước ngoài theo quy định.
- Chi thực hiện tinh giản biên chế theo chế độ do Nhà nước quy định.
- Chi đầu tư phát triển: chi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài sản, chi thực hiện các dự án đầu tư theo quy định.
- Chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao.
- Các khoản chi khác: các ĐVSN có thu còn có các khoản chi hoạt động tổ chức thu phí; chi hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ (kể cả chi nộp thuế, trích khấu hao tài sản cố định).
* Yêu cầu đối với quản lý chi:
- Đảm bảo nguồn tài chính cần thiết để các ĐVSN hoàn thành các nhiệm vụ được giao theo đúng đường lối, chính sách, chế độ của Nhà nước. Để thực hiện yêu cầu này đòi hỏi các đơn vị cần xác lập thứ tự ưu tiên cho các khoản chi để bố trí kinh phí cho phù hợp.
- Quản lý các khoản chi phải đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả. Tiết kiệm là một nguyên tắc hàng đầu của quản lý tài chính. Nguồn lực luôn có giới hạn nhưng nhu cầu không có giới hạn. Do vậy trong quá trình phân bổ và sử dụng nguồn lực khan hiếm phải tính toán sao cho chi phí thấp nhất, kết quả cao nhất.
Hoạt động sự nghiệp diễn ra trên phạm vi rộng, đa dạng và phức tạp. Nhu cầu chi của ĐVSN luôn gia tăng với tốc độ nhanh trong khi khả năng huy động nguồn thu có hạn nên cần phải tiết kiệm, thực hiện hiệu quả trong quản lý tài chính các ĐVSN.
Để đạt được tiêu chuẩn tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý các khoản chi của các ĐVSN cần phải quản lý chặt chẽ từ khâu xây dựng kế hoạch, dự toán, xây dựng định mức, thường xuyên phân tích, đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện chi tiêu, trên cơ sở đó đề ra các biện pháp tăng cường quản lý chi đối với các ĐVSN.
* Nội dung quản lý chi tài chính ở ĐVSN:
Trong thực tiễn, các ĐVSN có nhiều biện pháp quản lý các khoản chi tài chính khác nhau, nhưng các biện pháp quản lý chung nhất là:
- Thiết lập các định mức chi. Định mức chi vừa là cơ sở để xây dựng kế hoạch chi, vừa là căn cứ để thực hiện kiểm soát chi của các ĐVSN. Các định mức chi phải được xây dựng một cách khoa học. Từ việc phân loại đối tượng đến trình tự, cách thức xây dựng định mức phải được tiến hành một cách chặt chẽ và có cơ sở khoa học. Các định mức chi phải bảo đảm phù hợp với loại hình hoạt động của từng đơn vị.
Các định mức chi phải có tính thực tiễn tức là phải phản ánh mức độ phù hợp của các định mức với nhu cầu kinh phí cho các hoạt động. Chỉ có như vậy, định mức chi mới trở thành chuẩn mực cho quản lý kinh phí.
- Lựa chọn thứ tự ưu tiên cho các loại hoạt động hoặc theo nhóm mục chi sao cho với tổng số chi có hạn nhưng khối lượng công việc vẫn hoàn thành và đạt chất lượng cao. Để đạt được điều này phải có phương án phân phối và sử dụng kinh phí khác nhau. Trên cơ sở đó lựa chọn phương án tối ưu cho cả quá trình lập dự toán, phân bổ và sử dụng kinh phí.
- Xây dựng quy trình cấp phát các khoản chi chặt chẽ, hợp lý nhằm hạn chế tối đa những tiêu cực nảy sinh trong quá trình cấp phát, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm soát chi của các cơ quan có thẩm quyền.
- Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra và kiểm toán nhằm ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực trong việc sử dụng nguồn kinh phí của Nhà nước, đồng thời qua công tác này phát hiện những bất hợp lý trong chế độ, chính sách nhằm bổ sung hoàn thiện chúng.
* Quy trình quản lý chi tài chính ở các ĐVSN:
* Lập dự toán chi: Lập dự toán chi là khâu khởi đầu và quan trọng trong quản lý chi ngân sách nhà nước, nó có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và hiệu quả của khâu chấp hành, kế toán và quyết toán chi ngân sách nhà nước. Khi lập dự toán cần dựa trên những căn cứ sau:
- Chủ trương của Nhà nước về duy trì và phát triển các hoạt động sự nghiệp trong từng giai đoạn nhất định. Dựa vào căn cứ này sẽ giúp cho việc xây dựng dự toán chi tài chính ở ĐVSN có một cái nhìn tổng quát về những mục tiêu, nhiệm vụ mà đơn vị phải hướng tới trong năm, từ đó xác lập được các hình thức, phương pháp phân phối nguồn vốn vừa tiết kiệm, vừa đạt hiệu quả cao.
- Dựa vào các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là các chỉ tiêu có liên quan trực tiếp đến việc cấp phát kinh phí chi ngân sách nhà nước kỳ kế hoạch cho các ĐVSN. Đây chính là việc cụ thể hóa các chủ trương của Nhà nước trong từng giai đoạn thành các chỉ tiêu cho kỳ kế hoạch. Khi dựa trên căn cứ này để xây dựng dự toán chi phải thẩm tra, phân tích tính đúng đắn, hiện thực, tính hiệu quả của các chỉ tiêu thuộc kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Trên cơ sở đó có kiến nghị điều chỉnh lại các chỉ tiêu kế hoạch cho phù hợp.
- Dựa vào khả năng nguồn kinh phí có thể đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu thường xuyên kỳ kế hoạch. Muốn dự đoán được khả năng này, ĐVSN phải dựa vào cơ cấu thu ngân sách nhà nước kỳ báo cáo và mức tăng trưởng của các nguồn thu kỳ kế hoạch, từ đó thiết lập mức cân đối tổng quát giữa khả năng nguồn kinh phí và nhu cầu chi ngân sách nhà nước.
- Kết quả phân tích, đánh giá tình hình quản lý và sử dụng kinh phí chi ngân sách nhà nước kỳ báo cáo sẽ cung cấp các thông tin cần thiết cho việc lập dự toán.
Quá trình lập dự toán chi ngân sách Nhà nước được tiến hành theo các bước cơ bản sau:
Thứ nhất, căn cứ vào dự toán sơ bộ về thu, chi ngân sách nhà nước kỳ kế hoạch để xác định các định mức chi tiêu tổng hợp dự kiến ngân sách sẽ phân bổ cho mỗi đối tượng. Trên cơ sở đó hướng dẫn các đơn vị tiến hành lập dự toán kinh phí. Bước này còn được gọi là xác định và giao số kiểm tra từ cơ quan tài chính hoặc cơ quan chủ quản cho ĐVSN.
Thứ hai, dựa vào số kiểm tra và văn bản hướng dẫn lập dự toán kinh phí, các đơn vị dự toán tiến hành lập dự toán kinh phí của mình để gửi đơn vị dự toán cấp trên hoặc cơ quan tài chính. Căn cứ vào mức độ phân cấp về chi ngân sách nhà nước, cơ quan tài chính ở mỗi cấp có nhiệm vụ xét duyệt, tổng hợp dự toán kinh phí các đơn vị trực thuộc để hình thành dự toán chi ngân sách trình cơ quan có thẩm quyền xét duyệt.
Thứ ba, căn cứ vào dự toán chi ngân sách nhà nước đã được cơ quan có thẩm quyền thông qua, cơ quan tài chính sau khi xem xét điều chỉnh lại cho phù hợp sẽ chính thức phân bổ dự toán chi ngân sách nhà nước cho mỗi đơn vị.
* Chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước: Chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước là khâu thứ hai trong chu trình quản lý ngân sách nhà nước. Trong quá trình sử dụng tài chính theo dự toán cần dựa trên những căn cứ sau:
+ Dựa vào định mức chi được duyệt của từng chỉ tiêu trong dự toán. Đây là căn cứ mang tính quyết định nhất trong chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước.
