Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu hướng mở rộng giao lưu thương mại và hợp tác quốc tế không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn ở quy mô toàn cầu thì ngành kinh doanh xăng dầu có vai trò rất quan trọng, nhất là đối với Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào (CHDCND Lào), vì xăng dầu của Lào hầu như phải nhập khẩu toàn bộ.
Công ty Xăng dầu Lào là một công ty lớn và có tầm quan trọng của đất nước Lào. Chức năng chính của Công ty là kinh doanh xăng dầu phục vụ quá trình phát triển kinh tế - xã
99 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1516 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Đổi mới quản lý ở Công ty Xăng dầu Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội của Lào.
Qua những năm thực hiện đường lối chính sách kinh tế mới của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, nhất là từ năm 1990 đến nay, Công ty Xăng dầu Lào đã có những bước phát triển đáng kể, quản lý của Công ty Xăng dầu, so với trước, đã có những bước tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên, so với yêu cầu, mục tiêu và nhiệm vụ trong điều kiện mới, cũng như so với năng lực của mình, Công ty Xăng dầu Lào hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập, khiếm khuyết làm cho hiệu quả kinh doanh của Công ty chưa cao. Vì thế, để đảm đương được vai trò của mình, Công ty Xăng dầu Lào cần đổi mới quản lý.
Để đóng góp vào công cuộc tiếp tục đổi mới đó, đề tài: "Đổi mới quản lý ở Công ty Xăng dầu Lào" được chọn nghiên cứu trong luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho tới nay, ở những góc độ khác nhau, đã có nhiều công trình nghiên cứu về đổi mới quản lý thương mại theo cơ chế thị trường đã được công bố. Đặc biệt, việc chuyển ngành xăng dầu sang kinh doanh theo cơ chế thị trường đang là vấn đề gây tranh luận hết sức sôi nổi. Thực tế đã có một số luận văn, bài báo, tạp chí... đề cập đến từng mặt, từng vấn đề trong kinh doanh ngành hàng xăng dầu như:
- Luận án phó tiến sĩ khoa học Kinh tế: Kinh doanh xăng dầu theo cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, của Nguyễn Cao Vãng, Hà Nội, 1995.
- Luận văn cao học, chuyên ngành Kinh tế thương mại: Thúc đẩy hoạt động tái xuất khẩu xăng dầu ở Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam, của Phạm Đức Thắng, Hà Nội, 2004.
- Luận án tiến sĩ, chuyên ngành Quản lý kinh tế của học viên Lào viết về vấn đề: Tổ chức và quản lý doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, của Phô Thi Lát Phôm Phô Thi, Hà Nội, 2005...
Các tác giả trên đã đề cập một số vấn đề về kinh doanh xăng dầu. Tuy nhiên chưa có công trình nào trùng lặp với hướng nghiên cứu của luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn: là làm rõ cơ sở lý thuyết và thực tiễn của quản lý ở Công ty Xăng dầu Lào, từ đó đề xuất hướng đổi mới quản lý ở Công ty trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ của luận văn:
+ Khái quát cơ sở lý thuyết của quản lý công ty kinh doanh xăng dầu trong điều kiện kinh tế thị trường và toàn cầu hóa.
+ Phân tích thực trạng quản lý của Công ty Xăng dầu Lào trong những năm gần đây.
+ Đề xuất phương hướng, giải pháp đổi mới quản lý ở Công ty Xăng dầu Lào trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động quản lý ở Công ty Xăng dầu thuộc nước CHDCND Lào.
- Thời gian xem xét chủ yếu là từ khi đổi mới (năm 1986) đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Dựa trên cơ sở lý thuyết hiện có về quản lý công ty kinh doanh xăng dầu, quán triệt các quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước CHDCND Lào và số liệu thống kê của Công ty Xăng dầu Lào, luận văn phân tích, tổng hợp, khái quát để rút ra các kết luận cần thiết. Trong khi luận chứng, luận văn có sử dụng kinh nghiệm của một số công ty khác (nhất là Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam) để làm đối tượng so sánh.
Ngoài ra, luận văn cũng tiến hành phân tích các ý kiến trả lời phỏng vấn của các chuyên gia trong lĩnh vực quản lý kinh doanh xăng dầu ở Lào.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
- Khái quát lý thuyết về quản lý kinh doanh xăng dầu.
- Tổng thuật kinh nghiệm của một số công ty kinh doanh xăng dầu.
- Làm rõ thực trạng quản lý ở Công ty Xăng dầu Lào.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp để các nhà quản lý Công ty Xăng dầu Lào có thể tham khảo nhằm xây dựng một cơ chế quản lý mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của Công ty Xăng dầu Lào trong thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1
Một số vấn đề cơ bản về quản lý công ty kinh doanh xăng dầu ở cộng hoà dân chủ nhân dân lào
1.1. Đặc điểm và vai trò của kinh doanh xăng dầu ở cộng hoà dân chủ nhân dân lào
1.1.1. Khái niệm kinh doanh xăng dầu
Ngày nay, xăng dầu là nguồn năng lượng chủ yếu đảm bảo cho các ngành kinh tế và nhiều hoạt động xã hội phát triển, nhất là trong lĩnh vực giao thông vận tải. Chính vì thế, sản xuất và kinh doanh xăng dầu trở thành ngành hàng có vai trò chiến lược ở tất cả các quốc gia trên thế giới.
Khái niệm kinh doanh xăng dầu bao hàm nhiều nội dung đa dạng. Có thể hiểu kinh doanh xăng dầu theo nghĩa rộng, bao gồm từ khâu khai thác, lọc dầu, vận chuyển đến phân phối. Cũng có thể hiểu kinh doanh xăng dầu theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm khâu mua, vận chuyển, lưu giữ và phân phối. Thuật ngữ kinh doanh xăng dầu trong luận văn này được sử dụng theo nghĩa hẹp cho phù hợp với đặc điểm kinh doanh xăng dầu ở Lào.
Ngay cả khi hiểu theo nghĩa hẹp, kinh doanh xăng dầu cũng bao gồm nhiều công đoạn và nghiệp vụ như: tìm kiếm và xây dựng quan hệ đối tác với các tập đoàn sản xuất và cung ứng dầu mỏ trên thế giới; thuê hoặc tự mình vận chuyển xăng dầu đến những địa điểm cần thiết; xây dựng các kho chứa, xây dựng mạng lưới phân phối bán lẻ và bán buôn trên thị trường. Đối với các nước chậm phát triển, chưa có khả năng khai thác và lọc dầu trong nước, như CHDCND Lào, thì toàn bộ xăng dầu đều phải nhập khẩu và việc vận chuyển phần lớn dầu từ nước ngoài về biên giới quốc gia phải thuê các công ty của nước ngoài. Ngoài ra, máy móc thiết bị phục vụ kinh doanh và vận chuyển xăng dầu cũng phải nhập khẩu.
Doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu gồm nhiều loại. Có loại doanh nghiệp kinh doanh tổng hợp từ khâu mua buôn đến khâu bán lẻ thông qua các cây xăng. Có doanh nghiệp kinh doanh khâu nhập khẩu xăng dầu và bán buôn cho các doanh nghiệp khác. Có doanh nghiệp chuyên bán lẻ xăng dầu trên thị trường nội địa; có doanh nghiệp đảm nhận khâu kho bãi và vận chuyển…Nhìn chung, mỗi doanh nghiệp lựa chọn một hoặc một số khâu trong quy trình kinh doanh xăng dầu tuỳ theo thế mạnh và sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, một mặt phải đảm bảo nguyên tắc tự trang trải và có lãi, mặt khác, phải phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của đất nước. Nếu chỉ vì lợi nhuận hoặc đơn thuần do quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường quyết định, mà nâng giá nhằm thu lợi nhuận cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả các hoạt động sản xuất và đời sống khác của xã hội. Do vậy, hình thức kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận trong kinh doanh xăng dầu phải luôn luôn đặt trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước. ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, Nhà nước đều quy định mức lợi nhuận hợp lý cho kinh doanh xăng dầu. ở CHDCND Lào, giá bán xăng dầu do Nhà nước khống chế, chỉ đạo.
Cần phân biệt lợi ích trực tiếp của kinh doanh xăng dầu và phần đóng góp vào tổng lợi ích xã hội của nó. Lợi nhuận trong kinh doanh xăng dầu, một mặt, chịu tác động trực tiếp của điều kiện kinh tế - xã hội thông qua chủ trương, chính sách của Chính phủ, mặt khác, lợi ích của hoạt động này còn gián tiếp biểu hiện thông qua hiệu quả chung của nền kinh tế - xã hội.
Đặc điểm trên đòi hỏi hoạt động kinh doanh xăng dầu phải chú ý các khía cạnh sau:
- Phải luôn gắn chiến lược phát triển ngành kinh doanh xăng dầu với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước.
- Nhà nước phải có cơ chế, chính sách tác động vào hoạt động kinh doanh xăng dầu nhằm:
+ Định hướng và kiểm soát được hoạt động này.
+ Bảo đảm cho hoạt động này vừa có thu nhập hợp lý vừa phục vụ tốt cho sản xuất và đời sống.
Trong kinh doanh xăng dầu ở nước CHDCND Lào phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề nhập khẩu sao cho có lợi nhất và tìm được bạn tin cậy nhất để dễ ứng trước.
1.1.2. Đặc điểm của kinh doanh xăng dầu ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào
1.1.2.1. Kinh doanh xăng dầu ở Lào là một ngành đặc biệt
Xăng dầu là một đối tượng kinh doanh có tính đặc thù. Xăng dầu không chỉ là một loại hàng hoá có đặc điểm giống như các loại hàng hoá khác mà còn có những đặc điểm riêng ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh chúng. Tính chất đặc thù của loại hàng hoá này thể hiện trên một số mặt chủ yếu sau đây:
- Xăng dầu (trừ mỡ bôi trơn) đều ở thể lỏng, rất dễ bốc cháy, rất nhạy cảm với sự thay đổi của nhiệt độ môi trường. Trong điều kiện nhiệt độ trên 230C với áp suất trên 100 áp mốt phe, chỉ cần một tia lửa điện phóng qua có thể gây phản ứng sinh nhiệt làm xăng bốc cháy. Đặc điểm này đòi hỏi công tác phòng cháy, chữa cháy trong hoạt động kinh doanh và sử dụng xăng dầu phải hết sức nghiêm ngặt. Do đó, phương tiện và thiết bị sử dụng trong kinh doanh xăng dầu đều phải là những phương tiện thiết bị chuyên dùng. Công tác phòng cháy chữa cháy luôn gắn liền với toàn bộ quá trình hoạt động kinh doanh và sử dụng xăng dầu.
- Xăng dầu là một loại sản phẩm rất dễ bị hao mòn "vô hình". Trên thực tế kinh doanh xăng dầu luôn phải chấp nhận tỷ lệ hao mòn vô hình này. Vì vậy, trong hoạt động kinh doanh xăng dầu cần phải tính toán và có biện pháp hạn chế hao hụt để góp phần đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
- Xăng dầu là mặt hàng rất dễ bị kém hoặc mất phẩm chất. Đặc tính này đòi hỏi quy trình nhập, xuất, phương tiện tồn chứa, loại hình và phương tiện vận tải, kỹ thuật bảo quản và sử dụng xăng dầu phải được nghiên cứu, tính toán kỹ lưỡng và phải có những giải pháp về kỹ thuật, tổ chức quản lý trong quá trình kinh doanh xăng dầu, nếu không sẽ làm cho xăng dầu bị kém phẩm chất. Xăng dầu kém phẩm chất sẽ gây nhiều hậu quả như:
+ Xăng và dầu Diezel kém phẩm chất ảnh hưởng đến quá trình kích nổ và phá huỷ động cơ; nếu dầu bôi trơn không có độ nhớt bảo đảm, không chỉ làm cho quá trình bào mòn kim loại diễn ra nhanh hơn mà còn sinh ra một hàm lượng quá quy định các chất dẫn đến phản ứng nhiệt mạnh hơn, phá huỷ máy móc thiết bị.
+ Việc kinh doanh xăng dầu kém phẩm chất sẽ gây ra tác hại lan truyền và trực tiếp phá huỷ năng lực sản xuất, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tất cả các mặt sản xuất và đời sống xã hội.
- Xăng dầu còn chứa đựng nhiều hoá chất độc hại đối với cơ thể con người như chì, lưu huỳnh, axít... Vì thế, những người lao động tiếp xúc với xăng dầu phải được bảo đảm phòng ngừa độc hại, phải có chế độ bảo hộ lao động và thực hiện các thao tác lao động theo một quy trình công nghệ chặt chẽ. Ngoài ra, doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu phải bảo vệ môi trường xung quanh nơi tồn chứa xăng dầu, tránh gây nên ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến sự sống xung quanh.
Những đặc điểm lý hoá kể trên của mặt hàng xăng dầu đòi hỏi doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu phải bảo đảm các mặt: kỹ thuật trong kinh doanh, phương tiện chuyên dùng cho kinh doanh, an toàn trong kinh doanh... để cho quá trình kinh doanh được diễn ra bình thường.
Do xăng dầu là hàng hoá có tính đặc biệt, nên kinh doanh xăng dầu cũng có những yêu cầu, đặc điểm riêng và bị chi phối bởi các nhân tố sau đây:
+ Xăng dầu là một chất lỏng có yêu cầu cao về kỹ thuật và chất lượng đòi hỏi phải có quy trình tồn chứa, cơ sở vật chất tối thiểu, bảo quản kỹ càng, vận chuyển nghiêm ngặt với những phương tiện vận chuyển, thiết bị chứa đựng bơm rót chuyên dùng hiện đại hoá, tự động hoá cao.
+ Xăng dầu được tiêu dùng, sử dụng rộng rãi trong tất cả các ngành, lĩnh vực sản xuất và đời sống xã hội, trên mọi địa bàn dân cư khác nhau trên cả nước, đòi hỏi phải có mạng lưới hợp lý, giảm chi phí lưu thông vận chuyển, quản lý tốt được chất lượng hàng hoá.
+ Kinh doanh xăng dầu theo cơ chế thị trường, nhưng phải chịu sự quản lý chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nước, nhất là về thuế, giá cả, chất lượng hàng hoá, an toàn phòng cháy chữa cháy, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, lợi ích của các chủ thể tham gia kinh doanh, lợi ích của nhà nước và lợi ích xã hội.
