Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư ở Việt Nam.

Lời Mở đầu Tính cấp thiết của đề tài sản xuất của cải vật chất là nền tảng của xã hội, là hoạt động cơ bản nhất trong xã hội loài người. Xã hội không thể tồn tại nếu ngừng hoạt động sản xuất. Sản xuất là quá trình luôn vận động và phát triển. Sản xuất là tiến trình vận động liên tục và đổi mới không ngừng, ngày nay đồng thời với nó còn có quá trình tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng. Trong nền sản xuất lớn hiện đại, hội nhập và phát triển thì tái sản xuất mở rộng là hoạt động có ý nghĩa to

doc115 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1646 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư ở Việt Nam., để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lớn. Tái sản xuất mở rộng là kết quả của hoạt động đầu tư. Nghị Quyết Đại hội Đại biểu lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ: Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, chúng ta chủ trương tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức. Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý Nhà nước, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội theo hướng hiện đại, đổi mới chính sách đầu tư, phát triển các thành phần kinh tế trong nước và thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài… Quan điểm của Đảng là rõ ràng, đó là tư duy khoa học phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước, đồng thời là nhận thức đúng đắn về hoạt động đầu tư hết sức coi trọng vai trò của hoạt động đầu tư phát triển. Những năm qua Tỉnh Nam Định đã nắm vững quan điểm, đường lối lãnh đạo của Đảng, pháp luật, cơ chế chính sách của Nhà nước, kết hợp giữa tư duy lý luận với nắm vững đặc điểm tình hình, giải quyết nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trong tỉnh theo mục tiêu: “Phát huy sức mạnh tổng hợp, huy động và khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phấn đấu tăng trưởng kinh tế nhanh, phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi trường sinh thái” của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII, tỉnh Nam Định phải tổ chức thực hiện đồng bộ hệ thống giải pháp đã đề ra, trong đó giải pháp về đổi mới và nâng cao hiệu quae công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư là nội dung cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng tạo ra động lực cho quá trình phát triển đối với một tỉnh đông dân, có tiềm năng nhưng kinh tế còn kém phát triển. Là một cán bộ công tác trong ngành kế hoạch và đầu tư tỉnh Nam Định, đang theo học lớp Cao học kinh tế chính trị khoá VII của Trường Đại học Kinh tế quốc dân, với mong muốn sử dụng kiến thức đã học để đi sâu nghiên cứu, bổ sung tư duy lý luận cần thiết góp phần vào thực hiện nhiệm vụ thiết thực và cấp bách trên đây mà Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp đã đề ra, tôi chọn đề tài luận văn tốt nghiệp là: “ Đổi mới quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầ tư ở Việt Nam ( lấy ví dụ ở tỉnh Nam Định” 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Hiện nay, hoạt động đầu tư phát triển đang được xã hội quan tâm. Đã có không ít các cán bộ, nhà khoa học nghiên cứu những nội dung liên quan đến vấn đề này với những mức độ khác nhau như: - Đề tài “Quản lý Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” – năm 2001 – 2004, do GS – TSKH Lương Xuân Quý làm chủ nhiệm cũng đề cập đến vấn đề quản lý Nhà nước nói chung, trong đó có vấn đề quản lý hoạt động đầu tư. - Đề tài: “ Phương hướng và giải pháp tiếp tục đổi mới kế hoạch hoát trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCCN” – năm 2001 do TS Lê Huy Đức làm chủ nhiệm cũng với tính chất và mức độ tương tự nhưng dưới góc độ đổi mới công tác kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường. - Đề tài:“Tác động của việc sử dụng vốn đầu tư đến chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam: thực trạng và giả pháp” – năm 2004, do TS Từ Quang Phương làm chủ nhiệm, đề cập chủ yếu về vấn đề quan hệ giữa sử dụng vốn và tăng trưởng kinh tế. Đề tài: “Các mô hình phân tích dự báop phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn tỉnh, thành phố” – năm 2001 do TS Nguyễn Quang Dong làm chủ nhiệm chủ yếu sử dụng công cụ toán học để phân tích, dự báo về phát triển kinh tế tỉnh, thành phố, tạo ra cách nhìn trong quản lý Nhà nước và điều hành của Nhà nước trước những dự báo đó. - Đề tài: “Tiếp tục điều chỉnh chức năng quản lý Nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hcủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam” – năm 2005. do GS, TS Nguyễn Văn Thường làm chủ nhiệm, đề cập trên diện rộng chức năng quản lý của Nhà nước trong kinh tế thị trường để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Các nghiên cứu trên chủ yếu đề cập vấn đề quản lý kinh tế của Nhà nước nói chung có đi sâu vào một só vấn đề liên quan đến quản lý Nhà nước về đầu tư song ở mức độ xa và khái quát, dưới một gọc độ khác nhau, không trình bỳ một cách hệ thống hoàn chỉnh về quản lý Nhà nước ở phạm vi quốc gia đặc biệt chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp về đổi mới quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư phát triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam nói chung và cấp tỉnh nói riêng. Đáng chú ý hơn là các nghiên cứu trên đều tiến hành trước khi Việt Nam gia nhập WTO và trươc khi 4 luật ( Luật đấu tư, Luật xây dựng, Luật doanh nghiệp và Luật đấu thầu) do quốc hội bán hành và có hiệu lực, do đó có thể nói rằng: các nghiên cứu trên đây phần nào đã bị lạc hậu trước môi trường pháp lý mới và nếu áp dụng vào tình hình đất nước thì còn quá nhiều thiếu so với đòi hỏi bức xúc về đầu tư phát triển kinh tế – xã hội. Do đó có thể nói; sau khi Việt Nam ra nhập WTO và sau khi các luật đầu tư xây dựng, luật đấu thầu, luật doanh nghiệp có hiệu lực thì chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư ở nước ta nói chung và tỉnh Nam Định nói riêng. Luận văn nghiên cứu đổi mới công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư phát triển kinh tế – xã hội là nghiên cứu mang tính chất cơ bản, hệ thống, đi từ lý luận đến thực trạng và phương hướng giải pháp, có tính đồng bộ đối với vấn đề nóng hỏi tính thời sự cuộc sống, mang theo tinh thần mới của các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và Đại hội Đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ XVII, liên hệ và vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của một tỉnh vừa được xác định xây dựng thành trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội vùng phía Nam đồng bằng sông Hồng theo NGhị quyết 54/NQ BTC của Bộ Chính trị và văn bản phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển thành phố Nam Định giai đoạn 2006 – 2020, Quyết định 109/QĐ - TTG ngày 19/5/2006 của thủ tướng chính phủ. 3. Mục đích và nhiệm vụ khoa học của luận văn. Để tiếp tục đánh giá kết quả đạo tạo, điều kiện cho học viên tổng hợp, vận dụng các kiến thức đã học để đi sâu nghiên cứu giải quyết vấn đề thực tiến kinh tế – xã hội là thực hiện mục đích yêu cầu của chương trình đào tạo. Đây là công trình khoa học đánh giá tổng hợp năng lực nghiên cứu của người học viên, làm thước đo để công nhận Thạc sĩ Kinh tế chính trị đào tạo tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Nhiệm vụ của luận văn là phải lựa chọn tổng hợp được những kiến thức cơ sở đã học có liên quan đến nội dung đề tài, cụ thể là nêu cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề đổi mới hoạt động quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư, phân tích thực trạng và nhược điểm công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư. Từ đó chỉ ra phương hướng và giải pháp đổi mới quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư, có liên hệ với tỉnh Nam Định. Luận văn này sẽ đảm bảo độ sâu kiến thức của đề tài nghiên cứu, đảm bảo tính thiết thực để vận dụng thực hiện, có thể sử dụng làm tài liệu công tác, nghiên cứu, tham khảo trong lĩnh vực đầu tư, đáp ứng các yêu cầu của một luận văn Thạc sĩ và có thể phát triển khi có điều kiện. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu là các hoạt động đầu tư và công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư phát triển kinh tế – xã hội từ khi nước ta thực hiện đổi mới, chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đến nay và liên hệ với điều kiện cụ thể ở tỉnh Nam Định, có nghiên cứu và áp dụng kinh nghiệm tiên tiến của các nước ngoài và một số địa phương. Do giới hạn về thời gian và cấp độ chương trình đào tạo, do hạn chế về khẳ năng nghiên cứu của học viên, do đầu tư là một lĩnh vực rộng lớn, gồm nhiều loại hình trên phạm vi nghiên cứu của luận văn chủ yếu tập trung vào hoạt động đầu tư phát triển, không nghiên cứu các loại hình đầu tư khác như đầu tư tài chính, đầu tư thương mại…. Về không gian: Luận văn tập trung vào vấn dề quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư ở Việt Nam, những tư liệu thực tế sẽ sử dụng tư liệu thực tế ở tỉnh Nam Định.ư Về thời gian: Luận văn chỉ khảo sát đánh giá những vấn đề có liên quan đến quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư kinh tế khi Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới kinh tế. Những đề xuất của luận văn về phương hướng và giải pháp được áp dựng cho thời gian tới, đặc biệt khi Việt Nam đang bước vào thời kỳ tăng trưởng kinh tế nhanh trên con đường phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. 5. Phương pháp nghiên cứu Đổi mới quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư phát triển kinh tế – xã hội là vấn đề vừa mang lý luận và nguyên tắc cơ bản làm nền tảng cơ sở để soi vào thực tiễn, để tìm ra những ưu, nhược điểm để định ra phương hướng và giải pháp tiến tới xây dựng một mô hình và cơ chế quản lý phù hợp với các nguyên tắc và pháp luật, hợp lý, khoa học và có hiệu quả. 6. Ưu điểm những đóng góp của luận văn; Với những nội dung và phương pháp đã xác định trên dây, luận văn này sẽ đáp ứng với các yêu cầu về chất lượng, có giá trị thiết thực về lý luận và thực tiễn. Những đề xuất về phương hướng giải pháp quản lý Nhà nước đổi với hoạt động đầu tư nhằm thực hiện và hoàn thành mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X. Với sự cố gắng cao nhất, hy vọng rằng luận văn đóng góp một số tư duy mới và quan trọng vào việc nghiên cứu, tham khảo đối với các cán bộ quản lý đầu tư và nhữn người quan tâm đến lĩnh vực này. 7. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần mở đầu kết luận và danh mục tài liệu tham khảo ở phần cuối như thông lệ, lụân văn kết cấu gồm ba chương: Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đổi mới quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư phát triển kinh tế – xã hội. Chương II: Thực trạng quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh Nam Định. Chương III: Định hướng và giải pháp đổi mới quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư ở Việt Nam. Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đổi mới quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư phát triển kinh tế – xã hội 1.1 Những vấn đề cơ bản về hoạt động đầu tư; 1.1.1 Khái niệm và phân loại đầu tư. - Khái niệm: Đầu tư là một khái niệm cơ bản trong nghiên cứu hoạt dộng kinh tế – xã hội. Nó là một khái niệm quan trọng trong các môn học về kinh tế, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa nào hoàn chỉnh, chính xác và thuyết phục. Theo nghĩa rộng, “ đầu tư” là sự hy sinh các nguồn lựcđể tiến hành các hoạt động nhất định nhằm thu hút kết quả trong tương lai với mong muốn kết quả đó lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra cho quá trình đầu tư. + Nguồn lực dùng vào đầu tư có thể là tiền vốn, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ… + Những kết quả thu được có thể là sự gia tăng sản phẩm, tiền bạc, tài sản, vật chất ( nhà máy, đường xá, các của cải vật chất, dịch vụ, …) các nguồn nhân lực có trình độ, năn lực cao đủ điều kiện làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Các kết quả đạt được từ đầu tư mang lại lợi ích trực tiếp cho người đầu tư ( như tài sản vật chất, tiền bạc, giá trị dịch vụ, năng lực tự thân …) nhưng cũng có thể là các lợi ích nào đó cho một cá nhân, nhóm cá nhân hay một địa phương hay một lĩnh vực, một quốc gia, một nền kinh tế …mà nhà đầu tư mong muốn. Các kết quả đạt được từ đầu tư cũng có thể chính là mục tiêu trực tiếp của nhà đầu tư, nhưng cũng có khi là kết quả thứ cấp có được từ kết quả đầu tư ngoài phần nhà đầu tư được hưởng, cả nền kinh tế hoặc khu vưc ảnh hưởng của đầu tư được thụ hưởng. Theo nghĩa hẹp: “đầu tư” chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế – xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó. Như vậy, nếu xem xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có thể những hoạt động sử dụng các nguồn lực hện tại để trực tiếp làm tăng các tải sản vật chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ, hoặc duy trì sự hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có thì thuộc phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp hay còn gọi là đầu tư phát triển. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ: Để ra đời một cơ sở sản xuất kinh doanh hì phải xây dựng cơ bản và mua sắm thiết bị, chuyển giao công nghệ, và đưa vào hoạt động, cơ sở vật chất và phương tiện kỹ thuật bị hao mòn, hư hỏng cần thiết phải sửa chữa hoặc thay mới để duy trì hoạt động bình thường hoặc đáp ứng phát triển và nhu cầu tiêu dùng xã hội, phải nâng cấp , mua sắm thay thế các trang thiết bị đã củ lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư. Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của cơ sở kinh tế. Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động không nhằm thu hút lợi nhuận) đang tồn tại và hoạt động nhưng để duy trì hoạt động thường xuyên vẫn cần phải tiến hành hoạt động sửa chữa lớn, sửa chữa định kì mua sắm bổ sung, thay thế cở sở vật chất-kỉ thuật chông hao mòn, mất mát, hư hỏng và bỏ ra các chi phí thường xuyên. Những hoạt động và chi phí này cũng là những hoạt động đầu tư. - phân loại đầu tư : Xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại, “đầu tư” có thể phân chia thành các loại sau đây: + đầu tư tài chính (đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt đọng sản xuất kinh doang của Công ty. Hình thức đầu tư tài chính làm cho dòng vốn đầu tư được lưu chuyển dẽ dàng, linh hoạt (rút tiết kiệm, chuyển nhượng trái phiếu, cổ phiếu…) khuyến khích mọi người bỏ tiền vào đầu tư. đây là một nguôn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển . + Đầu tư thương mại là việc nhà đầu tư bỏ tiền ra để mua hàng hoá và bán lại với giá cao hơn để thu lợi nhuận chênh lệch giữa mua và bán. Nếu không xét đến ngoại thương loại đầu tư này cũng khong tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, mà chỉ làm tăng tài sản chính của nhà đầu tư qua quá trình mua và bán, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán đầu tiên và người mua cuối cùng, thông qua các trung gian là nhà đầu tư thương mại. Tuy nhiên đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển tăng thu cho ngân sách tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung. + Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động hay còn được gọi là đầu tư phát triển, trong đó nhà đầu tư bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doang và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống xã hội. Ví dụ: đầu tư kết cấu hạ tầng, mua sắm lắp đặt trang thiết bị, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, duy trì hoạt động thường xuyên của chúng nhằm duy trì và tạo tiềm lực mới cho kinh tế xã hội. Loại đầu tư này cũng được gọi là đầu tư phát triển. Trên giác độ tài chính thì đầu tư phát triển là quá trình chi tiêu để duy trì sự phát huy tác dụng của vốn cơ bản hiện có và bổ sung vốn cơ bản mới cho nền kinh tế, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội trong dài hạn. Tuy nhiên, đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu công tác quản lý với hoạt dông đầu tư phát triển. 1.1.2.Vai trò của đầu tư đối với sự phát triển kinh tế –xã hội: Mặc dù có sự khác biệt căn bản về các quan niệm của hai loại lý thuyết kinh tế trên nhiều vấn đề nhưng có thể thấy rằng cả trường phái lý thuyết về kinh tế thị trường đều có những nhận thức khá gần nhau về vai trò của đầu tư phát triển. Các lý thuyết về kinh tế thị trường đều có những nhận thức khá gần nhau về vai trò của đầu tư phát triển. Các lý thuyết đó đều coi đầu tư phát triển kinh tế là chìa khoá của sự tăng trưởng. Vai trò của đầu tư phát triển được thể hiện như sau: - Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước: + Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu: * Về mặt cầu: Đầu tư phát triển luôn sử dụng các nguồn tài sản, vật tư nguyên liệu, hàng hoá các loại nên trực tiếp tác động đến tổng cầu của nền kinh tế. Theo kết quả nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (WB), cầu đầu tư chiếm khoảng 24 – 28% tổng cầu quốc gia đối với tất cả các nước trên thé giới. Tác động của đầu tư đối với tổng cầu thường là tác động ngắn hạn ( xảy ra trong giai đoạn thực hiện đầu tư, trong giai đoạn ngắn đó tổng chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng, ké sản lượng cân bằng theo và giá cả của đầu vào của đầu tư tăng. Điểm cân bằng dịch chuyển. * Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng, giá cả giảm cho phép tưng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng lại càng kích thích sản xuất hơn nữa. sản xuất phát triển làm nguồn gốc cho việc tăng tích luỹ, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội, phát triển kinh tế xã hội. Đầu tư có tác động hai mặt đến ổn định kinh tế Đầu tư tác động không đồng thời với tổng cầu và tổng cung nên mỗi sự thay đổi của đầu tư vừa tạo tiền đề để duy trì sự ổn định vừa có thể là nguyên nhân phá vỡ sự ổn định nền kinh tế quốc gia. Có thể nhận thấy: Khi đầu tư tăng quá mạnh, cầu đầu tư tăng làm cho giá các hàng hoá liên quan đầu tư ( giá vốn, lãi suất vay), công nghệ, lao động, vật tư tăng lên. Khí mức này tăng quá lớn, vượt quá giới hạn sẽ phát sinh lạm phát. Lạm phát tác động trở lại làm cho sản xuất đình trệ, đời sống người lao động khó khăn do tiền lương thực tế bị giảm sụt, tâm hụt nân sách tăng, kinh tế chậm phát triển. Mặt khác, nếu đầu tư tăng vừa phải làm cho cầu tăng, kích thích sản xuất phát triển, đời sống người lao động nâng cao, thất nghiệp giảm, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển. Khi giảm đầu tư ( như Việt Nam thời kỳ 1982 0 1989) cũng dẫn đến tác động hai mặt, nhưng theo chiều hướng ngược lại so với tác động trên đây, làm cho lạm phát thời kỳ này lên tới đỉnh điểm và kinh tế đất nước suy thoái nghiêm trọng. Vì vậy, trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế. - Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ đất nước: Công nghệ phản ánh trình độ của nền công nghiệp. Khoa học – công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đầu tư là điều kiện của phát triển và làm tăng năng lực công nghệ nước nhà. Trình độ công nghệ Việt Nam nói chung, cho đến hiện any vẫn rất lạc hậu so với thế giới và khu vực. The UNIDO; nếu chia quá trình phát triển công nghiệp làm 7 giai đoạn thì Việt Nam năm 1990 ở vào giai đoạn 1 và một phần ở giai đoạn 2, là một trong số 90 nước kém nhất về công nghệ thế giới. Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá của Việt Nam gặp nhiều khó khăn đòi hỏi việc đề xuất một chiến lược phát triển công nghệ nhanh và vững chắc. Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài đều cần phải có đầu tư, cũng nghĩa là phải có tiền vốn để đầu tư, Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. - Đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Do đó, đầu tư có tác dụng quyết định đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế quốc dân vì mục tiêu hiệu quả và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối giữa các vùng lãnh thổ, đưa vùng kém phát triển thoát khỏi đói nghèo, phát huy những lợi thế về tài nguyên, địa thế kinh tế, chính trị…của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, tạo động lực thúc đẩy các vùng cùng phát triển. - Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu cho thấy: Muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15 – 20% so với GDP tuỳ thuộc vào hệ số ICOR của mỗi nước. Theo lý thuyết về đầu tư ICOR của mỗi quốc gia, hoặc mỗi ngành là hệ số được xác định nội bộ nền kinh tế. Vốn đầu tư Vốn đầu tư ICOR = = GDP do vốn tạo ra GDP Trong đó: * Vốn đầu tư là tổng lượng vốn bỏ vào đầu tư trong năm của quốc gia (ngành) * GDP do vốn tạo ra (hay GDP) là lượng GDP quốc gia (ngành) tăng thêm do bỏ vốn đầu tư mà có. Từ định nghĩa trên suy ra: Vốn đầu tư Mức tăng GDP = ICOR Nếu ICOR không thay đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. ở các nước phát triển, thì ICOR thường khá lớn, sự tác động để làm tăng GDP rất khó khăn, chi phí đầu tư để nâng cao trình độ công nghệ vốn đã hiện đại cũng cao hơn rất nhiều. Còn ở các nước chậm phát triển ICOR có giá trị thấp, khoảng từ 2- 3 do kinh tế mới phát triển còn ở trình độ thấp, đầu tư để phát huy tác dụng hơn, một tác động nhất định của đầu tư có thể gây tác dụng đáng kể đến nền kinh tế. Điều này có thể ví dụ như thổi quả bóng, lúc mới đầu thổi một lượng nhỏ thì quả bóng phồng nên rất nhanh, nhưng khi bóng đã căng, muốn thổi căng hơn rất khó khăn. Hệ số ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhhiều nhân tố, trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Số liệu thống kê hệ số ICOR của các nước và vùng lãnh thổ một số năm qua như sau: Bảng 1.1: Chỉ số ICOR của các nước thông qua một số thời kỳ Các nước Thời kỳ 1963 – 1973 Thời kỳ 1973 – 1981 Thời kỳ 1981 – 1988 Hồng Kông 3.6 3,4 3,9 Hàn Quốc 2.0 4,0 2,8 Singapo 3,1 5,0 7,0 Đài Loan 1,9 3,7 2,8 Nguồn: Bela Balasa, Policy in New Industrializinh Countries. Working papers of the World Bank WPS 432.1992 . tr5. Theo tính toán của UNDP 1996, tác động của vốn đầu tư vào tốc độ tăng trưởng của một số nước như bảng 1-2. Đối với các nước đang phát triển, vốn đầu tư là yếu tố quan trọng số 1. Động lực chủ yếu tạo ra sự phát triển là đảm bảo nguồn vốn đầu tư. Đầu đóng vai trò như ‘cú hích”, tạo đà cho phát triển, là nguồn gốc cho sự cất cánh của một số nền kinh tế: Hồng Kông, Malaysia, Singapore, Hàn Quốc… Thực tế và lý thuyết cho thấy, hệ số ICOR chung phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào chính sách kinh tế và tổ chức hệ thống kinh tế. Thông thường ở các nước nghèo, đi lên từ các nước nông nghiệp, trong đầu thời kỳ phát triển, ICOR ngành nông nghiệp thấp hơn ICOR ngành công nghiệp. ở nước ta, trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế, sự phát triển chủ yếu do hợp lý hoá tổ chức, tận dụng và phát huy năng lực hiện có. Ví dụ: Chỉ với một cơ chế khoán 10 trong nông nghiệp ở nước ta đã biến nước ta từ một quốc gia thiếu lương thực thành một nước xuất khẩu gạo đứng nhất nhì thế giới, nhờ nó phá vỡ kìm hãm của cơ chế cũ, tạo ra sự giải phóng mạnh mẽ nặng lực sản xuất trong nông nghiệp. Bảng 1-2. Mức độ tác động của vốn đầu tư với tăng trưởng kinh tế. Nước Giai đoạn Tốc độ tăng trưởng %năm Mức độ tác động của vốn đầu tư (% cột 3) Mỹ 1947 – 1973 4,0 42,7 1960 – 1990 3,1 45,2 Đức 1930-1973 6,0 40,6 1960-1990 3,2 58,7 Anh 1955-1973 3,7 47,2 1960-1990 2,5 52,3 Nhật 1952-1973 9,5 34,5 1960-1990 6,8 56,9 Hồng Kông 1966-1990 7,3 42,3 Singapo 1966-1990 8,5 73,1 Hàn Quốc 1966-1990 10,3 46,2 Đài Loan 1966-1990 9,1 40,5 Việt Nam 1986 – 1990 4,3 43,7 1986 – 1998 6,9 42,0 Nguồn: Chiến lược công nghiệp trung hạn UNDP 1996 Bảng 1.3: Tỷ lệ đầu tư vào tốc độ tăng trưởng bình quân đầu người của một số nước phát triển trong khoảng 25 năm (thời kỳ 1995 – 1989) Các nước Vốn đầu tư/GDP (%) Tăng trưởng GDP/người thời kỳ 1965 1989 (lần) 1965 1989 Mỹ 12 15 1,6 Anh 13 21 2,0 CHLB Đức 24 19 2,4 Pháp 21 21 2,3 Nhật 28 33 4,3 Thuỵ Sĩ 30 30 4,6 Nguồn: Báo cáo của ngân hàng thế giới 1991. 