Đổi mới kinh tế Việt Nam với phép phủ định biện chứng

TL22 Lời nói đầu Việc đổi mới nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp sang nền thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng cộng sản Việt Nam đã lựa chọn từ đại hội Đảng VI (1996) đang từng bước thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở Việt Nam. Thực tiễn tình hình kinh tế của nước ta trong những năm qua cho thấy công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam đang đi trên con đường đúng đắn. Công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đa

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1637 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Đổi mới kinh tế Việt Nam với phép phủ định biện chứng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng dần dần thu được những thành quả đáng chú ý. Từ một nước phải nhập khẩu gạo trong những năm đầu giải phóng đất nước, đến nay, Việt Nam đã trở thành một trong ba nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, sánh vai cùng với Mỹ và Thái Lan. Quan hệ thương mại của nước ta cũng ngày càng được mở rộng với chủ trường “ Việt Nan muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”. Nước ta nhập WTO tổ chức thương mại thế giới – và đến khi đó thì nền kinh tế của Việt Nam sẽ có những bước tiến mới, hứa hẹn một sự tăng trưởng cao. Không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà trong những ngành khoa học cơ bản cũng dần dần được đầu tư thích đáng hơn và có sự chú ý hơn của Nhà nước, bằng chứng là ngân sách Nhà nước cho những ngành này đã tăng lên đáng kể so với những năm đầu thập kỷ 90. Để đạt được những thành tích đáng kể như vậy ngoài sự nỗ lực gồng mình trong xu thế hội nhập với thế giới để không trở thành “kể bị đào thải” thì một trong những điều kiện quan trọng để đưa nước ta có được vị thế dần dần được khẳng định trong khu vực là do Đảng và Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã kiên trì đường lối lãnh đạo, quán triệt tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, coi đó là nền tảng tư tưởng và làm kim chỉ nam cho mọi lý luận khoa học và xã hội mặc dầu đã có không ít những sự nghi ngờ, dèm pha về chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc biệt khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Trong quá trình lãnh đạo đất nước để thực hiện mục tiêu “ dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”, tiến lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã kiên định đường lỗi lãnh đạo, kế thừa và phát huy chủ nghĩa Mác – Lênin và biết áp dụng thực tiễn phép biện chứng của Mác – xít một cách linh hoạt trong những đường lối, định hướng, chính sách hoạch định phát triển kinh tế xã hội khẳng định việc đổi mới nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn - trong đó chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lênin luôn là nền tảng vững chắc là kim chỉ nam dẫn đường. Nhận thức tầm quan trọng của chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác Lênin, đặc biệt là phép phù định biện chứng đối với công cuộc đổi mới của Việt Nam, và đây cũng là những lý luận cơ bản mà mỗi học sinh khi bước chân vào giảng đường đại học cần phải nắm được, Bộ môn Triết học Mác Lênin – trong Đại học Kinh tế Quốc dân đã có chủ trương cho sinh viên nghiên cứu và ngoài những giời giảng dậy trên lớp, bộ môn đã nâng lên thành một đề tài nghiên cứu khoa học cho sinh viên. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, em rất vui khi được tiếp xúc với những lý luận cơ bản và cần thiết và rất vui mừng khi được nâng cao kiến thức với một đề tài “đổi mới kinh tế việt nam với phép phủ định biện chứng”.Tuy nhiên, vì đây là lần đầu tiên thử sức với một đề tài vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn cao nên em không tránh khỏi sai sót, em mong các thầy (cô) thông cảm và giúp đỡ em trong quá trình hoàn thiện tư duy và kiến thức của mình. Em xin chân thành cảm ơn thầy (cô) A.Cơ sở lý luận Phần I: quy luật phủ định và phủ định I. Khái niệm phủ định biện chứng và những đặc