+ Dựa vào khả năng nguồn kinh phí có thể dành cho nhu cầu chi ngân sách nhà nước trong mỗi kỳ báo cáo. Chi thường xuyên của ngân sách nhà nước luôn bị giới hạn bởi khả năng huy động của các nguồn thu. Mặc dù các khoản chi thường xuyên đã được ghi trong dự toán nhưng khi số thu không đảm bảo vẫn phải cắt giảm một phần nhu cầu chi tiêu. Đây là một trong những giải pháp thiết lập lại sự cân đối giữa thu và chi ngân sách nhà nước trong quá trình chấp hành dự toán.
+ Dựa vào các chế độ, chính sách chi ngân sách nhà nước hiện hành. Đây là căn cứ mang tính pháp lý cho công tác tổ chức chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước, bởi lẽ tính hợp lý của các khoản chi sẽ được xem xét dựa trên cơ sở các chính sách, chế độ của Nhà nước đang có hiệu lực thi hành. Để làm được điều đó các chính sách, chế độ phải phù hợp với thực tiễn.
Để đạt được mục tiêu cơ bản của việc tổ chức chấp hành dự toán chi ngân sách nhà nước, ĐVSN phải đảm bảo phân phối, cấp phát và sử dụng nguồn vốn hợp lý, tiết kiệm, thông qua áp dụng các biện pháp sau:
- Trên cơ sở dự toán chi ngân sách đã được duyệt và các chế độ, chính sách hiện hành, cơ quan chức năng phải hướng dẫn cụ thể, rõ ràng cho các đơn vị thi hành.
- Tổ chức các hình thức cấp phát vốn thích hợp với mỗi loại hình đơn vị, mỗi loại hoạt động và nguồn kinh phí hoạt động, trên cơ sở đó quy định rõ trình tự cấp phát nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc thống nhất thực hiện.
- Hướng dẫn các đơn vị thực hiện tốt chế độ hạch toán kế toán áp dụng cho các đơn vị, sao cho sự hình thành nguồn kinh phí và sử dụng kinh phí phải được hạch toán đúng, đủ, chính xác và kịp thời. Trên cơ sở đó đảm bảo việc quyết toán kinh phí được nhanh, chính xác, đồng thời cung cấp các tài liệu có tính chuẩn mực cao cho các cơ quan có thẩm quyền xét duyệt.
- Cơ quan tài chính phải thường xuyên xem xét khả năng đảm bảo kinh phí cho nhu cầu chi ngân sách nhà nước để có biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm thiết lập lại thế cân đối mới trong qua trình chấp hành dự toán.
- Thường xuyên kiểm tra, giám sát tình hình nhận và sử dụng kinh phí tại mỗi đơn vị sao cho mỗi khoản chi tiêu đảm bảo theo dự toán, đúng định mức tiêu chuẩn của Nhà nước, góp phần nâng cao tính tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý chi ngân sách.
* Quyết toán chi ngân sách nhà nước:
Quyết toán chi ngân sách nhà nước là khâu cuối cùng trong chu trình quản lý chi tài chính. Đó là quá trình kiểm tra, rà soát, chỉnh lý lại các số liệu đã được phản ánh sau một kỳ chấp hành dự toán để phân tích, đánh giá kết quả chấp hành dự toán, rút ra những kinh nghiệm và bài học cần thiết cho kỳ chấp hành dự toán tiếp theo. Bởi vậy, trong quá trình quyết toán các khoản chi ngân sách phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:
- Lập đầy đủ các loại báo cáo tài chính và gửi kịp thời cho các cơ quan có thẩm quyền xét duyệt theo chế độ quy định.
- Số liệu trong báo cáo phải đảm bảo tính chính xác, trung thực. Nội dung các báo cáo tài chính phải theo đúng nội dung ghi trong dự toán được duyệt và theo đúng mục lục ngân sách nhà nước quy định.
- Báo cáo quyết toán năm của các đơn vị dự toán các cấp trước khi trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt phải có xác nhận của Kho bạc nhà nước đồng cấp và phải được cơ quan Kiểm toán nhà nước kiểm toán.
- Báo cáo quyết toán của các đơn vị dự toán không được để xảy ra tình trạng quyết toán chi lớn hơn thu.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý tài chính ở đơn vị sự nghiệp
1.3.1. Chế độ quản lý tài chính công
1.3.1.1. Luật Ngân sách nhà nước
Để quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước, củng cố luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả ngân sách và tài sản của Nhà nước, tăng tích lũy nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại...., cần quản lý ngân sách nhà nước theo luật. Phù hợp với yêu cầu đó, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật Ngân sách nhà nước năm 1997. Sau đó, tại Khóa họp XI, Kỳ họp thứ hai năm 2002 Quốc hội đã bổ sung và tiếp tục hoàn thiện Luật Ngân sách nhà nước.
Từ khi có Luật Ngân sách nhà nước mọi khoản chi ngân sách nhà nước, trong đó có chi cho ĐVSN, đều phải tuân theo Luật. Ngân sách nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm.
Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước.
Theo Luật Ngân sách nhà nước, các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước phải lập, chấp hành, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, quyết toán ngân sách nhà nước theo các quy định thống nhất trong cả nước. Ngoài ra, việc sử dụng ngân sách nhà nước phải đúng mục đích và theo mục lục mà Luật đã quy định.
Nhờ có Luật Ngân sách nhà nước, quản lý tài chính trong các ĐVSN trở nên minh bạch hơn, ổn định trong thời gian đủ dài để các đơn vị thụ hưởng ngân sách có điều kiện tìm phương án sử dụng ngân sách hiệu quả, kích thích tính tự chủ của ĐVSN nhiều hơn trước trong tìm kiếm lợi ích từ tiết kiệm chi ngân sách nhà nước, tạo cơ chế kiểm tra, giám sát của Nhà nước và cơ quan ngôn luận đối với việc sử dụng ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, do luật Ngân sách nhà nước của ta còn chưa thực sự hoàn thiện, nhiều quy định còn cứng nhắc, ví dụ như quy định phải sử dụng ngân sách theo mục lục ngân sách, quy định ngân sách cấp dưới thuộc ngân sách cấp trên,… đã hạn chế quyền tự chủ của đơn vị cơ sở trong sử dụng ngân sách hiệu quả. Ngoài ra, muốn cải tiến quản lý tài chính ở các ĐVSN phải chờ sự thay đổi của Luật Ngân sách nhà nước nên thường chậm chạp.
1.3.1.2. Cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước
Cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước là toàn bộ các chính sách, chế độ chi tài chính thống nhất trong các cơ quan nhà nước mà các ĐVSN phải tuân thủ. Trong cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước, các công cụ về định mức chi tiêu, danh mục được phép chi tiêu, quy trình xét duyệt và cấp ngân sách, phân cấp quản lý chi tài chính công...có vai trò quan trọng. Thông qua cơ chế quản lý tài chính, Nhà nước kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng các nguồn lực tài chính công trong các ĐVSN. Chính vì thế, cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước là cơ sở, nền tảng của quản lý tài chính trong các ĐVSN. Tính chất tiến bộ hay lạc hậu của cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước ảnh hưởng trực tiếp đến quản lý tài chính trong các ĐVSN.