+ Phải có đội ngũ cán bộ chuyên dụng, có tay nghề giỏi để lắp đặt, sửa chữa kịp thời các phương tiện kinh doanh.
1.1.2.2. Kinh doanh xăng dầu ở Lào luôn gắn với các biến động trên thị trường thế giới
Kinh doanh xăng dầu hiện nay ở nước CHDCND Lào thực chất là kinh doanh hàng hoá nhập khẩu.
Hiện nay khối lượng xăng dầu tiêu dùng ở nước CHDCND Lào 100% là hàng nhập khẩu, cho nên giá cả xăng dầu phụ thuộc vào giá cả thị trường thế giới và khu vực. Ngoài ra giá thành của xăng dầu chịu thêm: chi phí vận chuyển từ nước xuất khẩu về Lào, vận chuyển nội địa, chi phí bốc dỡ, chi phí bảo quản, thuế nhập khẩu... nên giá thành xăng dầu ở nước CHDCND Lào thường cao so với các nước trên thế giới và trong khu vực.
Trong kinh doanh xăng dầu ở Lào cần chú ý các vấn đề sau:
- Xác định nhu cầu tiêu dùng trong nước một cách chính xác, để có kế hoạch nhập khẩu đúng tiến độ, đúng kế hoạch (trong đó có tính đến những yếu tố khan hiếm, có dự trữ quốc gia) cân đối được cung - cầu thị trường, ổn định giá cả.
- Tổ chức phân phối nguồn hàng từ nước xuất khẩu về các đầu mối trong nước một cách hợp lý, đảm bảo quãng đường vận chuyển của hàng hoá là ngắn nhất, tiết kiệm chi phí.
- Hợp lý hoá, tối ưu hoá các phương tiện vận chuyển, cầu, đường, cảng nhập kho, bể chứa để tiết kiệm chi phí.
- Xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của ngành phải bảo đảm theo một quy hoạch thống nhất, vừa tiết kiệm đầu tư, vừa có khả năng sử dụng triệt để, hợp lý cơ sở vật chất - kỹ thuật.
- Kinh doanh xăng dầu đòi hỏi người làm kinh doanh phải nắm vững thị trường quốc tế và khu vực, các luật lệ quốc tế.
Để có một lít xăng dầu phục vụ sản xuất và đời sống xã hội ở nước CHDCND Lào, doanh nghiệp thường vận chuyển hàng hoá theo một chu trình:
Nước xuất khẩu (Việt Nam - Thái Lan) ị Vận chuyển ị Kho trong nước ị Vận chuyển trong nước ị Đến các kho chi nhánh các tỉnh ị Các điểm bán lẻ ị Người tiêu dùng.
Mỗi chu trình vận chuyển hàng hoá đều qua các khâu: giao nhận, vận chuyển, dịch vụ kỹ thuật, phương thức thanh toán..., mỗi khâu trong chu trình đòi hỏi phải có một công nghệ kỹ thuật, nghiệp vụ thích hợp.
Kinh doanh hàng nhập khẩu, doanh nghiệp không những phải chịu sự tác động của cơ chế quản lý trong nước, mà còn chịu tác động của các quan hệ kinh tế quốc tế và khu vực, tác động của nước xuất hàng hoá... Vì thế, kinh doanh xăng dầu có những yêu cầu của ngành hàng có tính quốc tế, trong đó chứa đựng rất nhiều vấn đề phức tạp mà việc giải quyết nó không chỉ ở tầm quốc gia mà còn ở tầm quốc tế. Do tính quốc tế của kinh doanh xăng dầu, nên các đặc tính phức tạp khác của nó lại càng tăng thêm. Chính vì thế, hoạt động kinh doanh xăng dầu ở nước CHDCND Lào phải luôn gắn chặt với thị trường xăng dầu quốc tế và thị trường xăng dầu khu vực để có đối sách hợp lý. Nếu không chủ động đối phó thì ngành kinh doanh xăng dầu ở CHDCND Lào sẽ gặp nhiều rủi ro, gây bất lợi không chỉ cho ngành mà còn cho nền kinh tế.
1.1.2.3. Kinh doanh xăng dầu ở Lào có tính cạnh tranh đặc biệt
Dầu mỏ có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nên các quốc gia đều có chiến lược riêng về khai thác, chế biến và xuất khẩu xăng dầu. Chiến lược của mỗi quốc gia cộng với nguồn dầu mỏ khan hiếm và quy trình khai thác, vận chuyển hiện đại làm tăng mức cạnh tranh trong kinh doanh xăng dầu.
Mức độ cạnh tranh gay gắt trong kinh doanh xăng dầu biểu hiện dưới các khía cạnh sau: trên thị trường ở nước CHDCND Lào hiện nay đã có 16 công ty hoạt động kinh doanh xăng dầu cạnh tranh với nhau và đều cạnh tranh gay gắt ở cả công đoạn nhập khẩu lẫn công đoạn phân phối cho người tiêu dùng, nhất là ở công đoạn mua bán sản phẩm và hoạt động dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong sản xuất và đời sống xã hội nhằm mục đích kiếm lời.
Kinh doanh xăng dầu ở Lào có đặc điểm cơ bản là hoạt động kinh doanh không gắn trực tiếp với khai thác và chế biến sản phẩm trong nước mà là kinh doanh hàng hóa nhập khẩu từ nước Việt Nam, Thái Lan. Các công ty phải chủ động tính toán mức lợi nhuận cho hoạt động kinh doanh của mình phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của đất nước. Các công ty của nhà nước càng không được phép hoạt động chỉ vì lợi nhuận hoặc đơn thuần do quan hệ cung - cầu hàng hoá trên thị trường quyết định mà phải chú ý đến hoạt động sản xuất và đời sống xã hội trong nước. Kế hoạch, mục tiêu lợi nhuận trong kinh doanh xăng dầu của công ty phải luôn đặt trong tổng thể phát triển kinh tế xã hội chung của đất nước.
Nói cách khác, kinh doanh xăng dầu trong cơ chế thị trường ở nước CHDCND Lào, khi xử lý các vấn đề lợi nhuận, giá cả, các quyết định của công ty nhà nước, ngoài sự tác động các quy luật của thị trường, còn phụ thuộc vào vai trò điều tiết của Chính phủ qua chính sách kinh tế vĩ mô. Ví dụ: Khi giá xăng dầu thế giới tăng, các công ty nhà nước không được tăng giá bán vì Chính phủ khống chế giá bán tối đa.
Đặc điểm trên đòi hỏi hoạt động kinh doanh xăng dầu ở Lào phải chú ý những vấn đề cơ bản sau đây:
- Phải gắn chiến lược phát triển ngành xăng dầu với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Nhà nước có cơ chế chính sách tác động vào hoạt động kinh doanh xăng dầu nhằm: định hướng phát triển hoạt động kinh doanh xăng dầu và kiểm soát được hoạt động này, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh có thu nhập hợp lý vừa phục vụ tốt cho sản xuất, đời sống và an ninh - quốc phòng, ổn định thị trường, ổn định giá cả.
- Kinh doanh xăng dầu ở nước CHDCND Lào hiện nay phải quan tâm đến nguồn nhập thuận lợi, giá thành hạ, các điểm kinh doanh thuận tiện phục vụ khách hàng tốt nhất, đảm bảo được hiệu quả trong kinh doanh.
1.1.2.4. Kinh doanh xăng dầu ở Lào đòi hỏi vốn lớn, cơ sở hạ tầng tốn kém
Các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ kinh doanh xăng dầu cũng là một bộ phận cấu thành quan trọng cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế, mối quan hệ đó thể hiện trên cả hai phương diện:
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế, trình độ phát triển kinh tế của đất nước quyết định quy mô và trình độ hiện đại của các cơ sở vật chất phục vụ kinh doanh xăng dầu.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ kinh doanh xăng dầu là một bộ phận cấu thành cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế, đóng góp và mở rộng quy mô và trình độ phát triển của nền kinh tế - xã hội. Chúng ta dễ dàng nhận thấy hệ thống bến cảng, hệ thống vận tải đường thuỷ bộ, đường sắt, hệ thống kho chứa, đường ống dẫn xăng dầu, cửa hàng xăng dầu... vừa là cơ sở, điều kiện cho hoạt động kinh doanh xăng dầu vừa là một bộ phận quan trọng trong kết cấu hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế. Những hệ thống này nếu mở rộng và hiện đại không những bảo đảm cho kinh doanh xăng dầu thuận lợi và hiệu quả mà là sự mở rộng tiềm lực và thế lực phát triển của nền kinh tế. Hệ thống đường sắt, đường bộ, đường biển, đường sông... vừa là những mạch máu của nền kinh tế, vừa đồng thời là hệ thống để xăng dầu vận động và toả đi phục vụ phát triển kinh tế. Quan điểm toàn diện và đúng đắn trong việc xây dựng, mở rộng và hiện đại hoá các cơ sở phục vụ kinh doanh xăng dầu cũng phải được xem là quá trình tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. Vì vậy, có thể coi đầu tư cho phát triển hệ thống bảo đảm kinh doanh xăng dầu cũng đồng thời là đầu tư cho cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế. Việc sử dụng triệt để và có hiệu quả hệ thống bảo đảm kinh doanh xăng dầu không chỉ là trách nhiệm của bản thân ngành kinh doanh này mà còn là trách nhiệm của xã hội
Hoạt động kinh doanh xăng dầu còn trực tiếp liên quan đến việc bảo vệ môi trường sinh thái. Nếu đường ống dẫn bị giò, rỉ, mặt sông, mặt biển bị dầu loang, độ kín của kho chưa chặt chẽ và phương tiện vận chuyển không bảo đảm... không chỉ làm tăng mức thất thoát xăng dầu, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh mà còn trực tiếp gây ô nhiễm môi trường sinh thái. Thực tế trong nước và thế giới cho thấy, các vụ cháy nổ, đắm tàu, vỡ đường ống dẫn dầu... đã gây bao tác hại nghiêm trọng đến môi trường sống. Hơn nữa, bảo vệ môi trường là một đòi hỏi tất yếu và vô cùng nghiêm ngặt. Việc xây dựng cảng biển, kho chứa, đường ống dẫn, sử dụng phương tiện vận chuyển và quy chế sử dụng xăng dầu đòi hỏi phải bảo đảm những chỉ số an toàn tuyệt đối. Hậu quả của những sai sót trong quá trình tổ chức kinh doanh có tính lan truyền, không chỉ thiệt hại về kinh tế mà còn gây những tác hại nghiêm trọng về môi trường sống và các hậu quả xã hội khác.
1.1.2.5. Xăng dầu là mặt hàng chiến lược của tất cả các quốc gia và trữ lượng dầu thô trên thế giới ngày càng giảm
Bảng 1.1: Sản lượng sản xuất dầu mỏ của các nước trên thế giới [13]
Đơn vị tính: triệu tấn
Năm
Bắc Mỹ
Nam Mỹ
Châu Âu
Trung Đông
Châu Phi
Châu á TBD
Tổng số TG
1993
652,9
255,7
659,8
951,1
330,4
337,2
3187
1994
648,3
271,2
662,7
972,8
333,8
346,3
3235
1995
646
292,8
669,6
978,3
339,3
352,9
3278,9
1996
660,1
312,9
680,2
999,9
355,7
365,1
3373,9
1997
670,4
329,1
689
1044,5
369,8
370,1
3472,9
1998
666,7
351,5
686
1102,3
363,6
370
3540
1999
638,8
344,6
699,2
1059,2
359,8
366,4
3468
2000
650,8
349,8
724,4
1125,8
371,2
382,6
3604,4
2001
653,3
344,1
746,6
1090
373,2
378,6
3585,7
2002
659,2
350,2
785,5
1010,1
377,3
379,5
3561,7
2003
671,8
339,5
818
1093,7
398,3
375,8
3697
Tỷ lệ 03 so TS
18,2%
9,2%
22,1%
29,6%
10,8%
10,2%
100%
Dầu mỏ là nguồn tài nguyên được thiên nhiên ban tặng cho các nước, các khu vực rất không đồng đều nhau. Khu vực Trung Đông là khu vực tập trung nhiều nguồn dầu mỏ nhất thế giới. Tại Kuwait hiện nay xăng dầu được bán rẻ hơn nước tiêu dùng cho sinh hoạt, trong khi đó các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu... có nhu cầu tiêu dùng rất lớn, nhưng trữ lượng không đảm bảo. Hơn nữa, khả năng chế biến của các nhà máy lọc dầu cũng rất khác nhau. Nói cách khác, do khả năng sản xuất và mức độ tiêu dùng của các nước, các khu vực trên thế giới là rất khác nhau, dẫn đến nhu cầu nhập khẩu, xuất khẩu giữa các nước, các khu vực trên thế giới.Vì vậy tất yếu nảy sinh thị trừơng xăng dầu thế giới.
Bảng 1.2: Nhu cầu tiêu dùng dầu mỏ của một số khu vực trên thế giới [13]
Đơn vị tính: triệu tấn
Năm
Bắc Mỹ
Nam Mỹ
Châu Âu
Trung Đông
Châu Phi
Châu á TBD
Tổng số TG
1993
939,3
178,5
987
178,7
98
7567,6
3139,3
1994
967,9
186,4
947,3
187,2
100,5
809,2
3198,5
1995
960,8
193,7
940,3
193,4
108,7
854,5
3846,3
1996
994,3
201,8
930,9
198,2
106,1
891,3
3322,7
1997
1012,3
212,7
936,2
201,3
108,9
926,6
3398
1998
1033,4
219,6
942,7
202,1
112,4
906,6
3416,9
1999
1058,5
219,6
937,4
206,8
115,1
948,3
3485,1
2000
1071,4
218,2
929,4
208,1
115,7
983,3
3526,1
2001
1071,5
221,5
934,9
209,7
116,3
984,3
3538,2
2002
1071
219,2
933,1
213,1
117,9
1008,3
3562,6
2003
1093,2
216,6
943,3
214,9
120,5
1049,1
3636,6
Tỷ lệ 03 so TS
30,1%
6,0%
25,9%
5,9%
3,3%
28,85%
100%
Ngoài khả năng khai thác dầu thô, nhu cầu tiêu dùng thì khả năng chế biến, lọc dầu thô thành dầu thành phẩm cũng ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu của các nước và các khu vực trên thế giới. Trong những năm gần đây, một mặt, do căng thẳng cung cầu, mặt khác, do đầu cơ của các tập đoàn dầu mỏ thế giới nên giá dầu liên tục tăng, dầu mỏ đã trở thành mặt hàng chiến lược của tất cả các quốc gia. Trong khi đó trữ lượng dầu trên thế giới ngày càng giảm và vấn đề an ninh năng lượng, trong đó dầu mỏ có vai trò quan trọng đặc biệt, đã trở thành vấn đề an ninh kinh tế hàng đầu của các nước phát triển.