điểm của nó 1. Khái niệm Triết học Mác thấy rõ sự chuyển hoá từ những thay đổi thành những thay đổi về vật chất, sự đấu tranh của các mặt đối lập dẫn tới mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi và sự vật mới ra đời. Mỗi sự thay thế ấy làm thành một mắt khâu trong sợi dây xích phát của hiện thực và của sự tư duy. Sự ra đời của cái mới là kết quả của sự phủ định cái cũ, cái lỗi thời. Sự phủ định trong tự nhiên lẫn trong xã hội là sự phủ định làm mất đi cái cũ và xuất hiện cái mơí, tiến bộ hơn.Sự phủ định như vậy là hình thức giải quyết các mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật bị phủ định. Từ những sự nhận đinh trên chủ nghĩa duy vật đã đưa ra khái niệm: Phủ định biện chứng là quá trình tự thân vận động phủ định, tự thân phát triển, là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn so với cái bị phủ định. 2. Đặc điểm Phủ định biện chứng có hai đặc trưng cơ bản + Thứ nhất, nó mang tính khách quan, là điều kiện của sự phát triển. Phủ định biện chứng là quá trình mang tính khách quan do mâu thuẫn của bản thân sự vật tự quy định. Hơn nữa, phương thức phủ định sự vật cũng không tuỳ thuộc ý muốn của con người. Khi đề cập tới vấn đề này, chúng ta lưu ý rằng, mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng, do đó mà có sự phát triển. Sự phủ định là kết quả hoạt động của quy luật mâu thuẫn và quy luật lượng chất cũ và xuất phát từ xu hướng vận động của sự vật, hiện tượng, từ chính trong nội lực của sự vật. Nguyên nhân của sự chuyển hoá đó là do sự phát triển của mâu thuẫn bên trong của sự vật do sự biến hoá của một số điều kiện bên trong nào đó làm cho một số đặc trưng, đặc tính hoặc hình thức vốn có mất ý nghĩa tích cực đáng được khẳng định trong quá trình phát triển mà trở thành những cái tiêu cực ngăn cản sự phát triển nhất định, mọi sự vật mới có ý nghĩa tích cực mới là cái ngăn cản sự phát triển nhất định, mọi sự vật mới có ý nghĩa tích cực mới là cái nên khẳng định vượt qua khỏi điều kiện phát triển đó thì ý nghĩa tích cực của nó sẽ mất đi và chuyển thành cái tiêu cực, cái cần phải phủ định. Vì vậy cần phải chuyển hoá sang mặt đối lập của nó, cần phải có đặc trưng, đặc tính khác đối lập với bản thân nó, hoặc hình thức khác mới có thể phát triển lên được nếu không thì sự phát triển sẽ gặp trở ngại, sẽ thành ra sai lầm hay lệch lạc. + Thứ hai, nó mang tính kế thừa là nhân tố liên hệ giữa cái cũ và cái mới. Kế thừa là việc cái mới ra đời từ cái cũ đã giữa lại trong đó những yếu tố tích cực tiến bộ từ cái cũ tạo đi phù hợp với hoàn cảnh mới. Phủ định biện chứng không phải là thủ tiêu, sự phá hoại hoàn toàn của cái bị phủ định. Trái lại, để dẫn tới sự ra đời của cái mới, quá trình phủ định biện chứng bao hàm trong đó nhân tố giữ lại những nội dung tích cực của cái bị phủ định. Phủ định biện chứng, do vậy, là sự phủ định mang tính kế thừa. Với ý nghĩa như vậy, phủ định đồng thời là khẳng định. Diễn đạt tư tưởng đó, Lênin có viết “ không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng... mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định”. Giá trị của sự kế thừa biện chứng được quy định bởi vai trò của nó trong sự ra đời của cái mới. Thật ra, nó đã tham gia vào việc tạo ra cái hiện tại, nó tạo thành mối liên hệ sống động trong thời gian. Một trong những hình thức quan trọng của cái được kế thừa trong đời sống xã hội là truyền thống. Truyền thống là cái chứa đựng trong bản thân mình những năng lực to lớn để tạo ra cái mới. Trong qúa trình đổi mới hiện nay, chúng ta phải biết kế thừa những di sản tích cực của dân tộc cũng như của thế giới. Nhưng có lúc, có nơi đã coi nhẹ việc khai thác vốn quý báu của dân tộc, có quan điểm phủ định sạch trơn. Ngược lại, có lúc có nơi lại phục hồi cả những phong tục tập quán đã lỗi thời, không biết đứng trên yêu cầu mới của cách mạng mà cải biến và sử dụng những vốn cũ đó cho thích hợp. II. Quy luật phủ định của phủ định và hình thức “xoáy ốc” của sự phát triển. 