Đổi mới quản lý tài chính đáp ứng mô hình Đại học Quốc gia Hà Nội - Thực trạng và giải pháp

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) hiện nay đã trải qua gần 9 năm xây dựng và phát triển. Tuy thời gian không phải là dài nhưng đó là cả một thời kỳ đầy thử thách trong bước đi ban đầu của một mô hình đại học mới. Cũng chính từ thực tế sinh động của quá trình đổi mới này, một trung tâm đào tạo đại học, sau đại học, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực chất lượng cao hàng đầu của cả nước đã được hình thành ngày càng rõ nét và vững

doc98 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1388 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Đổi mới quản lý tài chính đáp ứng mô hình Đại học Quốc gia Hà Nội - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chắc. Điều đó càng được khẳng định sau hơn một năm thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thường vụ Bộ Chính trị Ban Chấp hành trung ương (khóa VIII) của Đảng, cũng như gần một năm triển khai Nghị định số 07/2001/NĐ-CP ngày 01/02/2001 của Chính phủ và Quy chế tổ chức hoạt động của Đại học Quốc gia Hà Nội ban hành theo Quyết định số 16/2001/QĐ-TTg ngày 12/02/2001 của Thủ tướng Chính phủ. Những chủ trương lớn và những quyết định quan trọng trên của Đảng và Chính phủ có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng và đã mở ra một giai đoạn mới đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển ĐHQGHN trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, phù hợp với xu hướng phát triển đại học của các nước tiên tiến trên thế giới, xứng đáng là trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao của cả nước. Để hoàn thành sứ mạng lịch sử đó, ĐHQGHN phải phát huy tiềm năng sẵn có của mình trên cơ sở sự ưu tiên đầu tư của Nhà nước. Trong đó, quản lý tài chính là một mắt xích quan trọng trong tổng thể guồng máy hoạt động của ĐHQGHN nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị mà Đảng và Nhà nước đã giao phó. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài nghiên cứu "Đổi mới quản lý tài chính đáp ứng mô hình Đại học Quốc gia Hà Nội - Thực trạng và giải pháp" làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành quản lý kinh tế, mã số 5.02.05. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài như luận văn thạc sĩ quản lý kinh tế về "Hoàn thiện quản lý tài chính các trường đào tạo công lập ở nước ta hiện nay" của học viên cao học Nguyễn Duy Tạo (năm 2000) và đề tài "Đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý ngân sách hệ thống giáo dục quốc dân" của Tiến sĩ Trần Thu Hà (năm 1993)... Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh về quản lý tài chính, điều hành ngân sách GD-ĐT tầm vĩ mô và tập trung nghiên cứu việc sử dụng các chính sách chế độ, tiêu chuẩn định mức liên quan, quá trình lập, chấp hành và quyết toán ngân sách hàng năm các nguồn kinh phí của các trường công lập chủ yếu là đại học và cao đẳng. Chưa có đề tài nào đề cập đến quản lý tài chính của các trường đại học theo mô hình ĐHQGHN. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn Mục đích Trên cơ sở đánh giá thực trạng quá trình quản lý tài chính từ khi thành lập ĐHQGHN đề ra các giải pháp đổi mới quản lý tài chính đáp ứng mô hình ĐHQGHN trong hiện đại hóa đất nước. Để thực hiện mục đích trên nhiệm vụ cụ thể của luận văn là: - Làm rõ cơ sở lý luận về tài chính, quản lý tài chính, nguồn tài chính cho giáo dục - đào tạo nói chung và của ĐHQGHN nói riêng. - Phân tích thực trạng việc khai thác, sử dụng nguồn tài chính của ĐHQGHN thời gian qua. - Đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính nhằm đáp ứng mô hình của ĐHQGHN. Phạm vi nghiên cứu Đề tài đi sâu nghiên cứu góc độ quản lý tài chính từ khi thành lập ĐHQGHN đến nay, những vấn đề khác được đề cập nhằm phục vụ cho chủ đề chính của luận văn. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận để nghiên cứu luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách phát triển của Đảng ta, các quan điểm đường lối chính sách tài chính, chính sách giáo dục nước ta, các luận điểm kinh tế trong đào tạo nguồn nhân lực. Phương pháp nghiên cứu là kết hợp nghiên cứu lý thuyết khái quát hóa với quan sát đánh giá thực tiễn, đồng thời sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, đánh giá để xử lý số liệu điều tra, khảo sát. 5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về nguồn tài chính và quản lý tài chính cho giáo dục đại học công lập nói chung và ĐHQGHN nói riêng. Thông qua phân tích thực trạng quá trình huy động các nguồn tài chính và quản lý tài chính của ĐHQGHN, luận văn đã chỉ ra được những bài học kinh nghiệm thành công, những tồn tại, hạn chế cần khắc phục và hoàn thiện, qua đó đã trình bày những quan điểm cơ bản cần quán triệt, đề ra các giải pháp thiết thực, phù hợp nhằm thực hiện có hiệu quả quá trình huy động và quản lý tài chính, đáp ứng mô hình ĐHQGHN. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học và thực tiễn trong việc huy động, sử dụng các nguồn tài chính, hiệu quả của chúng trong GD-ĐT, nghiên cứu khoa học của ĐHQGHN. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chuơng, 7 tiết. Chương 1 quản lý tài chính trong giáo dục - đào tạo nói chung và đại học công lập nói riêng 1.1. Sự nghiệp đào tạo đại học trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước 1.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục - đào tạo Dân tộc Việt Nam có truyền thống văn hóa lâu đời đó là truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo. Truyền thống hiếu học luôn được coi là giá đỡ, điểm tựa vững chắc, là cơ sở để xây dựng nền giáo dục Việt Nam với đỉnh cao trong nửa sau thế kỷ XX. Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục quốc dân hoàn chỉnh được vận hành theo Luật Giáo dục. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền giáo dục của dân tộc chẳng những được coi trọng mà còn có điều kiện để phát triển không ngừng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người ". Điều đó khẳng định vị trí và vai trò của con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong các nhân tố tạo nên sự phát triển kinh tế - xã hội, "nhân tố người" giữ vị trí trung tâm, quyết định đối với toàn bộ các hệ thống, các nhân tố khác. Con người muốn phát triển toàn diện phải thông qua giáo dục, ngày nay, sự phát triển của con người đã trở thành tiêu chí trong việc xếp hạng của các nước trên thế giới. Nhân tố con người được phát triển sẽ là nguồn lực quan trọng phát huy các nguồn lực khác. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 (khóa VII) năm 1993 đã ra Nghị quyết về "Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo" với bốn quan điểm: + Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản đảm bảo việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước, phải coi đầu tư cho giáo dục là hướng chính của đầu tư phát triển. + Mục tiêu giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con người có kiến thức văn hóa, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp... Mở rộng quy mô đào tạo, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục, gắn học với hành, tài với đức. + GD-ĐT gắn với yêu cầu phát triển đất nước và phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. + Đa dạng hóa các hình thức đào tạo, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục. Định hướng mục tiêu GD-ĐT, Nghị quyết đã có sự phân biệt ba loại mục tiêu: + Mục tiêu phát triển tổng quát: tạo ra nền tảng dân trí chuẩn bị một thế hệ lao động mới có trình độ cao với mũi nhọn là đội ngũ người tài. + Mục tiêu nhân cách: con người được đào tạo về chuyên môn, đạo đức và sức khỏe. + Mục tiêu phát triển cụ thể các bậc học, trong đó có đề cập mục tiêu mở rộng quy mô đào tạo đại học và sau đại học. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 (khóa VII) đã coi giáo dục là kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội (những năm của thập kỷ 80 trở về trước coi giáo dục chỉ nằm trong phạm vi cách mạng tư tưởng văn hóa). GD-ĐT giữ vị trí trọng yếu đối với toàn bộ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Chiến lược giáo dục là bộ phận trong chiến lược con người và chiến lược con người đứng ở vị trí trung tâm toàn bộ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế - xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam đã chọn GD-ĐT, khoa học - công nghệ (KH-CN) làm khâu đột phá của thời kỳ mới, đó là chủ trương vô cùng đúng đắn, phát triển GD-ĐT phải đi trước một bước so với phát triển kinh tế. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản quan trọng như đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội. Năm 1996, Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định "đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH phải "lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững". Đảng ta đã có riêng Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về GD-ĐT và KH-CN. Đây là nghị quyết rất quan trọng, đề cập một cách toàn diện về lĩnh vực GD-ĐT, Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) đã nhất quán với tư tưởng và những mục tiêu đã nêu ở Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII) và Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 (khóa VIII) của Đảng đã nêu 6 định hướng chiến lược phát triển GD-ĐT trong thời kỳ CNH, HĐH, đó là: + Mục tiêu cơ bản của GD-ĐT là nhằm xây dựng con người có lý tưởng, đạo đức trong sáng, biết giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực và biết phát huy nội lực, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp và có sức khỏe để phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN. + Tiếp tục khẳng định phải thực sự coi GD-ĐT là quốc sách hàng đầu. Muốn thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH, phải thực sự coi GD-ĐT, KH-CN là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế - xã hội. + GD-ĐT là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. + Phát triển GD-ĐT gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ KH-CN và củng cố quốc phòng an ninh. Đảng ta luôn coi trọng ba vấn đề cơ bản của GD-ĐT là quy mô đào tạo, chất lượng đào tạo và hiệu quả đào tạo, thực hiện giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, lý thuyết với thực tiễn, học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội. + Thực hiện công bằng xã hội trong GD-ĐT. Công bằng sẽ tạo ra động lực phát triển. Bác Hồ đã nhiều lần căn dặn: phải làm sao ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Cần phải tạo điều kiện cho mọi học sinh có cơ hội học tập và phát huy hết tài năng của mình. + Các trường công lập phải giữ vai trò nòng cốt đi đôi với đa dạng hóa các loại hình GD-ĐT. Ngày 11 tháng 12 năm 1998, Chủ tịch nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã ký lệnh công bố Luật Giáo dục đã được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa X thông qua ngày 2 tháng 12 năm 1998. Lần đầu tiên trong lịch sử phát triển giáo dục - đào tạo của nước ta có Luật Giáo dục, đây là văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh các hành vi liên quan đến GD-ĐT. Điều 2 của luật đã khẳng định rõ mục tiêu chung của giáo dục là: "Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [31]. Đề cập đến tính chất và nguyên lý giáo dục, Điều 3 Luật Giáo dục đã ghi: "Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục XHCN có tính nhân dân, dân tộc, khoa học hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng" và khoản 2 Điều 3 Luật Giáo dục đã nêu: "Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội" [31]. Đối với giáo dục đại học và sau đại học, Điều 35 Luật Giáo dục đã nêu lên những mục tiêu cụ thể: "Mục tiêu của giáo dục đại học và sau đại học là đào tạo người có phẩm chất chính trị đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khỏe, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" [31]. + Đào tạo trình độ cao đẳng giúp sinh viên có kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành cơ bản về một ngành nghề, có khả năng giải quyết những vấn đề thông thường về chuyên ngành đào tạo. + Đào tạo trình độ đại học giúp sinh viên nắm vững kiến thức chuyên môn và kỹ năng thực hành về một ngành nghề, có khả năng phát hiện, giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo. + Đào tạo trình độ thạc sĩ giúp học viên nắm vững lý thuyết có trình độ cao về thực hành, có khả năng phát hiện, giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo. + Đào tạo trình độ tiến sĩ giúp nghiên cứu sinh có trình độ cao về lý thuyết và thực hành, có năng lực nghiên cứu độc lập, sáng tạo, giải quyết những vấn đề KH-CN và hướng dẫn hoạt động chuyên môn. Điều 29 Luật Giáo dục đề cập tới mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp: Mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp là đào tạo người lao động có kiến thức, kỹ năng ở các trình độ khác nhau, có đạo đức lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người lao động có khả năng tìm việc làm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng an ninh. Giáo dục trung học nghề nghiệp nhằm đào tạo kỹ thuật viên, nhân viên có nghiệp vụ có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp ở trình độ trung cấp [31]. Những định hướng, quan điểm của Đảng và Nhà nước về GD-ĐT là tư tưởng quan trọng chỉ đạo công tác GD-ĐT nói chung và GD-ĐT trung học nghề và đại học, sau đại học nói riêng. Những tư tưởng đó đều nhằm mục đích phát triển nguồn nhân lực. Phát triển nguồn nhân lực như là một động lực của sự phát triển, là thức tỉnh, tích tụ phát huy sử dụng tiềm năng thành tựu lao động xã hội. Phát triển nguồn lực con người, trước hết là đào tạo con người có năng lực lao động làm cho mỗi người phát triển một cách toàn diện. Vì vậy, dạy và học ở trường cả tri thức, kỹ năng và thái độ để ra đời vừa làm việc vừa tiếp tục học suốt đời, tiếp thu và làm chủ những thành tựu mới của khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Trong Báo cáo chính trị Đại hội IX của Đảng đã có sự chuyển hướng quan trọng về nhận thức trong phát triển giáo dục. Lần đầu tiên vấn đề phát triển GD-ĐT được coi là một nội dung của phát triển kinh tế và đặt trong đường lối kinh tế và chiến lược phát triển - tức là thuộc phạm trù phát triển kinh tế. Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đặt giáo dục - đào tạo trong phạm trù "giải quyết tốt một số vấn đề xã hội". Báo cáo Đại hội IX đặt GD-ĐT trong đường lối phát triển kinh tế, trước hết vì GD-ĐT có mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho xây dựng và phát triển đất nước. Trong thời đại ngày nay, nguồn lực con người đã được coi là "tài nguyên" quan trọng, là động lực phát triển kinh tế - xã hội và chất lượng nguồn lực này lại do GD-ĐT mang lại. Những tư tưởng, quan điểm, định hướng của Đảng, Nhà nước về GD-ĐT nêu ở trên là kim chỉ nam xuyên suốt quá trình chỉ đạo điều hành các hoạt động liên quan đến dạy học của nhà trường. Các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có vị trí rất quan trọng của xã hội là nơi đào tạo nguồn nhân lực có tri thức và sẽ làm việc bằng tri thức. Lực lượng lao động này không những thực thi công việc một cách chủ động sáng tạo, mà còn có khả năng hoạch định chính sách quản lý các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. 1.1.2. Những xu thế lớn trong kinh tế - xã hội tác động đến sự phát triển giáo dục đại học ở Việt Nam Đại hội toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 là: đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh; thể chế kinh tế thị trường XHCN được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Muốn đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp - tức là đạt mức độ phát triển trung bình về kinh tế so với thế giới vào thời gian đó, phải thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước. Trong chiến lược thực hiện CNH, HĐH đất nước, Đảng ta nhấn mạnh đến chiến lược đi tắt, đón đầu nhằm khắc phục nguy cơ "tiếp tục tụt hậu xa hơn" so với với các nền kinh tế khu vực và thế giới và cũng nhằm tận dụng thời cơ của một nước đi sau do cuộc cách mạng KH-CN hiện đại tạo ra. Nhưng muốn thực hiện được những chiến lược này thì việc tổ chức, điều hành nền kinh tế - xã hội phải có sự ưu tiên cần thiết, cần lựa chọn và đầu tư trọng điểm vào những ngành mũi nhọn có thể tạo ra các "đột phá" kéo theo sự phát triển của toàn bộ hệ thống. Đảng ta đã giải quyết được vấn đề này khi khẳng định nguồn lực con người là nguồn lực phát triển lớn nhất ở nước ta hiện nay và muốn đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước thì phải xem "giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu". Phải ưu tiên đầu tư cho phát triển GD-ĐT và KH-CN để hai ngành này đi trước một bước so với mức độ phát triển kinh tế - xã hội hiện có, để có thể đóng vai trò là cơ sở và động lực chủ yếu, hàng đầu đối với sự phát triển của đất nước. Quan điểm và chiến lược phát triển này có nghĩa là đến năm 2020 khi kinh tế nước ta đạt mức trung bình thế giới thì giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ vẫn phải đi trước một bước - đạt mức độ phát triển khá của thế giới. Đó là vấn đề thời cơ, thách thức đối với giáo dục đại học Việt Nam xuất phát chính từ yêu cầu bên trong của nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội nước ta - môi trường kinh tế - xã hội của giáo dục. Giáo dục đại học nước ta ngoài chịu sự tác động từ môi trường kinh tế, chính trị xã hội trong nước còn chịu tác động từ bên ngoài, trong đó hiện nay nổi lên hai xu hướng chính: Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là một xu thế vận động chung của thế giới hiện nay. Xu thế này có nguyên nhân khách quan là do tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, do nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất thế giới... Đối với giáo dục đại học nước ta, xu hướng này sẽ tạo ra một thách thức và nguy cơ lớn là nạn "chảy máu chất xám", sự xâm nhập của văn hóa và lối sống ngoại lai, nguy cơ thương mại hóa văn hóa và giáo dục. Đồng thời, trong thách thức trên cũng xuất hiện những cơ hội, vận hội mới - mở rộng hợp tác và cả sự cạnh tranh, giao lưu với các nền đại học tiên tiến, cơ hội phát triển hợp tác quốc tế để phát triển giáo dục nước nhà. Thứ hai, sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức cũng là một thời cơ và thách thức lớn đối với giáo dục đại học nước ta trong thế kỷ XXI. Kinh tế tri thức lấy yếu tố tri thức hiện đại của khoa học, công nghệ và quản lý làm nền tảng, là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải và nâng cao chất lượng cuộc sống. Vì vậy, giáo dục đại học là cơ sở, nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế tri thức. Bảng 1.1: Giáo dục trong các thời đại kinh tế Kinh tế nông nghiệp Kinh tế công nghiệp Kinh tế trí thức 1. Thời gian Từ khi loài người phát minh ra nông nghiệp đến thế kỷ XVII (khoảng 10 ngàn năm) Thế kỷ XVII-XX Từ những năm 80 của thế kỷ XX tới nay 2. Tỷ lệ đóng góp của KH-CN cho tăng trưởng kinh tế < 10% > 30% > 80% 3.Đầu tư cho giáo dục < 1% GDP 2-4% GDP > 6% GDP 4. Tầm quan trọng của giáo dục Nhỏ Lớn Rất lớn 5. Trình độ học vấn trung bình của nguồn nhân lực xã hội Tỷ lệ mù chữ cao Trung học Trên trung học 6. Mục đích, mục tiêu cơ bản của giáo dục Dạy chữ Dạy nghề Dạy làm người, dạy cách sống, cách làm việc và cách tự học suốt đời 7. Tỷ lệ của giáo dục đại học so với giáo dục phổ thông Rất nhỏ < 1% Còn nhỏ < 3% Khá lớn >3% Nguồn: Báo cáo đề dẫn "Kinh tế tri thức với chiến lược phát triển của Việt Nam" trong Kỷ yếu hội thảo khoa học " Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam" do Ban Khoa giáo Trung ương - Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường - Bộ Ngoại giao tổ chức tại Hà Nội, tháng 6 - 2000. Như vậy, kinh tế tri thức xuất hiện đồng thời với thời kỳ phát triển cao của giáo dục đại học. Một đặc điểm cơ bản của nền kinh tế tri thức là nguồn nhân lực và chủ thể của nguồn kinh tế tri thức phải là những người có khả năng học hỏi để sản xuất, quan trọng nhất là phải biết vận dụng các tri thức, thông tin vào sản xuất làm ra giá trị và đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Xu thế toàn cầu hóa cũng là xu hướng vận động và là một đặc điểm của nền kinh tế tri thức. Tri thức có đặc điểm là giá trị của nó tỷ lệ thuận với số người sử dụng; tri thức càng có giá trị thì số người muốn tìm kiếm chia sẻ càng nhiều và ngược lại. Bởi vậy, những tri thức có giá trị đóng góp tích cực vào sự tiến bộ xã hội thì không thể chỉ giới hạn trong phạm vi một tổ chức hay quốc gia; nó có nhu cầu tự thân là cần được chia sẻ, giao lưu với tổ chức khác, quốc gia khác. Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực mở ra cho nước ta cơ hội có thể đi tắt đón đầu, mặc dù rất khó khăn với nhiều thách thức, rút ngắn khoảng cách với các nền kinh tế tiên tiến. Trong bối cảnh xã hội như vậy thì sứ mệnh của giáo dục đại học phải đào tạo ra nguồn nhân lực của kinh tế tri thức - những người không chỉ có trình độ văn hóa và chuyên môn kỹ thuật cao mà còn có khả năng tự học để làm những công việc mới đòi hỏi nhiều hàm lượng trí tuệ, lao động trí lực là chủ yếu nhưng cũng tạo ra nhiều giá trị gia tăng nhất. Tỷ lệ sinh viên trên số dân của một nước phản ánh mức độ thâm nhập của kinh tế tri thức trong nền kinh tế quốc gia. Những nước đã chuyển sang kinh tế tri thức thường có trên 70% lực lượng lao động thuộc khu vực dịch vụ và số sinh viên là trên 3.000/100.000 dân (3%), ví dụ ở Mỹ: 5.559/100.000 (5,5%). Canađa: 5.084/100.000 (5%), trong khi đó ở Việt Nam mới khoảng 1.000/100.000 (1%). Mặc dù tỷ lệ sinh viên trên số dân còn rất thấp nhưng ở nước ta đã có tình trạng "dư thừa cử nhân, kỹ sư" một cách giả tạo vì nền kinh tế chậm phát triển, chính sách giải quyết việc làm kém hiệu quả; mặt khác chất lượng giáo dục đại học còn nhều điều bất cập. Nhưng nếu căn cứ vào tình hình khó khăn hiện nay mà quyết định thu hẹp quy mô giáo dục đại học thì nước ta sẽ không có đủ điều kiện về nguồn nhân lực để hội nhập quốc tế và tham gia vào nền kinh tế tri thức và như vậy, lại một lần nữa bỏ lỡ cơ hội thực hiện CNH, HĐH đất nước. Bài toán lớn đặt ra với giáo dục đại học nước ta hiện nay là phải tăng cường chất lượng đào tạo lên ngang tầm chất lượng của khu vực và thế giới trong khi không phải giảm bớt quy mô đào tạo. Điều kiện cơ bản để giải quyết thách thức này là giáo dục đại học phải có một nguồn nhân lực có chất lượng cao, số lượng đảm bảo, có đủ năng lực và điều kiện tham gia vào kinh tế tri thức và là lực lượng mở đường cho việc xây dựng nền kinh tế tri thức của Việt Nam. Đó chính là nội dung cơ bản của mục tiêu phát triển nguồn nhân lực của giáo dục đại học nước ta. 1.2. Quản lý tài chính trong giáo dục đại học công lập 1.2.1. Nguồn tài chính phục vụ giáo dục đại học công lập Theo Từ điển tiếng Việt (1995): Tài chính là tiền nong và thu chi, quản lý tài chính là việc quản lý của cải vật chất xã hội bằng tiền theo những mục đích nhất định. Tài chính ra đời và phát triển gắn với sự ra đời và phát triển của Nhà nước. Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường, cần có giải pháp nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính cho phát triển kinh tế nói chung và cho sự nghiệp GD-ĐT nói riêng. Nguồn tài chính đầu tư cho sự nghiệp đào tạo là đầu tư cơ bản, đầu tư cho sự phát triển hoàn chỉnh của con người - động lực trực tiếp của sự phát triển kinh tế - xã hội. Garey Becker, nhà kinh tế học Hoa Kỳ đã khẳng định "không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực". Đầu tư cho đào tạo là đầu tư "lợi ích tương lai", hiệu quả không thấy ngay được, lợi ích của việc đầu tư cho sự nghiệp đào tạo có tác dụng như đầu tư cho phương tiện sản xuất - một loại phương tiện sản xuất tạo ra sản phẩm có tính chất vô hình, sản phẩm đó không thuộc loại tiêu dùng mà thuộc loại "tạo tiềm năng". Hiệu quả của việc đầu tư cho sự nghiệp đào tạo được phát huy trên phạm vi toàn xã hội, đồng thời được xác định đầy đủ khi những sản phẩm của đào tạo đi vào cuộc sống và thực sự thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Có thể thấy quan hệ nhân quả giữa đầu tư và phát triển sự nghiệp đào tạo (minh họa trên sơ đồ số 1.1) Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa đầu tư và phát triển sự nghiệp đào tạo Đầu tư cho sự nghiệp đào tạo Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội Phát triển đào tạo Đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài Tài chính phục vụ GD-ĐT đại học công lập hiện chủ yếu từ hai nguồn: ngân sách nhà nước (NSNN) cấp và nguồn ngoài ngân sách nhà nước; trong đó nguồn NSNN có vai trò quan trọng nhất. Sơ đồ 2.2: Nguồn tài chính cho giáo dục - đào tạo Nguồn ngoài NSNN Nguồn NSNN Nguồn tài chính cho giáo dục - đào tạo Đóng góp TC-KTXH Hoạt động NCKH-LĐSX Tài trợ Đa dạng hóa loại hình ĐT Sự nghiệp GDĐT-KHCN XDCB CTMT * Nguồn NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong 1 năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. NSNN, với tư cách là một loại quĩ tiền tệ của Nhà nước có vị trí cực kỳ quan trọng. Nội dung cơ bản của nó là: - NSNN phân phối các nguồn tài chính, thể hiện mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa Nhà nước và xã hội. - Quyền lực về NSNN thuộc về Nhà nước. Mọi khoản thu và chi tài chính của Nhà nước đều do Nhà nước quyết định nhằm thực hiện chức năng của Nhà nước. Bản chất của NSNN là hệ thống các mối quan hệ tiền tệ giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính nhằm thực hiện các chức năng quản lý và điều hành kinh tế, xã hội của mình. Trong đó có các khoản chi cho bộ máy quản lý của Nhà nước, chi cho GD-ĐT, y tế... tất cả các nhu cầu chi tiêu tài chính của Nhà nước đều được đảm bảo từ thuế và các hình thức thu khác vào ngân sách. Trong nền kinh tế thị trường, NSNN không chỉ đơn thuần là quĩ tiền tệ tập trung để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, mà thực sự trở thành công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của Nhà nước trong quản lý kinh tế. Trong tất cả các nguồn tài chính đầu tư cho sự nghiệp đào tạo thì nguồn NSNN giữ vai trò chủ đạo và quan trọng nhất có tính quyết định đối với việc hình thành, mở rộng và phát triển sự nghiệp GD-ĐT, biểu hiện: - Chi cho phát triển văn hóa - xã hội trong đó có sự nghiệp GD-ĐT là những nội dung cơ bản của chi NSNN. Điều 89 Luật Giáo dục nêu rõ: "Nhà nước dành ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách giáo dục, đảm bảo tỷ lệ ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục" [31, tr. 59]. Hiện nay, nguồn đầu tư của NSNN vẫn chiếm ưu thế trong tổng chi cho sự nghiệp đào tạo do hệ thống trường công còn chiếm tỷ lệ lớn, các trường bán công, dân lập chưa nhiều, việc xã hội hóa sự nghiệp GD-ĐT, đa dạng hóa các loại hình trường, lớp chưa phổ biến, chưa có khả năng thu hút nguồn đầu tư khác cho sự nghiệp đào tạo. - Đầu tư NSNN cho xây dựng cơ sở vật chất, tài liệu phục vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu nhằm tăng số lượng, từng bước nâng cao chất lượng đào tạo. - NSNN đảm bảo ổn định đời sống đội ngũ cán bộ giảng dạy, phục vụ giảng dạy thông qua thang, bậc lương, ngoài ra còn hưởng phụ cấp ưu đãi trong ngành giáo dục với mức 30% cho cán bộ trực tiếp giảng dạy; 50% đối với giáo viên các trường sư phạm. - NSNN đảm bảo học bổng cho học sinh, sinh viên, ưu tiên đối với diện chính sách, đảm bảo kinh phí cho đào tạo cán bộ giảng dạy và quản lý. - NSNN có vai trò điều phối cơ cấu của mỗi trường cũng như toàn bộ hệ thống thông qua định mức chi ngân sách hàng năm giúp cho việc định hướng, sắp xếp cơ cấu mạng lưới các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân, tập trung ngân sách cho mục tiêu, chương trình quốc gia như: xây dựng trung tâm đào tạo chất lượng cao tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. * Nguồn ngoài ngân sách Nhà nước: bao gồm sự đóng góp của các tổ chức kinh tế - xã hội, vốn của nhà trường do hoạt động nghiên cứu khoa học và lao động sản xuất tạo ra, vốn do nguồn tài trợ của nước ngoài, vốn do sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân,... Nguồn ngoài ngân sách có vai trò của nó thông qua: Thứ nhất, tăng đầu tư nâng cấp cơ sở đào tạo, cải thiện đời sống cán bộ giảng dạy, sinh viên nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Thứ hai, khai thác tiềm năng các thành phần, tổ chức kinh tế đóng góp kinh phí cho sự nghiệp đào tạo khi NSNN còn hạn hẹp. Thứ ba, phát huy tính năng động trong việc huy động các nguồn tài chính đầu tư cho sự nghiệp đào tạo. 1.2.2. Quản lý tài chính trong các trường đại học công lập Quản lý bao giờ cũng là quá trình hoạt động có mục tiêu đòi hỏi những tác động tương ứng, phù hợp để hướng dẫn và điều khiển những đối tượng quản lý. Quản lý tồn tại với tư cách là một hệ thống, trong quản lý bao giờ cũng có những thành phần được liên kết với nhau trong một cấu trúc nào đó. Quản lý tài chính phục vụ đào tạo bao gồm những nội dung sau: * Lập kế hoạch về tài chính: dựa vào qui mô đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển sự nghiệp giáo dục, số liệu biên chế, số học sinh - sinh viên, cơ sở vật chất, xây dựng kế hoạch tài chính, bao gồm chi tiêu thường xuyên, quản lý hành chính, mua sắm, sửa chữa, nghiệp vụ chuyên môn, xây dựng cơ bản,... * Điều hành thực hiện: Cấp phát kinh phí và thực hiện các khoản chi tiêu kịp thời theo kế hoạch đảm bảo hoạt động thường xuyên của đơn vị. Giám sát việc chi tiêu cho các bộ phận đúng chế độ, đúng mục đích và có hiệu quả. * Quyết toán kinh phí: Khâu cuối cùng của quá trình sử dụng kinh phí, phản ánh đầy đủ các khoản chi vào báo cáo quyết toán ngân sách đúng chế độ báo cáo về biểu mẫu, thời gian, nội dung và các khoản chi tiêu. Trên cơ sở báo cáo quyết toán, phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch chi tiêu cho công tác đào tạo rút ra ưu nhược trong quá trình quản lý làm cơ sở lập kế hoạch năm sau sát hơn. * Kiểm tra: việc thực hiện kế hoạch không phải bao giờ cũng đúng như dự kiến, đòi hỏi phải có sự kiểm tra thường xuyên để nắm tình hình quản lý tài chính. Việc cấp phát ngân sách nằm trong chức năng điều hành thực hiện. Hiện nay, đang thực hiện theo sơ đồ sau: Sơ đồ 1.3: Điều hành thực hiện thu - chi ngân sách Chính phủ Bộ KH - ĐT Bộ Tài chính Các bộ ngành liên quan Kho ._.bạc nhà nước Kho bạc tỉnh, thành phố Kho bạc Quận, huyện Các đơn vị đào tạo ở Việt Nam, việc cấp phát tài chính cho các trường đại học "dựa trên cơ sở đầu vào chủ yếu dựa trên số lượng sinh viên và chi phí của đơn vị do đó không khuyến khích các trường giảm chi phí nâng cao chất lượng. Kinh nghiệm như ở Hà Lan, Ôxtraylia gắn việc cung cấp tài chính dựa trên cơ sở đầu ra, thông qua số lượng sinh viên tốt nghiệp đại học hoặc đã đào tạo ra. Đại lượng này cho thấy rõ hơn kết quả giáo dục (do số lượng sinh viên bỏ học và lưu ban). Có thể thấy được điểm yếu của qui trình phân bổ tài chính cho các trường đại học ở Việt Nam là: - Thiếu tiêu chí rõ ràng, công khai trong qui trình phân bổ tài chính. - Cấp kinh phí dựa vào các chuẩn định mức thô sơ, thiếu tổng hợp và chưa đề cập đầy đủ các nguồn tài chính khác. Chưa chú ý đầy đủ đến nhu cầu cụ thể của các trường đại học, những chính sách ưu tiên của Chính phủ; cơ cấu chi phí khác nhau của các bậc đào tạo, lĩnh vực và loại hình đào tạo. - Chi tiêu NSNN, chỉ nhấn mạnh đầu vào, ít chú ý tới mục tiêu cuối cùng là là sản phẩm sinh viên tốt nghiệp. - Thiếu cơ chế khuyến khích các trường đào tạo nâng cao chất lượng và hiệu quả trong việc thực hiện nhiệm vụ. Trong nguồn NSNN, việc chi thường xuyên phục vụ đào tạo đại học bao gồm 4 nhóm chi: * Chi cho con người (nhóm I): lương, phụ cấp lương, phúc lợi, bảo hiểm xã hội. Đây là khoản chi bù đắp hao phí lao động, đảm bảo duy trì quá trình tái sản xuất sức lao động cho giảng viên, cán bộ công nhân viên của các đơn vị. Khoản chi này theo kế hoạch chiếm khoảng 38 - 43%, thực tế chi hàng năm thường cao hơn kế hoạch nhưng vẫn chưa đảm bảo cuộc sống cho cán bộ công nhân viên. * Chi quản lý hành chính (nhóm II): công tác phí, công vụ phí (điện, nước, xăng xe, hội nghị...), đây là khoản chi mang tính gián tiếp đòi hỏi phải chi đúng, chi đủ, chi kịp thời và cần phải quản lý tiết kiệm và có hiệu quả, khoản chi này thường chiếm khoảng 22%/ tổng chi thường xuyên. * Chi giảng dạy, học tập (nhóm III): bao gồm việc mua tài liệu, sách giáo khoa, giáo trình, đồ dùng học tập, vật liệu hoá chất thí nghiệm, phấn viết... Đây là khoản chi nhằm đáp ứng phương tiện phục vụ cho giảng dạy, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo. Khoản chi này thường chiếm 13 - 14% tổng chi ngân sách. * Chi mua sắm, sửa chữa (nhóm IV): chi sửa chữa, nâng cấp trường, lớp, bàn ghế, trang thiết bị cho lớp học đảm bảo cơ sở vật chất phục vụ cho việc giảng dạy và học tập. Khoản chi này cần được ưu tiên do tình trạng xuống cấp nghiêm trọng trang thiết bị, đồ dùng dạy học nên chất lượng dạy học chưa được đảm bảo. ở mỗi giai đoạn khác nhau mức độ, nội dung, cơ cấu chi NSNN cho sự nghiệp đào tạo có sự khác nhau. Có thể mô tả hoạt động tài chính của các trường đào tạo công lập theo mô hình sau: Sơ đồ 1.4: Mô hình tài chính các trường đào tạo công lập ở Việt Nam Trường đào tạo công lập Đầu vào Đầu ra Đào tạo (chính quy mở rộng, hợp đồng...) Hoạt động ngoài đào tạo: (nghiên cứu, sản xuất, dịch vụ) nguồn lực tài chính (mục tiêu kế hoạch đào tạo) NSNN trung ương Học sinh tốt nghiệp sản phẩm dịch vụ Công trình khoa học Tài trợ nước ngoài Đóng góp cộng đồng Học phí Ngân sách địa phương các hệ Trong các nguồn tài chính, như đã trình bày ở trên ta thấy nguồn NSNN trung ương có vai trò chủ yếu và quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các trường đào tạo công lập. Quản lý tài chính đối với các trường mặc dù có nhiều nguồn khác nhau nhưng đều theo những quy định thống nhất của nhà nước. Hiện nay cơ chế quản lý tài chính của các trường đào tạo đại học công lập đang trong quá trình hoàn thiện nhưng về cơ bản bao gồm: Xét về quan hệ quản lý ta thấy cơ chế quản lý tài chính có hai bộ phận: bộ phận thứ nhất là quan hệ tài chính giữa Nhà nước (đại diện là các cơ quan chức năng của nhà nước như Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giáo dục và Đào tạo) và cơ sở đào tạo. Đây chính là quan hệ chủ yếu nhất của cơ chế tài chính đối với các cơ sở đào tạo công lập, bởi vì thông qua cơ chế này mà nguồn kinh phí NSNN chi cho đào tạo được lập kế hoạch, phân bổ, thực hiện chi tiêu và kiểm soát. Bộ phận thứ hai của cơ chế quản lý tài chính là các chế độ quản lý do bản thân các cơ sở đào tạo thực hiện theo các quy định hiện hành. Các chế độ này một mặt phải tuân theo các quy định của Nhà nước, mặt