1.1.1.6. Kinh doanh xăng dầu chịu áp lực xã hội mạnh mẽ
Các quan hệ sản xuất, buôn bán xăng dầu liên quan chặt chẽ với các quan hệ chính trị thế giới. Từ khi Liên Xô sụp đổ, Lào phải dùng ngoại tệ mạnh để nhập khẩu xăng dầu từ các nước khác, những ưu đãi như mua bán trước đây không còn nữa mà phải thực hiện theo cơ chế thị trường và các thông lệ buôn bán quốc tế. Thực tế cho thấy, quan hệ ngoại giao giữa hai Chính phủ, chính sách phong toả và cấm vận của các nước lớn luôn luôn có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xuất, nhập xăng dầu vì đây là mặt hàng chiến lược. Tất cả các quốc gia, đặc biệt là các nước có thế lực trong buôn bán quốc tế, luôn luôn sử dụng mặt hàng xăng dầu như một "con bài" trong các quan hệ chính trị - kinh tế quốc tế. Vì vậy, kinh doanh xăng dầu ở Lào không chỉ đơn thuần là một hoạt động kinh tế mà còn chịu ảnh hưởng trực tiếp của tình hình chính trị quốc tế và khu vực, sự chi phối của quan hệ đối ngoại và phát triển kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước Lào
Từ những phân tích trên có thể thấy lĩnh vực kinh doanh xăng dầu có những đặc điểm rất riêng biệt, tổ chức kinh doanh mặt hàng này phải chú ý đầy đủ đến tất cả các mặt: kỹ thuật, nghiệp vụ, kinh tế, chính trị, xã hội để có phương thức kinh doanh hữu hiệu. Tất cả các nước đều coi đây là một lĩnh vực kinh doanh có tầm chiến lược và chịu áp lực xã hội mạnh mẽ. Mọi biện pháp can thiệp và điều tiết của nhà nước đối với việc kinh doanh mặt hàng này đều phải được đặt trong quan hệ với chiến lược phát triển kinh tế chung của đất nước và phải được thực hiện bằng những cơ chế riêng. Đây cũng là một trong những vấn đề cơ bản mà hoạt động kinh doanh xăng dầu ở CHDCND Lào luôn phải quan tâm.
1.1.2. Vai trò của kinh doanh xăng dầu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
1.1.2.1. Vai trò của xăng dầu trong mở rộng giao lưu kinh tế
Tuỳ theo đặc thù riêng về điều kiện địa lý tự nhiên, dân số của mỗi nước, mà nhu cầu xăng dầu có khác nhau. Nhưng nhìn chung, xăng dầu cung ứng trên 60% năng lượng cho nhân loại, chủ yếu phục vụ nhu cầu của ngành vận tải.
Nhờ xuất hiện động cơ đốt trong sử dụng xăng dầu làm nhiên liệu mà ngày nay các mối giao thương kinh tế ngày càng phát triển thuận lợi. Trước hết là ngành vận tải trong nước và sau đó là vận tải quốc tế.
Đối với ngành vận tải trong nước, từ khi xăng dầu được sử dụng phổ biến thì các loại hình vận tải ô tô, tàu hoả, tàu thuỷ, máy bay có tốc độ di chuyển nhanh và sức tải lớn đã trở thành hình thức vận tải chủ yếu ở các quốc gia. Cùng với đà phát triển mãnh liệt của các loại hình vận tải này, cơ sở giao thông ở các quốc gia cũng không ngừng được mở rộng và hiện đại hoá. Trong những năm gần đây, bộ mặt của đa số các quốc gia có sự thay đổi nhanh chóng nhờ sự xuất hiện của những cảng sông, biển hiện đại, các tuyến đường cao tốc dài hàng nghìn km, các sân bay hiện đại, rộng lớn cho phép hàng nghìn máy bay cất, hạ cánh trong ngày...Giao thông phát triển đã khuyến khích các ngành kinh tế phát triển mạnh mẽ theo xu hướng chuyên môn hoá ngày càng sâu sắc và tăng cường trao đổi sản phẩm, giao lưu với nhau. Giờ đây, mọi người đều thấy, chỉ cần có đường ô tô nối với các vùng khác là các vùng xa xôi lạc hậu và cư dân ở đó có sự thay đổi trong sản xuất và cách sinh sống. C. Mác đã viết đại ý rằng, hàng hoá rẻ của các nước tư bản là những khẩu pháo có sức nặng công phá bất cứ bức tường thành bài ngoại vững chắc nào. Nói cách khác, sự phát triển giao thông vận tải phải đi trước một bước trong phát triển nền kinh tế hàng hoá và phát triển giao lưu giữa các vùng và các nhóm dân cư với nhau. Ngày nay, năng lượng dùng trong vận tải vẫn chủ yếu là xăng dầu.
Đối với quan hệ kinh tế quốc tế, thì giao thông vận tải càng giữ vai trò quan trọng. Bởi vì quan hệ kinh tế quốc tế là trung tâm điểm của các mối quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia. Trước hết là lĩnh vực ngoại thương, để có thể trao đổi hàng hoá với nhau, cần vận chuyển hàng hoá từ nước này sang nước khác, hay nói cách khác cần phát triển vận tải quốc tế. Lực lượng vận tải quốc tế ngày nay vẫn chủ yếu là các phương tiện sử dụng xăng dầu làm nguyên liệu như tầu biển, ô tô và máy bay... Giao lưu quốc tế còn thể hiện qua phát triển lĩnh vực dịch vụ quốc tế như: du lịch quốc tế, giao thông vận tải quốc tế, dịch vụ bảo hiểm quốc tế, dịch vụ xây dựng quốc tế...Tất cả các hình thức giao lưu này đều lấy vận tải làm yếu tố thúc đẩy quan trọng. Ngoài ra, lĩnh vực đầu tư quốc tế, lĩnh vực tài chính quốc tế, lĩnh vực chuyển giao công nghệ, kỹ thuật quốc tế, và nhiều lĩnh vực kinh tế khác đều chịu ảnh hưởng rất lớn của giao thông vận tải.
Trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, mỗi nước phải phát huy những lợi thế về tài nguyên, vị trí địa lý, về vốn công nghệ, lao động, về kinh tế, văn hoá, xã hội riêng biệt để phát triển kinh tế hiệu quả. Muốn làm được như vậy, các nước phải phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại, trong đó giao thông vận tải được ưu tiên hàng đầu.
Nước CHDCND Lào cũng nằm trong tình thế như vậy. Để phát triển kinh tế, Lào cần hoạch định chính sách riêng của mình trong mối quan hệ gắn kết với các nước khác sao cho Lào có thể phát triển vừa phù hợp với tình hình kinh tế, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, dân số của nước Lào, đồng thời từng bước phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên thế giới, nhất là về xuất khẩu, nhập khẩu, phát triển giao thông vận tải để hoạt động trao đổi được thực hiện tốt hơn.
Đối với nước đang phát triển như CHDCND Lào, thì mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế ra bên ngoài có lợi trong việc tiếp nhận kỹ thuật mới tiên tiến làm cho năng suất lao động tăng lên. Ngoài ra, để thu hút vốn đầu tư, phải mở rộng quan hệ với nước ngoài. Hơn nữa, thị trường trong nước còn nhỏ bé không đủ điều kiện để phát triển công nghiệp với quy mô hiện đại, không tạo đủ công ăn việc làm cho nhân dân lao động, nên việc mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài giúp cho việc tập trung phát triển các thế mạnh của đất nước, giúp cho người lao động có việc làm, thu nhập được thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại vào trong nước…
1.1.2.2. Giá cả xăng dầu ảnh hưởng đến toàn bộ xã hội, đặc biệt là các ngành kinh tế
Xăng dầu tham gia vào tất cả các lĩnh vực sản xuất và đời sống xã hội. Trên phương diện kinh tế, giá trị sản phẩm hàng hoá, dịch vụ ít nhiều đều chứa đựng giá trị của xăng dầu. ở tất cả các nước, người ta đều coi sản xuất và kinh doanh xăng dầu là một lĩnh vực trọng yếu, có ý nghĩa chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội.
Xăng dầu còn là một loại hàng hoá đặc biệt phục vụ nhu cầu của nhân dân về đi lại, thắp sáng, chất đốt... Có thể coi xăng dầu như nguồn dinh dưỡng duy trì sự tồn tại, vận động và phát triển kinh tế - xã hội của mọi quốc gia.
Xăng dầu còn có vai trò rất quan trọng trong an ninh, quốc phòng.
Trên thực tế, nếu giá xăng tăng lên thì toàn bộ xã hội đều rung động, đặc biệt là các ngành kinh tế, vì làm tăng giá thành sản phẩm, ảnh hưởng đến tiền lương của cán bộ công nhân viên vận tải, đi lại... của người lao động, làm cho sức mua giảm xuống…
1.1.2.3. Nguồn dầu mỏ ngày càng cạn kiệt buộc các quốc gia phải chú trọng dự trữ và khai thác hợp lý
Nhu cầu sử dụng nhiên liệu của thế giới ngày càng tăng, n._.goài việc tăng cường tìm kiếm các nguồn năng lượng khác thay thế, thì từ nay đến 2010 trở đi, các quốc gia khác trên thế giới đang tăng cường khai thác chế biến, phát hiện các nguồn dầu mỏ mới nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng. Kinh doanh và sử dụng xăng dầu phụ thuộc vào các yếu tố ảnh hưởng đến cung cầu xăng dầu trên thị trường thế giới.
*Những yếu tố ảnh hưởng đến cung xăng dầu bao gồm:
Một là, hạn ngạch của tổ chức những nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC. Năm 2004 OPEC chiếm 39,7% sản lượng dầu thế giới, bao gồm những nước sản xuất dầu lớn như ả Rập xê út, Iran, Irắc, Cô-oét, các tiểu vương quốc ả Rập thống nhất.... Vì là tổ chức tập trung những nước xuất khẩu lớn nên sự thay đổi sản lượng của OPEC ảnh hưởng lớn đến lượng cung của thế giới. Tuy nhiên, trong thời gian qua, do các tác động khách quan cũng như chủ quan nên bản thân OPEC muốn duy trì giá dầu thô ở mức vừa phải nhằm tránh một cuộc khủng hoảng kinh tế tái diễn cũng như các tác động tiêu cực đến ngành khai thác và chế biến dầu mỏ, nhưng thực tế diễn không như họ mong muốn, giá dầu thô luôn duy trì ở mức cao và liên tục tăng đã gây tâm lý hoang mang, lo ngại trên toàn thế giới, đưa dầu mỏ trở thành vấn đề an ninh năng lượng quốc gia.
Hai là, tình hình chính trị trên thế giới có tác động mạnh mẽ đến cung cầu và giá cả dầu mỏ trên thế giới, đặc biệt là khu vực Trung Đông, nơi tập trung 29,6% sản lượng của thế giới. Ví dụ: trong thời kỳ chiến tranh vùng Vịnh, sản lượng khai thác của Irắc và Cô-oet giảm đáng kể do cơ sở hạ tầng khai thác và sản xuất bị phá huỷ, các mỏ dầu bị đốt cháy ở cả hai nước. Sau chiến tranh Irắc, chính trị căng thẳng ở Palestin và Israel, nạn khủng bố đe doạ toàn cầu đã ảnh hưởng đến sản lượng khai thác, làm cho giá dầu đầu năm 2005 và 2006 đã tăng đến mức cao nhất kể từ năm 1972 lại đây.
Ba là, lượng dầu trong kho dự trữ của tổ chức năng lượng thế giới IEA giảm sút. IEA bao gồm những nước tiêu thụ xăng dầu lớn là Mỹ, Nhật Bản và các nước Tây Âu. IEA được thành lập để thúc đẩy những hành động thống nhất giữa các thành viên nhằm giải quyết vấn đề năng lượng, trong đó có xăng dầu. Biện pháp quan trọng nhất của IEA là dự trữ dầu nhằm chống lại những ảnh hưởng tiêu cực khi OPEC giảm sản lượng khai thác hoặc có những biến động lớn về cung trên thị trường. Khi cung trên thị trường giảm đến mức cần thiết, IEA sẽ lấy dầu trong kho dự trữ ra, bù đắp một phần mức thiếu hụt, xoa dịu căng thẳng và giảm áp lực tăng giá dầu. Nhưng những năm gần đây, do dự trữ giảm nên tác động điều chỉnh của IEA không đáng kể.
Bốn là, hoạt động đầu tư, thăm dò và khai thác các mỏ dầu mới. Trước năm 1975, lượng dầu tìm thấy trên khắp thế giới chỉ là 720 thùng. Nhờ hoạt động đầu tư, thăm dò và khai thác các mỏ dầu khí mới được mở rộng, đến năm 1990, con số này đã đạt 1000 tỷ thùng, bổ sung đáng kể vào mức cung của thế giới. Tuy nhiên, năm 1998 và năm 1999, hoạt động đầu tư, thăm dò và khai thác dầu khí giảm, thậm chí ở một số mỏ hiện hữu, việc khai thác cũng bị sút giảm do nhiều nguyên nhân. Kết quả cuối năm 1999 và đầu năm 2000, mức cung giảm dẫn tới giá xăng dầu tăng.