Một mặt, cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước tạo ra môi trường pháp lý cho việc tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài chính nhằm đáp ứng yêu cầu hoạt động của đơn vị. Nó được xây dựng dựa trên quan điểm định hướng về chính sách quản lý ĐVSN trong từng giai đoạn cụ thể của Nhà nước nhằm cụ thể hóa các chính sách đó. Cơ chế này sẽ vạch ra các khung pháp lý về mô hình quản lý tài chính của ĐVSN, từ việc xây dựng các tiêu chuẩn, định mức, các quy định về lập dự toán, điều chỉnh dự toán, cấp phát kinh phí, kiểm tra, kiểm soát,.đến quyết toán kinh phí, nhằm phát huy tối đa hiệu quả quản lý vĩ mô của Nhà nước có tính đến quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị. Do đó, nếu cơ chế tài chính phù hợp sẽ tạo điều kiện tăng cường và tập trung nguồn lực tài chính, đảm bảo sự linh hoạt, năng động và hữu hiệu của các nguồn lực tài chính, giúp cho ĐVSN thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn được giao. Ngược lại, nếu các định mức quá lạc hậu, quy trình cấp phát và kiểm tra quá rắc rối, phức tạp thì không chỉ chi phí quản lý tài chính tăng, mà còn gây tình trạng che dấu, biến báo các khoản chi cho hợp lệ, hoặc quản lý tài chính không theo kịp hoạt động chuyên môn trong các ĐVSN.
Cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước đối với ĐVSN có tác động đến chương trình chi tiêu ngân sách quốc gia, ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia về hoạt động sự nghiệp. Vì vậy, cơ chế tài chính đó nếu được thiết lập phù hợp, hiệu quả sẽ đảm bảo cung ứng đủ nguồn kinh phí cho hoạt động chuyên môn, tránh được thất thoát, lãng phí các nguồn lực tài chính, đảm bảo phát huy tối đa hiệu quả, tạo tiền đề vật chất cho việc thực hiện tốt các chương trình quốc gia về hoạt động sự nghiệp. Ngược lại, nếu cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước không phù hợp sẽ làm cho các chương trình được thực hiện không như mong muốn, thậm chí làm cho chương trình phá sản.
Cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước đóng vai trò như một cán cân công lý, đảm bảo sự công bằng, hợp lý trong việc tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài chính giữa các lĩnh vực hoạt động sự nghiệp khác nhau, cũng như giữa các ĐVSN trong cùng một lĩnh vực. Nhờ đó, các ĐVSN dù hoạt động ở đâu, lĩnh vực nào cũng được quan tâm, tạo điều kiện phát triển tương xứng với yêu cầu của xã hội đối với lĩnh vực đó và tiềm lực kinh tế của quốc gia đó.
Mặt khác, cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước vạch ra hành lang pháp lý cho ĐVSN nhưng nếu các cơ chế này không phù hợp sẽ trở thành hàng rào trói buộc, cản trở đến quá trình tạo lập và sử dụng nguồn lực tài chính của ĐVSN, ảnh hưởng xấu đến kết quả hoạt động chuyên môn của đơn vị. Nếu cơ chế quản lý tài chính của Nhà nước sơ hở, lỏng lẻo có thể làm hao tổn ngân sách nhà nước, thất thoát, lãng phí các nguồn lực tài chính khác mà không đạt được mục tiêu chính trị, xã hội đã định.
1.3.2. Đặc điểm của đơn vị sự nghiệp
1.3.2.1. Đặc điểm của ngành
Đặc điểm hoạt động của ngành là một trong những nhân tố ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý tài chính của ĐVSN. Do đặc điểm hoạt động của các đơn vị khác nhau dẫn đến mô hình quản lý tài chính của các đơn vị cũng sẽ khác nhau. Các ĐVSN nằm trong từng ngành sẽ được đơn vị chủ quản thiết lập cho những cơ chế quản lý tài chính nội bộ, nhất là hệ thống định mức chi tiêu, áp dụng riêng trong ngành. Cơ chế quản lý này vừa phải cụ thể hóa các văn bản pháp quy của Nhà nước, vừa đáp ứng được những yêu cầu riêng của ngành, phù hợp với những yêu cầu quản lý cụ thể, đặc thù mà Nhà nước chưa quy định, sao cho công tác quản lý tài chính thích hợp và chặt chẽ hơn.
Nhìn chung, do chịu tác động của những cơ quan quản lý ngành, nên cơ chế quản lý theo ngành các ĐVSN thường chặt chẽ hơn quy định chung của Nhà nước. Một số ngành có những chính sách quản lý tập trung, hạn chế phân cấp quản lý cho các đơn vị thành viên làm ảnh hưởng đến tính tự chủ về tài chính của ĐVSN trong ngành đó. Một số ngành lại mở rộng cho đơn vị trực thuộc dẫn đến sự không công bằng giữa các ĐVSN thuộc các ngành khác nhau.
Ngoài ra, do tính chất hoạt động, do tầm quan trọng của các ngành khác nhau mà sự ưu tiên cấp phát ngân sách và phân cấp quyền tự chủ tài chính của Nhà nước cũng khác nhau.
1.3.2.2. Quy mô, tầm quan trọng của đơn vị sự nghiệp
Quy mô, tính phức tạp và tầm quan trọng của từng ĐVSN cũng ảnh hưởng đến quản lý tài chính nội bộ đơn vị. Nếu ĐVSN có quy mô lớn, các bộ phận phụ thuộc hoạt động phân tán thì chế độ quản lý tài chính nội bộ thiên về phân cấp rộng cho đơn vị cơ sở, cơ quan quản lý cao nhất của ĐVSN chỉ tập trung đảm nhiệm những khâu quản lý trọng yếu, cần thống nhất trong đơn vị hoặc các khâu mà cấp cao đảm nhiệm hiệu quả hơn. ở các ĐVSN có quy mô nhỏ, kết cấu đơn giản thì bộ máy quản lý tài chính gọn nhẹ, thường chỉ bao gồm cán bộ phòng tài chính kế toán, phòng này trực tiếp quản lý tài chính ở các bộ phận của đơn vị.
Thường các ĐVSN có tầm quan trọng thì Nhà nước sẽ ưu tiên hơn trong cấp phát vốn đầu tư và cấp kinh phí thường xuyên, ngay cả trong các thời kỳ khó khăn. Các ĐVSN kém quan trọng hơn đôi khi phải thu hẹp quy mô hoạt động hoặc giảm bớt đầu mối khi tài chính nhà nước gặp khó khăn. Hơn nữa, trong chế độ quản lý tài chính công thống nhất, các ĐVSN quan trọng đôi khi được cho phép có những khoản chi ngoại lệ phục vụ các nhiệm vụ đặc biệt. Những yếu tố này cũng ảnh hưởng nhất định đến quản lý tài chính ở ĐVSN.
1.3.3. Thị trường đầu vào, đầu ra của đơn vị sự nghiệp
1.3.3.1. Thị trường đầu vào của đơn vị sự nghiệp
ĐVSN là một cơ quan nhà nước nên phải tuân thủ các quy định của Nhà nước về chi tiêu. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, các ĐVSN phải mua các vật tư, thiết bị, máy móc theo giá thị trường. Nếu giá cả thị trường biến động lên, ĐVSN rất khó khăn trong việc đi xin kinh phí bổ sung, bởi nguồn kinh phí Nhà nước cấp được ổn định cho một số năm. Trong trường hợp này, các ĐVSN buộc phải thắt lưng, buộc bụng cố gắng chi dùng trong số tiền được cấp. Để tránh tình thế khó khăn đó, các ĐVSN có xu hướng đấu tranh để các định mức chi tiêu nới rộng hơn thực tế chút ít, hoặc luận chứng để được hưởng khoản kinh phí nhiều hơn ngay từ đầu. Sự đan xen giữa cơ chế thị trường và cơ chế quản lý chi tiêu của Nhà nước là yếu tố gây khó khăn rất lớn cho quản lý tài chính trong các ĐVSN.
Bản thân chế độ lương của cán bộ, công nhân viên trong các ĐVSN cũng là cả một vấn đề phức tạp. Một mặt, các ĐVSN phải trả lương cho người làm việc trong cơ quan mình theo bảng và thang lương của Nhà nước; mặt khác, các đơn vị này phải tìm cơ chế cho cán bộ, công nhân viên có thu nhập thêm, ít nhất cũng ngang bằng các đơn vị khác để giữ người giỏi. Lấy tiền ở đâu để tăng thu nhập cho người lao động trong các ĐVSN là bài học nan giải trong các ĐVSN hiện nay. Hơn nữa, các ĐVSN, nhất là các viện nghiên cứu, các trường đại học, các bệnh viện..., là nơi đòi hỏi các chuyên gia có trình độ cao. Nếu không có chế độ lương thỏa đáng thì không có được đội ngũ chuyên gia như vậy. Để khắc phục khó khăn này, nhiều ĐVSN tổ chức thêm các hoạt động dịch vụ ngoài luồng, cho phép người lao động tranh thủ làm thêm ở nhà v.v. Tình trạng này càng làm cho quản lý tài chính trong các ĐVSN càng khó khăn hơn.