khác các cơ sở đào tạo có quyền tự định một số chế độ riêng trong khuôn khổ định mức, hướng dẫn của các cơ quan quản lý nhà nước. Nguồn lực tài chính phải được kế hoạch hoá căn cứ vào kế hoạch đào tạo của các trường. Nguyên tắc kế hoạch hoá tài chính trong điều kiện hiện nay là vừa dựa trên nguồn lực tài chính NSNN vừa huy động các nguồn lực xã hội khác. Mặc dù các nguồn lực tài chính có thể huy động từ các kênh khác nhau nhưng đều phải đưa vào một kế hoạch tài chính thống nhất và quản lý tập trung theo chế độ. Quy trình lập kế hoạch tài chính cũng phải theo quy trình kế hoạch hoá nói chung. Điểm khác trong điều kiện cơ chế thị trường hiện nay là trong kế hoạch tài chính phải phản ánh hết các nguồn thu vào trong một kế hoạch thống nhất. Các nguồn thu ngoài NSNN của các trường đào tạo công lập gồm: - Học phí (theo mức quy định của Nhà nước). - Lệ phí tuyển sinh. - Thu kết quả hoạt động sản xuất và ứng dụng nghiên cứu KH-CN. - Thu hợp đồng giảng dạy nghiệp vụ chuyên môn. - Các khoản thu khác như cho thuê tài sản... - Thu tài trợ từ xã hội. - Thu tài trợ nước ngoài. Hoạt động chi tiêu trong trường đào tạo được chia thành hai loại, đó là chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển. Những khoản chi mang tính chất tiêu dùng thường xuyên được Nhà nước ban hành thành một hệ thống các tiêu chuẩn định mức chi tổng hợp được sắp xếp theo các loại như: chi cho con người (chi thanh toán cá nhân), chi về hàng hoá dịch vụ nghiệp vụ, các khoản chi khác. Loại chi đầu tư phát triển bao gồm: chi đầu tư mua sắm tài sản vô hình, hữu hình, chi đầu tư XDCB. Các mức chi có hai loại: định mức tổng hợp và định mức chi tiết. Các chế độ định mức mang tính chất tổng hợp gồm các định mức chi bình quân theo chỉ tiêu tuyển sinh của các trường cao đẳng, đại học và THCN, các khoản chi tổng hợp này được định mức theo từng khối trường. Mức chi ngân sách về đào tạo hiện tại vẫn áp dụng Thông tư số 38 TC/NSNN ngày 18/7/1996 của Bộ Tài chính. Loại chế độ chi tiết, chuyên biệt bao gồm các khoản chi cho con người: + Các khoản chi về tiền lương, tiền công như lương ngạch bậc, lương tập sự, lương hợp đồng dài hạn,...phát sinh thường xuyên ở các trường đào tạo, được duyệt theo tổng quỹ lương hàng năm. Căn cứ để tính các khoản chi này là hệ số lương theo thang bảng lương hiện hành, mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định, biên chế công chức giảng viên được cấp có thẩm quyền xét duyệt. + Các khoản phụ cấp lương như: phụ cấp chức vụ, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp đặc biệt của ngành, phụ cấp làm đêm, làm thêm giờ... Đối với những khoản chi này Nhà nước có quy định cụ thể cho từng loại phụ cấp và được tính trên cơ sở mức lương tối thiểu. Về khoản chi này hiện nay đang áp dụng: chế độ phụ cấp ưu đãi giáo viên cho các trường đào tạo công lập của Nhà nước theo quyết định số 973/1997/QĐ-TTg ngày 17/1/1997 của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư hướng dẫn liên bộ số 147/1998 ngày 05/3/1998 thực hiện quyết định trên. + Chi học bổng, sinh hoạt phí học sinh, sinh viên ở các trường đào tạo: khoản chi này theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ về học bổng và trợ cấp xã hội đối với học sinh, sinh viên của các trường đào tạo công lập số 1121/QĐ-TTg ngày 23/12/1997; Thông tư hướng dẫn số 53/1998/TTLT /BGD&ĐT-BTC-BLĐ-TB&XH ngày 25/8/1998 và Thông tư số 09/2000/TT-LT/BGD&ĐT-BTC-BLĐTB&XH ngày 11/4/2000. + Chi tiền thưởng, phúc lợi xã hội và các khoản đóng góp ngân sách chi cho cán bộ giảng dạy và các cán bộ quản lý phục vụ: khoản chi này thực hiện theo Nghị định 56/CP ngày 30/7/1998 của Chính phủ quy định các hình thức, đối tượng và tiêu chuẩn khen thưởng của Chính phủ; Thông tư hướng dẫn công tác quản lý tài chính thực hiện chế độ khen thưởng thành tích xuất sắc thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ quốc số 24/TT-BTC ngày 04/3/1999; Nghị định số 58 ngày 13/8/1998 của Chính phủ ban hành Điều lệ bảo hiểm y tế; Thông tư liên tịch số 15/TTLT-BYT-BTC-BLĐTBXH ngày 15/12/1998 hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế bắt buộc theo Nghị định 58; Thông tư liên tịch bổ sung số 04/TTLT-BYT-BTC-BLĐTBXH ngày 15/3/1999 bổ sung Thông tư liên tịch số 15. - Chi về hàng hoá dịch vụ, nghiệp vụ: khoản chi này thực hiện theo Thông tư số 93/1998 TT-BTC ngày 30/6/1998 "Quy định chế độ chi tiêu hội nghị"; Thông tư số 94/1998 TT-BTC ngày 14/7/1998 quy định trang bị, quản lý và sử dụng phương tiện thông tin điện thoại, Fax trong các cơ quan, đơn vị nhà nước; Thông tư 71/TC/HCSN ngày 30/9/1995 quy định chế độ trang bị điện thoại tại nhà riêng cho cán bộ làm việc trong cơ quan nhà nước; Quyết định số 874/TTg ngày 20/11/1997 của Thủ tướng Chính phủ về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức nhà nước; Thông tư liên tịch số 79/TTLT ngày 19/9/1997 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 874/TTg ngày 20/11/1997 của Thủ tướng Chính phủ về công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức nhà nước; Thông tư 150/TT-BTC ngày 19/11/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn quản lý, sử dụng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công chức nhà nước. - Loại chế độ thuộc nguồn kinh phí khác: Ngoài nguồn kinh phí cấp từ NSNN, các trường đào tạo được sử dụng nguồn thu sự nghiệp để bổ sung thêm cho nguồn kinh phí hoạt động của mình. Vì vậy, Nhà nước ban hành các quy định, chế độ thu - chi và quản lý tài chính phù hợp với đặc điểm riêng từng loại hình đơn vị đào tạo có thu như: Quyết định số 70/QĐ-TTg ngày 31/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc thu và sử dụng học phí ở các cơ sở giáo dục và đào tạo công lập ở các thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; Thông tư liên tịch số 54 ngày 31/8/1998 của Bộ Giáo dục Đào tạo - Bộ Tài chính hướng dẫn thu và sử dụng học phí theo Quyết định 70 của Chính phủ; Thông tư liên tịch số 66/TTLT Bộ Giáo dục và Đào tạo - Bộ Tài chính ngày 26/12/1998 hướng dẫn thực hiện miễn thu học phí đối với học sinh, sinh viên ngành sư phạm và hỗ trợ ngân sách cho ngành sư phạm; Quyết định 68/QĐ-TTG ngày 27/3/1998 của Chính phủ về việc cho phép thí điểm thành lập doanh nghiệp nhà nước trong các cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu; Thông tư 73/TT- BTC ngày 27/5/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp nhà nước trong các cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu. - Chi đầu tư phát triển: chi đầu tư phát triển thực hiện theo các văn bản: Quyết định số 351/TC-QĐ/CĐKT ngày 22/5/1997 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành chế độ quản lý, sử dụng, tính hao mòn tài sản cố định trong các đơn vị HCSN; Văn bản 3705TC/QLCS ngày 13/10/1997 hướng dẫn quy chế xử lý tài sản không cần dùng và không còn sử dụng được trong các cơ quan HCSN; Quyết định 20/QĐ- BTC ngày 25/2/1999 của Bộ Tài chính về việc ban hành cơ chế quản lý, sử dụng trụ sở làm việc lại các cơ quan HCSN; Thông tư 184/TT- BTC ngày 28/12/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn kế toán, quyết toán vật tư, hàng hóa tồn kho, giá trị khối lượng sửa chữa lớn, XDCB hoàn thành ở thời điểm cuối năm của đơn vị HCSN. 1.3. Kinh nghiệm quốc tế về đầu tư tài chính và quản lý tài chính đối với giáo dục - đào tạo Hầu hết các nước đều coi đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư phát triển kinh tế, đầu tư cho tương lai. Sản phẩm của giáo dục - đào tạo là con người nên nguồn đầu tư không phải chỉ từ khu vực nhà nước mà còn từ các khu vực khác (doanh nghiệp, tư nhân, khu vực liên doanh với nước ngoài....). Do vậy, chi cho giáo dục - đào tạo dựa trên nguồn kinh phí đầu tư của toàn xã hội. Tỷ lệ đầu tư cho GD-ĐT ở các nước phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, khả năng ngân sách Nhà nước, trình độ dân trí, yêu cầu cải cách giáo dục... Bảng dưới đây cho thấy mức độ đầu tư cho GD-ĐT của một số nước trên thế giới qua số liệu công bố của UNECO: Bảng số 1.2: Mức độ đầu tư cho GD-ĐT ở một số nước trên thế giới Đơn vị: % Tổng chi phí cho GDĐT Chi phí thường xuyên cho GDĐT Tỷ lệ so với GNP Tỷ lệ so với chi tiêu của Chính phủ Tỷ lệ so với GNP Tỷ lệ so với chi thường xuyên của Chính phủ Năm 1980 1990 1980 1990 1980 1990 1980 1990 Mỹ Nhật áo Nauy Hàn Quốc Singapore Malaixia Philipin Thái lan Trung Quốc 6,7 5,8 5,6 7,2 3,4 2,8 6,0 2,5 3,4 2,5 5,3 4,7 5,7 8,2 4,1 3,4 5,5 2,3 3,8 2,3 19,6 9,0 13,7 23,7 7,3 14,7 9,3 20,6 9,3 12,4 16,5 7,6 14,8 25,6 10,0 18,0 12,4 20,0 12,4 3,9 4,8 6,0 3,2 2,4 5,0 2,3 2,4 2,3 4,8 4,6 5,2 7,2 3,3 3,0 4,5 1,9 3,1 1,9 8,4 14,4 10,3 18,4 19,1 12,4 8,6 15,7 21,4 15,3 19,4 21,0 Nguồn: Thống kê năm 1993 UNESCCO Qua bảng trên cho thấy tỷ trọng chi NSNN cho GD-ĐT so với GNP ở những nước giầu có nhất như Mỹ, Nhật cũng chỉ chiếm trên dưới 5%; Philippin, Trung Quốc, Thái Lan cũng chiếm từ 2-3%. Nếu so với tổng chi NSNN thì chi cho GD-ĐT của khối các nước phát triển khoảng 13%; khối các nước ASEAN khoảng 15%. 1.3.1. Kinh nghiệm một số nước cụ thể - Singapore: Để phát triển sự nghiệp GD-ĐT, Chính phủ Singapore không ngừng tăng đầu tư cho GD-ĐT. Tốc độ tăng này vượt quá tốc độ tăng của tổng sản phẩm quốc dân. Trong thời gian từ 1960 đến 1990, chi phí cho GD-ĐT từ NSNN đã tăng từ 2189 triệu lên đến 35.168 triệu đôla Singapore (tăng 15,6 lần). Trong thực chi của thập kỷ 70, con số đó là 12,7%; đến năm 1980 là 15,8%; năm 1985 tăng đến 22,3%; đến nay khoảng 22,9%. Đây là một mức chi khá cao so với thế giới. Kinh phí giáo dục tính theo đầu người năm 1960 là 69 đôla Singapore, năm 1970 là 98 đôla Singapore, năm 1980 là 263, năm 1990 là 335,3. Hiện nay, trong chi NSNN thì kinh phí cho GD-ĐT chiếm vị trí thứ hai chỉ sau kinh phí chi cho quốc phòng. Song song với sự đầu tư của Nhà nước thì chất lượng lao động ở Singapore cũng tăng lên rõ rệt. Theo thống kê của Chính phủ, số công nhân có trình độ trung cấp từ 14,6% năm 1960 đã tăng lên 62,8% năm 1990; số công nhân có trình độ đại học và trên đại học tăng từ 3,5% năm 1960 lên 12,5% năm 1990. - Thái Lan: Chính phủ khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư thêm cho hệ thống GD-ĐT như xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, mua sắm trang thiết bị dạy học. Mới đây nội các chính phủ đã thông qua việc xây dựng một quỹ 20 tỷ bạt để trợ cấp theo hình thức cho vay với lãi suất ưu đãi cho các nhà đầu tư muốn xây dựng thêm trường học. Chính phủ sẵn sàng cấp đất với giá thấp và miễn giảm thuế cho các công trình xây dựng kết cấu hạ tầng GD-ĐT. Đối với người học có quyền được vay trước một khoản tiền để trả học phí, mua sách vở, học cụ và các chi phí khác liên quan tới học tập. Lượng vay đủ để trang trải cho đủ 7 năm: 3 năm trung học và 4 năm cao đẳng, đại học. Sau khi tốt nghiệp 2 năm họ bắt đầu phải hoàn trả số tiền vay gốc cộng lãi 1% hàng năm trong vòng 15 năm. Việc sử dụng công cụ tài chính linh hoạt như ở Thái Lan đã tạo cơ hội tốt không những cho tất cả những người dân mà còn cho những người nghèo có cơ may học tập. - Hàn Quốc: Từ cuối thập kỷ 60, do xác định được phương châm "GD-ĐT là chìa khóa mở cửa tiến vào tương lai" nên ở Hàn Quốc đã thi hành một loạt các biện pháp và chính sách mạnh, có hiệu lực để thúc đẩy GD-ĐT, đẩy nhanh tốc độ ứng dụng khoa học kỹ thuật và bồi dưỡng nhân tài. Chính sự chú ý vào GD-ĐT đã góp phần làm cho nền kinh tế liên tục tăng trưởng với tốc độ cao, thu nhập bình quân đầu người từ mức thấp đã tăng lên mức 5.000 USD/ người/ năm. Những biện pháp được chính phủ sử dụng là cải cách hệ thống giáo dục, khuyến khích ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, bồi dưỡng nhân tài, phát triển các ngành sản xuất có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao, xây dựng khu công nghệ cao. Đối với Hàn Quốc, KH-CN, GD-ĐT là động lực của sự phát triển kinh tế. Do đó họ không ngừng tăng đầu tư cho GD-ĐT và nghiên cứu khoa học. Từ thập kỷ 60, trong nhiều năm liền tốc độ tăng của ngân sách giáo dục đã vượt qua tốc độ tăng của GDP. Căn cứ vào thống kê của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ kinh phí giáo dục trong tổng chi ngân sách của Chính phủ Hàn Quốc năm 1985 đứng vị trí thứ 11 trong số 91 nước và khu vực mà Ngân hàng Thế giới đã điều tra. Đầu tư cho GD-ĐT không chỉ từ nguồn kinh phí của chính phủ mà còn từ các doanh nghiệp, từ xã hội và dân cư. Bên cạnh việc tăng đầu tư của NSNN cho GD-ĐT, Chính phủ Hàn Quốc còn khuyến khích các doanh nghiệp, ngành nghề đầu tư kinh phí cho GD-ĐT, giảm dần đầu tư từ NSNN. Việc lập kế hoạch ngân sách đào tạo theo một quy trình khá chặt chẽ được tính toán chi tiết với tất cả các nguồn thu và các khoản chi. Chấp hành ngân sách có sự hợp tác của nhiều cơ quan và các cấp chính quyền, các đơn vị cũng tự mình đánh giá, tổng kết về ngân sách của mình. Tuy nhiên, trong quản lý ngân sách GD-ĐT, sức ép về tài chính và mối xung đột kế hoạch giữa các cơ quan thường xảy ra do năng lực quản lý hành chính, đặc biệt là năng lực kế hoạch hóa chưa cao, trách nhiệm các cơ quan chưa rõ ràng đã làm cho việc thực hiện kế hoạch trở nên khó khăn. Việc cấp phát kinh phí được thực hiện ở cơ quan ngân khố thuộc Ngân hàng Nhà nước. Cùng với việc cải cách giáo dục, cải cách bộ máy hành chính, ngân sách GD-ĐT được quản lý theo một đầu mối thống nhất là cơ quan quản lý giáo dục trực thuộc chính phủ. 1.3.2. Một số nhận xét về quản lý, cấp phát NSNN cho GD-ĐT ở các nước Mỗi nước có cách thức cấp phát NSNN khác nhau cho GD-ĐT tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, trình độ dân trí, văn hóa truyền thống... Tỷ trọng chi cho GD-ĐT ở các nước cũng khác nhau song nhìn chung các nước đều có những biện pháp hữu hiệu để đầu tư phát triển GD-ĐT. Cụ thể là: - Cải cách hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng thị trường là yêu cầu cấp bách ở hầu hết các nước. Miễn phí cho cấp giáo dục tiểu học, mầm non vì đây là cấp học bắt buộc đối với mọi người dân. Xã hội hóa triệt để các nguồn kinh phí cho GD-ĐT. Phân loại học sinh và phân loại trường lớp để có cơ sở cho đầu tư NSNN. Kế hoạch chi ngân sách GD-ĐT được lập ra rõ ràng, chi tiết, có thể do cơ quan chuyên trách tiến hành hoặc được thực hiện phối hợp giữa các cơ quan của Chính phủ. Tùy thuộc vào thể chế hành chính của mỗi nước có những cách thức lập kế hoạch ngân sách nói chung và kế hoạch ngân sách giáo dục nói riêng có những điểm khác nhau nhưng hoàn toàn không bị hành chính hóa, lập kế hoạch theo trọng tâm, trọng điểm, không tập trung chia đều, ưu tiên phổ cập cấp 1 và những vùng khó khăn. Nguồn kinh phí đầu tư cho GD-ĐT không chỉ từ nguồn NSNN mà còn từ nhiều nguồn khác ngoài NSNN được khai thác từ các khu vực tư nhân, khu vực doanh nghiệp, khu vực liên doanh với nước ngoài. Nhưng trong đó, nguồn đầu tư từ NSNN giữ vị trí chủ đạo nhằm xây dựng nền tảng cho GD-ĐT. Nguồn tài chính ngoài NSNN được huy động thì tùy từng nước, từng giai đoạn, từng dự án mà tỷ trọng các nguồn này có thể cao hơn tỷ trọng đầu tư từ NSNN. Kinh nghiệm các nước cho thấy muốn khuyến khích huy động các nguồn tài chính ngoài NSNN thì Chính phủ phải khuyến khích phát triển khu vực tư nhân, cấp đất với giá thấp. Miễn giảm thuế cho các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng GD-ĐT. Miễn thuế nhập khẩu các vật tư, thiết bị phục vụ cho xây dựng các công trình ấy. Đầu tư từ NSNN cho GD-ĐT nhằm xây dựng khung định hướng nhằm sử dụng NSNN đối với nền giáo dục quốc dân. Ưu tiên tập trung NSNN theo chương trình mục tiêu mà không dàn trải, cắt khúc. Cụ thể, đầu tư từ NSNN nhằm đảm bảo: + Xây dựng hệ thống pháp lý cho GD-ĐT. + Xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo giáo viên, cán bộ giảng dạy. + Nâng cao nền tảng dân trí, giáo dục bắt buộc ở cấp tiểu học. + Đầu tư vào những ngành nghề đào tạo mũi nhọn, trọng yếu + Thực hiện công bằng xã hội, hỗ trợ vùng khó khăn, đối tượng khó khăn. Phương pháp cấp phát NSNN đều thể hiện qua các đơn vị chủ quản các chương trình mục tiêu phát triển GD-ĐT. Họ phân định rõ ràng giữa cấp phát của NSTW và NSĐP. Các đơn vị thụ hưởng phải chịu trách nhiệm quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính từ NSNN. Chính phủ tạo môi trường pháp lý thống nhất để quản lý các nguồn tài chính ngoài NSNN, tổ chức thống kê tổng hợp toàn bộ nguồn tài chính đầu tư cho GD-ĐT. Thực hiện các biện pháp thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học của nhà trường vào thực tế, khuyến khích các trường tham gia hợp tác với nước ngoài. Một số nước xây dựng quỹ phát triển GD-ĐT nhằm khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức đầu tư cho GD-ĐT. Phối hợp các công ty, tập đoàn lớn trong nước và quốc tế để có chương trình đầu tư ứng dụng những thành quả của GD-ĐT. Một số nước xây dựng Luật thuế cho giáo dục như ở Hàn Quốc. Quản lý ngân sách giáo dục bằng Luật thuế tài sản như ở Mỹ. Xây dựng Quỹ phát triển GD-ĐT như Singapore. Chương 2 thực trạng quản lý tài chính ở Đại học Quốc gia Hà Nội và những vấn đề đặt ra hiện nay 2.1. Khái quát chung về đặc điểm hoạt động của Đại học quốc gia hà nội 2.1.1. Đặc điểm hình thành và tổ chức hoạt động của mô hình Đại học Quốc gia Hà Nội Đại học Quốc gia Hà Nội được thành lập theo Nghị định số 97/CP ngày 10/12/1993 của Chính phủ. ĐHQGHN hoạt động theo Quy chế tổ chức và hoạt động được ban hành theo Quyết định số 477/TTg ngày 5/9/1994 của Thủ tướng Chính phủ. Theo quy chế này, ĐHQGHN là đơn vị dự toán cấp 1 được Chính phủ giao cho quyền chủ động cao trong hoạt động tài chính. Nguồn kinh phí hoạt động của ĐHQGHN bao gồm nguồn kinh phí từ NSNN cấp, từ nguồn viện trợ của các tổ chức quốc tế, các tổ chức trong và ngoài nước và từ các cá nhân... Đại học Quốc gia Hà Nội thành lập với mục tiêu xây dựng một trung tâm đào tạo đại học chất lượng cao đầu ngành của đất nước trong nhiều lĩnh vực. Hiện nay ĐHQGHN là một trung tâm đào tạo đa ngành với quy mô gần 20.000 sinh viên hệ đại học chính quy thuộc các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, ngoại ngữ. Các trường đại học, các khoa thành viên của ĐHQGHN có đội ngũ cán bộ giảng dạy và cán bộ nghiên cứu khoa học tinh nhuệ, hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho học tập và giảng dạy tương đối tốt và truyền thống gần nửa thế kỷ trong công tác đào tạo, đủ sức đáp ứng các yêu cầu đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Hơn bẩy năm qua, trong quá trình xây dựng và phát triển của mình ĐHQGHN đã từng bước khắc phục các khó khăn nhiều mặt triển khai các hoạt động nhằm giữ vững và nâng cao chất lượng đào tạo, vừa thực hiện sứ mệnh của mình, vừa đáp ứng những yêu cầu thực tiễn của xã hội đặt ra. Nghị định 07/2001/NĐ-CP ngày 01/02/2001 của Chính phủ về Đại học Quốc gia đã khẳng định "Đại học Quốc gia Hà Nội là trung tâm đào tạo đại học, sau đại học, nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực chất lượng cao ngang tầm khu vực, dần dần đạt trình độ quốc tế". Trong xu thế quốc tế hóa của khu vực và thế giới, ĐHQGHN phấn đấu trở thành trung tâm đào tạo đầu tiên của Việt Nam có trình độ và chất lượng đào tạo đạt trình độ ngang bằng với các trung tâm đại học tiến tiến trong khu vực, tiếp cận với trình độ quốc tế. ĐHQGHN có quyền chủ động cao trong các hoạt động về đào tạo, nghiên cứu KH-CN, tài chính, quan hệ quốc tế và tổ chức bộ máy. ĐHQGHN có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng, là đầu mối được giao các chỉ tiêu kế hoạch hàng năm. Quản lý tài chính của ĐHQGHN hoạt động trong khuôn khổ bốn yếu tố chính sau đây quyết định: - Nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học. - Cơ cấu tổ chức. - Nguồn và cơ chế tài chính. - Môi trường bên ngoài. Nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học được thể hiện ở Điều 4 trong Quy chế về tổ chức và hoạt động của ĐHQGHN nêu rõ: - Đào tạo theo danh mục các ngành đào tạo của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và thí điểm đào tạo các ngành mới ở trình độ cao đẳng, đại học nhằm cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. - Nghiên cứu khoa học nhằm phát triển KH-CN và giải quyết các vấn đề thực tiễn do kinh tế - xã hội nước ta đặt ra, tham gia tư vấn các vấn đề chiến lược, chính sách và các giải pháp phát triển KH-CN, GD-ĐT, kinh tế - xã hội cho các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước ở Trung ương và địa phương, kết hợp chặt chẽ đào tạo với nghiên cứu khoa học và sản xuất, dịch vụ KH-CN. Trước sứ mệnh nặng nề đó, ĐHQGHN phải thực hiện được các nhiệm vụ cụ thể như sau: - Đào tạo nhân lực ở trình độ đại học, trên đại học trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kinh tế với chất lượng cao về năng lực, phẩm chất và kiến thức, có đủ khả năng tự học tập, nghiên cứu để vươn lên trong suốt cuộc đời, đặc biệt chú trọng đào tạo nhân tài trong các lĩnh vực khoa học cơ bản (khoa học tự nhiên, khoa học xã hội), công nghệ mũi nhọn và giáo dục, xứng đáng là một trung tâm đại học hàng đầu của cả nước. - Sáng tạo những giá trị mới về KH-CN, văn hóa, giáo dục. Tiến hành các nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu các vấn đề khoa học và công nghệ mũi nhọn của quốc gia và quốc tế, tham gia nghiên cứu để giải quyết các vấn đề do yêu cầu kinh tế - xã hội nước ta đặt ra, tham gia thẩm định về mặt khoa học và công nghệ các dự án, các công trình lớn của quốc gia, góp phần đưa những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến vào thực tiễn sản xuất, đời sống. - Gắn bó chặt chẽ giữa hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học, giữa nghiên cứu khoa học và thực tiễn sản xuất, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. - Làm nhiệm vụ của một trung tâm văn hóa, khoa học, một đầu mối giao lưu và văn hóa quan trọng của cả nước. Những nhiệm vụ nặng nề đã tác động lớn đến nguồn NSNN mà ĐHQGHN nhận được. ĐHQGHN là đầu mối cấp I, làm việc trực tiếp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, được sự ủng hộ của Chính phủ và của các Bộ có liên quan, nguồn đầu tư tăng trưởng liên tục. Chính nguồn NSNN mà ĐHQGHN nhận được cũng như cách thức phân bổ giúp xác định nhiệm vụ của ĐHQGHN, ban đầu chỉ có 3 đơn vị dự toán cấp II, hiện nay phát triển thành 24 đầu mối cấp II, III bao gồm: - Các đơn vị đào tạo có sử dụng ngân sách GD-ĐT (9 đơn vị). - Các trung tâm nghiên cứu khoa học có sử dụng kinh phí nghiên cứu khoa học (8 đơn vị). - Các đơn vị phục vụ có sử dụng ngân sách GD-ĐT (3 đơn vị). - Các đơn vị sản xuất (3 đơn vị). - Các đơn vị quản lý (1 đơn vị). Tại Điều 8 Quy chế về tổ chức và hoạt động của ĐHQGHN, cơ cấu tổ chức của ĐHQGHN gồm có: * Các đơn vị thành viên: - Các trường đại học thành viên: là những cơ sở đào tạo đại học, sau đại học và nghiên cứu KH-CN về một hoặc một số lĩnh vực chuyên môn, kinh tế xã hội liên quan với nhau. - Các Viện nghiên cứu khoa học và công nghệ thành viên: là những cơ sở nghiên cứu KH-CN và đào tạo sau đại học về một hoặc một số lĩnh vực khoa học, công nghệ liên quan với nhau. * Các đơn vị trực thuộc: - Các khoa trực thuộc: là những đơn vị đào tạo đại học, sau đại học và nghiên cứu khoa học, công nghệ về một số ngành thuộc một lĩnh vực chuyên môn kinh tế - xã hội. - Các trung tâm