*Những nhân tố ảnh hưởng đến cầu dầu bao gồm:
Một là, sự tăng trưởng kinh tế thế giới: nhu cầu xăng dầu có quan hệ chặt chẽ đến mức tăng trưởng kinh tế thế giới. Điều này thể hiện rõ trong những năm 2003, 2004, 2005, là thời kỳ nền kinh tế thế giới đang trên đà tăng trưởng. Đặc biệt là sự hồi phục kinh tế của các nước châu á - Thái Bình Dương sau 2 năm khủng hoảng, (từ mức tăng trưởng 3,5% vào năm 1998, năm 2003 GDP bình quân của khu vực đã là 3%) kéo theo nhu cầu tiêu thụ xăng dầu tăng, đạt 22 triệu thùng/ngày, chiếm quá nửa mức tăng của nhu cầu thế giới. Mỹ là nước tiêu thụ dầu mạnh nhất thế giới, tiếp tục tăng trưởng với tốc độ cao, là nguyên nhân dẫn đến mức tăng tiêu thụ xăng dầu của nước này lớn hơn 2% so với mức trung bình của thế giới. Trên bình diện thế giới, sự tăng trưởng kinh tế đã làm nhu cầu xăng dầu tăng 1,3 triệu thùng/ngày.
Hai là, sự đầu cơ của các quốc gia, của các hãng xăng dầu lớn trên thế giới, làm ảnh hưởng đến giá xăng dầu giao dịch trên thị trường. Cụ thể như năm 2002, mặc dù sản lượng khai thác và chế biến vẫn lớn hơn nhu cầu tiêu dùng trên thế giới, nhưng do yếu tố đầu cơ, làm cho giá dầu tăng cao và ảnh hưởng cả đến các năm 2003, 2004. Năm 2005 là năm thể hiện rõ nét nhất tính đầu cơ, lũng đoạn của các tập đoàn dầu lửa hàng đầu thế giới. Mặc dù sản lượng khai thác đã đạt mức tối đa, nhu cầu không có đột biến lớn nhưng giá cả đã leo thang và bất ổn suốt cả năm. Trong khi đó, các hãng dầu quốc tế thu được các khoản lợi nhuận khổng lồ, ví dụ như Shell đạt tới 44 tỷ USD lợi nhuận năm 2004.
Ba là, yếu tố thời tiết, xăng dầu hiện nay dùng làm nhiên liệu sưởi ấm chính, thay thế gần như hoàn toàn củi và than nên một mùa đông lạnh lẽo, sương giá hay ấm áp đều ảnh hưởng đến nhu cầu xăng dầu thế giới.
Bốn là, việc sử dụng nhiên liệu thay thế và những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Bên cạnh xăng dầu, người sử dụng năng lượng còn có những nguồn nhiên liệu khác như khí thiên nhiên, than, năng lượng nguyên tử...
Năm là, sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật cho phép con người làm ra những máy móc, phương tiện tiêu thụ xăng dầu ít hơn trước đây. Đồng thời, khoa học kỹ thuật cũng cho phép tạo ra những máy móc chạy bằng nguồn năng lượng sẵn có như năng lượng mặt trời...
Từ những phần đã nêu trên có thể rút ra những kết luận như sau:
- Xăng dầu cho đến nay vẫn là nguồn năng lượng không thể thiếu của thế giới, tất cả các quốc gia đều cần đến xăng dầu để tiến hành các hoạt động sản xuất và sinh hoạt đời sống.
- Cấu trúc của những nước sản xuất, tiêu thụ và xuất nhập khẩu xăng dầu trên thế giới ít thay đổi, được định hình bởi điều kiện địa lý của mỏ dầu, bởi kỹ thuật của việc tìm kiếm, khai thác, vận chuyển, lọc dầu, phân phối và bởi sự phát triển công nghiệp và mức sống của chính những quốc gia đó.
- Giá xăng dầu thế giới tăng cao, ngoài yếu tố ảnh hưởng bởi cân đối cung cầu thì yếu tố rất quan trọng tác động đến giá là đầu cơ bởi các quốc gia có nền kinh tế mạnh như Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu nhằm bảo vệ lợi ích cho họ.
1.2. Nội dung quản lý kinh doanh xăng dầu
1.2.1. Quản lý kinh doanh
1.2.1.1. Quản lý đầu vào trong kinh doanh xăng dầu
* Chiến lược mua hàng là công cụ quản lý quan trọng nhằm tối đa hoá lợi ích cho công ty kinh doanh xăng dầu trong quản lý đầu vào. Chiến lược mua hàng thường phải xác định đối tác chiến lược, danh mục mặt hàng mua lâu dài và chiến lược cạnh tranh giá cả. Chiến lược mua được hiện thực hoá qua các hợp đồng. Hiện nay, các công ty kinh doanh xăng dầu nhập khẩu thường dùng ba loại hợp đồng sau:
+Hợp đồng dài hạn: là những hợp đồng có thời hạn từ 6 tháng trở lên. Trong hợp đồng này thường quy định các điều khoản cụ thể xác định khối lượng và thời gian giao hàng. Riêng giá mua bán được xác định bằng các phụ lục hợp đồng quy định giá 6 tháng/lần. Khách hàng ký hợp đồng dài hạn với chủ doanh nghiệp là những khách hàng thoả mãn những điều kiện sau:
- Là các hãng dầu có khả năng khai thác chế biến và kinh doanh các sản phẩm dầu mỏ.
- Cung cấp đúng số lượng.
- Cung cấp đúng chất lượng.
- Cung cấp đúng thời gian.
- Có điều kiện thanh toán ưu đãi.
+Hợp đồng quý: là hợp đồng có thời hạn 3 tháng. Hợp đồng này ký kết theo phương thức đấu thầu kết hợp với đàm phán. Khi có nhu cầu, gửi đơn mời thầu cho các nhà cung cấp nêu rõ tên hàng, số lượng, chất lượng, thời gian giao hàng và điều kiện giao hàng. Sau khi nhận được đơn dự thầu của các nhà cung cấp, công ty có nhu cầu phải lựa chọn một vài nhà cung cấp và tiếp tục đàm phán để đạt được điều khoản ưu đãi nhất.
Những nhà cung cấp theo hợp đồng quý là những người thoả mãn được năm điều kiện đã nêu ở trên tại một thời điểm nhất định. Chính vì vậy, danh sách khách hàng thuộc nhóm này thường xuyên thay đổi. Họ có thể là những công ty xăng dầu đa quốc gia như Shell, Mobil, ESSO, Vitol... đặt trụ sở tại Singapore, Malaysia, Indonesia; hoặc họ có thể là những công ty xăng dầu quốc gia lớn như Sinochem, Sinopec của Trung Quốc, Misubishi, Sumitômi của Nhật...
+Hợp đồng giao ngay: là thoả thuận trong đó xăng dầu được bán giao ngay. Hợp đồng loại này phản ánh giá cả tại thời điểm ký kết hợp đồng. Nhóm khách hàng ký hợp đồng giao ngay là những thương nhân chuyên mua đi bán lại, họ không có nhà máy chế biến hay kho dự trữ lớn.
* Quản lý thủ tục mua và thanh toán là khâu hoàn tất quá trình mua nhằm giảm thiểu chi phí hành chính trong nhập khẩu xăng dầu. Thông thường, các công ty kinh doanh xăng dầu, sau khi tập hợp nhu cầu xăng dầu cho từng năm, từng quý đối với những mặt hàng tại khu vực cụ thể, phải lập đơn hỏi hàng gửi các hãng xăng dầu trên thế giới (thông thường khoảng trên 30 hãng). Căn cứ vào đơn hỏi hàng của công ty về số lượng, thời gian, địa điểm, các hãng dầu quốc tế lập đơn chào hàng. Các đơn vị thành viên của công ty có nhu cầu mới lập báo cáo trình cấp trên (giám đốc công ty) để phê duyệt kế hoạch nhập khẩu với giá tối đa làm căn cứ đàm phán sau đó ký hợp đồng nhập khẩu. Trên cơ sở hợp đồng đã ký bộ phận có trách nhiệm theo dõi và làm các thủ tục cần thiết như mở L/C, phòng kế toán tài chính kiểm tra chứng từ thanh toán hàng nhập khẩu, thông báo cho các đơn vị nhận hàng. Trên cơ sở hợp đồng, đơn vị có nhu cầu tổ chức tiếp nhận chuẩn bị kho bãi, làm thủ tục hải quan, đóng thuế, thuê cơ quan giám định, bơm rót hàng vào kho... chuyển hồ sơ để văn phòng công ty có nhu cầu thanh toán kết thúc lô hàng nhập khẩu.
1.2.1.2. Quản lý đầu ra trong kinh doanh xăng dầu
* Chiến lược bán hàng là công cụ quản lý quan trọng khâu bán ra trong kinh doanh xăng dầu. Chiến lược bán hàng bao gồm các nội dung quản lý đại lý, kho dự trữ, điểm bán lẻ, bán buôn, giá cả, phương thức thanh toán...Chiến lược bán hàng cũng được cụ thể hoá bằng các hợp đồng bán hàng.
Trình tự thực hiện hợp đồng bán hàng gồm:
- Kiểm tra khả năng chi trả của khách hàng. Nếu hợp đồng quy định thanh toán bằng L/C thì bước đầu tiên khi thực hiện bán hàng là kiểm tra xem người mua mở L/C chưa. Sau khi L/C được mở, công ty kiểm tra L/C dựa vào các căn cứ:
+ Điều lệ thực hành thống nhất tín dụng chứng từ UCP 500. Nhìn chung L/C phải đảm bảo các nội dung sau: Về hình thức L/C: câu chữ, số liệu phải hết sức rõ ràng; Nội dung các điều khoản trong L/C phải rõ ràng, có khả năng thực hiện được, các điều khoản không được mâu thuẫn với nhau và phản ánh đúng nội dung của hợp đồng; L/C phải phù hợp với luật lệ.
+ Đặc biệt tập trung kiểm tra những điều khoản liên quan đến thanh toán như số tiền L/C, bộ chứng từ thanh toán, thời hạn thanh toán. Nếu phát hiện sai sót trong L/C, công ty yêu cầu người mua tu chỉnh L/C.
- Chuẩn bị phương tiện vận tải, khi bán theo điều kiện CIF, DES hoặc CIP. Công ty giành được quyền vận tải bằng cách chuyên chở tất cả khối lượng xăng dầu.
- Mua bảo hiểm:
- Kiểm tra hàng hoá diễn ra vào thời điểm bắt đầu giao hàng từ bồn chứa xăng dầu xuống tầu hay xe xitéc... Khi kiểm tra hàng cần có sự chứng giám của kiểm tra viên của công ty, người này có nhiệm vụ kiểm tra để đảm bảo giao đúng số lượng và chất lượng; có kiểm tra viên của cơ quan giám định độc lập (vì trong trường hợp đồng xuất khẩu đòi hỏi phải có giấy chứng nhận số lượng, chất lượng của cơ quan giám định độc lập. Cơ quan giám định được mời thường là Vinacontrol hoặc S.G.S); Hải quan: giám sát quá trình kiểm tra số lượng, chất lượng để chống buôn lậu và gian lận thương mại. Việc kiểm tra số lượng được thực hiện theo phương pháp lưu lượng kế. Kiểm tra chất lượng được thực hiện theo phương pháp lấy mẫu tại bồn chứa khi xăng dầu được bơm xuống phương tiện vận tải kho. Phải lấy ít nhất 5 mẫu: công ty giữ 1 mẫu, 1 mẫu gửi cho người mua, 1 mẫu gửi theo tàu, xe, 1 mẫu dùng để phân tích và một mẫu cơ quan giám định giữ. Mẫu phải được niêm phong, dán nhãn, ghi rõ: ngày giờ lấy mẫu, tên người lấy mẫu. Địa điểm lấy mẫu, mẫu của sản phẩm gì? Sau khi phân tích mẫu xong, cơ quan giám định ghi kết quả vào giấy chứng nhận chất lượng.
- Nếu xuất hàng ra nước ngoài phải làm thủ tục hải quan: căn cứ vào hợp đồng đã ký và tờ khai tạm nhập khẩu trước đó, các công ty xuất khẩu mở tờ khai với số lượng và chủng loại hàng đúng theo như tờ khai đã tạm nhập. Hải quan cử người giám sát chặt chẽ quá trình kiểm tra hàng hoá của cơ quan giám định độc lập và quá trình bơm hàng từ bồn xăng dầu lên phương tiện vận tải. Sau khi bơm hàng xong, hải quan niêm phong phương tiện vận tải, công ty phải nộp thêm chứng thư giám định của giám định độc lập và biên bản giao nhận với phương tiện vận tải và bộ hồ sơ nộp cho hải quan. Sau khi tiếp tục nhận hồ sơ đầy đủ, hợp lệ và kết quả kiểm tra hàng phù hợp với tờ khai xuất hàng, hải quan áp tải hoặc làm thủ tục giám quản hàng tới cửa khẩu cuối cùng và thông báo cho hải quan cửa khẩu xuất cuối cùng để giám sát lô hàng đến khi ra khỏi cửa khẩu. Căn cứ vào hồ sơ xuất khẩu đó, công ty tập hợp hồ sơ gửi công ty đầu mối (công ty làm thủ tục nhập khẩu) công ty đầu mối làm thủ tục chung hoàn thuế nhập khẩu.
- Lập chứng từ thanh toán: Bộ chứng từ thanh toán giống như đã trình bày ở trên. Sau khi lập xong bộ chứng từ thanh toán, tổng công ty gửi qua ngân hàng nếu thanh toán bằng L/C hoặc chuyển thẳng cho người mua nếu thanh toán bằng TTR.
- Giải quyết khiếu nại (nếu có), nếu bị khiếu nại về số lượng, chất lượng công ty thận trọng xem xét hồ sơ khiếu nại. Nếu khiếu nại có cơ sở công ty sẽ giải quyết như sau:
+ Khiếu nại về số lượng:
Giao thêm hàng thiếu vào chuyến sau.
Giảm tổng số hàng thanh toán cho số hàng thiếu.
+ Khiếu nại về chất lượng:
Giảm giá cho lô hàng kém chất lượng.
Nhận lại hàng và trả lại tiền cho người mua nếu chất lượng quá tồi. Nếu người mua không chấp nhận cách giải quyết của công ty đưa ra, hai bên sẽ đưa nhau ra kiện tại hội đồng trọng tài hoặc toà án tuỳ theo quy định trong hợp đồng.