1.3.3.2. Thị trường đầu ra của đơn vị sự nghiệp
Các ĐVSN cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho xã hội theo hai phương thức: độc quyền hoặc cạnh tranh. Đối với các đơn vị cung cấp dịch vụ độc quyền như đài phát thanh, truyền hình, kiểm tra chất lượng, văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao…thì quản lý tài chính theo chế độ của Nhà nước thuận lợi hơn, nhưng cũng thường vấp phải vấn đề trì trệ, lạc hậu của định mức, chính sách do s._.ệ sinh môi trường làm việc: Hiện nay hầu hết các đơn vị đều đi thuê doanh nghiệp chuyên làm dịch vụ vệ sinh theo đơn giá thỏa thuận và khối lượng công việc thực tế. Để có chi phí hợp lý, TTXVN có thể tham khảo đơn giá của các đơn vị cung cấp dịch vụ để xây dựng định mức theo khối lượng công việc thực hiện.
- Định mức về trang bị văn phòng phẩm và công cụ, dụng cụ: hệ thống định mức hiện nay chưa đề cập rõ, cụ thể về định mức trang bị văn phòng phẩm và công cụ, dụng cụ cho các ĐVSN và cho cán bộ công nhân viên. Xét trong thời gian qua, diễn biến chi phí về văn phòng phẩm và công cụ, dụng cụ trên thị trường tương đối ổn định, có thể kế hoạch hóa được, vì vậy TTXVN nên xem xét đưa khoản mục chi phí này vào trong định mức.
Đồng thời mức chi cho mỗi khoản mục chi phí cũng cần được nghiên cứu, xây dựng lại cho phù hợp với mặt bằng giá cả hiện tại để loại bỏ các khoản bổ sung như: Bổ sung tiền lương, chi thù lao nhuận bút, chi tập huấn,...và giảm các định mức chi đối với một số chi phí đã giảm giá như cước phí điện thoại. Khi thực hiện nội dung này, TTXVN cần có những bước điều tra, khảo sát mặt bằng giá cả nhằm xây dựng định mức sát thực tế và có thể xây dựng các mức chi này ở dạng mở để có thể điều chỉnh khi cần thiết.
Về lâu dài, TTXVN chỉ nên cấp 100% kinh phí cho những ĐVSN không có thu (khối văn phòng), tiến tới sẽ chuyển toàn bộ các ĐVSN sang chế độ có thu và mức cấp kinh phí sẽ tùy thuộc vào nguồn thu của từng đơn vị. TTXVN chỉ nên ban hành các yêu cầu, nguyên tắc tính toán xây dựng định mức chi sự nghiệp, còn định mức cụ thể sẽ do từng đơn vị cụ thể xây dựng theo tình hình thực tế, phù hợp với xu hướng mở rộng phân cấp.
3.2.1.2. Hoàn thiện, bổ sung hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật thuộc thẩm quyền của các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam
Hiện nay, các ĐVSN thuộc TTXVN đã ban hành được một số định mức, tiêu chuẩn nội bộ nhưng chưa đầy đủ, đồng bộ. Trong thời gian tới, mỗi ĐVSN cần phải tự rà soát lại hệ thống định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi tiêu nội bộ của đơn vị mình, đánh giá sự phù hợp của các văn bản này với tình hình mới để có sự điều chỉnh cho thích hợp. Mỗi ĐVSN phải thiết lập đủ các quy định nội bộ cho tất cả các nội dung thu, chi tài chính với các hướng dẫn nội bộ rõ ràng, phù hợp với đặc điểm của đơn vị mình.
3.2.2. Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát quá trình chấp hành kỷ luật tài chính tại các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt Nam
3.2.2.1. Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát quá trình chấp hành kỷ luật tài chính nội bộ các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Thông tấn xã Việt Nam
Kỷ luật tài chính ở các ĐVSN thuộc TTXVN hiện nay còn chưa nghiêm, bản thân mỗi đơn vị chưa muốn áp dụng các chế tài để tăng cường kỷ luật tài chính nên còn những vấn đề tài chính tồn đọng chưa giải quyết được. Vì vậy, đồng thời với việc đề cao ý thức trách nhiệm của mỗi bộ phận, mỗi cá nhân trong công tác quản lý tài chính, việc áp dụng các chế tài trong những trường hợp vi phạm nguyên tắc quản lý tài chính là điều rất cần thiết và hoàn toàn hợp lý.
Các ĐVSN cần rà soát lại toàn bộ các quy định nội bộ đã ban hành, nghiên cứu, bổ sung cụ thể trách nhiệm từng cá nhân, tập thể có liên quan và các chế tài trong mỗi quy định nội bộ đó. Đồng thời, cần phải coi kỷ luật tài chính là một nội dung cấu thành, không thể thiếu trong mỗi quy định tài chính nội bộ chuẩn bị xây dựng mới. Ví dụ, trong quy chế quản lý kinh phí xây dựng cơ bản, cần quy định rõ với mỗi mức độ vi phạm về mục đích sử dụng kinh phí, thời hạn thanh quyết toán kinh phí, lãng phí,....sẽ có hình thức xử phạt tài chính tương ứng với từng đối tượng (tập thể, cá nhân), nếu lặp lại sai lầm cần chuyển sang cấp độ xử phạt cao hơn...
Mặt khác, trong quá trình xử lý các nghiệp vụ tài chính hiện nay, các ĐVSN thường mới chỉ thực hiện theo tư duy chủ quan của cá nhân người thực hiện, nên không có sự đồng bộ, nhất quán trong toàn đơn vị, không cho phép chủ thể quản lý kiểm soát được đầy đủ các nội dung cần thực hiện. Trong thời gian tới, các ĐVSN nên xem xét, phân loại các nghiệp vụ tài chính phát sinh tại đơn vị thành những nhóm nghiệp vụ chủ yếu và thiết lập các quy trình tác nghiệp, kiểm soát cụ thể cho từng nhóm nghiệp vụ. Các quy trình này cần được ban hành thành văn bản, áp dụng thống nhất trong toàn đơn vị để đảm bảo tính thống nhất, nhất quán, tránh bỏ sót các thao tác nghiệp vụ tài chính cần thiết. Ví dụ như: quy trình theo dõi và kiểm soát các nguồn thu (theo nội dung thu, theo đơn vị thực hiện, theo thời gian thực hiện,...), kiểm soát các khoản chi (theo nội dung chi, theo đơn vị thực hiện, theo độ lớn các khoản chi, theo thời gian thực hiện,...).
Việc tăng cường kỷ luật tài chính phải bắt đầu từ chính cán bộ lãnh đạo đơn vị. Bởi vì, chỉ khi các cán bộ lãnh đạo đơn vị nhận thức rõ tầm quan trọng của kỷ luật tài chính, gương mẫu thực hiện kỷ luật tài chính và trực tiếp chỉ đạo các bộ phận trong đơn vị thực hiện nghiêm kỷ luật tài chính đã được thiết lập, thì các quy chế tài chính nội bộ của đơn vị mới phát huy được tác dụng mong muốn. Nếu không đáp ứng yêu cầu này, thì một quy chế dù được xây dựng chặt chẽ, khoa học đến đâu cũng chỉ là một tập giấy vô nghĩa nằm trong tủ tài liệu.
Hàng năm, các ĐVSN cũng cần có tổng kết, đánh giá về tình hình thực hiện kỷ luật tài chính tại đơn vị mình, tuyên dương, khen thưởng các bộ phận chấp hành tốt kỷ luật tài chính và kiên quyết xử lý các bộ phận chấp hành chưa tốt kỷ luật tài chính của đơn vị mình.