1.1.3 – Nội dung của hoạt động đầu tư Xuất phát từ những lĩnh vực phat huy tác dụng đầu tư phát triển bào gồm các hoạt động đầu tư sản phát triển sản xuất, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng – kỹ thuật của nền kinh tế, đầu tư phát triển văn hoá giáo dục, đàu tư phát triển các hoạt động y tế và các dịch vụ xã hội khác, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư vào các lĩnh vực trực tiếo có tác động đến việc duy trì sự hoạt động của cơ sở vật chất kỹ thuật đang tồn tại, tăng thêm tài sản vật chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ cho nền kinh tế. Xuất phát từ đặc trưng kỹ thuật của các hoạt động trong công cuộc đầu tư, đầu tư phát triển bao gồm các hoạt động chuẩn bị đầu tư, mua sản xuất các đầu tư vào quá trình thực hiện đầu tư, thi công xây lắp công trình, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và xây dựng cơ bản khác có liên quan đến sự phát huy tác dụng sau này của công cuộc đầu tư và phát triển. Với nội dung của hoạt động đầu tư và phát triển trên đây, để tạo thuận lợi cho công tác quản lý việc sử dụng vốn đầu tư nhằm đem lại hiệu quả kinh doanh xã hội cao, có thể phân chia vốn đầu tư thành các khoản sau đây: - Trên giác độ quản lý vĩ mô đầu tư được phân thành 4 khoan rmục lớn như sau: 1. Những chi phí tạo ra tài sản cố định ( mà sự biểu hiện bằng tiền là vốn cố định) 2. Những chi phí tạo ra tài sản lưu động( mà sự biểu hiện bằng tiền là vốn lưu động) và các chi phí thường xuyên được gắn với một chu kỳ hoạt động của các tài sản cố định vừa tạo ra. 3. Những chi phí đầu tư chiếm khoảng 0,3- 15% vốn đầu tư. 4. Chi phí dự phòng. - Trên giác độ quản lý vi mô tại các cơ sở, nhữn khoản mục trên đây lại được tách thành các khoản mục chi tiết hơn. + Những chi phí tạo ra TSCĐ bao gồm: Chi phí ban đầu về đất đai Chi phí xây dựng, sửa chữa nhà cửa, cấu trục hạ tầng. Chi phí mua sắm, lắp đặt máy móc thiết bị, dụng cụ mua sắm phương tiện vận chuyển. Chi phí khác + Những chi phí tạo ra tài sản lưu động bao gồm: - Chi phí nằm trong giai đoạn sản xuất như chi phí để mua nguyên vật liệu, trả lương người ld, chi phí về điện, nước, nhiên liệu, phụ tùng… - Chi phí nằm trong giai đoạn lưu thông gồm có các sản phẩm dở dang tồn kho, hàng hoá bán chịu, vốn bằng tiền. - Chi phí chuẩn bị đầu tư bao gồm chi phí nghiên cứu cơ hội đầu tư, chi phí nghiên cứu tiền khả thi, chi phí nghiên cứu khả thi và thẩm định các dự án đầu tư. - Chi phi dự phòng. 1.2. Đổi mới quản lý Nhà nước đối với các hoạt động đầu tư. 1.2.1 Những vấn đề cơ bản về quản lý đầu tư. 1.2.1.1 Khái niệm quản lý đầu tư. Như chúng ta đã biết, đầu tư là hoạt động có tính liên ngành, do đó quản lý hoạt động đầu tư là yêu cầu khách quan nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư. Quản lý, theo nghĩa chung, là sự tác tác động có mục đích của chủ thể vào các đối tượng quản lý nhằm đạt được các mục tiêu quản lý đã đề ra. Quản lý đầu tư là sự tác động liên tục, có tổ chức, định hướng mục tiêu vào quá trình đầu tư (bao gồm công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành kết quả đầu tư) và các yếu tố đầu tư, bằng một hệ thống đồng bộ các biện pháp kinh tế xã hội, tổ chức kỹ thuật và các biện pháp khác nhằm đạt được kết quả, hiệu quả đầu tư và hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất, trong điều kiện cụ thể xác định trên cơ sở vận dụng sáng tạo những quy luật khách quan và quy luật đặc thù của đầu tư. 1.2.1.2. Mục tiêu quản lý đầu tư. - Mục tiêu quản lý đầu tư trên giác ngộ vĩ mô: + Thực hiện thành công từng mục tiêu, tiến tới hoàn thành các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia hoặc của ngành và địa phương trong từng giai đoạn nhất định. Đối với nước ta trong thời kỳ hiện nay, đầu tư là điều kiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người lao động. Thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế – xã hội do Đại hội Đảng 10 đề ra. Huy động tối đa sử dụng có hiệu quả cao các nguồn nhân lực (vốn đầu tư, các nguồn tài nguyên, nhân lực, vật lực…) của các ngành, địa phương và toàn xã hội, sử dụng nhiều loại nguồn vốn trong và ngoài nước, vốn Nhà nước, vốn tư nhân, vốn bằng tiền và hiện vật, …Quản lý đầu tư nhằm sử dụng hợp lý tiết kiệm và khai thác có hiệu quả các loại vốn, tài nguyên thiên nhiên, đất đai, lao động và các loại nguồn vốn, tài nguyên thiên nhiên, đất đai, lao động và khai thác có hiệu quả các loại vốn, đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái, chống mọi hành vi tham ô, lãng phí trong sử dụng vốn đầu tư và khai thác các kết quả của đầu tư. + Thực hiện đúng những quy định pháp luật và yêu cầu kinh tế – kỹ thuật trong lĩnh vực đầu tư. Quản lý vĩ mô đối với các hoạt động đầu tư nhằm đảm bảo quá trình thực hiện đầu tư xây dựng công trình theo đúng quy hoạch và thiết kế được duyệt, đảm bảo sự bền vững và mỹ quan, áp dụng công nghệ xây dựng tiên tiến, đảm bảo chất lượng và thời hạn xây dựng với chi phí quản lý. - Mục tiêu quản lý của từng cơ sở. Mục tiêu quản lý đầu tư của từng cơ sở là nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu hoạt động, chiến lược phát triển của từng đơn vị, mục tiêu sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, nâng cao năng suất lao động, đổi mới công nghệ và tiết kiệm chi phí… - Mục quản lý đầu tư đối với từng dự án: Đối với từng dự án đầu tư, quản lý đầu tư là nhằm thực hiện đúng mục tiêu của dự án, nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội của đầu tư trên cơ sở thực hiện đúng thời gian đã định trong phạm vi chi phí được duyệt và với tiêu chuẩn hoàn thiện nhất. 1.2.1.3 Các nguyên tắc quản lý hoạt động đầu tư. Thực chất hoạt động đầu tư cũng là một quá trình kinh tế. Mục đích của đầu tư là tạo nên sản phẩm mang tính tổng hợp để vận hành khai thác nhằm mục tiêu phục vụ nền kinh tế hoặc phục vụ những mục tiêu xã hội nhất định. Do đó, quản lý hoạt động đầu tư cũng tuân theo nguyên tắc của quản lý kinh tế, được vận dụng vào điều kiện cụ thể của hoạt động đầu ta ở cả cấo vĩ mô và vi mô. Nguyên tắc quản lý hoạt động đầu tư cần đạt được là: - Thống nhất giữa chính trị và kinh tế, kết hợp và xã hội. Nhà nước quản lý kinh tế – xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vai trò quản lý của Nhà nước thể hiện trong sự quản lý đầu tư như: cơ cấu đầu tư (cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu vùng lãnh thổ), các chính sách đối với người lao động hoạt động trong lĩnh vực đầu tư, các chính sách bảo vệ môi trường, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thể hiện thông qua việc giải quyết quan hệ giữa tăng trưởng kinh t._.ế và công bằng xã hội, giữa phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh quốc phòng và giữa các yêu cầu phát huy nội lực và tăng cường hợp tác quốc tế. Đối với các cơ sở, nguyên tắc đòi hỏi phải đảm bảo quyền lợi cho người lao động, doanh nghiệp cho cơ sở, đồng thời phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Kết hợp tốt giữa kinh tế và xã hội là điều kiện cần và là động lực cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế xã hội nói chung và thực hiện mục tiêu đầu tư nói riêng. - Tập chung dân chủ: Công tác quản lý đầu tư tuân theo sự lãnh đao thống nhất từ một trung tâm, đồng thời lại phát huy tính chủ động sáng tạo của địa phương, của ngành và của cơ sở. Nguyên tắc tập trung – dân chủ đòi hỏi khi giải quyết bất kỳ vấn đề gì phát sinh trong đầu tư đều phải xem xét nguyện vọng và điều kiện thực tế của các đối tượng quản lý ( các cơ sở, bộ phận), đồng thời phải cân nhắc xử lý từ một trung tâm thống nhất tránh tình trạng tự do tuỳ tiện, vô chủ trong quản lý nhưng cũng tránh sự ôm đồm quá mức, qun liêu, đặc quyền và bất chấp thực tế. Nguyên tắc tập trung dân chủ được vận dụng trong hoạt động đầu tư, ở hầu hết các khâu công việc từ việc quản lý quy hoạch, quản lý các yếu tố trọng yếu của đầu tư ( nhất là quản lý đất đai, tài nguyên khoáng sản, các nguồn lợi thiên nhiên, bảo vệ cảnh quan, môi trường…) Đối với các nguồn vốn Nhà nước, vốn huy động từ cộng đồng, vốn thuộc trách nhiệm của Nhà nước và các tổ chức, tập thể còn thể hiện ở các khâu: lập kế hoạch, phân cấp, quản lý trách nhiệm, quá trình lãnh đạo, chỉ đạo quản lý ngay từ khi ra quyết định đầu tư , tổ chức thực hiện đến khi đưa sản phẩm đầu tư vào khai thác, phát huy hiệu quả. -Quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ : Phân định theo ngành chuyên môn và phân bố lực lượng sản xuất, các năng lực dịch vụ xã hội theo vùng lãnh thổ là hai mặt khách quan của nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo địa phương hay vùng lãnh thổ. Một dự án đầu tư dù của chủ thể nào cũng chịu sự quản lý của ngành kinh tế kĩ thuật và của địa phương. các cơ quan quản lý ngành (Bộ, Tổng cục … của trung ương, tương ứng là sở, Cục…ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc,…) chịu trách nhiệm quản lý chủ yếu về kỹ thuật công nghệ, tiêu chuẩn chất lượng của nghành, đồng thừi quản lý về mặt kinh tế đối với hoạt động đầu tư và vận hành sau đầu tư theo chức năng được Nhà nước phân công. Mặt khác, chính quyền địa phương, cơ sở chịu trách nhiệm quản lý về mặt hành chính và xã hội, đồng thời thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước đối với các hoạt động đầu tư ở địa phương theo phân cấp của chính quyền nhà nước cấp trên. Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và lãnh thổ trong hoạt động đầu tư được thực hiện trên cơ sở giải quyết các vấn như quy hoạch, kế hoạch xác định cơ cấu đầu tư theo ngành và vùng lãnh thổ, sự phù hợp giữa hoạt động đấu tư với các hoạt động kinh tế – xã hội khác trên địa bàn lãnh thổ, giữa hoạt động đầu tư này với hoạt động đầu tư khảctong cùng ngành hoặc cùng khu vực…Việc kết hợp quản lý đầu tư theo ngành và theo vùng lãnh thổ cho phép hợp lý hoá năng lực, lợi thế của cả hệ thống, chế ngự, hạn chế những bất lợi, tạo ra hiệu quả kinh tế – xã hội tổng hợp tối ưu của cả hệ thống - Kết hợp hài hoà các loại lợi ích trong đầu tư : Có nhiều loại lợi ích như: lợi ích kinh tế, chính trị, kinh tế, công nghệ, giáo giục, đào tạo, văn hoá, xã hội; lợi ích Nhà nước, tập tập, cá nhân; lợi ích trực tiếp, gián tiếp; lợi ích trước mắt lâu dài…Thực hiện đầu tư là thực hiện hoạt động kinh tế nên lợi ích kinh tế là động lực quan trọng, nó trực tiếp thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy nhiên , lợi ích kinh tế của các đối tượng khác nhau,vừa có tính thống nhất vừa có mâu thuẫn. Do đó, kết hợp hài hoà lợi ích của mọi đối tượng trong hoạt động kinh tế sẽ tạo động lực và những điều kiện làm cho nền kinh tế phát triển vững trắc, ổn định . Trên giác độ nền kinh tế, sự kết hợp này được thực hiện thông qua càc chương trình định hướng về phát triển kinh tế- xã hội, sự kết hợp này được thực hiện thông qua chương trình định hướng về phát triển kinh tế – xã hội. Trong hoạt động đầu tư, kết hợp hài hoà các loại lợi ích thể hiện sự kết hợp giữa lợi ích của xã hội đại diện là Nhà nước với lợi ích của cá nhân và tập thể người lao động, giữa lợi ích của chủ đầu tư, nhà thầu, các cơ quan thiết kế, tư vấn, dịch vụ và và người hưởng lợi. Sự kết hợp này được đảm bảo bầng chính sách của Nhà nước, sự thoả thuận theo hợp đồng giữa các đối tượng tham gia quá trình đầu tư, sự cạnh tranh của thị trường thông qua đấu thầu theo quy luật . -Tiết kiệm và hiệu quả : Trong đầu tư, tiết kiệm và hiệu quả thể hiện: với một lượng vốn đầu tư nhất định phải đem lại hiệu quả kinh tế – xã hội cao nhất hay phải đạt được hiệu quả kinh tế- xã hội đã dự kiến với chi phí đầu tư thấp nhất. Biểu hiện tập trung nhất của nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả trong quản lý hoạt động đầu tư đối với các cơ sở là đạt được lợi nhuận, đối với xã hội là làm tăng trưởng GDP của nền kinh tế và tăng sản phẩm cho nền kinh tế quốc dân, tăng thu nhập cho người lao động nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường, phát triển văn hoá, giáo dục và các sự nghiệp phúc lợi công cộng 1.2.1.4. các phương pháp quản lý hoạt động đầu tư . Cũng như các hoạt động kinh tế khác, quản lý hoạt độmg đầu tư cũng bao gồm các phương pháp như phương pháp kinh tế, giáo dục, hành chính, các phương pháp toán thống kê … - Phương pháp kinh tế : phương pháp kinh tế trong quản lý là phương pháp tác động của chủ thể vào đối tượng quản lý bằng các chính sách và đòn bẩy kinh tế như tiền lương , tiền thưởng, tiền phạt, giá cả , lợi nhuận , tín dụng , thuế … quản lý hoạt động đầu tư bằng phương pháp kinh tế , ngiã là , thông qua các chính sách và đòn bẩy kinh tế để hướng dẫn , kích thích , động viên và điều chỉnh các hành vi của các đối tượng tham giam quá trình thực hiện đầu tư theo một mục tiêu nhất định của nền kinh tế – xã hội như vậy phương pháp kinh tế trong quản lý đầu tư chủ yếu dựa vào lợi ích kinh tế của đối tượng tham gia vào quá trình đầu tư với sự kết hợp hài hoà lợi ích của nhà nước , xã hội với lợi ích của tập thể và cá nhân người lao động trong lĩnh vực đầu tư - Phương pháp hành chính: Phương pháp hành chính là phương pháp quản lý được sử dụng trong lĩnh vực xã hội và kinh tế. phương pháp hành chính là thức tác động trực tiếp của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý bằng những văn bản, chỉ thị, những quy định về tổ chức … Phương pháp hành chính trong quản lý được thể hiện ở hai mặt : mặt tĩnh và mặt động . Mặt tĩnh thể hiện ở những tác động có tính ổn định về mặt tổ chức thông qua việc thể chế hoá tổ chức (gồm cơ cấu tổ chức và chức năng quản lý) và tiêu chuẩn hoá tổ chức (định mức và tiêu chuẩn tổ chức). Mặt động của phương pháp là sự tác động thông qua quá trình điều khiển tức thời khi xuất hiện những vấn đề cần giải quyết trong quá trình quản lý . Phương pháp hành chính có ưu điểm là giải quyết trực tiếp và nhanh chong những vấn đề cụ thể, nhưng cũng dễ dẫn đến tình trạng quan liêu máy móc, bộ máy hành chính cồng kềnh và độc đoán . - Phương pháp giáo dục : Theo lý luận của chủ nghĩa duy vât biến chứng , vật chất quy định ý thức , nhưng ý thưc lại tác động tich cực hay tiêu cực trở lại đối với vật chất . Trong quản lý, con người là tượng trung tâm. các hành vi kinh tế đều xảy ra dưới tác động của con người với động cơ về lợi ích vật chất và tinh thần khác nhau với mức độ giác ngộ , trách nhiệm công nhân và ý thức dân tộc không giống nhau với những quan điểm nghề nghiệp và trình độ kiến thức quẩn lý kinh tế cũng khác nhau . Do đó, để đạt mục tiêu và yêu cầu quản lý, phương pháp giaó dục cần được coi trọng . Phải giáo giục và hướng các cá nhân phát triển theo hướng có lợi cho sự phát triển chung của toàn xã hội. B ên cạnh đó, phương pháp giáo giục trong cơ chế kinh tế thị trường XHCN còn nhằm mục đích xây dựng con người mới XHCN Việt Nam . Nọi dung của các biện pháp giáo giục trong quản lý hoạt động đầu tư bao gồm giáo giục về thái độ đối với lao động, giữ gìn uy tín đối với chủ đầu tư, khách hàng và người tiêu dùng … Giáo giục ý thức và trách nhiệm phải luôn đi đôi với việc giải quyết các vấn đề về lợi ích vật chất . - áp dụng phương pháp toán và thống kê trong quản lý hoạt động đầu tư để quản lý hoạt động đầu tư có hiệu quả, bên cạnh các biện pháp định tính cần áp dụng cả các biện pháp định lượng, đặc biệt là phương pháp toán kinh tế và thống kê . Phương pháp thống kê : Các phương pháp thống kê được sử dụng để xử lý và phân tích các số liệu thống kê trong hoạt động đầu tư, các chỉ tiêu kết quả và hiệu quả đàu tư . Mô hình toán kinh tế : Mô toán phản ánh mặt lượng các thuộc tính cơ bản của đối tượng được nghiên cứu và là sự trìu tượng hoá khoa học các quá trình và hiện tượng kinh tế diễn ra trong hoạt động đầu tư. Ví dụ các mô hình tái sản xuất , mô hình cân đối liên ngành chỉ rõ vai trò của đầu tư . Vận trù học :Vận trù học bao gồm nhiều lĩnh vực như lý thuyết quy hoạch tuyến tính, quy hoạch phi tuyến tính, quy hoạch động quy hoạch đa mục tiêu, lý thuyết trò trơi, lý thuyết xác suất, lý thuyết đồ thị và sơ đồ mạng …Những lý thuyết này được áp dụng đẻ xác định phương hướng án kiến trúc kết cấu xây dựng và tổ chức xây dựng công trình … Điều khiển học : Điều khiển học là môn khoa học về điều khiển các hệ thống kỹ thuật và kinh tế phức tạp trong quá trình vận động của thông tin đóng vai trò chủ yếu . Với việc vận dụng các phương pháp toán kinh tế và thống kê trong quản lý đầu tư cho phép nhận thức sâu sắc hơn các quá trình kinh tê diễn ra trong lĩnh vực đầu tư, cho phép lượng hoá để chọn ra dự án đầu tư tốt nhất, lựa chọn phương án đầu tư và xay dựng tối ưu, chọn nhà đầu tư có năng lực, tìm ra phương án tổ chức thi công hợp lý nhất - Vận dụng tổng hợp các phương pháp quản lý trong quản lý hoạt động đầu tư . Để quản lý hoạt động tư một cách có hiệu quả cần vận dụng kết hợp các phương pháp quản lý. Bởi vì: Thứ nhất, các qui luật kinh tế tác động lên hoạt động đầu tư một cách tổng hợp và hệ thống. Các phương pháp quản lý là sự vận dụng các quy luật kinh tế nên chúng cũng phải đước sử dụng tổng hợp thì mới có kết quả . Thứ hai, hệ thống quản lý kinh tế và quản lý hoạt động đầu tư khong phải là những quan hệ riêng lẻ mà là tổng hợp các quan hệ kinh tế, xã hội, chính trị, pháp luật … do đó, chỉ có sự vận dụng tổng hợp các phương pháp quản lý mới có thể điều hành các hệ thống. Thứ ba, đối tượng tác động chủ yếu của quản lý là con người. Con người lại là tổng hoà các quan hệ xã hội với nhiều động cơ, nhu cầu và tính cách khác nhau. Do đó phương pháp tác động đến con người cũng phải là một phương pháp tổng hợp.Thứ tư, mỗi phương pháp quản lý đều có phạm vi áp dụng nhất định những ưu điẻm nhược điểm khác nhau và phù hợp với nhiều điều kiện lịch sử cụ thể Do đó, sử dụng tốt việc tổng hộưp các phương pháp sẽ bổ sung cho nhau các ưu điểm, khắc phục các nhược điểm. Thứ năm, các phương pháp quản lý luôn có mối quan hệ với nhau. Vận dụng tốt phương pháp quản lý này sẽ tạo điều kiện cho việc sử dụng tốt các phương tiện khác . 1.2.1.5. Các công cụ quản lý hoạt động đầu tư : Công cụ quản hoạt động đầu tư là hệ thống các quy định nên tác động nhằm đưa hoạt động đầu tư theo hướng mong muốn. Đó là những công cụ : - Các loại quy hoạch tổng thể và chi tiết: Các quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết của ngành và địa phương về đầu tư và xây dựng là những công cụ quan trọng được sử dụng để quản lý hoạt động đầu tư . - Hệ thống lập pháp: Hệ thống lập pháp liên quan và thường được áp dụng để quản lýhoạt động đầu tư như luật đầu tư, luật công ty, luật xây dựng, luật bảo vệ môi trường , luật lao động , luạt bảo hiểm, luật thuế, luạt phá sản và một loạt các văn bản dưới luật kèm theo về quản lý hoạtđộng đầu tư như các quy chế về quản lý tài chính , vật tư, thiết bị, lao động, tiền lương , sử dụng đất đai và tài nguyên thiên nhiên khác … - Các định mức và tiêu chuẩn : Các định mức tiêu chuẩn quan trọng có liên quan đến quản lý đầu tư và lợi của toàn xã hội . - Danh mục các dự án đầu tư : Danh mục các dự án đầu tư sắp xếp theo ngành và lĩnh vực, theo trình tư ưu tiên . - Các hợp đồng kinh tế : Các hợp đồng ký kết với các cá nhân và đơn vị thực hiện các công việc của quá trình thực hiện dự án . - Các chính sách và đòn bẩy kinh tế: Những chính sách và đòn bẩy kinh tế quan trọng thường được áp dụng để quản lý hoạt động đầu tư bao gồm chính sách giá cả, tiền lương , tài chính tín dụng, chính sách khuyến khích đầu tư … 1.2.2.Quản lý nhà nước với hoạt động đầu tư và đổi mới quản lý đối với hobạt động đầu tư . 1.2.2.1.Phân cấp quản lý nhà nước đối với hoạt đọng đầ tư 1.2.2.1.1.Phân cấp về quyền hạn và chức năng giưa các cơ quan quản lý nhà nước . Theo Nghị định 52, việc phân cấp quản lý hoạt động đầu tư của Trung ương và địa phương như sau : - Bộ kế hoạch và đầu tư có trách nhiệm nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách về đầu tư , quản lý nhà nước về lĩnh vực đầu tư trong và ngoài nước tại Việt Nam; Xác định phương hướng và cơ cấu vốn đầu tư, đảm bảo cân đối giữa đầu tư trong nước và ngoài nước; trình chính phủ các văn bản pháp lý có liên quan cơ chế, chính sách quản lý đầu tư, khuyến khích đầu tư trong và nước ngoài; Cấp giấy phép đầu tư, tổ chức thẩm định các dự án đầu tư thuộc nhóm A; Phối hợp với các Bộ ngành có liên quan để giải quyết các vấn đề tài chính, đất đai, quy hoạch xây dựng, môi trường v.v.. - Bộ Xây dựng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về xây dựng nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách về quản lý xây dựng đô thị và nông thôn; Chủ trì cùng bộ chuyên ngành kỹ thuật tổ chức việc thẩm định tổng dự toán các dự án nhóm A để cấp có thẩm quyền phê duyệt. Thống nhất quản lý nhà nước về chất lượng các công trình xây dựng; Chủ trì cùng Bộ Kế hoạch về Đầu tư, Bộ tài chính và các Bộ ngành có liên quan đẻ hướng dẫn , kiểm tra việc thực hiện điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng . - Bộ Tài chính thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tài chính trong lĩnh vực đầu tư phát triển. Nghiên cứu xây dựng các chính sách, chế độ về huy động vốn, quản lý vốn đầu tư; Thanh tra, kiểm tra tài chính đối với các tổ chức đơn vị có sử dụng nguồn vốn đầu tư của nhà nước, hướng dẫn, kiểm tra việc quyết toán đầu tư của nhà nước và thực hiện quyết toán vốn đầu tư các dự án nhóm A sử dụng vón nhà nước . - Ngân hàng nhà nước có trách nhiệm nghiên cứu cơ chế chính sách quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng ngân hàng trong đầu tư và xây dựng; Giám sát các tổ chức tài chính tín dụng thực hiện các nhiệm vụ huy động vốn và cho vay phục vụ các dự án đầu tư… - Các Bộ quản lý ngành khác có liên quan về đất đai, tài nguyên, công nghệ, môi trường, thương mại, bảo tồn, bảo tàng, di tích, di sản văn hoá, cảnh quan, quốc phòng, an ninh, phòng cháy và chữa cháy có trách nhiệm xem xét và có ý kiến bằng văn bản về các vấn đề có liên quan của dự án đầu tư trong thời hạn quy định . - Uỷ ban nhân dân tỉnh,thành phố trực thuộc trung ương trong phạm vi chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ được pháp luật quy định, với sự phân cấp của Chính Phủ và các cơ quan quản lý nhà nước trung ương, có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước đối với tất cả các tổ chức và cá nhan thực hiện dự án đầu tư trên địa bàn theo quy định của pháp luật. 1.2.2.1.2.phân cấp quản lý nhà nước đối với các dự án. - Thủ tướng CP quyết định đầu tư hoặc uỷ quyền quyết định đầu tư các dự án thuộc nhóm A. - Bộ trưởng, thủ tướng cơ hoạch và quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định đầu tư và chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư và chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tưtuyệt đối với các dự án nhóm C, cơ quan quyết định đầu tư phải bảo đảm cân đối vốn để thực hiện dự án không quá 2 năm. - Tổng cục trưởng Tổng cục trực thuộc Bộ trưởng uỷ quyền quyết định đầu tư các dự án nhóm C. - Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh được uỷ quyền cho giám đốc kế hoạch và đầu tưquyết định đầu tư các dự án có mức vốn đầu tư dưới 2 tỷ đồng. Đối với các tỉnh và thành phố còn lại, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh có thể uỷ quyền cho giám đốc - Sở Kế hoạch và đầu tư quyết định đầu tư cho các dự án có mức vốn dưới 500 triệu đồng. - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, xã được quyết định đầu tư các dự án thuoc vón ngân sách do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phân cấp đói với các dự án đầu tư ở cấp huyện dùng vốn ngân sách Nhà nước phải được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chấp nhận và quản lý chặt chẽ về quy hoạch, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. 