nghiên cứu KH-CN và trung tâm đào tạo: là những đơn vị thực hiện một số nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu, dịch vụ, chuyển giao KH-CN đáp ứng yêu cầu kinh tế - xã hội đặt ra. - Các đơn vị phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng: là những đơn vị có chức năng tổ chức và quản lý một hoặc một số lĩnh vực công tác nhằm phục vụ cho công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng của ĐHQGHN. * Văn phòng và một số ban chức năng thuộc khối cơ quan ĐHQGHN: là những cơ quan có chức năng tham mưu và giúp việc cho Giám đốc ĐHQGHN quản lý và tổ chức thực hiện một hoặc một số lĩnh vực công tác của ĐHQGHN. Mạng lưới phức hợp cán bộ giảng dạy, nhân viên phục vụ, các văn phòng, khoa, trung tâm nghiên cứu phụ thuộc lẫn nhau, phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức của ĐHQGHN. Chức năng quản lý tài chính phải tuân thủ các nguyên tắc sau: - Tuân thủ các chính sách, chế độ về quản lý kinh tế - tài chính của Nhà nước. - Khuyến khích thiết lập các hệ thống tạo thu nhập. - Khen thưởng đối với những cá nhân, tập thể, đơn vị sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả. Cơ cấu tổ chức ĐHQGHN hoạt động chủ yếu gồm bốn lĩnh vực: - Quản lý hành chính trung gian. - Các dịch vụ cung cấp từ trên xuống. - Các trường, khoa, trung tâm chuyên giảng dạy và nghiên cứu. - Các dịch vụ phi giảng dạy. Trong đó các quyết định chiến lược do ĐHQGHN thông qua và những quyết định thông thường và việc thực hiện do các trường, khoa trực thuộc, trung tâm tiến hành. * Đội ngũ cán bộ: Hiện nay ĐHQGHN có 2.003 cán bộ công nhân viên, bao gồm 1.336 cán bộ giảng dạy và 667 cán bộ quản lý, phục vụ giảng dạy. Trong số 1.336 cán bộ giảng dạy có: 47 tiến sĩ khoa học, 413 tiến sĩ, 318 thạc sĩ (chiếm 58%); song số cán bộ giảng dạy có học vị tiến sĩ trên 50 tuổi còn nhiều, tỷ lệ chiếm 38% (có 120 tiến sĩ từ 50 đến 61 tuổi, 54 tiến sĩ trên 61 tuổi). Số người có học hàm, học vị dưới 50 tuổi còn thấp (8 giáo sư, 48 phó giáo sư, 20 tiến sĩ khoa học, 266 tiến sĩ). Số có học hàm: 48 giáo sư, 155 phó giáo sư. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ đã đáp ứng phần nào yêu cầu phát triển đào tạo và nghiên cứu khoa học của ĐHQGHN, tuy nhiên, việc đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao đội ngũ cán bộ giảng dạy cần phải được quan tâm hơn nữa, số cán bộ có trình độ đại học còn nhiều, một bộ phận không nhỏ chưa đáp ứng các tiêu chuẩn về trình độ ngoại ngữ, trình độ lý luận chính trị, giáo dục đại học, tin học. * Bộ máy tổ chức và cơ chế quản lý ĐHQGHN có ba cấp quản lý hành chính: - Cấp ĐHQGHN. - Cấp trường hoặc khoa trực thuộc. - Cấp khoa trực thuộc trường. Sơ đồ hệ thống các cấp hành chính của ĐHQGHN: (Sơ đồ 5) ĐHQGHN Các Trung tâm trực thuộc Các Viện nghiên cứu thành viên Các trường ĐH thành viên Các khoa trực thuộc Đơn vị phục vụ Tổ/Nhóm nghiên cứu Các Phòng nghiên cứu Khoa, Bộ môn Trung tâm, đơn vị phục vụ trực thuộc Phân khoa Bộ môn Tổ phục vụ * Các nguồn tài chính và các chính sách quản lý tài chính: Dựa trên NSNN cấp, ĐHQGHN trả lương cho cán bộ công nhân viên, trang thiết bị cho giảng dạy và học tập, các khoản chi sửa chữa nhà cửa, nâng cấp cơ sở vật chất... ĐHQGHN được chi tiêu các khoản tiền Nhà nước cấp, trong khi ĐHQGHN sẽ quyết định đầu ra mà ĐHQGHN sẽ sản xuất. Việc cung cấp tài chính dựa trên đầu ra để trả tiền cho các dịch vụ mà ĐHQGHN cung cấp, Nhà nước mua các dịch vụ đó. Vấn đề ĐHQGHN cần quyết định phân bổ._. tế, kỹ thuật, chuyển giao công nghệ.... Bảng 3.3: Kế hoạch phát triển nghiên cứu khoa học của ĐHQGHN Thời gian Đề tài Dự án SXTN Cấp Nhà nước Cấp ĐHQGHN Cấp trường Năm 2000 12 102 98 3 Năm 2001 14 105 104 3 Năm 2002 14 108 110 5 Năm 2003 15 110 115 5 Năm 2004 15 112 117 6 Năm 2005 15 115 120 6 Nguồn: Kế hoạch đăng ký đề tài từ năm 2001 đến 2005 của ĐHQGHN. Để thực hiện tốt kế hoạch trên trong những năm tới ĐHQGHN cần phải đổi mới công tác quản lý và tổ chức các hoạt động KH-CN theo hướng: + Hoàn thiện hệ thống văn bản về quy chế quản lý các hoạt động khoa học & công nghệ trong ĐHQGHN: Một là: Quy chế quản lý các hoạt động KH-CN và phân cấp quản lý. Hai là: Quy chế quản lý các dự án sản xuất thử - thử nghiệm, dịch vụ khoa học, lao động sản xuất. Ba là: Quy chế về nghiên cứu khoa học trong sinh viên. Bốn là: Quy chế về quản lý và sử dụng các thiết bị dùng chung. Năm là: Quy chế khen thưởng và kỷ luật theo quy định về quản lý khoa học và công nghệ. Sáu là: Các quy định về xét chọn, triển khai, đánh giá, nghiệm thu các đề tài, dự án các cấp. + Khai thác và huy động các nguồn đầu tư, tăng cường hợp tác quốc tế. + Mở một số dịch vụ tư vấn KH-CN và dịch vụ xã hội phục vụ cộng đồng. + Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng và hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị, phòng thí nghiệm. Bảng 3.4: Qui mô đội ngũ cán bộ Đơn vị tính: người Nội dung Năm 2000 Năm 2005 Năm 2010 Năm 2015 Năm 2020 Tổng số % Tổng số % Tổng số % Tổng số % Tổng số % - Tiến sĩ 460 34 625 30 864 32 1.092 35 1.491 40 - Thạc sĩ 318 24 667 32 1.215 45 1.541 48 1.863 50 - Đại học 558 42 793 38 621 23 577 17 373 10 Tổng số 1.336 100 2.085 100 2.700 100 3.120 100 3.727 100 Nguồn: Kế hoạch đào tạo và phát triển cán bộ giảng dạy, nghiên cứu của ĐHQGHN. Mục tiêu Nhà nước đặt ra đối với các trường đại học đạt tỷ lệ thạc sĩ, tiến sĩ năm 2005 là 32% và 20%; năm 2010 là 45%, 25%. ĐHQGHN phấn đấu có đội ngũ cán bộ giảng dạy trình độ thạc sĩ, tiến sĩ với dự kiến trong năm 2005 là 32% và 30%; năm 2010 là 45% và 32%. Thực hiện qui hoạch chung mạng lưới trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2001 - 2010 tại Quyết định 47/2001/QĐ-TTg ngày 4/4/2001của Thủ tướng Chính phủ, diện tích chỗ học tập cho sinh viên phải đạt 6m2 / 1 sinh viên. Bảng 3.5: Dự kiến số cán bộ, sinh viên và cơ sở vật chất Nội dung Đơn vị tính Năm 2000 Năm 2005 Năm 2010 Năm 2015 Năm 2020 Số CBGD người 1.336 2.085 2.700 3.120 3.727 Số sinh viên đào tạo ĐH người 16.570 21.000 25.000 28.000 30.000 Tỷ lệ SV/ CBGD 12 10 9 9 8 Định mức CSVC (lớp học, thư viện, phòng thí nghiệm)/SV m2 3,13 4 6 7 8 Số m2 hiện có và nhu cầu m2 51.948 84.000 150.000 196.000 240.000 Nguồn: Định hướng phát triển kế hoạch trung hạn và dài hạn ĐHQGHN. Bảng 3.6: Dự kiến nguồn tài chính Năm ĐM chi NN Tỷ lệ % Số SV có NS Số SV có mặt Nhu cầu tài chính NS NNS NS NNS Tổng 2005 9 triệu 60 40 12.600 21.000 113.400 75.600 189.000 2010 11 triệu 55 45 16.200 25.000 178.200 145.800 324.000 2015 14 triệu 50 50 19.600 28.000 274.400 274.400 548.800 2020 15 triệu 45 55 24.000 30.000 360.000 440.000 800.000 Nguồn: Dự kiến nguồn NSNN đáp ứng mô hình đào tạo của ĐHQGHN theo kế hoạch trung hạn và dài hạn. Đứng trước những yêu cầu cần thiết về số lượng sinh viên (có cả tỷ lệ có ngân sách), đội ngũ cán bộ cần phải đào tạo, cơ sở vật chất cho thầy, trò đòi hỏi phải có nguồn tài chính cung cấp. Qua đó, lãnh đạo, cán bộ công nhân viên, sinh viên ĐHQGHN phải nhận thức và có những giải pháp nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả mới thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ, yêu cầu mà Đảng và Nhà nước giao phó. 3.2.2. Phương hướng hoàn thiện quản lý tài chính của ĐHQGHN Xuất phát từ vị trí, vai trò, đặc điểm và thực tiễn về quản lý tài chính của ĐHQGHN trong thời gian qua đồng thời nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí đáp ứng qui mô ngày càng phát triển của ĐHQGHN, quản lý tài chính của ĐHQGHN cần được hoàn thiện theo các quan điểm sau. Một là, đổi mới cơ chế quản lý tài chính theo hướng xã hội hóa và đa dạng hóa nguồn tài chính. Xã hội hóa giáo dục, đào tạo đã và đang là định hướng rất cơ bản để huy động sức mạnh của cả xã hội vào công cuộc phát triển giáo dục. Đó là quá trình nhằm phát huy tinh thần trách nhiệm của mọi tầng lớp nhân dân, để mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác có hiệu quả các tiềm năng về nhân lực, vật lực, tài lực trong xã hội. Phát huy và sử dụng tốt các nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho các hoạt động của GD-ĐT phát triển nhanh hơn, có chất lượng cao hơn. Xã hội hóa giáo dục, đào tạo không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của Nhà nước, giảm bớt phần NSNN. Trái lại, Nhà nước bổ sung thêm các nguồn thu nhằm tăng tỷ lệ chi NSNN cho các hoạt động này, đồng thời quản lý tốt để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính đó. Quản lý các quỹ này phải theo các quy định của Nhà nước và theo hướng phát huy khả năng tự kiểm tra giám sát, thực hiện hình thức công khai hóa các nguồn thu, chi tài chính. Hai là, quản lý tài chính phải đảm bảo nguyên tắc hiệu quả, tiết kiệm và cơ cấu chi hợp lý. Quản lý tài chính phải đi đôi với việc phân định rõ trách nhiệm của từng bộ phận quản lý nhằm nâng cao hiệu lực của công tác quản lý. Tăng quyền chủ động cho các chủ thể tài chính trong việc quyết định các khoản chi tiêu thường xuyên và chế độ trách nhiệm của chủ tài khoản. Thực hiện cơ chế khoán trong các đơn vị trực thuộc ĐHQGHN, trước hết là khoán quỹ lương và các khoản chi hành chính. Nhà nước chỉ quản lý theo chức năng, nhiệm vụ đã giao cho ĐHQGHN. Theo quan điểm này, công tác cấp phát phải luôn gắn với nhiệm vụ được giao, khối lượng công việc đã hoàn thành, khắc phục được tình trạng tăng biên chế quản lý hành chính. Đảm bảo được tính ổn định trong thu-chi trong thời gian dài, tạo quyền chủ động trong quản lý và điều hành chi tiêu. Ba là, tăng cường kiểm soát thu - chi ngân sách qua hệ thống Kho bạc Nhà nước. Nguồn thu sự nghiệp (học phí, hoạt động dịch vụ, hoạt động nghiên cứu triển khai..), về mặt quản lý cũng được tập trung thống nhất giống như những khoản thu của NSNN. Vì vậy phải được hạch toán đầy đủ vào sổ sách kế toán và quản lý tập trung thống nhất qua hệ thống Kho bạc Nhà nước. Đồng thời, các khoản chi ngân sách cho các hoạt động cũng phải được kiểm soát chặt chẽ qua Kho bạc Nhà nước, nhằm sử dụng nguồn kinh phí một cách có hiệu quả và đảm bảo chi tiêu đúng mục đích. Bốn là, hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính phải được tiến hành đồng thời với cải cách hành chính. ĐHQGHN là đơn vị dự toán cấp I, các đơn vị trực thuộc là các đơn vị hạch toán cấp II và III. Để công tác quản lý tài chính thống nhất từ trên xuống dưới, từ khâu lập kế hoạch đến khâu quản lý chi tiêu đáp ứng mô hình ĐHQGHN, rà soát lại các văn bản hiện hành trong lĩnh vực tài chính, thể chế hóa các văn bản pháp luật trong lĩnh vực tài chính phù hợp với điều kiện và mô hình của ĐHQGHN để hướng dẫn các đơn vị thực hiện theo một quy trình thống nhất. Cải cách các thủ tục hành chính về tài chính trong ĐHQGHN trước hết là cải cách các thủ tục về quản lý NSNN và các nguồn tài chính khác. Đó là quá trình lập, chấp hành, quyết toán ngân sách, kiểm tra, kiểm soát quá trình chi tiêu ngân sách một cách chặt chẽ, cải cách những thủ tục gây phiền hà đến hoạt động giao dịch liên quan đến công tác quản lý tài chính. Thực hiện cải cách bộ máy hành chính, ngoài việc tổ chức sắp xếp lại các đơn vị quản lý trong các đơn vị trực thuộc ĐHQGHN, phải kết hợp với việc xây dựng và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong các đơn vị trực thuộc, nhất là số cán bộ làm công tác tài chính kế toán. Đi đôi với xây dựng đội ngũ cán bộ là hiện đại hóa máy móc thiết bị phục vụ cho quản lý tạo điều kiện cho cán bộ làm việc đạt hiệu quả cao. 3.3. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện quản lý tài chính đáp ứng mô hình đại học quốc gia hà nội 3.3.1. Hoàn thiện chức năng quản lý tài chính của ĐHQGHN - ĐHQGHN phải tích cực và chủ động hơn nữa trong quan hệ với các Bộ như Bộ Kế hoạch và Đầu tư về chỉ tiêu đào tạo, ngành nghề đào tạo; Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường về các đề tài nghiên cứu khoa học và ứng dụng sản xuất thử, thử nghiệm - Thực hiện tốt quá trình lập dự toán ngân sách hàng năm, quý, phân bổ ngân sách, quyết toán ngân sách của ĐHQGHN. - Thực hiện nghiêm túc việc kiểm tra theo dõi tình hình thực hiện ngân sách của ĐHQGHN. - Thực hiên tốt chế độ báo cáo việc sử dụng ngân sách của ĐHQGHN theo chế độ hiện hành. - Phối hợp với Bộ Tài chính rà soát và hoàn thiện chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi NSNN của ĐHQGHN. Xây dựng qui hoạch phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của ĐHQGHN; xây dựng và quản lý cơ sở vật chất dùng chung cho đào tạo và nghiên cứu khoa học, chỉ đạo các đơn vị trực thuộc xây dựng, quản lý, điều hành cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học của đơn vị trên cơ sở phân cấp quản lý của ĐHQGHN. 3.3.2. Tăng cường khai thác các nguồn kinh phí phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học của ĐHQGHN Định hướng của Đảng và Nhà nước trong GD-ĐT là thực hiện "xã hội hóa sự nghiệp giáo dục - đào tạo", đa dạng hóa mục tiêu và trường lớp, đa phương hóa các hình thức huy động vốn, nguồn vốn đầu tư cho sự nghiệp đào tạo không chỉ từ NSNN mà là đa nguồn. Phải có nhiều biện pháp cụ thể, phù hợp nhằm khai thác và sử dụng các nguồn này một cách có hiệu quả. + Với nguồn thu từ NSNN, cần phát huy thế mạnh của đơn vị dự toán cấp I trên cơ sở các tiêu chí của ĐHQGHN và chủ trương đầu tư trọng điểm của Nhà nước, tích cực tranh thủ sự giúp đỡ của các bộ, ngành hữu quan nhằm tăng cường các nguồn kinh phí từ NSNN. + Tích cực tham gia các dự án trong nước và nước ngoài về giáo dục đại học, về đào tạo nguồn nhân lực nói chung, đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin nói riêng. + Tăng nguồn thu từ các dịch vụ đào tạo, từ học phí, từ các hợp đồng nghiên cứu khoa học, từ các dự án sản xuất thử - thử nghiệm, các hoạt + Mở rộng các hình thức liên kết, liên doanh với các tổ chức trong nước để giải quyết khó khăn về vốn trong xây dựng cơ bản tạo cơ sở vật chất cho trường. + Phát triển các hoạt động liên kết nghiên cứu, chuyển giao giữa ĐHQGHN với các doanh nghiệp, các viện nghiên cứu để ứng dụng nghiên cứu khoa học, lao động sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào lao động sản xuất tạo ra thu nhập cho ĐHQGHN tăng nguồn vốn cho cơ sở đào tạo. + Huy động sự đóng góp của các doanh nghiệp trực tiếp sử dụng nhân lực do ĐHQGHN đào tạo. Tổ chức, cá nhân tuyển dụng lao động đóng góp một phần kinh phí đào tạo thông qua đơn đặt hàng về số lượng lao động được đào tạo. Gắn tuyển sinh với việc sử dụng sinh viên tốt nghiệp, giảm việc đào tạo không phù hợp với yêu cầu sử dụng. + Nhà nước cần có cơ chế cho các ngân hàng lập quĩ tín dụng hỗ trợ đào tạo cho con em các gia đình có thu nhập thấp, cho sinh viên vay với lãi suất ưu đãi để học tập. Mở rộng hình thức tín dụng cho sinh viên, thực hiện công bằng trước các cơ hội được giáo dục cho sinh viên, trong đó có sinh viên thuộc ĐHQGHN. + Mở rộng hình thức tài trợ trong nước: quĩ hỗ trợ tài năng thông qua các dự án nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập. + Mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế, tranh thủ nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, đẩy mạnh việc vay vốn từ các ngân hàng WB, ADB, từ nguồn vốn ODA,... thu hút vốn đầu tư cho ĐHQGHN. + Chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ đủ năng lực để thực hiện dự án có hiệu quả. + Tranh thủ vốn, trang bị, cán bộ giảng dạy của nước ngoài. + Tổ chức bộ máy quản lý gửi học sinh du học trên cơ sở chi phí gia đình, hỗ trợ từ nguồn NSNN cấp. + Liên doanh, liên kết đối tác nước ngoài cùng đào tạo, nghiên cứu khoa học, triển khai ứng dụng KH-CN và sản xuất nhằm nâng cao chất lượng có nguồn vốn đầu tư trở lại cho đào tạo đại học của ĐHQGHN. 3.3.3. Tăng cường đầu tư, nâng cấp về cơ sở vật chất cho các trường và các đơn vị thành viên trong ĐHQGHN + Đầu tư sửa chữa, nâng cấp và hiện đại hóa các phòng thí nghiệm phục vụ giảng dạy chương trình đại cương, các phòng thí nghiệm chuyên ngành, phòng máy tính, phòng học tiếng. Hiện đại hóa các phòng thí nghiệm chuyên dùng như: studio báo nói - báo hình, phòng phục chế khảo cổ học và dân tộc học, phòng thực nghiệm ngôn ngữ học và tâm lý học của Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, các phòng thí nghiệm ảo của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, phòng phiên dịch chất lượng của trường đại học Ngoại ngữ, phòng học chất lượng cao của khoa Sư phạm... + Đầu tư chiều sâu cho các ngành: công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ hóa dầu, công nghệ thông tin. Xây dựng là các phòng thí nghiệm theo hướng trọng điểm quốc gia, giúp thực hiện các đề tài, dự án hợp tác trong nước, quốc tế. + Đầu tư nâng cấp các cơ sở vật chất dùng chung trong ĐHQGHN như: nâng cao năng lực phục vụ và khai thác thông tin - tư liệu của ĐHQGHN, trước mắt ưu tiên cho việc hiện đại hóa cơ sở vật chất, nâng cao hiệu quả phục vụ của trung tâm Thông tin - Thư viện để phục vụ trực tiếp và cho cán bộ và sinh viên trong công tác học tập, nghiên cứu. Đầu tư cả về thiết bị và các phần mềm tin học cho mạng thông tin diện rộng trong ĐHQGHN nhằm nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng mạng này cho các hoạt động chuyên môn, Tăng cường công tác thông tin khoa học trong hệ thống các trường đại học nhằm cập nhật, kế thừa và ứng dụng các kết quả nghiên cứu, các thành tựu KH-CN trong từng trường và giữa các trường, các cơ quan nghiên cứu trong nước và quốc tế. Đầu tư cho các dự án đào tạo giáo viên chất lượng cao, đầu tư sửa chữa nâng cấp nhà học, ký túc xá sinh viên, nhà văn hóa sinh viên, các khu vui chơi, giải trí,... Tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất và kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cho hệ thống cán bộ làm công tác kế hoạch, quản lý tài chính - cơ sở vật chất, trong đó có Ban Kế hoạch Tài chính ĐHQGHN và các phòng tài vụ, bộ phận kế hoạch của các đơn vị thành viên. Đầu tư, khai thác các tiến bộ về công nghệ thông tin trong công tác quản lý. + Có chính sách đãi ngộ đảm bảo thu nhập tương xứng với lao động của các thầy, cô giáo làm công tác giảng dạy, trong đó cần quan tâm việc đào tạo thường xuyên, đào tạo lại đội ngũ cán bộ giảng dạy, khuyến khích nâng cao trình độ, đạt tiêu chuẩn chức danh qui định. Chủ động đào tạo, bồi dưỡng sau đại học đối với đội ngũ giáo viên đại học, nâng tỷ lệ cán bộ giảng dạy có tỷ lệ sau đại học. Đào tạo cán bộ cho một số ngành trọng điểm, xử lý tốt quan hệ giữa qui mô, chất lượng và hiệu quả đào tạo. Xây dựng cơ chế, chính sách lấy sinh viên xuất sắc bổ sung cho đội ngũ cán bộ giảng dạy. Qui định khối lượng giảng dạy thích hợp đối với cán bộ giảng dạy, khuyến khích cán bộ trẻ tự bồi dưỡng, tham gia nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, tận dụng có hiệu quả quan hệ quốc tế trong bồi dưỡng đào tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy. Mỗi cán bộ giảng dạy hàng năm phải thực hiện một số giờ chuẩn theo qui định về đào tạo và nghiên cứu khoa học, coi đó là nhiệm vụ bắt buộc đối với cán bộ giảng dạy ở ĐHQGHN. + Hướng dẫn và khuyến khích sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học với sự trợ giúp của thầy, cô giáo; thu hút sinh viên nước ngoài học tại ĐHQGHN, sinh viên ĐHQGHN đi học ở nước ngoài. - Xác định cơ cấu chi, các khoản mục đầu tư phù hợp, đảm bảo cân đối nguồn thu. Có thể chuyển đổi từng phần cơ chế phân bổ tài chính từ mô hình hành chính sang mô hình cấp phát trọn gói. - Phân bổ NSNN cho những mục tiêu ưu tiên được xác định trong chính sách phát triển giáo dục - đào tạo và mục tiêu cụ thể của ĐHQGHN. *Không ngừng hoàn thiện công tác tổ chức quản lý tài chính ở ĐHQGHN. - Phân cấp quản lý về tài chính để tăng tính chủ động và trách nhiệm cho các đơn vị, các cơ sở đào tạo trong ĐHQGHN. - Hoàn thiện hệ thống định mức chi tiêu hợp lý, đúng chính sách, chế độ song có sự năng động, linh hoạt đáp ứng nhu cầu trong công tác tài chính. * Hoàn thiện công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động tài chính, một cách thường xuyên, định kỳ, đột xuất theo qui định của Luật Ngân sách Nhà nước. * Cải tiến tổ chức bộ máy kế toán ở các đơn vị trực thuộc. 3.3.4. Hoàn thiện tổ chức bộ máy, cán bộ quản lý tài chính của mô hình Đại học Quốc gia Hà Nội Ban Kế hoạch Tài chính là ban chức năng giúp việc và tham mưu cho Giám đốc ĐHQGHN chỉ đạo trực tiếp công tác quản lý tài chính của các đơn vị trực thuộc ĐHQGHN. Để làm tốt công tác này cần tổ chức bộ máy của ban gọn nhẹ, tiết kiệm và có hiệu quả. - Bố trí cán bộ chuyên quản theo dõi các đơn vị trực thuộc, để nắm bắt kịp thời các hoạt động tài chính của đơn vị, chỉ đạo và hướng dẫn các đơn vị thực hiện đúng các quy định quản lý tài chính của Nhà nước. - Cần thể chế hóa các Thông tư, chỉ thị, chính sách của Nhà nước về quản lý tài chính cho phù hợp với mô hình quản lý của ĐHQGHN, để các đơn vị trực thuộc thực hiện một cách thống nhất. - Tham mưu cho lãnh đạo trong khâu tuyển chọn cán bộ lãnh đạo tài chính về chuyên môn và tham gia trong các đợt thi tuyển kế toán viên của các đơn vị trực thuộc. - Xây dựng phần mềm kế toán chung trong toàn ĐHQGHN, thống nhất sử dụng một hình thức kế toán, giúp cho công tác kiểm tra, kiểm soát thuận lợi. - Hướng dẫn các đơn vị tổ chức công tác kế toán phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị. * Đối với các đơn vị trực thuộc: - Tổ chức thực hiện tốt công tác hạch toán kế toán ở các đơn vị, thực hiên nghiêm túc các quy định và quy trình quản lý các nguồn kinh phí, bảo vệ tài sản vật tư tiền vốn của đơn vị. - Phân công, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận kế toán, nhằm nâng cao vai trò trách nhiệm của những người làm công tác kế toán, tổ chức luân chuyển chứng từ khoa học và hợp lý, giúp cho bộ máy kế toán được gọn nhẹ và làm việc có hiệu quả. - Thường xuyên bổ túc kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, nhằm giúp cán bộ làm công tác kế toán nắm bắt được kịp thời những chủ trương, chính sách của Nhà nước, đáp ứng nhu cầu quản lý kinh tế tài chính hiện hành. 3.3.5. Hoàn thiện việc phân cấp và kiểm tra tài chính theo mô hình Đại học Quốc gia Hà Nội - Phân cấp, tăng tính tự chủ tài chính cho các đơn vị trực thuộc. ĐHQGHN từng bước thống nhất quản lý các nguồn thu từ NSNN và các nguồn thu khác, trước mắt là học phí hệ chính quy. Nguồn kinh phí từ NSNN cấp và học phí thu được từ hệ đại học chính quy sẽ do ĐHQGHN quản lý, điều hành, thực hiện khoán chi đối với các đơn vị theo nhiệm vụ do ĐHQGHN giao. Các đơn vị thành viên và trực thuộc ĐHQGHN quản lý và điều hành các nguồn thu còn lại. - ĐHQGHN sẽ khoán thu, chi đối với các đơn vị sự nghiệp có thu thành viên và trực thuộc. Đối với các đơn vị này ĐHQGHN không cấp kinh phí cho các hoạt động thường xuyên, nếu cấp thì cấp trên các nhiệm vụ cụ thể, các hoạt động không thường xuyên hoặc đầu tư phát triển sẽ thực hiện theo các dự án cụ thể. - Thành lập Phòng kiểm toán nội bộ trực thuộc Ban Kế hoạch Tài chính ĐHQGHN để kiểm tra kiểm soát mọi hoạt động thu - chi của các đơn vị trực thuộc ĐHQGHN, nhằm giúp các đơn vị thu - chi đúng mục đích và có hiệu quả. 3.3.6. ứng dụng tin học trong công tác quản lý tài chính nhằm nâng cao chất lượng quản lý Để đáp ứng yêu cầu quản lý trong điều kiện thực hiện đa dạng hóa loại hình đào tạo, đa dạng hóa các nguồn tài chính, trước hết phải ưu tiên mua sắm trang thiết bị như máy vi tính, nối mạng quản lý từ Ban Kế hoạch Tài chính - ĐHQGHN đến các đơn vị thành viên. Trong các đơn vị cần nối mạng quản lý từ kế toán chi tiết, kế toán tổng hợp, kế toán trưởng và chủ tài khoản. Nếu đơn vị có nhiều cơ sở thì các bộ phận kế toán ở các cơ sở phải được nối mạng với nhau để tạo điều kiện cho việc kiểm tra và điều hành. Phải có những phần mềm phù hợp, đồng thời chủ động đào tạo nâng cao trình độ ứng dụng tin học cho cán bộ kế toán. kết luận Nhà nước đã quan tâm, đẩy mạnh đầu tư cho giáo dục, tỷ trọng ngân sách dành cho GD-ĐT tăng rõ rệt hàng năm. Cụ thể, từ năm 1992 đến năm 1998 tăng 8,6 - 14%, đến năm 2000 đạt 15%. Song tổng thu nhập quốc dân còn ít, kinh phí dành cho giáo dục còn thấp. ĐHQGHN đang dần hoàn thiện về cơ cấu tổ chức, chuẩn bị từng bước cho việc nâng cao chất lượng đào tạo. Đây là nhiệm vụ đặt ra nặng nề đòi hỏi tăng cường quản lý tài chính để triển khai trong giai đoạn tới xứng đáng là trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học đa ngành, đa lĩnh vực chất lượng cao trong khu vực và trên thế giới. Với đề tài của luận văn: "Đổi mới quản lý tài chính đáp ứng mô hình Đại học Quốc gia Hà Nội - thực trạng và giải pháp" đã hoàn thành những nhiệm vụ sau: 1. Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận: - Nguồn tài chính phục vụ GD-ĐT; - Quản lý tài chính phục vụ GD-ĐT; - Nhân tố tác động tới việc quản lý tài chính phục vụ GD-ĐT; - Kinh nghiệm của các nước trong việc quản lý tài chính phục vụ GD-ĐT. 2. Qua phân tích thực trạng việc quản lý tài chính đào tạo đại học ở ĐHQGHN, luận văn đã chỉ ra những tồn tại cần khắc phục, đó là: - Chưa có chiến lược, định hướng, mục tiêu, phương pháp, biện pháp tổ chức, thực hiện và quản lý kế hoạch theo những mục tiêu trong đào tạo đại học của ĐHQGHN. - Phân bổ cơ cấu ngân sách chưa hợp lý về nội dung chi; giữa vùng, miền dân cư; chưa có kế hoạch, định hướng, sử dụng nguồn trong, ngoài ngân sách. - Chưa có sự tính toán, gắn kết đầu tư giữa nguồn NSNN với nguồn ngoài ngân sách do ĐHQGHN huy động được, chưa tận dụng vị thế của ĐHQGHN là đơn vị dự toán cấp I với sự ưu tiên đặc biệt của Đảng và Nhà nước. - Quy mô học sinh vượt chỉ tiêu Nhà nước, đầu tư từ NSNN tăng chậm, trong khi tận dụng thu từ hoạt động sản xuất, hợp đồng nghiên cứu ứng dụng khoa học - kỹ thuật - triển khai ứng dụng, thu từ hợp tác quốc tế còn hạn chế liên quan đến đội ngũ cán bộ, khai thác các thiết bị hiện có còn yếu. - Chính sách của Nhà nước, mối quan hệ giữa các bộ, ngành còn nhiều điều chưa thống nhất từ khâu lập kế hoạch, phân phối, cấp phát, kiểm tra quyết toán. - Thực hiện ở các đơn vị chưa có sự vận dụng phù hợp với đặc thù ngành, công tác lập dự toán, quyết toán, kiểm tra còn bất cập. Luận văn đã nêu lên quan điểm về đầu tư, những mục tiêu phát triển và nhu cầu nguồn tài chính đào tạo đại học ở ĐHQGHN đến năm 2020. 3. Luận văn đã đề xuất: - Các giải pháp khai thác nguồn tài chính đào tạo đại học. + Phát huy thế mạnh của đơn vị dự toán cấp I, trên cơ sở chủ trương đầu tư trọng điểm của Nhà nước, tích cực tranh thủ sự giúp đỡ của các bộ, ngành hữu quan tạo cơ chế cho ĐHQGHN khai thác tối đa nguồn tài chính cho đào tạo đại học trên cơ sở tận dụng đội ngũ cán bộ, thiết bị, hợp tác quốc tế, nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng vào thực tiễn. + Tham gia thực hiện các dự án đầu tư trong nước và nước ngoài cho đào tạo, nghiên cứu khoa học, triển khai, ứng dụng, các nguồn viện trợ, vay của các tổ chức, đơn vị, cá nhân trong nước và nước ngoài... + Huy động sự đóng góp thông qua mối quan hệ với tất cả các tổ chức, doanh nghiệp cá nhân trong và ngoài nước thông qua hoạt động đào tạo, dịch vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học, triển khai ứng dụng vào thực tiễn. + Phát triển các doanh nghiệp trực thuộc ĐHQGHN trong việc ứng dụng nghiên cứu khoa học, lao động sản xuất, nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào lao động sản xuất. - Các giải pháp sử dụng nguồn tài chính đào tạo Đại học. + Tăng cường đầu tư, nâng cấp về cơ sở vật chất, nhất là các cơ sở dùng chung như: phòng thí nghiệm, thư viện cho các trường và các đơn vị thành viên trong ĐHQGHN. + Tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất, kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý kế hoạch, tài chính - cơ sở vật chất, đưa tiến bộ về công nghệ thông tin vào công tác quản lý. + Tăng chi công tác giảng dạy, học tập, đãi ngộ với giáo viên, đặc biệt là thế hệ trẻ, tập trung vào hệ thống thư viện, trang thiết bị phòng thí nghiệm, phòng thực hành, tài liệu giáo trình, khai thác tối đa hiệu quả đầu tư đối với các cơ sở vật chất dùng chung, thiết bị đã đã được đầu tư vào đào tạo, nghiên cứu khoa học và triển khai ứng dụng. + Kế hoạch việc quản lý, sử dụng các nguồn kinh phí của ĐHQGHN, xác định cơ chế chi, các khoản mục đầu tư phù hợp đảm bảo yêu cầu của Nhà nước, nhiệm vụ giao cho ĐHQGHN. + Công tác tổ chức quản lý tài chính: Phân cấp quản lý về tài chính, bộ máy kế toán, lãnh đạo công tác tài chính (chủ tài khoản), hệ thống định mức chi tiêu hợp lý, đúng chính sách, chế độ của Nhà nước song có sự năng động, linh hoạt đáp ứng nhu cầu trong công tác tài chính. + Công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động tài chính, quản lý tài sản. Do giới hạn và thời gian nghiên cứu, luận văn không tránh khỏi những sai sót, rất mong sự góp ý của các nhà khoa học, các thầy, cô giáo và đồng nghiệp giúp tác giả hoàn thiện nghiên cứu của mình. Danh mục tài liệu tham khảo Báo giáo dục thời đại, số 99, ngày 7/8/2002. Bộ Tài chính (3/1997), Văn bản hướng dẫn thực hiện luật Ngân sách nhà nước, Hà Nội. Bộ Tài chính (1999), Hệ thống mục lục NSNN, Nxb Tài chính, Hà Nội. Bộ Tài chính (2001 - 2002), Văn bản pháp quy về quản lý tài chính hành chính sự nghiệp, 7 tập, Nxb Tài chính Bộ Tài chính Báo cáo đánh giá tình hình tài chính phục vụ 10 năm đổi mới giáo dục đào tạo 1986 - 1996. Bộ Tài chính (2001), Đánh giá thực trạng đầu tư tài chính phục vụ sự nghiệp phát triển lĩnh vực sự nghiệp văn hóa, giáo dục - đào tạo, y tế xã hội, nông lâm nghiệp và quản lý nhà nước giai đoạn 1991 - 2000. Các quy định pháp luật về Kiểm toán (2001), Nxb Lao động, Hà Nội PGS.TS Nguyễn Thị Cành (1997), "Vấn đề giáo dục và đào tạo trong nền kinh tế chuyển đổi Việt Nam", Phát triển kinh tế, (12). Phan Kim Chiến - Hoàng Toàn - Thu Hà (1998), Giáo trình chính sách trong quản lý kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. Chính phủ (1999), Nghị định 52/1999-NĐ-CP về việc ban hành quy chế quản lý đầu tư xây dựng và quy chế đấu thầu 88. TS. Đỗ Minh Cương - PGS,TS Nguyễn Thị Doan (2001), Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đại học Quốc gia Hà Nội (10/1998), Báo cáo tổng kết 5 năm hoạt động (1993 - 1998) và định hướng phát triển Đại học Quốc gia Hà Nội. Đại học quốc gia Hà Nội (2000), Dự án đào tạo nguồn nhân lực tài năng. Đại học Quốc gia Hà Nội (2000), Cơ chế quản lý tài chính, tài sản và thống nhất hướng dẫn hạch toán kế toán đối với các đơn vị trong Đại học quốc gia Hà Nội. Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Đề án tự chủ về tài chính của Đại học Quôc gia Hà Nội. Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Quy chế về tổ chức và hoạt động của Đại học Quốc gia Hà Nội do Thủ tướng Chính phủ ban hành. Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Kế hoạch chiến lược phát triển trung hạn của Đại học Quốc gia Hà Nội giai đoạn 2001 - 2005. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện đại biểu đại hội toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đổi mới chính sách và cơ chế quản lý tài chính phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996), Nxb Tài chính, Hà Nội. Trần Thu Hà (1993), Đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý ngân sách hệ thống giáo dục quốc dân, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội. TS Trần Thị Thu Hà (Vụ trưởng vụ HCSN) (2000), Đổi mới chính sách, cơ chế quản lý tài chính đối với khu vực hành chính sự nghiệp giai đoạn 2001-2010, Đề tài nghiên cứu khoa học, Bộ Tài chính,. GS.VS Phạm Minh Hạc - PGS.TS Trần Kiều - PGS. TS Đặng Bá Lãm - PGS.TS Nghiêm Đình Vì (2002), Giáo dục thế giới đi vào thế kỷ XXI, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội. Võ Đình Hảo (1993), Đổi mới chính sách và cơ chế quản lý tài chính, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Hệ thống kế toán HCSN (1996), Nxb Tài chính, Hà Nội. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (1992), Nxb Pháp lý, Nxb Sự thật, Hà Nội. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Quản lý kinh tế (1999), Tập đề cương bài giảng quản lý kinh tế, Hà Nội. Nguyễn Ngọc Hùng (1999), Lý thuyết Tài chính - Tiền tệ, Nxb Thống kê, Hà Nội. Hướng dẫn thực hiện luật NSNN (1998), Nxb Tài chính, Hà Nội. Trần Kiên (1999), Chiến lược huy động vốn và các nguồn lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tập 2, Nxb Hà Nội. Lê Hữu Khi (1997), Kinh tế công cộng, Nxb Thống kê, Hà Nội. Luật giáo dục (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đỗ Mười (1996), Phát triển mạnh giáo dục đào tạo phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, Nxb giáo dục, Hà Nội. Nguyễn Công Nghiệp (1996), Xây dựng quy trình lập kế hoạch và cơ chế điều hành ngân sách giáo dục - đào tạo, Bộ Tài chính, Hà Nội. Lê Du Phong - Hoàng Văn Hoa (1998), Đào tạo cán bộ quản lý kinh tế vĩ mô ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội. Tào Hữu Phùng - Nguyễn Công Nghiệp (1992), Đổi mới NSNN, Nxb Thống kê, Hà Nội. Quy chế đấu thầu (1999), Nxb Xây dựng, Hà Nội Trần Văn Tá - Bạch Thị Thu Hiền (1996), Đổi mới chính sách và cơ chế quản lý tài chính phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa, Nxb Tài chính, Hà Nội. Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII của Đảng (1997), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tạp chí đại học và giáo dục chuyên nghiệp, số 4 năm 1999. Đào Trọng Thi, Nghị quyết Trung ương 2 với đổi mới giáo dục đại học. Thủ tướng Chính phủ (2001), Quy chế về tổ chức và hoạt động của Đại học Quốc gia, Hà Nội Nguyễn Xuân Thủy (1998), Quản trị dự án đầu tư, Nxb Giáo dục, Hà Nội. TS.Trần Văn Tùng (2001), Nền kinh tế tri thức và yêu cầu đổi mới giáo dục Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội. Trường đại học Tài chính - Kế toán Hà Nội (1997), Hệ thống quy chế nghiên cứu khoa học. Trường đại học Kinh tế quốc dân, Khoa học quản lý (1999), Chính sách kinh tế xã hội, Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. Văn bản pháp quy hiện hành về quản lý tài chính HCSN (1998), Nxb Tài chính, Hà Nội. Văn bản pháp quy về quản lý tài chính HCSN, tập II (1999), Nxb Tài chính, Hà Nội. Văn bản mới hướng dẫn thực hiện Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng (2000), Nxb Xây dựng Hà Nội. E. WAYNE NAFZIGER (1998), Kinh tế học các nước đang phát triển, Nxb Thống kê, Hà Nội. Viện Nghiên cứu Tài chính - Bộ Tài chính (2000), Chính sách tài khóa đáp ứng yêu cầu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010, Nxb Tài chính, Hà Nội Việt Nam quản lý tốt hơn nguồn lực nhà nước, đánh giá chi tiêu công 2000 - Báo cáo của Nhóm công tác chung giữa Chính phủ Việt Nam và các nhà Tài trợ về đánh giá Chi tiêu công. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUANVA~1.DOC
  • docTom tat luan van.doc
  • docVIETTA~2.DOC
  • docbia.doc
  • docBIA-THS.DOC
  • docLUNVNT~1.DOC
  • docMUCLUC~1.DOC
Tài liệu liên quan