3.2.2.2. Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát của các Ban chức năng thuộc Thông tấn xã Việt Nam đối với quá trình chấp hành kỷ luật tài chính ở đơn vị sự nghiệp
Hiện tại, mức độ kiểm tra, giám sát tài chính tại các ĐVSN của các Ban chức năng giúp việc cho lãnh đạo TTXVN chưa đồng đều, chưa phối hợp tốt với nhau. Để khắc phục nhược điểm này, trước mắt, hoạt động kiểm tra, giám sát tài chính của các Ban chức năng thuộc TTXVN cần được tăng cường theo hướng:
- Ban kiểm tra nội bộ cần thay đổi quan điểm làm việc theo kiểu “đóng cửa bảo nhau”. Cần có thái độ kiên quyết khi xử lý những sai sót mang tính hệ thống trong công tác quản lý tài chính của các ĐVSN. Sau mỗi đợt kiểm toán, quyết toán cần báo cáo lãnh đạo TTXVN ban hành chỉ thị để chấn chỉnh sai sót và yêu cầu đơn vị phải báo cáo kết quả thực hiện các kiến nghị của kiểm toán, không để tình trạng các kiến nghị chỉ dừng lại ở biên bản kiểm toán. Trường hợp thấy cần thiết, kiểm toán viên nội bộ có thể đề xuất thành lập đoàn phúc tra kết quả kiểm toán tại đơn vị được kiểm toán. Công tác kiểm toán nội bộ cũng cần tập trung vào việc tuân thủ chế độ tài chính, kế toán. Thay kiểm toán hoạt động của các ĐVSN cho việc kiểm toán báo cáo tài chính của các đơn vị này như hiện nay vẫn đang thực hiện. Quá trình kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động sẽ tập trung vào đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ trong mỗi đơn vị để giúp các đơn vị phát hiện và chấn chỉnh kịp thời các điểm yếu trong hệ thống kiểm soát nội bộ.
- Ban Kế hoạch Tài vụ cần kiên quyết thu hồi nguồn kinh phí đã cấp cho các ĐVSN nhưng chưa sử dụng hết về tài khoản của TTXVN. Cần có chương trình kiểm tra, giám sát định kỳ tại ĐVSN để phối hợp với đơn vị này chấn chỉnh ngay những sai sót, tháo gỡ kịp thời những vướng mắc ngay từ khi mới phát sinh.
- Ban Thanh tra, Ban Kế hoạch Tài vụ, Ban Tổ chức cán bộ cần có sự phối hợp chặt chẽ trong quá trình kiểm tra, giám sát tài chính tại các ĐVSN để tránh chồng chéo và cho phép đạt hiệu quả cao trong công việc.
- Ban Thi đua khen thưởng cần nghiên cứu, xem xét, đưa chỉ tiêu đánh giá về chất lượng thực hiện kỷ luật tài chính thành một nội dung để xét thành tích thi đua, khen thưởng của các đơn vị thuộc TTXVN.
Về lâu dài, TTXVN sẽ không can thiệp sâu vào hoạt động tài chính của các ĐVSN, vì vậy cần có hướng giám sát tài chính các đơn vị này thông qua kênh cấp vốn và kênh đặt hàng tiêu thụ sản phẩm dịch vụ của các ĐVSN.
3.2.3. Mở rộng phân cấp quyền tự chủ về tài chính cho các đơn vị sự nghiệp
Hiện tại, TTXVN chưa mạnh dạn phân cấp quyền tự chủ về tài chính cho các ĐVSN nên các đơn vị này còn phụ thuộc rất nhiều vào TTXVN, tính tự chủ về tài chính của các ĐVSN chỉ giới hạn trong nguồn kinh phí được cấp phát cho đơn vị và các hoạt động dịch vụ do đơn vị tự khai thác.
Để giúp các đơn vị ngày càng nâng cao chất lượng công tác quản lý tài chính và chuyển sang hướng tự chủ hoàn toàn về tài chính thì TTXVN cần sớm nghiên cứu và sửa đổi cơ chế phân cấp quản lý tài chính cho các ĐVSN. Cần coi đây như là một bước đột phá làm thay đổi hẳn tư tưởng bao cấp trước đây.
Trước mắt, cần chú ý các nội dung như:
- Phân cấp cho các đơn vị được ra quyết định đầu tư xây dựng cơ bản đến một mức nhất định bằng nguồn vốn tự bổ sung của đơn vị và các nguồn thu khác do đơn vị tự khai thác.
- Cho phép các đơn vị được tự chủ trong thực hiện hoạt động tài chính của mình nhằm tạo ra nhiều nguồn thu.
- Cho phép các ĐVSN được chủ động liên doanh liên kết với các tập thể, cá nhân thực hiện các hoạt động trong lĩnh vực hoạt động dịch vụ của mình trên tinh thần không trái với pháp luật, đảm bảo lợi ích của các bên và mang lại chất lượng dịch vụ tốt nhất cho xã hội.
Việc phân cấp quản lý tài chính này cũng phải đi liền với việc làm rõ trách nhiệm của thủ trưởng các ĐVSN trên tinh thần quyền hạn và trách nhiệm không tách rời nhau. Trách nhiệm của cá nhân người lãnh đạo phải đặt lên hàng đầu rồi mới đến trách nhiệm của tập thể.
3.2.4. Nâng cao hiệu quả quản lý các nguồn thu
3.2.4.1. Đổi mới quản lý thu ở đơn vị sự nghiệp
Trước mắt, TTXVN vẫn phải cấp phần lớn kinh phí hoạt động cho các ĐVSN vì vậy ĐVSN cần tính toán các chỉ tiêu một cách hợp lý, tiết kiệm, đảm bảo chính xác và khoa học.
Bên cạnh đó, các ĐVSN cần quản lý chặt chẽ các nguồn thu tại đơn vị mà trước đây còn quản lý lỏng lẻo như quản lý thu quảng cáo, thu do tăng lượng phát hành, thu từ bán tin trên mạng,... Đồng thời các ĐVSN cần nỗ lực khai thác, tìm kiếm các nguồn thu mới để năng dần tỷ trọng nguồn thu tại đơn vị.
Quan điểm về phát triển hoạt động dịch vụ của các ĐVSN cần thay đổi theo hướng chủ động, tích cực phát triển nguồn thu, phải coi đây là kênh tạo ra nguồn thu quan trọng, giúp cho đơn vị tự cân bằng dần cán cân thu chi của đơn vị, xóa bỏ tư tưởng tăng thu chỉ để tăng thu nhập cho người lao động.
Các đơn vị cũng chủ động nghiên cứu, xây dựng đơn giá thu của hoạt động dịch vụ phù hợp với mặt bằng giá cả, chất lượng dịch vụ của đơn vị sao cho đảm bảo giá cả có tính cạnh tranh và có lãi.
3.2.4.1. Đổi mới quản lý thu của văn phòng Thông tấn xã Việt Nam
Trước mắt, các ban chức năng của TTXVN cần giúp lãnh đạo TTXVN rà soát lại cơ chế quản lý, cấp phát kinh phí hiện thời để sửa đổi những điểm còn bất cập, cụ thể là:
- Khi xét duyệt kinh phí sự nghiệp, ngoài việc kiểm tra các khoản mục lương, cũng cần phải xem xét đến tính chất cân đối, phù hợp của các khoản mục chi khác so với định mức để đảm bảo không có khoản mục kinh phí nào bị sử dụng lãng phí mà vẫn được phê duyệt.
- Đối với các khoản kinh phí còn thừa trong năm trước thì bổ sung và trừ vào kinh phí năm sau và chấn chỉnh ý thức quản lý nguồn thu của ĐVSN.