1.2.1.3. Quản lý kỹ thuật trong kinh doanh xăng dầu
* Kỹ thuật chống hao hụt được dùng để tăng cường quản lý xăng dầu trong quá trình xuất, nhập, tồn chứa, vận tải và hạch toán kinh tế. Kỹ thuật chống hao hụt được áp dụng trong công tác cung ứng xăng dầu như sau:
Hao hụt trong khâu nhập:
- Hao hụt khâu nhập tính cho quá trình nhập xăng dầu từ phương tiện vận tải vào bể chứa.
- Lượng hao hụt là hiệu số giữa số lượng ghi trên hoá đơn xuất và số thực nhận tại bể của kho nhập (sau khi đã trừ hao hụt xuất sau lượng kế, nếu có và hao hụt vận tải).
Bảng 1.3: Định mức hao hụt trong khi nhập, xuất, vận chuyển xăng dầu (%) [ 25]
Các loại xăng dầu
Khi nhập
Khi xuất
Khi vận chuyển
Xăng đặc biệt
0,3
0,04
0,085
Xăng
0,15
0,20
0,080
Diezel
0,02
0,06
0,045
TC - 1 dầu hoả
0,04
0,12
0,050
Dầu đốt lò (FO), dầu nhờn các loại
0,05
0,08
0,050
- Khi nhập từ ô tô xi téc xuống bể ngầm, bể nằm ngang, lượng hao hụt được tính là % số lượng ghi trên hoá đơn nơi xuất, sau khi đã trừ đi hao hụt vận tải.
- Khi chuyển tải từ phương tiện này sang phương tiện khác được áp dụng như hao hụt nhập chuyển bể.
- Nếu chiều dài đoạn ống từ phương tiện đến kho lớn hơn 2km thì ngoài định mức hao hụt nhập được tính thêm hao hụt trong vận chuyển đường ống trên chiều dài thực tế đoạn ống đó. Nếu nhỏ hơn 2km thì không được tính.
* Kỹ thuật an toàn, chống cháy nổ:
Người lao động có nhiệm vụ và quyền hạn tham gia, tư vấn và phối hợp với người sử dụng lao động trong việc xây dựng quy chế quản lý, chương trình hành động, kế hoạch bảo hộ lao động và các biện pháp an toàn, vệ sinh lao động, cải thiện điều kiện lao động, phòng ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp của đơn vị.
Hội đồng bảo hộ lao động tổ chức kiểm tra tình hình thực hiện công tác bảo hộ lao động ở các vị trí sản xuất kinh doanh để có cơ sở tham gia vào kế hoạch và đánh giá tình hình công tác bảo hộ lao động của đơn vị. Trong kiểm tra nếu phát hiện thấy các nguy cơ mất an toàn, có quyền yêu cầu người phụ trách sản xuất thực hiện các biện pháp loại trừ nguy cơ đó.
Nhiệm vụ của cán bộ bảo hộ lao động:
- Phối hợp với bộ phận tổ chức lao động xây dựng nội quy, quy chế quản lý công tác bảo hộ lao động của đơn vị.
- Phổ biến các chính sách chế độ, tiêu chuẩn, quy phạm về an toàn - vệ sinh lao động của nhà nước và các nội quy, quy chế về bảo hộ lao động của lãnh đạo đơn vị đến các cấp và người lao động, đề xuất việc tổ chức các hoạt động tuyên truyền về an toàn, vệ sinh lao động và theo dõi đôn đốc việc chấp hành.
- Xây dựng kế hoạch bảo hộ lao động hàng năm, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện.
- Phối hợp với bộ phận kỹ thuật và các bộ phận khác có liên quan xây dựng quy trình, biện pháp an toàn, vệ sinh lao động, phòng chống cháy nổ, phòng chống lụt bão, tổ chức huấn luyện về bảo hộ lao động cho người lao động, quản lý, theo dõi việc kiểm định, cấp giấy phép sử dụng các loại máy, thiết bị, vật tư, các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh lao động.
- Phối hợp với bộ phận y tế tổ chức kiểm tra, đo đạc các yếu tố có hại trong môi trường lao động, theo dõi tình hình bệnh tật, tai nạn lao động, đề xuất các biện pháp quản lý, chăm sóc sức khoẻ người lao động.
- Kiểm tra việc chấp hành các chế độ bảo hộ lao động, tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh lao động và đề xuất biện pháp khắc phục.
- Điều tra, thống kê các vụ tai nạn lao động, đánh giá, xác định nguyên nhân và tìm biện pháp phòng tránh.
- Tổng hợp và đề xuất việc giải quyết kiến nghị của các đoàn thanh tra, kiểm tra.
- Xây dựng các báo cáo về bảo hộ lao động theo quy định hiện hành.
- Đề xuất các trường hợp khen thưởng, kỷ luật trong việc thực hiện công tác an toàn vệ sinh lao động.
- Cán bộ bảo hộ lao động phải thường xuyên đi sát các bộ phận sản xuất kinh doanh, nhất là những nơi làm việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm dễ xảy ra tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp để kiểm tra đôn đốc việc thực hiện các biện pháp ngăn ngừa.
* Kỹ thuật vận chuyển, bảo quản: Hệ thống vận chuyển, hệ thống cảng biển, đường bộ, đường sắt, hệ thống kho chứa, đường ống dẫn xăng dầu, cửa hàng xăng dầu... vừa là cơ sở, điều kiện cho hoạt động kinh doanh xăng dầu vừa là một bộ phận quan trọng trong kết cấu hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế. Những hệ thống này càng mở rộng và hiện đại không chỉ bảo đảm cho kinh doanh xăng dầu thuận lợi và hiệu quả mà còn mở rộng tiềm lực cho phát triển kinh tế quốc dân. Nếu hệ thống đường sắt, đường bộ, đường biển, đường sông không được bảo quản tốt sẽ dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp, thậm chí kinh doanh xăng dầu có thể thua lỗ.
* Bảo vệ môi trường: Hoạt động kinh doanh xăng dầu còn trực tiếp liên quan đến việc bảo vệ môi trường sinh thái. Nếu đường ống dẫn bị giò, rỉ, mặt sông, mặt biển bị dầu loang sẽ làm cho môi trường sinh thái ở đó bị ô nhiễm. Độ kín của kho chứa và phương tiện vận chuyển không bảo đảm... không chỉ làm tăng mức thất thoát xăng dầu, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh mà còn trực tiếp gây ô nhiễm môi trường sinh thái. Thực tế trong nước và thế giới các vụ cháy nổ, đắm tầu, vỡ đường ống dẫn, xe lăn xuống vực sâu... đã gây bao nhiêu tác hại nghiêm trọng đến môi trường sống. Vì vậy hoạt động kinh doanh xăng dầu phải thường xuyên gắn với việc bảo vệ môi trường sinh thái là một đòi hỏi tất yếu và vô cùng nghiêm ngặt. Việc xây dựng cảng biển, kho chứa, đường ống dẫn, sử dụng phương tiện vận chuyển và quy chế sử dụng xăng dầu đòi hỏi phải bảo đảm những chỉ số an toàn tuyệt đối. Hậu quả của những sai sót trong quá trình tổ chức kinh doanh có tính lan truyền, không chỉ thiệt hại về kinh tế mà còn gây những tác hại nghiêm trọng về môi trường sống và các hậu quả xã hội khác.
1.2.1.4. Quản lý nhân sự
- Xác định biên chế, tuyển dụng, đào tạo lao động:
Nguyên tắc tuyển dụng lao động:
1. Việc tuyển dụng lao động phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ quản lý, điều hành và tổ chức sản xuất kinh doanh của từng phòng nghiệp vụ.
2. Người lao động được tuyển dụng vào làm việc tại văn phòng công ty phải thông qua hình thức thi tuyển, xét tuyển.
3. Việc tuyển dụng lao động phải đảm bảo công khai, minh bạch và khách quan.
4. Trong trường hợp thi tuyển, người được tuyển dụng là người có kết quả thi tuyển các môn đều đạt yêu cầu và có điểm thi chuyên môn nghiệp vụ cao nhất lấy từ cao xuống thấp cho đến khi đủ số người dự tuyển dụng (trường hợp cần chọn trong các ứng viên có điểm thi chuyên môn nghiệp vụ bằng nhau thì thực hiện theo thứ tự ưu tiên những người có chuyên môn nghiệp vụ lâu năm hơn, lý lịch trong sạch).
Quản lý nhân sự bao gồm cả đào tạo cán bộ thay thế, kế tiếp. Muốn chủ động về nhân sự, công ty phải cử người đi học các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về kinh tế thị trường, kinh doanh thương mại, kinh tế đối ngoại, thanh toán quốc tế... . Cũng cần xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng theo các hình thức và loại hình lao động khác nhau.
- Quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ quản lý:
Trong công tác quy hoạch, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ cần phải chú ý rèn luyện đào tạo người cán bộ có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn vững vàng. Cán bộ lãnh đạo, quản lý công ty phải tâm huyết với sự nghiệp phát triển công ty, có khả năng tự học tập, rèn luyện đáp ứng các tiêu chuẩn của cán bộ quản lý lĩnh vực kinh doanh năng động và cạnh tranh quyết liệt như kinh doanh xăng dầu.
Trong giai đoạn hiện nay khi đất nước đang thực hiện đổi mới, mở rộng quan hệ quốc tế, hội nhập với các nước trên thế giới, cán bộ lãnh đạo, quản lý công ty không chỉ có đạo đức, nhiệt tình cách mạng đã đủ, mà cần phải có tầm nhìn chiến lược, có tư duy kinh tế khoa học, dự báo được tương lai phát triển của công ty và thị trường. Công tác quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý phải tìm, đào tạo và sử dụng được những cán bộ như thế.
- Chính sách lương:
Trong doanh nghiệp nhà nước mức lương tối thiểu chung dùng để tính lương, phụ cấp lương, làm căn cứ để đóng và hưởng bảo hiểm xã hội, đóng bảo hiểm y tế và thực hiện chế độ chính sách cho người lao động. Còn việc tính và trả lương thì theo năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hệ thống thang lương, bảng lương áp dụng trong doanh nghiệp gồm:
+ Hệ thống thang lương công nhân.
+ Hệ thống bảng lương công nhân, viên chức trực tiếp sản xuất kinh doanh và phục vụ.
+ Bảng lương viên chức chuyên môn nghiệp vụ và phụ cấp chức vụ quản lý lãnh đạo.
+ Bảng lương chức vụ quản lý doanh nghiệp.
1.2.1.5. Quản lý tài chính
- Huy động vốn:
Trong nền kinh tế thị trường, cùng với sự phát triển của doanh nghiệp, yêu cầu về vốn ngày một tăng lên không ngừng. Với doanh nghiệp, vốn là một loại quỹ tiền tệ đặc biệt, có mục tiêu phục vụ kinh doanh, là số tiền phải được ứng trước trong kinh doanh. Tuy nhiên, điểm khác biệt nổi bật với một số quỹ tiền tệ khác của doanh nghiệp là vốn kinh doanh sau khi ứng ra, được sử dụng vào kinh doanh, qua một chu kỳ hoạt động phải được thu về để ứng tiếp cho chu kỳ hoạt động sau. Vốn kinh doanh không thể bị mất đi mà luôn luôn được bảo toàn và phát triển, phục vụ công tác tái đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp mất vốn cũng đồng nghĩa với nguy cơ phá sản. Vì thế, bảo tồn và phát triển vốn là vấn đề trọng yếu của doanh nghiệp. Vậy công ty Xăng dầu Lào, ngoài số vốn nhà nước đầu tư, Công ty được quyền huy động vốn dưới các hình thức phát hành trái phiếu, cổ phiếu, vay vốn, nhận vốn góp liên kết và các hình thức khác để phát triển kinh doanh. Công ty tự chịu trách nhiệm về việc huy động vốn, nhưng không được thay đổi hình thức sở hữu và phải tuân theo các quy định của pháp luật hiện hành.
Trên cương vị của mình, nhà nước Lào thực hiện vai trò chủ sở hữu đối với Công ty. Nhà nước kiểm soát giá cả và khống chế giá, có cơ chế hỗ trợ, bảo tồn, phát triển và can thiệp trực tiếp, có kiểm tra thường xuyên trong phạm vi cần thiết. Nhà nước quản lý vốn sở hữu của mình trong Công ty dưới hình thức giá trị, với yêu cầu chính là số vốn đó được bảo tồn và phát triển, còn việc sử dụng các tài sản hiện vật cụ thể thì do Công ty tự quyết định. Trên nguyên tắc đó, quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm của Công ty trong hoạt động kinh doanh xăng dầu được mở rộng. Nhà nước sẽ không điều chỉnh vốn khi Công ty đang hoạt động bình thường, chỉ điều chỉnh vốn chủ sở hữu trong trường hợp tổ chức lại Công ty. Công ty phải chịu trách nhiệm dân sự về toàn bộ tài sản của Công ty. Nhà nước chỉ chịu trách nhiệm về công nợ của Công ty trong giới hạn giá trị vốn chủ sở hữu nhà nước tại Công ty.
- Quản lý tài chính công ty:
Thứ nhất, tổ chức nguồn vốn tiền tệ, bảo đảm cho quá trình kinh doanh của công ty không bị gián đoạn. Muốn như vậy, hàng năm công ty phải lập kế hoạch vốn, kế hoạch khấu hao tài sản cố định và kế hoạch tín dụng.
Thứ hai, phân phối thu nhập của công ty, lập, quản lý và sử dụng các quỹ của công ty như quỹ bù đắp vật chất tiêu hao, quỹ khấu hao, quỹ bù đắp vốn lưu động, quỹ tiền lương, quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ phát triển sản xuất và quỹ tích luỹ vốn nộp ngân sách nhà nước.
Thứ ba, huy động và sử dụng hợp lý vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh, nộp các khoản cho ngân sách nhà nước, trả nợ ngân hàng, đảm bảo hoạt động tài chính được ổn định.