1.2.2.2. Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư. - Đối với nhà nước Trung ương. + Xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp và những văn bản dưới luật liên quan đến hoạt động đầu tư. Nhà nước ban hành luật đầu tư trên cơ sở thống nhất Luật khuyến khích đầu tư trong nước và luật đầu tư ngoài nước, các luật liên quan như Luật Xây dựng, Luật quản lý thuế, lật đất đai, luật đấu thầu… và các văn bản dưới luật, nhằm một mặt khuyến khích thu hút và đẩy mạnh đầu tư xã hội, mặt khác đảm bảo cho việc quản lý các hoạt động đầu tư thực hiện và đạt hiệu quả kinh tế – xã hội cao. + Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đầu tư. Trên cơ sở chiến lược quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, của ngành và địa phương, các cơ quan Nhà nước tiến hành xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch đầu tư theo ngành địa phương và vùng lãnh thổ, xác định nhu cầu về vốn, nguòn vốn, các giải pháp huy động vốn… Từ đó xác định danh mục các dự án ưu tiên. + Ban hành kịp thời các chính sách, chủ trương quan trọng như chính sách tài chính – tiền tệ, tín dụng linh hoạt, chính sách ưu đãi đầu tư… nhằm cải thiện môi trường và thủ tục đầu tư; Nhà nước nước đề ra các giải pháp nhằm huy động tối đa và phát huy có hiệu quả mọi nguồn vốn đầu tư đặc biệt vốn trong dân và vốn đầu tư nước ngoài; Trên cơ sở phân tích đánh giá hiệu quả của hoạt động đầu tư, kịp thời bổ sung, điều chỉnh, khắc phục những vấn đề còn bất cập, thiếu hợp lý trong cơ chế, chính sách, pháp luật. + Ban hành các định mức kinh tế – kỹ thuật, quy định các chuẩn mực: Nhà nước nước ban hành các định mưc kinh tế- kỹ thuật, các chuẩn mực đầu tư. Nhà nước nước giao cho các ngành ban hành và thống nhất quản lý các định mức kiinh tế – kỹ thuật như quy định về yêu cầu thiết kế thi công, tiêu chuẩn chất lượng, chi phí vật tư, nguyên liệu, máy móc thi công, chi phí quản lý, giám sát công trình, tiêu chuẩn chất lượng môi trường. + Xây dựng chính sách cán bộ thuộc lĩnh vực đầu tư: Nhà nước ban hành chính sách và quy định về trình độ cán bộ, trương trình đào tạo, huấn luyện đội ngũ cán bộ chuyên môn cho từng lĩnh vực của hoạt động đầu tư như: cán bộ tư vấn khảo sát, thiết kế, cán bộ tư vấn đấu thầu, tư vấn giám sát, quản lý dự án, … + Đề ra chủ trương và chính sách hợp tác đầu tư với nước ngoài, chuẩn bị các nguồn lực tài chính, vật chất và nhân lực để hợp tác có hiệu quả cao. + Thực hiện chức năng kiểm tra giám sát. Các cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra giám sát việc tuân thủ pháp luật của các chủ đầu tư, xử lý những phạm vi phạm pháp luật, quy định của Nhà nước, những cam kết của chủ đầu tư… Tiến hành điều chỉnh, sử lý các vấn đề cụ thể, phát sinh trong quá trình phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư ( như chuyển lượng, bổ sung mục tiêu hoạt động, tăng vốn đầu tư chiều sâu, gia hạn thời gian hoạt động, giải thể, …) + Quản lý trực tiếp nguồn vốn Nhà nước: Nhà nước đề ra các giải pháp để quản lý và sử dụng nguồn vốn Nhà nước từ khâu xác định chủ trương đầu tư, phân bổ vốn, đến việc thi công xây dựng và vận hành công trình. Đói với các dự án đầu tư nhóm A sử dụng vốn ngân sách Nhà nước Thủ tướng Chính phủ ra quyết định đầu tư hoặc uỷ quyền quyết định đầu tư thẩm định dự án. - Đối với các cơ quan quản lý nhà nước thuộc Bộ, ngành và địa phương: + Các bộ, ngành, địa phương xây dựng chiến lược, quy hoạch đầu tư cho Bộ, ngành và địa phương mình. + Xây dựng danh mục các dự án cần đầu tư của ngành địa phương. + Xây dựng các kế hoạch huy động vốn + Hướng dẫn các nhà đầu tư thuộc ngành mình, địa phương mình lập dự án tiền khả thi và khả thi. + Ban hành những văn bản quan lý thuộc ngành mình, địa phưong mình liên quan đến đầu tư. + Lựa chọn đối tác, đàm phán ký kết hợp đồng của các dự án đầu tư thuộc ngành, địa phương theo chức năng nhiệm vụ được phân cấp quản lý. + Hỗ trợ và trực tiếp quản lý những vấn đề phát sinh trong quá trình đầu tư như cho thuê đất, cấp quyền sử dụng đất, giải phóng mặt bằng thuê và tuyển dụng lao động, xây dựng công trình. + Kiến nghị với cấp trên điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung những bất hộp lý trong cơ chế chính sách, các quy định dưới luật… nhằm nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước và hiệu quả kinh tế – xã hội của đầu tư - Phân biệt quản lý nhà nước đối vối đầu tư và quản lý đầu tư cua cơ sở. + Quản lý đầu tư của các cơ sở: Quản lý đầu tư ở các cơ sở là một bộ phận không tách rời của hoạt động quản lý kinh tế nói chung và quản lý sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng. Nội dung quản lý hoạt động đầu tư ở cấp cơ sở là: * Xây dựng chiến lược, kế hoạch đầu tư: Đối với cấp cơ sở, chiến lược và kế hoạch đầu tư phải phù hợp và phục vụ chiến lược, kế hoạch hạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Những chiến lược và kế hoạch đầu tư ở cơ sở là trương trình đàu tư dài hạn để đạt tới mô hình mong muốn về trình độ, quy mô, cấp độ tiêu chuẩn chất lượng năng lực và phạm vi ảnh hưởng, trong đó có kế hoạch cụ thể như: kế hoạch huy động vốn, kế hoạch thực hiện tiến trình đầu tư, kế hoạch thu chi từ khi bắt đầu đến khi hoàn thành đầu tư đưa công trình vào hoạt động, kế hoạch hoàn trả vốn đầu tư… * Tổ chức lập dự án đầu tư: Trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, quản lý hoạt động đầu tư của cơ sở được thực hiện ngay từ khi xây dựng ý tưởng dự án đến các giai đoạn lập dự án đầu tư. *Điều phối, kiểm tra, đánh giá hoạt động đầu tư của cơ sở nói chung và của từng dự án đầu tư trong cơ sở nói riêng. + Sự khác nhau gữa quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư và quản lý đầu tư của các cơ sở . Sự khác nhau căn bản giữa công tác quản lý đầu tư của nhà nước và các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ thể hiện trên các mặt sau: Thứ nhất, về thể chế quản lý: Nhà nước là chủ thể quản lý bao trùm nhất đối với mọi mặt hoạt đọng và mọi ảnh hưởng của đầu tư với hệ thống kinh tế – xã hội của đất nước; còn các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ làm chủ thể quản lý hoạt động đầu tư đối với nội bộ đơn vị mình và những quy định mà đơn vị phải chịu trách nhiệm. Thứ hai, về phạm vi và quy mô quản lý đầu tư: Quản lý đàu tư của nhà nước là hoạt động quản lý ở tầm vĩ mô, bao quát rộng lớn. Quản lý hoạt động đầu tư của doanh nghiệp chủ yếu tập thể trung sâu ở phạm vi doanh nghiệp. Quản lý của nhà nước phải quan tâm từ việc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà đầu tư thông qua các chiến lược, kế hoạch định hướng, luật pháp, quy chế, thông tin và điều hoà lợi ích xã hội. Các chủ đầu tư là các cơ sở kinh doanh dịch vụ được hoạt động trong môi trường và các khuôn khổ pháp luật do nhà nước tạo ra. Thứ ba, về mục tiêu quản lý: Quản lý của nhà nước đối với các hoạt động đầu tư nhằm mục tiêu bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích xã hội, bảo vệ lợi ích của mọi thành viên trong cộng đồng, đặc biệt là các lợi ích dài hạn. Các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, mục tiêu chủ yếu là lợi ích của đơn vị trên nguyên tắc không trái với khôn khổ pháp luật quy định. Thứ tư, về phương pháp quản lý đầu tư: Nhà nước quản lý chủ yếu bằng phương pháp gián tiếp, địng hướng bằng việc đề ra các chiến lược kế hoạch, đưa ra các dự báo và thông tin về tình hình thị trường, nhu cầu đầu tư từ vốn ngân sách thì vai trò quản lý nhà nước cụ thể và trực hơn. Tuy nhiên, Nhà nước cũng không quản lý quá chi tiết vì không thể quy định quá chi tiết đối với quá nhiều loại hình, quy mô, điều kiện cụ thể trên phạm vi quốc gia, hơn nữa không thể tước bỏ hết quyền và trách nhiệm của cơ sở. Đối với các doanh nghiệp và đơn vị cơ sở phải nghiên cứu phát hiện, lựa chọn các cơ hội đầu tư của mình, lập các dự án đầu tư cụ thể, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh tế tài chính của công cuộc đầu tư, được hưởng các kết quả đầu tư sau khi hoàn thành các nghĩa vụ theo sự điều tiết lợi ích của pháp luật nhà nước. Quản lý nước đóng vai trò hướng dẫn, hỗ trợ, giám sát và kiểm tra còn các cơ sở là người bị quản lý và điều tra. Nhà nước quản lý vừa bằng quyền lực thông qua pháp luật và quy định hành chính có tính chất bắt buộc, vừa bằng các biện pháp kinh tế thông qua các chính sách đầu tư. Doanh nghiệp quản lý bằng phương pháp kinh tế và nghệ thuật tiến hành đầu tư. Doanh nghiệp là đơn vị tự chủ, có tư cách pháp nhân, bình đẳng trước pháp luật, chịu sự kiểm tra của cơ quan nhà nước. 1.2.3. Sự cần thiết phải đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư và những nhân tố ảnh hưởng đến đổi mới quản lý nhà nước đối với hạt động đầu tư ở Việt Nam. 1.2.3.1. Sự cần thiết phải đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư . - Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư là một yêu cầu quan trọng của đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.. Báo cáo của ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội X, về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2006- 2010 đã chỉ rõ những thành tựu quan trọng của nước ta, nhưng cũng đi sâu phân tích những yếu kém vĩ mô hết sức đáng lưu ý, như: - Chất lượng phát triển kinh tế- xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; - Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm; - Kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; - Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn chế, các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc; - Hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại còn nhiều hạn chế; - Chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp, nhiều vấn đề hạn chế yếu kém chậm được khắc phục; - khoa học và công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội - Lĩnh vực văn hoá, xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc chậm được giải quyết; - Bộ máy nhà nước chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu càu của công cuộc phát triển kinh tế, xã hội; Đồng thời Báo cáo cũng chỉ ra 4 nguyên nhân chủ quan có tính bao trùm của các yếu kém này, đó là: Thứ nhất, chậm đổi mới tư duy, trước hết là tư duy về kinh tế; chậm xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ hai, chưa có chính sách và giải pháp đủ mạnh để huy động và sử dụng tót nhất các nguồn lực, và ngoại lực vào công cuộc phát triển kinh tế- xã hội. Thứ ba , bài chọn hành chính còn chậm nên đình công các tổ chức, cán bộ chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu. Nhìn vào 4 nguyên nhân này, nhận ra ngay vấn đề hiệu lực, hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý kinh tế – xã hội là nguyên nhân xuyên suốt dẫn đến tình trạng nói trên, trong đó công tác quản lý nhà nước về đầu tư giữ vị trí cốt