- Để khuyến khích các đơn vị tích cực tăng trưởng nguồn thu tại đơn vị, TTXVN cũng cần nghiên cứu, tạo cơ chế thưởng các đơn vị có nguồn thu tại đơn vị tăng trưởng nhanh, vượt kế hoạch, phạt các đơn vị không hoàn thành kế hoạch thu tại đơn vị thông qua các hình thức: điều chỉnh giảm mức lương bình quân khi phạt thu không đạt kế hoạch và thưởng cho các đơn vị vượt kế hoạch bằng cách điều chỉnh tăng mức lương bình quân của đơn vị đó….
Về lâu dài, đối với các ĐVSN không có thu thì cần phải nhanh chóng tạo dịch vụ để có thu, sau đó chuyển sang tăng thu. Cần coi đây là yêu cầu bắt buộc đối với ĐVSN không có thu.
Đối với các đơn vị có khả năng chuyển sang hoạt động độc lập không cần nguồn kinh phí nhà nước cấp, TTXVN cần định hướng cho các đơn vị đó hoạt động thích ứng theo yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật trao đổi ngang giá,... Khi xét thấy đơn vị này đã tự cân đối được toàn bộ thu chi thường xuyên thì cần kiên quyết chấm dứt quan hệ cấp phát kinh phí như hiện nay.
3.2.5. Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và giám sát chặt chẽ các khoản chi
3.2.5.1. Giải pháp tăng cường quản lý chi của các đơn vị sự nghiệp
Để quản lý tốt các khoản chi, bản thân mỗi ĐVSN cần thực hiện tốt các thủ tục, quy trình kiểm soát nội bộ theo nhiều cấp. Quy trình kiểm soát phổ biến nên áp dụng là kiểm soát qua 3 cấp: Kiểm soát từ cấp phòng, bộ phận thực hiện, kiểm soát của bộ phận kế toán tài chính và cuối cùng mới là sự kiểm soát và phê duyệt của lãnh đạo đơn vị. Để thực hiện được quy trình này, bộ phận trực tiếp thực hiện chi phí nhất thiết phải tập hợp chứng từ và chuyển cho kế toán đơn vị kiểm soát trước khi trình lãnh đạo phê duyệt. Sau khi đã qua 3 cấp kiểm soát đầy đủ, kế toán mới được phản ánh nghiệp vụ đó vào chi phí. Cần kiên quyết xóa bỏ tình trạng chứng từ được bộ phận thực hiện chuyển thẳng lên thủ trưởng đơn vị phê duyệt trước khi có sự kiểm soát của bộ phận kế toán tài chính.
Trong các khoản mục chi phí, các ĐVSN thuộc TTXVN cần quan tâm chấn chỉnh việc tính toán chi phí khấu hao TSCĐ cho đầy đủ, đúng quy định của Nhà nước, để đảm bảo đúng đắn diễn biến, kết quả hoạt động của đơn vị.
- Theo quy định tại Thông tư 25/TT-BTC ngày 21/3/2002 của Bộ Tài chính thì: Trên cơ sở định mức kinh tế kỹ thuật và chế độ chi tiêu tài chính hiện hành của Nhà nước, đơn vị chủ động xây dựng tiêu chuẩn, định mức và chế độ chi tiêu nội bộ, để bảo đảm hoạt động thường xuyên cho phù hợp với hoạt động đặc thù của đơn vị và tăng cường công tác quản lý, sử dụng kinh phí tiết kiệm có hiệu quả.
TTXVN cũng đã thường xuyên yêu cầu các đơn vị phải tự xây dựng hệ thống định mức chi phí hoạt động dịch vụ, trình lên TTXVN phê duyệt trước khi thực hiện, nhưng đến thời điểm này chỉ có một số ĐVSN là thực hiện được. Sắp tới, các ĐVSN chưa xây dựng thì khẩn trương xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ cho đơn vị mình, trình lên TTXVN duyệt để làm căn cứ chi. Chấm dứt tình trạng chi phí tự phát như hiện nay. Đặc biệt, cần chú ý các khoản mục chí phí sau:
- Làm rõ căn cứ để trích lập quỹ lương. Tổng quỹ lương của ĐVSN không được vượt quá quy định của Nhà nước tại Thông tư 25/2002/TT-BTC.
- Các khoản chi phí như khấu hao TSCĐ, công cụ dụng cụ, chi phí khác,...phải xác định rõ để phân bổ vào chi phí để đảm bảo sự phù hợp giữa doanh thu và chi phí, đảm bảo phản ánh đúng kết quả hoạt động của đơn vị.
- Các khoản chi thuê khoán chuyên môn như thuê chuyên gia đọc dò, dịch bài,... phải có đầy đủ hợp đồng thuê khoán do Thủ trưởng đơn vị trực tiếp ký với từng đối tượng. Khi thanh toán các khoản chi này phải do các đối tượng được thuê trực tiếp đề nghị thanh toán, hoặc ủy quyền bằng văn bản cho người trong đơn vị thanh toán hộ.
- Các khoản trả tiền nhuận bút thì nhất thiết phải có giấy biên nhận ghi rõ người được hưởng và trả tiền cho bài viết nào, nếu vượt trên 500.000đ/lần thì phải nộp thuế vãng lai.
- Các khoản tiền hoa hồng quảng cáo cũng phải có giấy biên nhận ghi rõ người được hưởng và nếu vượt trên 500.000đ/lần thì phải nộp thuế vãng lai.
3.2.5.2. Giải pháp về phía Thông tấn xã Việt Nam
TTXVN cần nghiên cứu, ban hành cơ chế khuyến khích bằng vật chất đối với các đơn vị có ý thức tiết kiệm chi phí và đảm bảo hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch. Chẳng hạn như: Tính một tỷ lệ nhất định trên số tiết kiệm chi phí so với kế hoạch vào kinh phí được cấp cho đơn vị, coi đây là một nội dung để xếp loại thi đua, khen thưởng của đơn vị,...
Việc một số ĐVSN chậm trễ trong xây dựng định mức chi tiêu nội bộ cũng có một phần trách nhiệm của TTXVN vì hàng năm, TTXVN vẫn chấp nhận số quyết toán của đơn vị, chỉ loại bỏ một số ít khoản chi không đúng. Để hoạt động của các ĐVSN đi vào khuôn khổ, TTXVN cần có biện pháp quản lý mạnh hơn như: tạm thời chưa phê duyệt một số khoản chi cho đến khi có định mức chi tiêu nội bộ của đơn vị; trừ điểm thi đua của đơn vị đó,...
3.2.6. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tài chính, kế toán giỏi nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm, có phẩm chất đạo đức tốt
Nâng cao năng lực quản lý tài chính phải xây dựng trên nền tảng nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ của từng cán bộ làm công tác tài chính kế toán. Trong khi đó, năng lực hiện tại của đội ngũ cán bộ tài chính, kế toán ở các ĐVSN còn chưa đều, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu chuyên môn, chưa am hiểu về công tác quản lý, chưa cố gắng tự đào tạo mình. Vì vậy các ĐVSN cần nhanh chóng khắc phục điểm yếu này.
Đối với đội ngũ nhân viên hiện có, các đơn vị cần có chính sách bồi dưỡng phẩm chất đạo đức nghề nghiệp; đào tạo củng cố kiến thức chuyên môn như:
- Nêu cao tinh thần đạo đức nghề nghiệp, kiên quyết không sử dụng những cá nhân có phẩm chất đạo đức kém làm công tác tài chính, kế toán.
- Thường xuyên cử cán bộ, nhân viên làm công tác tài chính, kế toán đi đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức ngắn hạn, dài hạn.
- Khuyến khích cán bộ, nhân viên đi học tập, nghiên cứu để phục vụ cho công việc bằng các hình thức khen thưởng vật chất, cơ chế trả lương theo trình độ, chất lượng công việc.
- Tạo điều kiện để từng cá nhân tự đào tạo mình thông qua việc hỗ trợ kinh phí học tập, tạo điều kiện về thời gian,...
Cùng với chính sách đào tạo tốt, các ĐVSN cũng cần có chính sách sử dụng lao động là công tác tài chính, kế toán khoa học hợp lý, như:
- Trọng dụng người lao động có năng lực chuyên môn tốt.