1.3. Kinh nghiệm quản lý kinh doanh xăng dầu của một số nước
1.3.1. Kinh nghiệm quản lý Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam
Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam có vị thế là doanh nghiệp trọng yếu của Nhà nước, được xếp hạng đặc biệt, có quy mô toàn quốc, chiếm 60% thị trường xăng dầu trên cả nước. Những năm qua, Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam luôn phát huy vai trò chủ lực, chủ đạo điều tiết, ổn định và phát triển thị trường xăng dầu, sản phẩm hoá dầu, phục vụ đắc lực công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Định hướng chiến lược phát triển của Tổng Công ty là trở thành tập đoàn kinh doanh mạnh của Nhà nước ở khâu hạ nguồn, lấy kinh doanh xăng dầu làm trục chính, đa dạng hoá có chọn lọc các mặt hàng và loại hình kinh doanh, đa dạng hoá hình thức sở hữu theo hướng tích cực, cổ phần hoá các công ty thành viên và đề xuất Chính phủ cho phép cổ phần hoá toàn bộ Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam, đẩy mạnh chương trình hiện đại hoá; tăng cường đầu tư ra nước ngoài, phát triển kinh doanh tái xuất khẩu, nâng cao năng lực hợp tác và cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Theo định hướng trên, Tổng Công ty tập trung mọi nỗ lực cho đầu tư phát triển, nâng cao chất lượng toàn diện của doanh nghiệp với những nhiệm vụ trọng tâm sau:
Phát triển và củng cố thị phần của Petrolimex trong cả nước như: công tác đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và phát triển công nghệ tiên tiến: giá trị đầu tư trong năm 2004 ước thực hiện 514 tỷ đồng đạt 70% kế hoạch và tăng 3% so với năm 2003. Xét về cơ cấu, giá trị đầu tư cửa hàng xăng dầu và kho - bể chiếm tỷ trọng trên 50% tổng giá trị thực hiện đã khẳng định tính đúng đắn trong chủ trương của năm kế hoạch 2004 [23, tr.12].
Kết quả là 98 cửa hàng xăng dầu (đầu tư chuyển tiếp năm 2003 và năm 2004), gần 60.000m3 kho bể, 3 cầu cảng (Quảng Ninh, Nhà Bè, Cần Thơ), 31km ống tuyến H101 - Hải Phòng, 1 tầu kéo 3.000CV... cùng các hạng mục nâng cấp, sửa chữa khác đã được huy động đưa vào sử dụng, đáp ứng được yêu cầu và gia tăng năng lực công tác nhập khẩu, tiếp nhận điều độ hàng hoá phục vụ kinh doanh trên cả nước. Bên cạnh việc đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, công tác đầu tư mới thiết bị, máy móc, tự động hoá công nghệ, phương tiện vận tải... vẫn được coi trọng và phát huy hiệu quả. Trong đó, việc đầu tư mái phao cho các bể dầu sáng, lắp đặt hệ thống báo mức, báo tràn cho các bể chứa, tự động hoá bến xuất thủy, bộ tại các kho cấp phát... được các công ty quan tâm thực hiện. Do thấy rõ lợi ích đầu tư mang lại,Tổng Công ty xăng dầu Petrolimex đã đầu tư ra nước ngoài, xây dựng hệ thống kho ngoại quan, đẩy mạnh hoạt động tái xuất khẩu, tiến tới tổ chức kinh doanh xăng dầu trên thị trường các nước trong khu vực, đổi mới và hoàn thiện phương thức kinh doanh thích nghi với điều kiện hợp tác và cạnh tranh trong khuôn khổ luật pháp Việt Nam và quốc tế, vừa nâng cao hiệu quả kinh tế, vừa đảm bảo thực hiện nhiệm vụ chính trị do Nhà nước giao.
Tổng công ty tiếp tục đầu tư theo quy hoạch phát triển cơ sở kỹ thuật hạ tầng của nhà nước để hiện đại hoá và xây dựng mới các công trình quan trọng như cầu cảng, kho bể, đường ống, mạng lưới cửa hàng bán lẻ xăng dầu, nhất là hệ thống cửa hàng hiện đại dọc đường Hồ Chí Minh, các dây chuyền công nghệ nhập, xuất, pha chế dầu mỡ nhờn, hoá chất, nhựa đường, gas..., tiếp tục phát triển đội tầu viễn dương Petrolimex, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong kinh doanh và quản lý doanh nghiệp. Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam cam kết bảo vệ an toàn môi trường sinh thái và sẵn sàng hợp tác, chia sẻ cơ hội đầu tư phát triển với các đối tác trong và ngoài nước. Nhờ nỗ lực như vậy, tổng nhiều năm qua, Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam luôn là một trong những doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả ở Việt Nam, là chỗ dựa của Nhà nước trong điều hành vĩ mô.
1.3.2. Kinh nghiệm quản lý Công ty xăng dầu Pototho Thái Lan
Từ những năm 1985 Chính phủ Thái Lan đã thay đổi chính sách phát triển kinh tế theo hướng mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực, công nghiệp, nông lâm, ngư nghiệp và ngành kinh tế dịch vụ, thương mại, nhất là kinh doanh xăng dầu. Công ty Pototho PTT (Public Company Limited) là công ty xăng dầu có chức năng kinh doanh dịch vụ trong nước và quốc tế, kinh doanh lọc dầu và sản phẩm dầu khí hoá chất, bao gồm các phân ngành cụ thể như:
- Thăm dò, khai thác, chế biến hoá chất, tiêu thụ sản phẩm: ga tự nhiên, condensate trong nước và nước ngoài.
- Tìm kiếm và vận chuyển ga tự nhiên theo đường ống, hoá lỏng và phân phối.
- Kinh doanh xăng dầu trong nước và quốc tế
- Sản xuất sản phẩm xăng dầu và sản xuất sản phẩm hoá chất.
PTT có dự định sẽ trở thành công ty năng lượng của Thái Lan, trong đó bao gồm kinh doanh ga tự nhiên và xăng dầu các loại, kinh doanh sản phẩm dầu khí hoá chất, đồng thời nhấn mạnh ga tự nhiên là trọng tâm trong kinh doanh ở phạm vi toàn cầu.
PTT được đăng ký vào thị trường chứng khoán của Thái Lan vào ngày 6/12/2001. Bộ Tài chính là người giữ phần vốn lớn nhất và thực hiện quản lý Công ty theo chính sách của quốc gia Thái Lan trong từng thời kỳ, có chú trọng đến cân đối nguồn năng lượng xăng dầu và giá xăng dầu trong nước.
Đối với việc bảo toàn vốn kinh doanh xăng dầu, trong thời gian qua vì tình hình giá cả xăng dầu của thế giới leo thang, tron._.hoặc tăng trình độ phát triển kinh tế.
Loại ý thứ ba: cả chỉ tiêu giá trị và chỉ tiêu hiện vật đều là cần thiết và quan trọng khi đánh giá hiệu quả kinh doanh của Công ty xăng dầu Lào. Nhưng, những chỉ tiêu này không nên xem xét thuần túy, khép kín và khác biệt trong bản thân hoạt động kinh doanh xăng dầu, mà nên xem xét đánh giá trong quan hệ với tổng thể phát triển kinh tế - xã hội.
Ba loại ý kiến trên đều có những khía cạnh đúng của nó, song không phải là những quan điểm đánh giá hiệu quả kinh doanh xăng dầu của Công ty một cách toàn diện. Theo chúng tôi, khi đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty xăng dầu Lào cần phải xem xét cụ thể trên các phương diện sau:
- Xem xét khả năng, trình độ và mức độ bảo đảm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội về xăng dầu.
- Xem xét tác động của mặt hàng xăng dầu đối với quá trình mở rộng tái sản xuất xã hội và tiêu dùng xã hội.
- Xem xét khả năng bảo đảm an toàn xã hội và môi trường sinh thái (phòng chống cháy nổ, mức độ ô nhiễm môi trường...).
- Khả năng đóng góp vào việc tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và văn minh trong hoạt động thương mại.
- Hiệu quả kinh tế cụ thể của bản thân hoạt động kinh doanh xăng dầu như: mức tăng doanh số, tăng doanh thu (chênh lệch giữa doanh số bán và doanh số mua), các khoản nộp ngân sách, lợi nhuận...
Như vậy, hiệu quả của hoạt động kinh doanh xăng dầu phải được xem xét toàn diện cả về chỉ tiêu giá trị và chỉ tiêu hiện vật, cả trên phạm vi xã hội cũng như của đơn vị kinh doanh cụ thể. Điều này đòi hỏi phải có quan điểm lợi ích đúng đắn trong kinh doanh, lợi ích của hoạt động kinh doanh xăng dầu phải gắn bó chặt chẽ với lợi ích chung của toàn xã hội, không thể biệt lập tách rời lợi ích xã hội. Nếu chỉ quan tâm đến lợi ích riêng của ngành mà làm phương hại đến lợi ích xã hội thì không thể nói là Công ty kinh doanh có hiệu quả. Những nhận thức và hành động sai lầm trong hoạt động kinh doanh xăng dầu không chỉ ảnh hưởng đến bản thân Công ty xăng dầu mà còn tác hại đến toàn bộ xã hội. Vì vậy, phải có quan điểm toàn diện khi đánh giá hiệu quả của Công ty xăng dầu Lào.
3.1.4. Hiện đại hoá công tác quản lý ở Công ty xăng dầu Lào
Đằng sau việc chuyển đổi Công ty xăng dầu Lào trở thành hiện đại là vấn đề hiện đại hoá công tác quản lý. Đây phải được coi là một phương hướng hành động có tính chiến lược của Công ty xăng dầu và yêu cầu đối với cơ quan cấp trên của Công ty. Muốn làm được như vậy, cần giao quyền chủ động trong quản lý và cung ứng xăng dầu hơn nữa cho Công ty, đồng thời giao nhiệm vụ rõ ràng cho Công ty trong việc đảm bảo hoạt động hiệu quả đi đôi với phục vụ nhiệm vụ chính trị của Nhà nước, góp phần thực hiện sự nghiệp bảo vệ, xây dựng đất nước tiến bộ, đảm bảo cung cấp đủ xăng dầu để nuôi dưỡng nền kinh tế việc phát triển. CHDCND Lào là nước nhập khẩu xăng dầu hoàn toàn, vì vậy càng cần sử dụng xăng dầu có hiệu quả cao, coi đây là nhiệm vụ thử thách ban giám đốc Công ty trong thời kỳ mới. Nếu công ty xăng dầu không thể làm nhiệm vụ có hiệu quả, thì Nhà nước không có tổ chức của mình để thực thi điều chỉnh cung ứng xăng dầu theo đường lối phát triển kinh tế - xã hội của CHDCND Lào là đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, tiến tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Quá trình hiện đại hoá quản trị doanh nghiệp ở Công ty xăng dầu Lào cần thực hiện theo từng bước:
- Trước hết, "hiện đại hoá quản trị doanh nghiệp" có nghĩa rằng Công ty xăng dầu Lào phải có năng lực tự củng cố và phát triển, có khả năng sử dụng trang thiết bị hiện đại như máy vi tính, mạng công nghệ trong khâu kiểm tra, đánh giá, vận dụng các phương thức hiện đại nâng cao trình độ năng lực của nhân sự, có phương pháp điều hành công việc quy củ, chuyên nghiệp và có năng lực đầy đủ trong việc cạnh tranh kinh doanh xăng dầu trong tư thế vừa kinh doanh vừa làm nhiệm vụ chính trị do Đảng giao phó.
- Thứ hai, "hiện đại hoá" không phải chỉ ở phương diện đầu tư phương tiện hiện đại hoá, mà cơ bản là ở cách thức suy nghĩ và phương thức hành động.
Trong thời gian tới, Công ty xăng dầu Lào có những điều kiện thuận lợi cho việc hiện đại hoá quản trị doanh nghiệp, đó là:
+ Quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và lý luận quản lý đã cho phép Công ty xăng dầu Lào nhận thức được vai trò của mình trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lào, đã giúp Công ty xăng dầu Lào hiểu được tình hình chuyển đổi, nhất là tình hình xăng dầu trên thế giới, tình hình cung ứng và nguồn xăng dầu hiện có và sẽ có trên thế giới.
+ Vấn đề xăng dầu đã trở thành vấn đề lớn ở thế giới và khu vực đòi hỏi các nước có sự hợp tác kinh doanh với nhau, nhờ đó các nước như CHDCND Lào, không có mỏ dầu, không có bến cảng, có điều kiện hợp tác nhập xăng dầu từ các nước anh em bè bạn theo cơ chế ưu đãi và ổn định hơn.
+Đảng và Chính phủ CHDCND Lào có đường lối đúng đắn trong việc củng cố thúc đẩy Công ty xăng dầu Lào trở thành công ty mũi nhọn, dẫn đầu trong ngành để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở trong nước.
+ Hơn 30 năm vừa qua Công ty xăng dầu Lào đã có kinh nghiệm về nhiều mặt, nhất là về nghiệp vụ kinh doanh, phát triển marketing, kỹ thuật, vận tải, đặt hàng, quản lý kinh doanh, củng cố đào tạo nhân sự nghiệp vụ...Đây là tiền đề hết sức cần thiết để Công ty tiếp tục bước sang giai đoạn hiện đại hoá quản trị kinh doanh.
+Công ty xăng dầu Lào đã có cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc, có kho, cửa hàng bán lẻ, đội xe xitec vận tải có đủ khả năng phục vụ kinh doanh xăng dầu trên toàn đất nước.
+Dưới sự lãnh đạo của đảng bộ cấp trên và đảng bộ cơ sở, Công ty xăng dầu đã tích luỹ được kimh mghiệm trong việc tổ chức thực hiện kế hoạch, xây dung chiến lược.
Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, việc hiện đại hoá quản trị Công ty cũng gặp không ít khó khăn và thử thách, cụ thể là:
+Giá cả xăng dầu leo thang trên thị trường thế giới và nguồn xăng dầu ngày càng giảm xuống nên cung cầu xăng dầu có nguy cơ mất cân đối. Theo dự đoán của các chuyên gia, khoảng 2-3 thập kỷ nữa dầu sẽ trở nên cạn kiệt. Dự báo này cho thấy các nước nhập khẩu xăng dầu như nước Lào sẽ gặp nhiều khó khăn.
+ Việc tìm kiếm thêm nguồn nhập khẩu xăng dầu cũng khá hạn chế. Hiện nay, nguồn nhập xăng dầu ở Lào chỉ từ hai nguồn: nhập khẩu từ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam (Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam) và Thái Lan. Khi hai nước này gặp khó khăn, Lào cũng chịu ảnh hưởng rất lớn.