lõi trong hệ thống các nguyên nhân này. Chính vì vậy cần phải đổi mới quản lý nhà nước đối với các hoạt động đầu tư ở Việt Nam. - Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư còn xuất phát từ yêu cầu đảm bảo nguyên tác tập trung dân chủ trong quản lý kinh tế . Trong hệ thống chính trị của nước ta : Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân và các tổ chức đoàn thể thực hiện, chỉ rõ vai trò trung tâm hệ thống là nhà nước, hành động trung tâm là hành động quản lý của Nhà nước để làm nhiệm vụ cụ thể hoá đường lối chính sách và đưa nghị quyết, chín sách, pháp luật vào cuộc sống. Với vai trò kinh tế là nhiệm vụ trọng yếu và quản lý đầu tư là nhiệm vụ to lớn và phức tạp thì việc quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư sẽ là một tất yếu. Cải cách hành chính và công tác tổ chức, cán bộ chính là khâu chủ yếu nằm ở trung tâm hệ thống quản lý nhà nước, thể hiện cả hình thức, nội dung và phương pháp quản lý. Và điều ách tắc nhất chính là thủ tục hành chính kinh tế rườm rà chậm chạp. Các quy trình quản lý kinh tế, quản lý đầu tư vẫn còn luẩn quẩn, phiền phức và kém hiệu lực: vừa tập chung quan liêu lại vừa lỏng lẻo; vừa phân tán lại vừa mất dân chủ. Nguyên nhân của mọi nguyên nhân, đó là đội ngũ cán bộ và hệ thống tổ chức cồng kềnh dựa dẫm và thiếu người đứng mũi chịu sào, quyền thì muốn dữ, lợi muốn hưởng mà trách nhiệm không muốn chịu. Đây là khâu yếu nổi bật trong quản lý nhà nước về đầu tư. Vì vậy để nâng cao hiệu quả và hiệu lực của quản lý nhà nước về đầu tư nhất thiết phải đổi mới. - Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nhằm huy động tiềm năng kinh tế của các tầng lớp dân cư cho đầu tư phát triển kinh tế – xã hội Các chính sách và giải pháp phát huy động và sử dụng các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực vào công cuộc phát triển kinh tế- xã hội, thực chất là các chính sách và giải pháp tập trung nguồn lực, nhất là nguồn lực tài chính vào phat triển cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội, làm tiền đề thu hút đầu tư phát triển đối với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Đất nước ta đang thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nên cần có cơ chế quản lý thích hợp để tăng cường điều kiện phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, tạo sức mạnh và chuyển biến nền sản xuất xã hội. Vấn đề nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hệ kinh tế- xã hội được thực hiện trên cơ sở phát huy năng lực, trách nhiệm của các cấp các ngành, nhất là cấp cơ sở. Nước ta đang tích cực nghiên cứu và thực hiện đỏi mới quản lý đối với các doanh nghiệp, thu hút đầu tư: Các doanh nghệp thuộc các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, sắp xếp, đổi mới, cổ phần hoá để giảm tối đa các doanh nghiệp nhà nước, thực hiện bình đẳng các thành phần kinh tế trước pháp luật, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế cần phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, quản lý đầu tư bảo đảm môi trường kinh doanh đầu tư thực sự thuận lợi đối với doanh nghệp khi đầu tư trong nước, đầu tư ra ngoài và đầu tư ngoài vào Việt Nam. Điều đó đòi hỏi bước đi phù hợp tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã cam kết. Chính các chính sách và giải pháp quản lý đầu tư trực tiếp phát huy nguồn vốn đã có, đồng thời tạo nên động lực khuyến khích mọi đối tượng xã hội và mọi thàn._., tối huệ quốc, các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá, chống trợ cấp và các biện pháp đối kháng trong thương mại quốc tế. 3.2. Một số nhóm giải pháp cơ bản đổi mới quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư nhằm phát triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam. 3.2.1. Quy hoạch tổng thể phải đi trước một bước, tạo tiền đề cho công tác kế hoạch hoá đầu tư. Thực hiện cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII vào công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch. Chiến lựơc phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh cần được lấy làm căn cứ để xây dựng làm quy hoạch tổng thể ở các cấp tỉnh và các huyện( thành phố). Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội phải đi trước một bước. Từ quy hoạch xác định các chỉ tiêu tổng quát và phương hướng phát triển, đồng thời cũng định hình các dự án đầu tư làm động lực thực hiện quy hoạch. Các dự án này phải được tập trung để hội đủ các yếu tố và đưa vào kế hoạch đầu tư dài hạn và hàng năm. Công tác này ở hầu hết các tỉnh, trong đó có Nam Định hầu như ở tình trạng “ăn đong” không được kế hoạch hoá và hầ như được “tác nghiệp tại chỗ” thiếu tính hệ thống và khoa học. Theo nguyên tắc, lập kế hoạch đòi hỏi tính khoa học cao và phải làm có trình tự, bài bản theo quy trình, cụ thể như sau: - Đối với kế hoạch đầu tư của Nhà nước, trình tự lập kế hoạch trải qua các bước: + Xác định nhu cầu đầu tư và khả năng nguồn vốn đầu tư. Nhà nước xác định tình hình cầu- cung đầu tư; sự chuyển dịch cơ cầu kinh tế có liên quan đến chu kỳ của đầu tư; dự báo tình hình phát triển công nghệ, phát triển khoa học- kỹ thuật có liên quan đến đầu tư. + Xây dựng kế hoạch định hướng đầu tư tổng thể, theo cơ cấu ngành và vùng lãnh thổ, theo thành phần kinh tế. + Đối với hoạt động đầu tư ngân sách: Trên cơ sở kế hoạch định hướng và khả năng tích luỹ của ngân sách, phân bổ kế hoạch đầu tư cho từng địa phương, từng ngành và cho cơ sở. Sau đó tổng hợp và cân đối các kế hoạch của cơ sở thành kế hoạch của ngành, địa phương, cả nước. + Đối với hoạt động đầu tư bằng nguồn vốn khác ( vốn huy động của dân, vốn tài trợ, vốn tín dụng trái phiếu…)Trên cơ sở kế hoạch định hướng trung, Nhà nước sử dụng hệ thống pháp luật, chính sách và những quy định nhằm khuyến khích hoặc hạn chế đầu tư để hướng các nhà đầu tư thực hiện các công cuộc đầu tư theo các hình thức thích hợp. Thông thường các loại đầu tư này được điều chỉnh bằng các công cụ gián tiếp. - Đối với kế hoạch đầu tư ở cấp cơ sở, trình tự lập kế hoạch như sau: +Xác định nhu cầu của thị trường về chủng loại và số lượng sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể trong thời kỳ kế hoạch trên cơ sở dự báo thị trường và kế hoạch định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước. + Xác định khả năng cung cấp sản phẩm và dịch vụ nà trong thời kỳ hiện tại và tương lai, trong nước cũng như nhập khẩu. + Xác định tiềm lực của cơ sở để đầu tư mở rộng hoặc hiện đại hoá, hoặc đầu tư mới để sản xuất hoặc thực hiện các hoạt động dịch vụ. +Xây dựng chiến lược hoạt động tổng thể, chiến lược sản xuất sản phẩm hoặc hoạt động dịch vụ + Xây dựng chiến lược tổng thể về đầu tư theo các mặt hàng hoặc hoạt động dịch vụ dự kiến của doanh nghiệp, theo tiến độ từng giai đoạn của quá trình thực hiện đầu tư. +Lập dự án đầu tư cho từng đối tượng sản phẩm hay hoạt động dịch vụ trong chiến lược đầu tư trung của doanh nghiệp +Tổng hợp vốn đầu tư của từng dự án theo từng giai đoạn, từng hoạt động trong kỳ kế hoạch sẽ được tổng mức vốn đầu tư cần huy động và thực hiện của cơ sở. Điều kiện để ghi vào kế hoạch đầu tư hàng năm: Theo luật đầu tư, để được ghi vào kế hoạch đầu tư hàng năm , các dự án phải đáp ứng những điều kiện sau: + Các dự án được ghi vào kế hoạch chuẩn bị đầu tư phải phù hợp với quy hoạch phát triển ngành và lãnh thổ được duyệt + Các dự án được ghi vào kế hoạch chuẩn bị thực hiện đầu tư phải có quyết định đầu tư phù hợp với những quy định của luật và Nghị định về đầu tư quản lý ngân sách Nhà nước +Ưu tiên những dự án có thiết kế kỹ thuật và tổng dự án được duyệt, hoặc đã có thiết kế kỹ và dự toán hạ mục thi công trong năm thì được ghi kế hoạch đầu tư. Các dự án quy mô nhỏ (nhóm C) nhất thiết phải có thiết kế kỹ thuật và tổng dự án được duyệt, các dự án quy mô lớn có thể chưa thiết kế dự toán được duyệt nhưng quyết dịnh đầu tư đã quy định mức vốn của từng hạng mục. Đối với các dự án ký kết với nước ngoài, trong đó có nhiều dự án nhỏ thì thì từng dự án nhỏ thi công trong năm phải có thiết kế kỹ thuật và dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt. 3.2.2. Xác định hợp lý cơ cấu đầu tư và kế hoạch hoá việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư. Đầu tư phát triển rất cần cơ ché thu hút đầu tư để các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư làm giàu cho doanh nghiệp và cho xã hội. Tuy nhiên, đất nước ta mới qua một chặng đường đổi mới, các doanh nghiệp còn nghèo, vốn trong dân tuy có nhưng phân tán, nguồn vốn Nhà nước vẫn giữ vai trò hết sức quan trong trong phát triển hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, có tính định hướng, tạo cơ sở cho nền kinh tế. Để phát huy được hiệu quả nguồn vốn ngân sách Nhà nước trong đầu tư cần xác định cơ cấu đầu tư một cách khoa học, có kế hoạch chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng hiệu quả. Cơ cấu đầu tư là các yếu tố câu thành đầu tư như cơ cấu vốn, nguồn vốn, cơ cấu huy động và sử dụng vốn…. Quan hệ hữu cơ, tương tác qua lại giữa các bộ phận trong không gian và thời gian, vận động theo hướng hình thành một cơ cấu đầu tư hợp lý và tạo ra những tiềm lực lớn hơn về mọi mặt kinh tế xã hội. Cơ cấu đầu tư cần ổn định trong từng giai đoạn để bảo đảm định hướng cơ cấu và cần lựa chọn hướng thay đổi qua mỗi giai đoạn để phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội. Cơ cấu đầu tư chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, có nhân tố thuộc nội tậi nền kinh tế, có nhân tố tác động từ bên ngoài, có nhân tố tích cực thúc đẩy phát triển, song cũng có nhân tố kìm hãm, hạn chế sự phát triển.Các nhân tố trong nội bộ nền kinh tế bao gồm: Nhân tố thị trường và nhu cầu tiêu dùng của xã hội; Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;Quan điểm chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong mỗi giai đoạn nhất định, cơ chế quản lý có thể ảnh hưởng đến việc hình thành cơ cấu đầu tư…. Nhóm nhân tố tác động từ bên ngoài như xu thế chính trị, xã hội và kinh tế của khu vực và thế giới. Trong xu thế quốc tế hoá lực lượng sản xuất và thời đại bùng nổ thông tin, các thành tịu của cách mạng khoa học kỹ thuật cho phép các nhà đầu tư nắm bắt nhanh nhạy thông tin, tìm hiểu thị trường và xác định chiến lược cơ cấu đầu tư hợp lý để nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm chủ động hội nhập. Sự thay đổi của cơ cấu đầu tư mức độ này sang mức độ khác, phù hợp với môi trường và mục tiêu phát triển gọi là chuyển dịch cơ cấu đầu tư. Sự thay đổi không chỉ bao gồm thay đổi về vị trí ưu tiên mà còn là sự thay đổi về chất trong nội bộ cơ cấu và các chính sách áp dụng. Về thực chất chuyển dịch cơ cấu đầu tư là điều chỉnh cơ cấu huy động và sử dụng các loại vốn và nguồn vốn… phù hợp với mục tiêu đã xác định của toàn bộ nền kinh tế, ngành, địa phương và các cơ sở trong từng thời kỳ phát triển. Chuyển dịch cơ cấu đầu tư có ảnh hưởng quan trọng đến đổi mới kinh tế. Định hướng đầu tư để đổi mới cơ cấu đầu tư trên cơ sở sự tác động của yếu đầu tư và có tính đến những nhân tố ảnh hưởng khác. Mặt khác, sự thay đổi và phát triển của các bộ phận nền kinh tế sẽ quyết định sự thay đổi cơ cấu đầu tư hiện tại. Kết quả đầu tư đổi mới cơ cấu kinh tế là sự thay đổi số lượng cũng như chất lượng của các ngành trong nền kinh tế quốc dân theo hướng xuất hiện nhiều ngành mới, giảm tỷ trọng những ngành không phù hợp, tăng tỷ trọng những ngành lợi thế, là sự thay đổi mối quan hê giữa các bộ phận của một ngành, của nền kinh tế the xu hướng ngày càng hợp lý hơn, sử dụng các nguồn lực ngày càng hiệu quả hơn, là việc nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội cho từng bộ phận cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư của một quốc gia, ngành, địa phương hay cơ sở thông qua kế hoạch đầu tư là nhằm hướng tới việc xây dựng một cơ cấu đầu tư hợp lý. Cơ cấu đầu tư hợp lý là cơ cấu đầu tư phù hợp với các quy luật khách quan, các điều kiện kinh tế- xã hội, lịch sử cụ thể trong từng giai đoạn phù hợp và phục vụ chiến lược phát triển kinh tế xã hội của từng cơ sở, ngành, vùng và toàn nền kinh tế, có tác động tích cực đến việc đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hợp lý hơn, khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn lực trong nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập, phù hợp với xu thế kinh tế, chính trị thế giới và khu vực. Hướng chuyển dịch cơ cấu đầu tư: - Chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế. Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn hay cơ cấu nguồn vốn đầu tư thể hiện quan hệ tỷ lệ của từng loại nguồn vốn trog tổng vốn đầu tư xã hội hay nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp. Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần và chính sách huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển của Đảng và Nhà nước ta làm cho cơ cấu ngày càng đa dạng hơn. Trên phạm vi quốc gia, một cơ cấu nguồn vốn hợp lý là cơ cấu phản ánh khả năng huy động tối đa mọi nguồn vốn đầu tư, là cơ cấu thay đổi theo hướng giảm dần tỷ trọng của nguồn vốn đầu tư từ ngân sách, tăng tỷ trọng nguồn vốn tín dụng ưu đãi và nguồn vốn của dân cư. ở nước ta trong thời kỳ 1986-1990 nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước không đáng kể, vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước đạt 1,35% tổng vốn đầu tư, đầu tư nước ngoài khoảng 7,5%và các nguồn viện trợ không nhiều, nguồn vốn đầu tư xã hội chủ yếu là vốn ngân sách Nhà nước. nhưng từ 1991 đến nay, cơ cấu nguồn vốn đầu tư có sự thay đổi lớn. Ngồn vốn đầu tư cấp phát trực tiếp của ngân sách giảm dần, từ 23,59%thời kỳ 1991-1995 xuống còn 21,87% thời kỳ 1996-2000. Đối với tỉnh Nam Định, thời kỳ 1996-2000, cơ cấu vốn ngân sách Nhà nước-vốn các thành phần kinh tế trong nước- và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tổng vốn đầu tư xã hội tương ứng là:47,25%-52,72% -0,03% nhưng đến thơif kỳ 2001-2005 đã là: 42,57%-54,21%-3,22%, nghĩa là tỷ trọng vốn của các thành phần kinh tế trong nước và vốn đầu tư ngoài nước đều tăng, vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước đã giảm, gánh nặng của ngân sách Nhà nước đã được san sẻ một phần. - Chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư: Cơ cấu vốn đầu tư thể hiện quan hệ tỷ lệ của từng loại vốn trong tổng vốn đầu tư xã hội, vốn đầu tư của doanh nghiệp hay của một dự án. Một cơ cấu đầu tư hợp ls là cơ cấu mà vốn đầu tư được ưu tiên cho bộ phận quan trọng nhất, phù hợp với yêu cầu và mục tiêu đầu tư và thường chiếm tỷ trọng cao. Trong thực tế, có một số cơ cấu đầu tư quan trọng cần được chú ý xem xét như cơ cấu vốn xây lắp và vốn máy móc thiết bị trong tổng vốn đầu tư; Cơ cấu vốn đầu tư XDCB, vốn đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học, công nghệ và môi trường, vốn đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực, những chi phí tạo ra tài sản lưu động và những chi phí khác (chi phí quảng cáo, tiếp thị…); cơ cấu vốn đầu tư theo quá trình lập và thực hiện dự án như chi phí chuẩn bị đầu tư, chi phí quản lý đầu tư, chi phí thực hiện đầu tư,... Ví dụ: Thời kỳ 1996-2000, vốn đầu tư cho xây dựng và sửa chữa lớn tài sản cố định và vốn đầu tư phát triển khác trong tổng số vốn đầu tư xã hội tương ứng là:81,36%-18,64%, thời kỳ 2001-2005 là: 84,78%-15,22%. Cơ cấu vốn đầu tư đã tập trung trọng điểm hơn. - Chuyển dịch cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành: Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành làcơ cấu thực hiện đầu tư cho ngành kinh tế quốc dân cũng như trong từng tiểu ngành. Cơ cấu đầu tư theo ngành thể hiện việc thực hiện chính sách ưu tiên phát triển, chính sách đầu tư đối với từng ngành trong một thời kỳ nhất định. Cơ cấu vốn đầu tư phát triển theo ngành kinh tế quốc dân trong thời kỳ đổi mới đã dịch chuyển theo hướng đầu tư mạnh cho công nghiệp, ưu tiên cho nông nghiệp nông thôn và phát triển hạ tầng cơ sở cũng như các lĩnh vực xã hội. Tỷ trọng vốn đầu tư cho nông, lâm nghiệp, thuỷ sản trong tổng vốn đầu tư xã hội đã tăng từ 8,5% thời kỳ 1991-1995 lên 11,37% trong thời kỳ 1996-2000, lên 13,6% ở thời kỳ 2001-2005. Tỷ trọng vốn đầu tư cho công nghiệp tăng từ 28,3% năm 1991 lên 40,6%năm 1999 và được ổn định ở mức 44,5% trong thời kỳ 2001-2005. Vốn đầu tư phát triển giao thông, bưu điện, thông tin liên lạc chiếm tỷ trọng bình quân 15,11% trong tổng số vốn đầu tư phát triển thời kỳ 10 năm 1991-2000, tăng từ năm 1991 đến năm 1999 và ổn định trở lại mức 12,2% trong thời kỳ 2001-2005. Vốn đầu tư phát triển cho các lĩnh vực xã hội cũng được chú trọng tăng từ26,4%( thời kỳ 1996-2000) và lên 27,4%( thời kỳ 2001-2005), còn các lĩnh vực khác giảm từ 3,5% xuống 2,6%. - Chuyển dịch cơ cấu đầu tư phát triển theo địa phương và vùng lãnh thổ: Đây là cơ cấu đầu tư theo không gian, phản ánh chiến lược đầu tư phát huy lợi thế của từng vùng. Một cơ cấu đầu tư này là hợp lý nếu nó phù hợp lợi thế của vùng, đồng thời đảm bảo hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển thống nhất và những cân đối lớn trong phạm vi quốc gia và các ngành. ở nước ta thời gian qua, vốn đầu tư xã hội được phân bố tập trung vào hai vùng kinh tế trọng điểm là vùng đồng bằng sông Hồng vùng Đông Nam Bộ. Đây là 2 vùng giữ vị trí đặc biệt quan trọng, là chỗ dựa cho các vùng lân cận, là trung tâm của 2 vùng Bắc Bộ và Nam Bộ. Trong 5 năm 1991-1995 tỷ trọng vốn đầu tư phát triển toàn quốc. Hai vùng miền núi phia Bắc và vùng núi Tây Nguyên là những vùng thưa dân, kinh tế còn phân tán, phát huy hiệu quả còn chậm nên vốn đầu tư còn thấp. Vùng miền núi phía Bắc, tỷ trọng vốn đầu tư chiếm 7,3% trong thời kỳ 1991-1995 và 7,7% trong thời kỳ 1996-2000; 7,79% trong thời kỳ 2001-2005. Tóm lại, sau 20 năm đổi mới, cơ cấu đầu tư ở nước ta đã có nhiều thay đổi theo hướng hợp lý hơn, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Cơ chế bao cấp trong đầu tư đã được hạn chế cả về mức độ phạm vi. Mọi miền tăng cho đầu tư phát triển được huy động. Nguồn vốn trong nước được huy động ngày càng nhiều và sử dụng có hiệu quả trong khi vẫn coi nguồn vồn nước ngoài là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, cơ cấu đầu tư thời gian qua cũng thể hiện những bất cập. Thứ nhất, cơ cấu nguồn vốn chưa hợp lý. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển của đất nước là rất lớn nhưng khả năng đáp ứng các nguồn vốn thấp. Thứ hai, hiệ quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư chưa cao, còn dàn trải, chậm páht huy tác dụng, lãng hí và thất thoát trong đầu tư còn lớn, nhất là vốn đầu tư ngân sách Nhà nước. Chưa phát huy lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh của đất nước trên trường quốc tế. Thứ ba, cơ cấu đầu tư theo ngành, vùng chưa chuyển dịch chuyển mạnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng ngànhvà từng vùng, chưa tạo ra được cơ cấu kinh tế có khả năng khai thác các thế mạnh trong từng ngành và từng vùng phát triển. Như vậy, cơ cấu đầu tư trong thời gian tới cần có những đổi mới căn bản. Một là, đổi mới cơ cấu đầu tư phải hướng vào việc thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mục tiêu của chính sách công nghiệp hoá trong giai đoạn tới là phải làm thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế- xã hội. Công nghiệp hoá trong thời kỳ này cũng phải dựa trên cơ sở của kinh tế thị trường. Sự thay đổi cơ cấu đầu tư phải nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu cử công nghiệp hoá, góp phần làm chuyển dịch một cách sâu sắc và toàn diện cơ cấu nền kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, mở rộng thị trường tiêu thụ, khắc phục sự mất cân đối giữa các vùng, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, ổn định và nâng cao mức sống nhân dân. Hai là, đổi mới cơ cấu đầu tư gắn liền với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Nhà nước và đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nước nhà , đồng thời động viên mọi nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển. Đối với đầu tư của Nhà nước chỉ nên tập chung vào các ngành then chốt của nên kinh tế, những ngành có tính đột phá tạo đà cho các ngành khác phát triển.Mục tiêu là kinh tế Nhà nước phải thực sự trở thành đòn bẩy để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế,đồng thời phải giải quyết căn bản được các vấn đề xã hội, mở đường, hỗ trợ và hướng dẫn hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế phi Nhà nước . Là lực lượng vật chất có hiệu quả để Nhà nước thực hiện chính sách quản lý và điều tiết nền kinh tế theo nguyên tắc của kinh tế thị trường. ` Ba là, coi trọng quy luật cung- cầu trong nền kinh tế thị trường, phát huy tính chủ động sáng tạo của cơ sở đồng thời đảm bảo vai trò quản lý của Nhà nước. Trong quá trình xây dựng cơ cấu đầu tư hợp lý phải coi trọng các yếu tố thị trường. Hoạt đọng đầu tư nên đổi mới theo hướng hạn chế những quyết định đầu tư theo kiểu hành chính.Mở rộng quyền cho các tổ chức sản xuất kinh doanh trên cơ sở định hướng của Nhà nước và thực tiến vận động của thị trường. Xác định khả năng cung ứng và nhu cầu tiềm năng nhằm trành trường hợp mất cân đối cung- cầu ảnh hưởng đến tình hình đầu tư và sản xuất như một số mặt hàng thiết yếu(xăng dầu, sắt thép,….) trong thời gian vừa qua. Các cơ quan quản lý Nhà nước cần đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư, có cơ chế kiểm soát, không can thiệp quá sâu vào hoạt động đầu tư cụ thể, tập trung nghiên cứu đưa ra các dự báo, cung cấp thông tin kinh tế, định hướng đầu tư, kiểm tra công tác quản lý đầu tư ở cơ sở. Bốn là, đổi mới cơ cấu đầu tư đảm bảo nguyên tắc vốn trong nước là quyết định, vốn ngoài nước là quan trọng. Để đảm bảo nguyên tắc vốn trong nước là quyết định, đòi hỏi trong giai đoạn tới chú trọng hơn nữa việc phát huy các nguồn lực nội lực. Ngoài một số lĩnh vực cấn quản lý trực tiếp của Nhà nước, cần khuyến khích cơ cấu thành phần kinh tế tham gia trên cơ sở hiệu quả, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh theo đúng các nguyên tắc của kinh tế thị trường. Năm là, đổi mới cơ cấu đầu tư đảm bảo sự phát triển hợp lý giữa các vùng và xây dựng các vùng trọng điểm. Khi xây dựng cơ cấu đầu tư vùng cân xem xét tới các đặc tính xã hội, các điều kiện kinh tế, điều kiện tự nhiên, phải đảm bảo sự chuyển dịch đồng bộ, cân đối giữa cơ cấu vùng và phát huy được lợi thế so sánh của từng vùng. Tuy nhiên, để tạo thế và lực trong phát triển cần xây dựng một sốvùng kinh tế trọng điểm. Cơ cấu vùng này cần được đầu tư theo hướng mở rộng liên kết giữa cơ cấu địa phương lân cận nhằm phát huy lợi thế so sánh, tạo sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Bên cạnh việc xác định các vùng kinh tế trọng điểm trong cơ cấu đầu tư cần coi trọng thoả đáng tới các quy hoạch vùng và địa phương trong cả nước. Đây cũng có thể coi là một yếu tố để phát triển toàn diện giữa các miện và các vùng, bảo đảm cơ cấu đầ tư và cơ cấu kinh tế hợp lý. 3.2.3. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 36/2004/QH11 về công tác đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, chống thất thoát lãng phí, đầu tư dàn trải, nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản. - Tham gia với các Bộ, ngành liên quan nhanh chóng hoàn thiện các văn bản pháp quy về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản như:Các văn bản hướng dẫn thi hành các luật được Quốc hội khoá XI thông qua như: Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Đấu thầu. Tăng cường phân cấp trong đầ tư xây dựng, đồng thời xác định cụ thể trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân đi đôi với công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của các cấp quản lý. Hoàn thiện, bổ sung hệ thống đơn giá, định mức và suất đầu tư xây dựng công trình trên địa bàn tỉnh. - Cải cách thủ tục hành chính trong đầu tư và xây dựng: Nghiên cứu phân định rõ ranh giới giữa các hoạt động công quyền với các hoạt động cung cấp dịch vụ công. Đồng thời phải đảm bảo các điều kiện cần thiết để các cơ quan Nhà nước làm tốt phần việc của mình. Sắp xếp và cơ cấu lại cơ quan QLNN khi Chính phủ cơ cấu lại bộ máy theo hướng giảm đầu mối, phù hợp với yêu cầu đổi mới chức năng nhiệm vụ. Phát huy sự đa dạng về tổ chức và đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức đoàn thể, các tổ chức xã hội trong việc tham gia xây dựng và thực hiện các thủ tướng, chính sách của Đảng, Nhà nước và các Nghị quyết, quyết định của tỉnh. Tiếp tục hoàn thiện việc tách biệt hẳn cức năng quản lý sản xuất kinh doanh ra khỏi chức năng quản lý Nhà nước của các cơ quan, doanh nghiệp, xoá bỏ tình trạng khép kín tại tất cả các khâu trong quá trình đầu tư, xây dựng. Nghiên cứu, hoàn thiện mô hình Ban quản lý dự án, công tác tư vấn trong đầu tư xây dựng nhằm tăng cường quản lý và nâng cao trách nhiệm của các chủ tham gia vào quá trình đầu tư và xây dựng. - Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức, đi đôi với việc thiết lập cơ chế trách nhiệm trong mỗi khâu của lĩnh vực quản lý đầu tư và xây dựng. Tạo chuyển biến cơ bản trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tiếp tục cải tiến và công khai hoá các quy trình, thủ tục hành chính để rút ngằn thời gian thẩm định, cấp phép đầu tư. Đẩy mạnh nâng cao hiệu quả công tác vận động, xúc tiến đầu tư theo một chương trình chủ động. - Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra: Thực hiện thường xuyên công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra trong hoạt động đầu tư và xây dựng. Kịp thời phát hiện, ngăn chặn những hành vi gây lãng phí, thất thoát vốn đầu tư của Nhà nước, có kiến nghị để sử lý kịp thời những sai phạm. Đồng thờităng cường công tác giám sát của cộng đồng đối với các công trình xây dựng trên địa bàn. Quy định rõ trách nhiệm cá nhân, đơn vị liên quan đến chất lượng sản phẩm công trình như: chủ đầu tư, tổ chức tư vấn, thực hiện các quy chế đấu thầu đến kiểm tra và giám sát công tác thi công công trình. - Tiếp tục rà soát và điều chỉnh lại các cơ chế chính sách. Tiếp tục nghiên cứu xây dựng các cơ chế chính sách mới. Các cơ chế chính sách phải đảm bảo phù hợp với các chính sách, pháp luật của Nhà nước và điều kiện thực tế của tỉnh, bảo đản ổn định môi trường sản xuất kinh doanh ở mọi lĩnh vực. Các cơ chế chính sách đảm bả sự vận hành của kinh tế- xã hội trong tỉnh phát triển thông thoáng, vận động theo quy luật của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đồng thời đảm bảo được thông lệ Quốc tế, hướng tới sự hôi nhập khu vực và Quốc tế. - Về phòng chống tham nhũng: Tổ chức tốt việc triển khai thực hiện Luật phòng chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Xây dựng và thực hiện có hiệu quả chương trình hành động phòng chống tham nhũng. Xử lý nghiêm khắc những hành vi lợi dụng chức, quyền để tham nhũng, gây thất thoát, lãng phí tài sản và tiền vốn của Nhà nước. Tiếp tục thực hiện phân cấp trong quản lý kinh tế và quy định rõ trách nhiệm của từng cấp, từng ngành, từng dơn vị và người đứng từng cơ quan. Tăng cường công tác kiểm tra và giám sát hệ thống hành chính Nhà nước, trong đó có công khai các quy định về thủ tục hành chính để dân biết được là xem một biện pháp quan trọng. 3.3. Một số kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệ quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư ở tỉnh Nam Định. -Hoạt dộng đầu tư là hoạt động phức tạp, nếu đưa ra những quyết định quá chi tiết trong chính sách, cơ chế quản lý sẽ rất phiền phưc, máy móc. Trong lĩnh vực này, cần phải áp dụng cơ chế trách nhiệm, phân cấp quản lý thích hợp. Hoạt động đầu tư là hoạt động tổ chức chi tiêu, do đó, nên khuyến khích các thành phần kinh tế bỏ vốn để kiếm lời. Nhà nước chỉ cần quản lý tốt về quy hoạch, môi trường, còn lại do người bỏ vốn đầu tư tự tổ chức thực hiện và quản lý là cách tốt nhất để đơn giản hoá thủ tục, tạo động lực để các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư phát triển doanh nghiệp, cũng đồng thời phát triển kinh tế- xã hội. Để việc quản lý được chặt chẽ, hiệu quả cần kết hợp các cơ chế quản lý Nhà nước về quy hoạch, quản lý môi trường, quản lý thuế,… Đối với hoạt động đầu tư các lĩnh vực có sử dụng vốn ngân sách Nhà nước thì phân cấp triệt để, áp dụng cơ chế chặt chẽ, quy định thẩm quyền và trách nhiệm rõ ràng, chỉ đích danh người trách nhiệm trước pháp luật để thực thi nhiệm vụ. - Hệ thống pháp luật là khuôn khổ, chuẩn mực khách quan tốt nhất cho quản lý Nhà nước, trong đó có hoạt động đầu tư. Luật đầu tư đã ban hành là văn bản pháp lý, là cơ sở quan trọng cho việc quản lý và tổ chức các hoạt động đầu tư. Luật đấu thầu là cơ sở pháp lý cho các cơ quan, các thành phần kinh tế áp dụng khi cần lựa chọn nhà thầu, tuy nhiên, Nhà nước cần tiếp tục ban hành các văn bản và bổ sung thêm các luật mới để hoàn thiện và đồng bộ hệ thống pháp luật. - Đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ, được hoạt động trong môi trường pháp lý chặt chẽ, cụ thể về tiêu chí nội dung, chất lượng trong từng khâu nghiệp vụ và chất lượng tổng thể; quy định rõ yêu cầu và công nghệ sử lý phối hợp trong hoạt động; có cơ chế và động lực vật chất, tinh thần; đề cao giá trị danh dự, đạo đức xã hội để làm nền tảng cho sự nghiệp đổi mới quản lý Nhà nước nói chung và đổi mới quản lý Nhà nước vè đầu tư phát triển nói riêng của cả nước và của tỉnh Nam Định. Đây là khâu hết sức quan trọng đối với tỉnh Nam Định. - Vai trò cơ quan lãnh đạo và quản lý kinh tế là đưa ra định hướng chỉ đạo với những nguyên tắc có tính xương sống của chương trình, kế hoạch. Cơ quan tham mưu dựa vào đó để đè xuất các cảm giải pháp và phương án sử lý cụ thể. Lây thước đo hiệu quả là chính để làm căn cứ lựa chọn đề án, phương án kế hoạch của cơ quan tham mưu. Làm như vậy sẽ phát huy được trí tuệ của cả hệ thống. Khắc phục tình trạng chỉ đạo mang tính sự vụ, cục bộ, vì việc đó biến các cơ quan trong hệ thống tham mưu lãnh đạo quản lý thành những cá nhân để “sai vặt” và đánh mất đi tính hệ thống, chiến lước bộ máy tổ chức đông mà không thể nào mạnh được. Thời gian tới, tỉnh Nam Định phải tích cực và khẩn trương khắc phục một số nhược điểm: - Sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản: một số nơi thực hiện các biện pháp thâm canh, chuyển đổi cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ chưa tích cực. Một số dự án nuôi trồng thuỷ sản gặp khó khăn cần phải khảo sát, nắm tình hình giúp thoá gỡ khó khăn để tạo bước khôi phục và phát triển. - Công nghiệp tuy tốc độ tăng trưởng khá, nhưng năng lực cạnh tranh và hiệu quả còn thấp, thương hiệu sản phẩm còn ít và chưa mạnh. Chưa được các doanh nghiệp coi trọng; trình độ công nghệ còn thấp. - Xuất khẩu còn gặp khó khăn, giá trị còn nhỏ bé, thị trường khu vực và quốc tế chưa được mở rộng, chưa có nhiều mặt hàng mới có giá trị cao. - Nguồn thu ngân sách từ kinh tế trên địa bàn thấp, các khoản chi đầu tư phát triển chủ yếu phụ thuộc vào ngân sáchTW. - Cần có sự sáng tạo trong sử lý tình huống khi làm nhưng dự án với nước ngoài, nhất là dự án lớn như WB thành phố Nam Định. Khi WB yêu cầu buộc phải bảo đảm cho người dân di dời khỏi khu vực dự án được hưởng đền bù không thấp hơn 100% giá trị tài sản hiện có, không xét đến tính hợp pháp hay không hợp pháp của khu đất họ đang sinh sống, bằng cách tách phương án đền bù GPMB thành 2 phương án: Phương án chính là phương án đền bù theo pháp luật Việt Nam, phương án bổ sung là “Phần đền bù bổ sung theo cơ chế của dự án WB”. Làm như vậy sẽ tránh được các cuộc khiếu kiện giữa các vùng dự án, bảo đảm ổn định an ninh dân cư. - Công tác quản lý kinh tế chưa tốt nhất là quản lý đất đai ở huyện ý yên và quản lý hỗ trợ cây vụ đông ở một số huyện ý yên, Vụ Bản, Nam Trực còn để xảy ra vấn đề nổi cộm. - Nợ XDCB đã được chú ý giải quyết nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Công tác giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư vẫn còn nhiều phức tạp, một số dự án bị kéo dài, ảnh hưởng đến tiến đọ công trình. - Chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế, lao động qua đào tạo và có tay nghề khá còn thiếu so với yêu cầu, tình trạng việc làm ở nông thôn và thành thị vẫn còn bức xúc, các tệ nạn xã hội nhât là ma tuý vẫn gia tăng. - Tình trạng khiếu nại tố cáo của người dân, đặc biệt là các vụ khiếu kiện đông người, đối với các cấp chính quyền còn khá lớn. Một số vụ việc chậm được giải quyết dứt điểm đang còn là nỗi bức xúc trong nhân dân. Kết luận Luận văn đã trình bày những cơ sở lí luận về công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư, nghiên cứu thực trạng quản lý đầu tư, tập chung đi sâu vào tình hình tỉnh Nam Định, phân tích và đề xuất định hướng và giải pháp đổi mới quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư tại Việt Nam nói chung và tỉnh Nam Định nói riêng. Thông qua nghiên cứu công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư trọng nền kinh tế thị trường và điều kiện cụ thể ở tỉnh Nam Định, kết hợp những bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc và một số địa phương trong nước; bằng phương pháp nghiên cứu xuất phát từ lý luận cơ bản làm nền tảng đối chiếu các thực tiễn, luận văn đã xây dựng luận cứ đề xuất phương hướng và giải pháp xây dựng mô hình quản lý phù hợp, bảo đảm các nguyên tắc quy định, bảo đản tính khoa học, hợp lý và hiệu quả. Luận văn là một nghiên cứu mới mang tính hệ thống, kết hợp chặt chẽ giữa các lý luận và thực tiễn, phân tích và xác định giải pháp về quản lý đầu tư, một vấn đề nóng hổi tính thời sự hiện nay, có giá trị thiết thực trong nghiên cứu, vận dụng giải quyết nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội, đưa tỉnh Nam Định vươn lên xứng đáng với tiềm năng và tầm vóc mà lịch sử giao phó. Luận văn mong muốn góp phần hình thành tư duy mới cho việc nghiên cứu quản lý đầu tư. Đất nước ta đang trên đà đổi mới, nhưng quá trình vận động đều còn đang tìm tòi, thử nghiệm, chính sách và pháp luật chưa thật sự hoàn thiện và đồng bộ. Quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư là vấn đề lớn và phức tạp. Hoạt động đầu tư là bài toán phát triển kinh tế- xã hội tổng hợp, có nhiều vấn đề còn bất cập khó tránh khỏi. Luận văn muốn góp phần giải quyết những thực tế bức xúc đó, đòi hỏi phải tìm ra nhân tố khoa học cho mỗi nội dung của vấn đề một cách hợp lý, đặt nó đúng vị trí, sử lý đúng liều lượng, sử dụng giải pháp một cách khéo léo để có thể thực hiện một cách hiệu quả. Luận văn kết hợp những lý luận cơ bản của chương trình đào tạo đồng thời mang tinh thần mới mẻ của Nghị quyết Đại hội Đảngtoàn quốc lần thứ Xvà Đại hội Đảng bộ tỉnh NamĐịnh lần thứ XVII,vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của tỉnh vừa được Nghị quyết 54/NQ-BCT của Bộ Chính trị và Quyết định 109/QD-TTg ngày 19-5-2006 của Thủ tướng Chính phủ xác định xây dựng thành trung tâm vùng phía Nam đồng bằng sông Hồng. Hy vọng rằng, luận văn sẽ có đóng góp thiết thực vào việc nghiện cứu, tổ chức thực hiện và hoàn thành xuất sắc các mục tiêu phấn đấu của tỉnh Nam Định do Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII của tỉnh đề ra. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctk13.doc
Tài liệu liên quan