- Phân công lao động đúng với năng lực trình độ của từng người, đúng nguyên tắc bất kiêm nhiệm, đảm bảo sự kiểm soát lẫn nhau trong chuyên môn.
- Luân chuyển công việc theo định kỳ để các cá nhân có điều kiện tiếp cận với nhiều vị trí công tác khác nhau, bổ sung được các kiến thức còn thiếu.
- Định kỳ, phải tổ chức kiểm tra, sát hạch, đánh giá trình độ chuyên môn của từng người lao động. Nếu không đạt yêu cầu thì phải chuyển sang làm công tác khác.
Bên cạnh đó, khi có nhu cầu bổ sung thêm nguồn nhân lực làm công tác tài chính, kế toán, các ĐVSN cần có chính sách tuyển dụng lao động chặt chẽ, nghiêm túc, chất lượng chuyên môn và phẩm chất đạo đức phải được đặt lên hàng đầu. Cần tổ chức thi tuyển nhân viên công khai, có tiêu chí đánh giá đầy đủ các mặt, minh bạch, khách quan,.. để có thể tuyển chọn được nguồn nhân lực có chất lượng tốt nhất cho công tác tài chính, kế toán.
3.2.7. Tăng cường cơ sở vật chất, mở rộng ứng dụng tin học vào công tác quản lý tài chính
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác tài chính, kế toán tại các ĐVSN thuộc TTXVN còn hạn chế như hiện nay không chỉ làm giảm năng suất lao động mà còn không tương xứng với khả năng của bản thân các ĐVSN nói riêng và của TTXVN nói chung. Điều đáng tiếc là vấn đề tin học hóa công tác quản lý tài chính, kế toán chưa được sự quan tâm đúng mức của lãnh đạo TTXVN cũng như lãnh đạo các ĐVSN nên đến thời điểm này, việc áp dụng công nghệ thông tin trong công tác tài chính, kế toán ở các đơn vị vẫn còn bỏ ngỏ, các ĐVSN vẫn tự xoay sở, vận dụng chắp vá tùy theo khả năng của mình.
Qua khảo sát thực tế tại từng đơn vị cho thấy, chủ yếu các chương trình kế toán của các ĐVSN thuộc TTXVN cũng chỉ sử dụng phần mềm foxpro rất lạc hậu, chương trình được viết rất sơ sài, chắp vá, không đáp ứng được yêu cầu quản lý. Hệ thống máy tính hiện có ở phòng Kế toán của các ĐVSN cũng chưa được trang bị đồng bộ, một số máy tính có cấu hình thấp, máy in còn hạn chế và hầu như không có máy photocopy riêng.
Khắc phục điểm hạn chế này là điều hoàn toàn nằm trong tầm tay của TTXVN. Về phần mình, các ĐVSN cần chủ động tự liên hệ với các Công ty phần mềm đặt mua chương trình kế toán tiên tiến và phù hợp với đơn vị mình. Việc trang bị hệ thống thiết bị tin học (phần cứng) cũng phải do TTXVN quyết định (vì các ĐVSN không được tự quyết định đầu tư). Để giúp đơn vị tăng năng suất lao động, có thêm thiết bị, công cụ quản lý hữu hiệu, đề nghị lãnh đạo TTXVN quan tâm trang bị đủ thiết bị văn phòng cho bộ phận kế toán của các ĐVSN.
3.3. Kiến nghị điều kiện hỗ trợ đổi mới quản lý tài chính ở các ĐVSN thuộc thông tấn xã Việt Nam
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ
-Nhà nước cần quan tâm tới phân cấp và ủy quyền mạnh mẽ, đơn giản hóa các thủ tục trình duyệt, thực hiện cơ chế một cửa, giảm bớt các tầng lớp trung gian, nhằm tạo quyền chủ động thực sự cho các ĐVSN trong quá trình tổ chức hoạt động.
- Việc hoàn thiện cơ chế chính sách phải tiến hành từ khâu rà soát, đánh giá các cơ chế, chính sách, chế độ đã thực hiện trong thời gian qua, xem xét nhu cầu hiện tại và tính đến đòi hỏi trong tương lai. Cơ chế, chính sách mới phải theo hướng đồng bộ, tránh tình trạng chồng chéo, không minh bạch, không tạo ra kẽ hở và không gây cản trở cho quá trình thực hiện.
- Qua hơn 3 năm thực hiện, Nghị định số 10/2002/NĐ-CP đã có những tác động đáng kể, nhiều ĐVSN đã hưởng ứng tích cực, đã chuyển sang cơ chế tự chủ tài chính để phát huy khả năng của mình, tăng thu nhập cho người lao động. Tuy nhiên, Nghị định số 10/2002/NĐ-CP cũng có những điểm bất cập cần được xem xét, sửa đổi như:
+ Thực tế cho thấy nếu chỉ tự chủ về tài chính mà chưa được tự chủ về nhiệm vụ, tự chủ về tổ chức bộ máy và biên chế thì các ĐVSN chưa phát huy được quyền tự chủ thực sự trong tổ chức hoạt động của mình. Do vậy, Chính phủ cần quy định cụ thể về quyền tự chủ về nhiệm vụ, tự chủ về tổ chức và biên chế của ĐVSN để các đơn vị này thực sự thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mình.
+ Điều 12 Nghị định 10/2002/NĐ-CP quy định: Khi Nhà nước điều chỉnh các quy định về tiền lương, nâng lương tối thiểu hoặc thay đổi định mức, chế độ, tiêu chuẩn chi ngân sách nhà nước, ĐVSN có thu tự trang trải các khoản chi tăng thêm theo chính sách chế độ mới. Quy định này có thể làm cho các ĐVSN gặp khó khăn vì không đủ nguồn kinh phí để thực hiện cải cách tiền lương theo quy định của Chính phủ. Trên thực tế, đợt cải cách tiền lương năm 2003, ngân sách nhà nước vẫn phải giải quyết một phần tiền lương tăng thêm đối với những ĐVSN mà nguồn tự thu không đảm bảo được số tiền lương tăng thêm theo quy định. Vì vậy, đề nghị Chính phủ xem xét, sửa đổi lại quy định này một cách linh hoạt hơn (chẳng hạn như Nhà nước sẽ hỗ trợ các ĐVSN trang trải một phần khoản chi tăng thêm do thay đổi cơ chế) để các ĐVSN có thể mạnh dạn chuyển đổi sang cơ chế tự chủ.
- Các ĐVSN nói chung đã và đang quản lý trong tay những nguồn lực tài chính tương đối lớn mà nguồn gốc của nó chủ yếu xuất phát từ ngân sách nhà nước. Để đảm bảo việc quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính này, thì việc đánh giá được hiệu quả sử dụng tài chính của các ĐVSN rất có ý nghĩa. Cùng với xu hướng giao quyền tự chủ tài chính gắn liền với trách nhiệm nhiều hơn cho các ĐVSN có thu thì việc xác định tính hiệu quả trong quản lý tài chính lại càng cần thiết. Đề nghị Chính phủ sớm ban hành các văn bản hướng dẫn về việc đánh giá hiệu quả hoạt động của các ĐVSN, trong đó chú trọng thiết lập hệ thống các chỉ tiêu đánh giá cụ thể để các ĐVSN căn cứ vào đó có thể xác định được năng lực của mình và hướng phấn đấu để ngày càng phát triển lớn mạnh hơn.