+ Chính sách tự do hoá kinh doanh xăng dầu đã làm cho các công ty kinh doanh xăng dầu ở Lào mọc lên rất nhanh, trong khi đó thị trường Lào khá hạn hẹp (400 triệu lít/năm), dẫn đến tình trạng cạnh tranh không đáng có, không tuân thủ pháp luật, chính sách của nhà nước, mạnh ai nấy chạy, có những công ty không có kho, không có cửa hàng nhưng vẫn kinh doanh xăng dầu… Tình trạng đó làm cho Công ty xăng dầu Lào, với tư cách công ty nhà nước, vừa phải tuân thủ nghiêm pháp luật, vừa thực thi chính sách xã hội nên lâm vào tình thế kém sức cạnh tranh.
+ Hiện nay Nhà nước quy định chức năng, nhiệm vụ cho Công ty xăng dầu Lào chưa sát với thực tế, nhất là nhiệm vụ chính trị, vì nhiệm vụ này công ty kinh doanh lỗ trong 3-4 năm liền mà Nhà nước không bù lỗ. Vì Nhà nước không có chính sách bù lỗ nên công ty xăng dầu phải vay ngân hàng theo lãi suất kinh doanh. Chính vì thế nên thị phần của Công ty đã giảm từ 48% xuống đến 43% trong năm 2005.
Trước mắt, việc củng cố sức cạnh tranh của Công ty xăng dầu Lào còn hạn chế vì Công ty thiếu vốn, vay ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn. Còn lãi mà công ty đạt được trong những năm qua đã bị Nhà nước chuyển sang cho các hoạt động khác, phần nhỏ để lại Công ty không đủ cho việc mở rộng kinh doanh.
+Việc phát triển thị trường của Công ty còn khó khăn hơn nữa do Công ty gánh trách nhiệm quá cao, chưa giải quyết được vấn đề công nợ, còn nhiều khoản nợ các đơn vị khác không trả.
+ Lĩnh vực vận tải cũng gặp khó khăn do xe tải cũ kém hiệu quả phải đầu tư sửa chữa lớn.
+Việc đào tạo củng cố nhân sự còn chưa phát triển, còn mang tính chất chậm chạp giải quyết vấn đề từ từ, thiếu sự trợ giúp nên công việc chưa được mở rộng lắm.
+ Cơ cấu tổ chức tương đối lớn so với khối lượng công việc và so với công ty cạnh tranh khác dẫn đến hiệu quả đổi mới quản trị Công ty xăng dầu Lào càng gặp khó khăn.
3.1.5. Coi trọng chiếm lĩnh thị trường và tăng sức cạnh tranh của Công ty xăng dầu Lào phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào
Từ phương thức kinh doanh độc quyền chuyển sang cho phép nhiều chủ thể khác nhau cùng tham gia kinh doanh xăng dầu là một chủ trương đúng đắn phù hợp với đòi hỏi của cơ chế thị trường. Song, do tính chất đặc thù và yêu cầu riêng của lĩnh vực kinh doanh xăng dầu, các chủ thể kinh doanh không thể hoạt động theo kiểu tuỳ tiện gặp gì làm nấy, khi có lợi nhuận thì đầu tư kinh doanh và ngược lại lúc giá xăng dầu leo thang liên tục thì ngừng bán, ngừng kinh doanh.
Việc xác lập một cơ cấu hợp lý về các chủ thể kinh doanh xăng dầu trong cả nước để thực hiện nguyên tắc cạnh tranh trong kinh doanh và tuân thủ sự quản lý của Nhà nước CHDCND Lào là rất cần thiết.
Để hình thành được một cơ chế bảo đảm và kinh doanh xăng dầu, một mặt phải bảo đảm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng xăng dầu của xã hội, tránh được sự khủng hoảng về xăng dầu gây hậu quả xấu cho nền kinh tế quốc dân, mặt khác, cần kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Các chủ thể kinh doanh cạnh tranh với nhau, kích thích kinh doanh phát triển, mang lại hiệu quả kinh tế và lợi nhuận cao để tồn tại và phát triển công ty của mình, nhưng phải cạnh tranh lành mạnh, trên cơ sở tuân thủ pháp luật.
Đối với Công ty xăng dầu Lào, cần thực thi các phương hướng nâng cao sức cạnh tranh sau:
+ Cần sử dụng triệt để, có hiệu quả vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật của Nhà nước đã đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh xăng dầu, hạn chế tối đa việc đầu tư phân tán, không đồng bộ, gây lãng phí cho Nhà nước.
+ Nâng cao tính trách nhiệm về chất lượng hàng hoá, tránh việc đưa hàng giả, hàng kém phẩm chất vào kinh doanh gây thiệt hại cho xã hội.
+ Bảo đảm tính cân đối về cơ cấu mặt hàng, tránh tình trạng chỉ tập trung nhập và kinh doanh một hoặc một số mặt hàng có lợi nhuận cao, các mặt hàng khác không có ai đảm nhận, gây khó khăn cho người tiêu dùng.
+ Tạo dựng cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh, hạn chế kiểu kinh doanh chỉ chạy theo những mặt hàng có lợi nhuận cao, hoặc bán chạy, bán đổ tháo làm lũng đoạn giá... Công ty cần khuyến khích việc đổi mới và cải tiến phương thức kinh doanh để kinh doanh văn minh trên thương trường, làm gương cho doanh nghiệp khác.
+ Khắc phục tình trạng dễ, thuận lợi có lãi thì làm còn những vùng sâu, vùng xa khó khăn, thua lỗ thì bỏ. Khuyến khích và tạo điều kiện đưa xăng dầu đến phục vụ vùng sâu, vùng xa, vùng hẻo lánh trên mọi miền của đất nước.
+ Việc xác lập lại hệ thống kinh doanh xăng dầu toàn quốc phải đáp ứng được yêu cầu cơ bản sau:
Tạo ra được một hệ thống kinh doanh năng động có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường nhưng vẫn bảo đảm được sự chỉ đạo, quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước về nguồn nhập, phân phối nguồn, chất lượng hàng hoá, phương thức kinh doanh, ổn định giá cả...
Từng bước đa dạng hoá các chủ thể tham gia kinh doanh theo cơ chế nhiều thành phần có sự tham gia của các doanh nghiệp cả trong nước và nước ngoài, trong đó có một công ty xăng dầu quốc gia đủ mạnh để trực tiếp giữ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Hình thành đường vận chuyển xăng dầu hợp lý, tập trung và thông suốt trong cả nước để kinh doanh, sử dụng hợp lý cơ sở vật chất kho nhập, kho chứa xe xitéc...
Để thực hiện những yêu cầu trên, Nhà nước phải rà soát lại những công ty kinh doanh xăng dầu, công ty nào không bảo đảm được tiêu chuẩn cơ sở vật chất, kỹ thuật, điều kiện để tiến hành kinh doanh xăng dầu nêu trên, nên kiên quyết không cho phép kinh doanh.
Đối với những đơn vị có đủ điều kiện và tiêu chuẩn để tham gia kinh doanh xăng dầu cũng cần tiến hành xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, trên cơ sở đó tiến hành đăng ký hoạt động kinh doanh xăng dầu trong toàn quốc để định hình được thành phần và các lực lượng cơ bản tham gia kinh doanh một cách rõ ràng.
Để có một thị trường kinh doanh xăng dầu thống nhất, ổn định, cạnh tranh lành mạnh, góp phần tích cực cho lợi ích kinh tế của đất nước, cần thiết lập cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, cơ cấu hợp lý về các chủ thể kinh doanh xăng dầu.
Cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn hiện nay đã cho thấy muốn có một nền kinh tế lành mạnh thì Nhà nước phải tăng cường quản lý và đồng thời trong tay Nhà nước cũng phải có những doanh nghiệp mạnh đủ sức chủ đạo, đủ sức điều tiết và chi phối mọi tình huống bất ổn. ở nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào nên xây dựng Công ty xăng dầu Lào thành công ty chủ đạo, dẫn đầu cả nước.
3.2. Các giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới quản lý ở Công ty xăng dầu Lào
3.2.1. Nhóm giải pháp về tổ chức, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của Công ty xăng dầu Lào
Tổ chức lao động đóng vai trò trung tâm trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty xăng dầu Lào, giúp công ty tồn tại và phát triển. Có thể nói, người lao động là linh hồn của công ty. Chính họ làm cho cỗ máy và toàn bộ công ty hoạt động đúng hướng. Tầm quan trọng của con người quyết định tầm quan trọng của tổ chức lao động trong Công ty xăng dầu Lào. Để lực lượng lao động đóng góp lớn cho Công ty, cần áp dụng những giải pháp sau đây:
- Sắp xếp lại hệ thống cơ cấu tổ chức của Công ty. Phải áp dụng những thay đổi sao cho bộ máy quản lý giảm cồng kềnh, xoá bỏ chồng chéo, giảm các đầu mối, nhưng phải đảm bảo nguyên tắc: kịp thời, nhanh chóng và chính xác, đáp ứng được yêu cầu cạnh tranh trong kinh tế thị trường. Nói đúng hơn, bộ máy quản lý phải gọn nhẹ, làm việc phải có năng suất - chất lượng - hiệu quả.
- Thường xuyên rà soát lại lao động để bố trí lao động hợp lý như bố trí số lượng lao động, chất lượng lao động (bố trí đúng ngành, đúng nghề, trình độ chuyên môn, giới tính, độ tuổi).
- Đẩy mạnh áp dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất kinh doanh nhằm mục đích giảm chi phí sức lao động và an toàn trong sản xuất, mang lại hiệu quả kinh tế cao.
- Chăm lo công tác giáo dục đào tạo cho người lao động, nhằm hướng cho người lao động thường xuyên nắm được kiến thức mới và tiếp thu được công nghệ tiên tiến của thời đại, áp dụng tiến bộ kỹ thuật của công nghệ thông tin vào công tác tổ chức lao động...
- Đổi mới các chính sách tuyển dụng lao động khoa học kỹ thuật cho phù hợp với yêu cầu của công ty và môi trường.
- Thực hiện chính sách đòn bẩy kinh tế thông qua chế độ tiền lương, tiền thưởng của công ty.
- Tạo thêm việc làm cho người lao động, mở rộng thêm một số loại hình kinh doanh khác để phụ thêm cho sản xuất kinh doanh chính. Tạo điều kiện cho người lao động phát triển toàn diện.
3.2.2. Nhóm giải pháp tăng hiệu quả quản lý tài chính của Công ty xăng dầu Lào
Hiệu quả quản lý tài chính kinh doanh xăng dầu do các nhân tố tác động: thị trường xăng dầu quốc tế, quan hệ ngoại trường, chính sách của Đảng và Nhà nước, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, mô hình tổ chức và phương thức kinh doanh, đặc biệt là đường vận chuyển xăng dầu là nhân tố cần phải hết sức coi trọng.
Những đổi mới bước đầu trong kinh doanh xăng dầu ở nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào nói chung, Công ty xăng dầu Lào nói riêng đã mang lại những thành quả nhất định, thị trường xăng dầu sôi động lên, đáp ứng được nhu cầu xăng dầu ngày càng tăng, phương thức kinh doanh mới có hiệu quả đang xuất hiện, nhất là quản lý tài chính hiệu quả. Công ty xăng dầu phải tăng cường huy động vốn bằng nhiều hình thức như vay ngân hàng, vay kho bạc và vay nước ngoài theo nhiều phương thức như vay trả chậm, vay dài hạn từ 1 năm trở lên...
Đổi mới cơ cấu chi và nâng cao hiệu quả chi, đồng thời cần tiếp tục đào tạo, và đào tạo lại đội ngũ cán bộ công chức, nhân viên nghiệp vụ tài chính phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước CHDCND Lào nói chung, ở Công ty xăng dầu Lào nói riêng.
3.2.3. Nhóm giải pháp tăng cường tính chủ động của Công ty xăng dầu trên thị trường xăng dầu Lào
Công ty Xăng dầu lào phải kinh doanh theo giá xăng dầu do nhà nước khống chế. Trong khi đó nền kinh tế thế giới vẫn tiềm ẩn những biến động khó lường về kinh tế, tài chính, tiền tệ, giá dầu vẫn tiếp tục đà tăng ở mức cao, giá kim loại tăng lên 10-15%. Nền kinh tế Lào tiếp tục phát triển đòi hỏi nhu cầu tiêu dùng nguyên vật liệu, nhất là xăng dầu nhiều hơn, trong khi giá xăng dầu lại tăng cao như vậy, sẽ gây áp lực lớn đối với doanh nghiệp nhà nước kinh doanh xăng dầu.
Để hoà giải những vấn đề trên, Công ty xăng dầu Lào phải tăng cường tính chủ động trên các mặt sau:
- Để có vốn lưu động trong kinh doanh xăng dầu, công ty nên đẩy mạnh vay nợ từ ngân hàng, từ kho bạc Nhà nước và từ nước ngoài. Cần dồn vốn để mua xăng dầu dự trữ. Cân đối tốt giữa công nợ trả ngắn hạn và công nợ trả dài hạn để mua máy móc, thiết bị sửa chữa và xây dựng cơ sở kỹ thuật, cải tạo cơ sở vật chất cũ theo hướng hiện đại hoá nhưng tiết kiệm.
- Củng cố kho nhập, kho dự trữ, phòng cháy chữa nổ, dụng cụ cân đo, đong đếm hiện đại hoá.
- Tăng cường chủ động quản lý tài chính, quản lý công nợ, công trả và vật tư cố định, quản lý việc mua bán sản phẩm, bảo đảm chất lượng, số lượng. Quản lý kho nhập, kho dự trữ theo hướng vừa an toàn, vừa giảm sự hao hụt, chống cháy nổ. Quản lý mặt hàng sắp xếp cho hợp với yêu cầu...
3.2.4. Đào tạo, nâng cao trình độ nguồn nhân lực và đổi mới chính sách tiền lương ở Công ty xăng dầu Lào
Để hiện đại hoá công ty, để phát huy nội lực, Công ty phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản để phát triển. Để làm được điều đó, Công ty xăng dầu Lào cần chú trọng các giải pháp sau:
- Tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ chủ chốt, xây dựng đội ngũ cán bộ để đủ sức quản lý Công ty xăng dầu trong tình hình mới. Chú trọng yêu cầu đào tạo phải kết hợp thật tốt lý luận và thực tiễn. Phải thực hiện cơ chế mới về đào tạo cán bộ cho từng cương vị, từng chức danh, từng loại cán bộ sao cho có thể sử dụng hiệu quả.