3.3.2. Kiến nghị với Bộ Tài chính
Kiểm soát chặt chẽ các khoản chi của các ĐVSN nhằm tăng cường công tác quản lý tài chính của các đơn vị này là một quá trình phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, trong đó vai trò chủ yếu là hệ thống Kho bạc Nhà nước thuộc Bộ Tài chính. Để góp phần tăng cường quản lý chi đối với các ĐVSN thuộc TTXVN, để quản lý các khoản chi ngân sách nhà nước theo nguyên tắc “tiết kiệm, hiệu quả”, đề nghị Kho bạc Nhà nước và Bộ Tài chính nên:
Một là, có cơ chế phối hợp chặt chẽ với TTXVN trong hoạt động kiểm soát chi đối với các ĐVSN thuộc TTXVN nhằm đảm bảo sự thống nhất, tuân thủ các quy định chung về chế độ, định mức chi tiêu, phương thức thanh toán,...của Nhà nước đối với các ĐVSN nói chung, cũng như các chế độ chính sách đã được quy định riêng theo đặc thù của TTXVN.
Hai là, phải có văn bản hướng dẫn thực hiện kiểm soát chi thống nhất và đồng bộ, kiểm soát tất cả các khoản chi ngân sách qua Kho bạc, không để bất kỳ một khoản chi nào không được kiểm soát. Hạn chế dần và đi đến chấm dứt tình trạng kiểm soát chỉ là “hình thức” theo các bảng kê thanh toán, không đúng theo thực tế phát sinh.
3.3.3. Kiến nghị với Thông tấn xã Việt Nam
- Quy chế chi tiêu nội bộ của TTXVN số 422/QĐ-TTX đến nay đã có nhiều bất cập, nhiều chỉ tiêu định mức không còn phù hợp với giá cả thị trường, nhiều khoản mục mới phát sinh. Do vậy, đề nghị TTXVN cần sớm xây dựng lại quy chế chi tiêu nội bộ của ngành để tạo điều kiện cho các ĐVSN có thể xây dựng định mức chi tiêu của đơn vị mình.
- Hiện nay, sự tồn tại của ĐVSN không có thu thể hiện rất nhiều bất lợi. Nên chăng TTXVN cần có giải pháp để tạo nguồn thu cho đơn vị đó, dần chuyển ĐVSN không có thu thành ĐVSN có thu nhằm tăng thêm tính tự chủ trong hoạt động tài chính của các đơn vị đó.
Kết luận
Nâng cao năng lực quản lý tài chính là một trong những yêu cầu quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động đối với tất cả các tổ chức, các chủ thể kinh tế. Trong điều kiện xã hội Việt Nam ngày càng phát triển, các quan hệ kinh tế ngày càng mở rộng và dần phản ánh đúng bản chất vốn có của nó, thì việc làm chủ các quan hệ kinh tế, quan hệ tài chính để hướng nó đi theo đúng mục đích của người quản lý lại càng cần thiết, đồng thời cũng đòi hỏi các chủ thể phải có năng lực quản lý tài chính tốt.
Để góp phần củng cố, phát triển năng lực tài chính tại các ĐVSN thuộc Thông tấn xã Việt nam ngày càng lớn mạnh và bền vững, đề tài “Đổi mới quản lý tài chính ở các đơn vị sự nghiệp thuộc Thông tấn xã Việt nam” đã được tác giả nghiên cứu và hoàn thiện. Đề tài tập trung giải quyết được một số vấn đề cơ bản sau đây:
- Đã làm rõ được các vấn đề lý luận về ĐVSN; đã tập trung phân tích được các nội dung cần quản lý đối với tài chính của ĐVSN. Luận văn cũng đã phân tích được tương đối cụ thể các nhân tố ảnh hưởng chủ yếu đến công tác quản lý tài chính của ĐVSN.
- Đã nghiên cứu, đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý tài chính ở các ĐVSN thuộc TTXVN, Chỉ ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong công tác quản lý tài chính ở các ĐVSN thuộc TTXVN.
- Trên cơ sở xem xét nguyên nhân và định hướng phát triển của TTXVN trong những năm tới, luận văn đã đề xuất quan điểm, giải pháp đổi mới quản lý tài chính ở các ĐVSN này, trong đó vấn đề mang đậm tính thời sự và có ý nghĩa thực tiễn cao là đề xuất các giải pháp tài chính cần thiết để hướng các đơn vị này từng bước nâng cao hơn tính tự chủ về tài chính, tự cân đối thu chi. Bên cạnh đó, tác giả cũng mạnh dạn đưa ra các kiến nghị với các cơ quan quản lý Nhà nước về những bất cập trong cơ chế quản lý tài chính ở các ĐVSN hiện nay với mong muốn sớm được Nhà nước tháo gỡ, tạo hành lang pháp lý thông thoáng, đầy đủ cho hoạt động của các ĐVSN.
Với lượng thời gian nghiên cứu còn hạn chế, mặc dù đã có rất nhiều cố gắng, song luận văn không tránh khỏi còn khiếm khuyết. Tác giả luận văn hy vọng sẽ nhận được nhiều ý kiến góp ý để hoàn thiện công trình nghiên cứu về sau này.
danh mục tài liệu tham khảo
Bộ Tài chính (2002), Thông tư số 25/2002/TT-BTC ngày 21 tháng 3 năm 2002 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16 tháng 1 năm 2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu.
Bộ Tài chính (2002), Thông tư số 81/2002/TT-BTC ngày 16 tháng 9 năm 2002 hướng dẫn kiểm soát chi đối với cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính; đơn vị thực hiện chế độ tài chính áp dựng cho đơn vị sự nghiệp có thu.
Bộ Tài chính - Bộ Văn hóa Thông tin - Bộ Nội vụ (2003), Thông tư liên tịch số 20/2003/TTLT/BTC-BVHTT-BNV ngày 24 tháng 3 năm 2003 hướng dẫn chế độ quản lý tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu hoạt động trong lĩnh vực văn hóa-thông tin.
Bộ Tài chính (2003), Thông tư số 50/2003/TT-BTC ngày 22 tháng 5 năm 2003 hướng dẫn các đơn vị sự nghiệp có thu xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ theo quy định tại Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ.
Bộ Tài chính (2004), Thông tư số 03/2004/TT-BTC ngày 13 tháng 1 năm 2004 hướng dẫn kế toán các đơn vị hành chính sự nghiệp thực hiện luật ngân sách nhà nước và khoán chi hành chính.
Bộ Tài chính, Văn bản pháp quy, Tập 9.
Bộ Tài chính, Văn bản pháp quy, Tập 10.
Bộ Tài chính, Văn bản pháp quy, Tập 11.
Chính phủ (2002), Nghị định số 10/2002/NĐ-CP của Chính phủ, ngày 16 tháng 1 năm 2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu.
Chính phủ (2002), Nghị định số 82/2002/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2003 của Chính phủ “Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thông tấn xã Việt Nam".
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 4 khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 2 khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Joseph E.Stiglitz (1995), Kinh tế học công cộng, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
Giáo trình Quản lý tài chính Nhà nước (2002), Nxb Tài chính, Hà Nội.
Giáo trình Tài chính học (2002), Nxb Tài chính, Hà Nội.
Luật ngân sách Nhà nước (2002), Nxb Tài chính, Hà Nội.
Quản lý tài chính công- Lý luận và thực tiễn (2003), Học viện Hành chính quốc gia.
Quản lý tài chính công (2003), Nxb Lao động.
Quy hoạch phát triển ngành TTXVN (2005-2010).
Thông tấn xã Việt Nam (2003), Báo cáo quyết toán tài chính năm 2003.
Thông tấn xã Việt Nam (2004), Báo cáo quyết toán tài chính năm 2004.
Thông tấn xã Việt Nam (2005), Báo cáo quyết toán tài chính năm 2005.
Thủ tướng Chính phủ (2004), Chương trình đổi mới quản lý tài chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công giai đoạn 2004-2005” ban hành kèm theo Quyết định số 08/2004/QĐ-TTg ngày 15.1.2004.
Thủ tướng Chính phủ (2004), Chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các cơ quan hành chính Nhà nước và đơn vị sự nghiệp công giai đoạn 2001-2010.
Văn bản pháp quy của Thông tấn xã Việt Nam.
Viện khoa học Tài chính, Đổi mới quản lý chi tiêu công cộng ở Việt nam.
WWW.caicachhanhchinh.gov.vn
WWW.mof.gov.vn
._.