- Công ty cần có kế hoạch hàng năm về đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý. Kết hợp đào tạo ở trong nước và nước ngoài, đào tạo tập trung với đào tạo tại chức, đào tạo bổ sung theo hình thức ngắn hạn, thiếu kiến thức về lĩnh vực gì thì bồi dưỡng về lĩnh vực ấy với đào tạo chính quy, bài bản, coi trọng bồi dưỡng tư cách nhận thức cho cán bộ, quan tâm đào tạo cán bộ chuyên môn, cán bộ quản lý để thay thế sau này. Có thể hoạch định chiến lược đào tạo theo hướng:
Đào tạo cán bộ nguồn năng lượng thay thế 1 người/năm
Đào tạo cán bộ khai khoáng sản dầu mỏ 1 người/năm
Đào tạo cán bộ nghiên cứu thí nghiệm xăng dầu 1 người/năm
Đào tạo cán bộ quản lý kinh doanh 2 người/năm
Đào tạo cán bộ quản lý nhân sự 2 người/năm
Đào tạo nghiệp vụ theo yêu cầu của công ty ở cấp đại học, trên đại học: 3 người/năm.
Quyết định cho cán bộ đi học tiếng Anh cấp Intermadiate 6 người và cấp Uper intermediate 4 người/năm.
Kết hợp định hướng đào tạo, sử dụng và quản lý có hiệu quả nguồn nhân lực với phát triển kinh doanh, tạo công ăn việc làm, xây dựng chính sách tiền lương hợp lý. Việc đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo phải nhanh chóng, quyết liệt hơn nhằm không chỉ gắn với phát triển kinh doanh xăng dầu mà còn gắn với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và yêu cầu kinh doanh toàn cầu. Chính sách tiền lương đúng sẽ có tác động tích cực đến các nội dung của phát triển nguồn nhân lực như: thay đổi chất lượng nguồn nhân lực, tiền lương là cơ sở thực hiện nguyên tắc lợi ích - động lực quan trọng nhất kích thích tính tích cực lao động, làm cho người lao động năng động, có đạo đức, có khát vọng sáng tạo... Có thể khuyến nghị đổi mới chính sách tiền lương ở công ty xăng dầu trên các mặt:
Thứ nhất, chính sách tiền lương của Công ty phải đặt trong mối quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Cơ chế tiền lương của Công ty xăng dầu Lào cần thực hiện những mục tiêu cơ bản sau:
- Cố gắng tạo việc làm đầy đủ cho cán bộ công nhân viên.
- Tạo dựng động lực kích thích của tiền lương bằng cách gắn tiền lương với kết quả sản xuất, dịch vụ.
- Duy trì mức lương tối thiểu để bảo đảm cuộc sống như là biện pháp của hệ thống an sinh xã hội (quỹ lương thấp nhất bằng quỹ lương chế độ nhà nước quy định).
- Nhà nước quyết định thông số tiền lương thông qua cơ chế quản lý đơn giá tiền lương theo lợi nhuận, nộp ngân sách và năng suất lao động của công ty.
- Thực hiện bảo hiểm xã hội thống nhất trong khu vực kinh doanh cả nước.
Thứ hai, tiền lương trong mối quan hệ giữa công ty với người lao động: Tiền lương tối thiểu để bảo đảm cuộc sống đó là thông số để tính quỹ tiền lương trong chi phí và bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Còn tiền lương bình quân mà Nhà nước đã cho phép công ty được toàn quyền quyết định việc phân phối thì phân phối theo mức tiền công trên thị trường lao động. Hiện nay Công ty có mức tiền lương bình quân khá cao, nhưng việc phân phối còn nhiều bất cập: tâm lý phổ biến của ban quản lý Công ty ngại thay đổi, không muốn tạo thành cách biệt lớn trong phân phối tiền lương giữa những người có cùng thâm niên làm việc, cùng bằng cấp đào tạo nhưng có chất lượng lao động khác nhau. Cơ chế phân phối hiện tại đã không khuyến khích cho lao động giỏi. Để khắc phục nhược điểm này có thể thực hiện giải pháp sau:
+ Với vai trò chủ sở hữu, Nhà nước cần phải quản lý được giá thành hoặc phí lưu thông (có thể khoán lợi nhuận và thuế thu nhập) để loại trừ thu nhập bất hợp lý ngoài luồng, làm cho tiền lương là thu nhập chính của người lao động, khuyến khích người lao động gắn bó với doanh nghiệp. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý thông qua việc thanh tra, kiểm tra, quy định mức lương tối thiểu, hướng dẫn phương pháp xây dựng hệ thống tiền lương. Định mức lao động, đơn giá tiền lương gắn với năng suất, chất lượng và hiệu quả của công ty, bảo đảm 3 lợi ích. Bỏ cơ chế "xét duyệt thẩm định" đơn giá tiền lương để kích thích tính cạnh tranh của công ty.
+ Thay chế độ bổ nhiệm bằng thuê giám đốc điều hành công ty với cơ chế trả công hoặc ăn chia xứng đáng để thu hút những người điều hành doanh nghiệp giỏi. Việc thay đổi này sẽ nâng cao trách nhiệm của giám đốc, tạo động lực mới với cách làm mới trong Công ty. Đồng thời, quy định trách nhiệm của giám đốc cùng với công đoàn Công ty phải xây dựng và đăng ký thoả ước tập thể, nội quy lao động, trong đó có việc xây dựng hệ thống tiền lương, định mức lao động, quy chế phân phối tiền lương của công ty, trong quy chế phân phối, khuyến khích công ty trả lương xứng đáng để giữ và thu hút lao động giỏi. Đồng thời, để góp phần vào phát triển nguồn nhân lực của Công ty, nhà nước cần có chính sách khuyến khích công ty trả lương cao đối với lao động chất lượng cao.
3.3. Một số kiến nghị với cơ quan quản lý nhà nước tạo điều kiện cho Công ty xăng dầu Lào đổi mới quản lý thành công
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào
- Đề nghị sử dụng khoản lợi nhuận Công ty nộp cho Nhà nước để đầu tư trở lại Công ty nhằm củng cố cơ sở vật chất kỹ thuật cần thiết cho kinh doanh của Công ty, nhất là các lĩnh vực sau:
+ Củng cố lại hệ thống kho nhập - kho dự trữ đầu nguồn (ven biển Việt Nam) và kho hạ nguồn.
+ Xây dựng cửa hàng xăng bán lẻ ở các tỉnh để chủ động cung ứng khi công ty khác ngừng cung ứng.
+ Tăng cường đào tạo cán bộ công nhân viên nghiệp vụ...
- Đề nghị xin vay vốn với lãi suất thấp ở trong nước và nước ngoài.
3.3.2. Kiến nghị với Bộ Thương mại
- Bộ cần theo dõi sát diễn biến giá cả thị trường trong và ngoài nước để chủ động thực hiện các biện pháp bình ổn giá theo quy định của pháp lệnh giá khi giá thị trường có những biến động bất thường.
- Đề nghị tổ chức lại hệ thống các công ty kinh doanh xăng dầu ở CHDCND Lào hiện nay, công ty nào không đủ điều kiện kinh doanh như: không đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kho nhập, kho dự trữ; không có nhân viên nghiệp vụ; không có hệ thống chống cháy, chữa nổ... thì kiên quyết không cho phép kinh doanh. Kiểm tra chặt chẽ những chủ thể kinh doanh theo kiểu gặp gì làm nấy để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh.
- Đề nghị ra quyết định tổ chức Hội đồng quản trị Công ty Xăng dầu Lào theo đúng luật Kinh doanh.
- Đề nghị cho cấp trên bổ nhiệm thêm phó giám đốc với số lượng đầy đủ với trách nhiệm và nhiệm vụ được quy định rõ ràng.
kết luận
Kinh doanh xăng dầu là một lĩnh vực đặc biệt. Các công ty kinh doanh xăng dầu không chỉ có mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận mà còn có vai trò thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển hiệu quả, cải thiện và nâng cao chất lượng sống của nhân dân. Ngoài ra, kinh doanh xăng dầu còn liên quan đến các mục tiêu xã hội, nhất là giúp đỡ vùng nghèo, nhóm dân cư khó khăn, liên quan đến an ninh năng lượng quốc gia và quốc tế. Chính vì thế, các công ty kinh doanh xăng dầu, ngoài tác động của cơ chế thị trường, còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của các chính sách quốc gia, của mục tiêu mà nhà nước theo đuổi. ở các nước lựa chọn xu hướng xã hội chủ nghĩa như Lào và Việt Nam thì công ty kinh doanh xăng dầu hàng đầu thường là doanh nghiệp nhà nước.
Qua nghiên cứu cơ sở lý thuyết và thực trạng kinh doanh xăng dầu ở Công ty xăng dầu Lào, luận văn đã đạt được các kết quả chủ yếu sau đây:
- Luận chứng về sự cần thiết của xăng dầu đối với sản xuất và đời sống xã hội, xăng dầu là một yếu tố quan trọng tham gia vào giá thành các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ.
- Phân tích luận điểm: xăng dầu có những đặc tính kinh tế - kỹ thuật riêng, nước Lào phải nhập khẩu toàn bộ xăng dầu nên việc tiêu dùng xăng dầu và tổ chức kinh doanh xăng dầu có những đặc điểm riêng. Kinh doanh xăng dầu là kinh doanh thương mại có quy mô lớn, yêu cầu có nghiệp vụ kinh doanh riêng, cơ sở vật chất kỹ thuật mang tính chuyên dùng. Kinh doanh xăng dầu phải gắn với việc bảo đảm nguồn vật tư quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, phải bảo đảm an toàn về cháy, nổ, bảo vệ môi trường sinh thái...
- Hiệu quả kinh doanh xăng dầu do các nhiều nhân tố tác động như thị trường xăng dầu quốc tế, quan hệ ngoại thương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tình hình phát triển chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước, mô hình tổ chức và phương thức kinh doanh, đặc biệt "đường vận động xăng dầu" là nhân tố cần phải kết sức coi trọng.
- Phân tích những đổi mới bước đầu trong kinh doanh xăng dầu ở nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào và những thành quả mà công cuộc đổi mới đó đã mang lại; phân tích thị trường xăng dầu Lào, phân tích thực trạng kinh doanh và thực trạng quản lý ở Công ty xăng dầu Lào, tìm ra những thành công, bài học kinh nghiệm cũng như yếu kém và nguyên nhân của Công ty hiện nay.
- Đề xuất phương hướng đổi mới quản lý ở Công ty xăng dầu Lào trên các mặt: thống nhất nhận thức quan điểm hiệu quả trong kinh doanh xăng dầu, phát triển và hoàn thiện cơ chế kinh doanh phải gắn bó chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, hiện đại hoá quản lý công ty, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
- Đưa ra bốn nhóm giải pháp về đổi mới quản lý ở Công ty xăng dầu Lào trong các lĩnh vực đổi mới cơ cấu tổ chức, đổi mới quản lý tài chính, đổi mới phân cấp và dào tạo nhân lực.
Đổi mới quản lý ở một doanh nghiệp nhà nước kinh doanh trong lĩnh vực xăng dầu đầy nhạy cảm là vấn đề to lớn và phức tạp. Với thời gian hạn hẹp, mặc dù học viên đã hết sức cố gắng, giáo viên hướng dẫn tận tình, nhưng do ngôn ngữ còn chưa thông thạo nên luận văn chắc không khỏi còn khiếm khuyết. Tác giả luận văn sẽ rât vui mừng khi nhận được sự quan tâm góp ý của các thày cô giáo và các chuyên gia.
Danh mục tài liệu tham khảo
A. Phần tiếng Việt
Báo cáo tổng kết công tác năm 2004 phương hướng, nhiệm vụ năm 2005 của Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam.
Chiến lược phát triển của Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam từ 2010-2020.
Luật doanh nghiệp nhà nước Việt Nam, luật Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam.
"Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay"(2005), Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (8).
Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
Phạm Đức Thắng (2004), Thúc đẩy hoạt động tái xuất khẩu ở Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam, Luận án khoa học kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Khoa Thương mại.
Nguyễn Cao Vãng (1995), Kinh doanh xăng dầu theo cơ thị trường ở nước ta hiện nay, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Kinh tế quản lý và kế hoạch hóa kinh tế quốc dân, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
B. Phần tiếng Lào
Báo cáo tổng hợp quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 và tầm nhìn chiến lược đến năm 2020 của CHDCND Lào (2000), Nxb ủy ban kế hoạch nhà nước.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội VII Đảng NDCM Lào do đồng chí Khăm Tày Si Phăn Đon Chủ tịch BCHTW Đảng NDCM Lào trình bày tháng 3 năm 2001.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào tại Đại hội lần thứ IV của Đảng.
Bộ Thương mại (2001), Báo cáo phát triển kinh tế thương mại CHDCND Lào 10 năm (1990-2000).
Bộ Thương mại (2001), Chiến lược kinh tế thương mại CHDCND Lào (2010-2020).
BP Statistical Review of worgy - phát hành tháng 6/2004.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của CHDCND Lào đến năm 2020, ủy ban kế hoạch đầu tư nhà nước.
Chiến lược phát triển kinh doanh xăng dầu Công ty xăng dầu từ 2005-2020.
Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 1998-1999 thông qua tại Hội nghị lần thứ 3 của Quốc hội (khóa IV) ngày 28/9 - 10/10/1998.
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 1997-1998 thông qua tại Hội nghị lần thứ hai của Quốc hội (khóa III) ngày 28/9 - 30/10/1997.
Luật doanh nghiệp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
Phô thi Lát Phôm Phô Thi (2005), Tổ chức và quản lý doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Công ty xăng dầu Lào ngày 31/12/2005
Thong Lun Xỉ xu Lít (2004), Báo cáo về việc phát triển kinh tế - xã hội trong năm 2003-2004 tại Hội nghị lần thứ 6 Quốc hội (khóa V).
Petrolimex, Báo cáo tổng kết công tác năm 2004, Phương hướng, nhiệm vụ 2005.
Thông báo định mức số 2992 Công ty xăng dầu Lào năm 1999.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2615.doc