1. Nội dung Phủ định biện chứng nói lên một giai đoạn, một nấc thang trong quá trình phát triển. Với tư cách là kết quả của “ phủ định lần thứ nhất”, cái mới cũng chứa đựng trong bản thân mình xu hướng dẫn tới những lần phủ định tiếp theo – phủ định của phủ định. Chỉ có thông qua phủ định của phủ định mới dẫn tới việc ra đời một sự vật, trong đó có sự lặp lại một số đặc trưng cơ bản của cái xuất phát ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Đến đây mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Khuynh hướn chung như vậy của sự phát triển được khái quát thành nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định. Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng, như trên đã nói, là sự thống nhất giữa loại bỏ, kế thừa và phát triển. Mỗi lần phủ định biện chứng được thực hiện sẽ mang lại những nhân tố tích cực mới. Do đó, sự phát triển thông qua những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không ngừng. Đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định chính là sự phát triển dường như quay lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn. Nói một cách khái quát, qua một số lần phủ định, sự vật hoàn thành một chu kỳ phát triển. Phủ định lần thứ nhất tạo ra sự đối lập với cái ban đầu, đó là một bước trung gian trong sự phát triển. Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất tiến lên của sự phát triển. Sự phát triển đi lên không phải diễn ra theo đường thẳng, mà theo đường “xoáy ốc”. Đề cập đến con đường đó của sự phát triển biện chứng, Lênin viết. “ Sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, một trình độ cao hơn; sự phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không theo đường thẳng”. Diễn tả quy luật phủ định bằng đường xoáy ốc chính là hình thức cho phép biểu đạt được rõ ràng nhất các đặc trưng của qúa trình phát triển biện chứng: tính kế thừa, tính lặp lại nhưng không quay trở lại và tính chất tiến lên của sự phát triển. Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc thể hiện một trình độ cao hơn của sự phát triển, đồng thời dường như quay lại cái đã qua, dường như lặp lại vòng trước. Sự tiếp nối nhau của các vòng thể hiện tính vô tận của sự phát triển, tính vô tận của sự tiến lên từ thấp đến cao. Quy luật phủ định của phủ định diễn tả sự phát triển theo đường xoáy ốc thông qua phủ định của phủ định nhưng cần tránh khuynh hướng hiểu sự phát triển một cách máy móc. Số lượng cần phủ định trong một chu kỳ phát triển một cách máy móc. Số lượng các lần phủ định trong một chu kỳ phát triển cụ thể trong thực tế có thể nhiều hơn hai, điều đó tuỳ theo tính chất của một quá trình phát triển cụ thể, nhưng ít nhất cũng phải hai lần. Từ những lập luận trên đây, chúng ta có thể hiểu nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định như sau: quy luật này nói lên mối liên hệ sự kế thừa giữa cái bị phủ định, do sự kế thừa đó sự phủ định biện chứng không phải là sự phủ định sạch trơn bác bỏ tất cả sự phát triển trước đó, mà là điều kiện cho sự phát triển, nó duy trì và giữ gìn nội dung tích cực của các giai đoạn trước, lắp lại một số đặc điểm cơ bản của cái xuất phát nhưng trên cơ sở mới cao hơn; do vậy, sự phát có tính chất tiến lên không phải theo đường thẳng mà là đường xoáy ốc. 2. ý nghĩa của quy luật phủ định của phủ định Trong hoạt động lý luận cũng như trong thực tiễn, chúng ta cần lưu ý rằng cái mới nhất định sẽ thay thế cái cũ, cái tiến bộ nhất sẽ chiến thắng cái lạc hậu, cái mới ra đời từ cái cũ, nó kế thừa tất cả những gì tích cực của cái cũ. Do đó, cần chống lại thái độ phủ định sạch trơn cái cũ. Trong khi đấu tranh với cái cũ, chúng ta vừa phải biết sàng lọc, biết giữ lấy những gì tích cực là có giá trị của cái cũ, cải tạo cái cũ cho phù hợp với những điều kiện mới; chống thái độ “ hư vô chủ nghĩa” trong khi nhìn nhận lịch sự, đánh giá quá khứ. Chẳng hạn trước tình trạng tam thời khủng hoangả thoái trào hiện nay của chế độ XHCN ở Liên Xô cũ và Đông Âu không chỉ những kẻ chống cộng có cả một số người vốn là Macxít cũng ra sức phủ nhận những thành quả to lớn của CNXH đã tạo dượng được ở những nước đó. Họ không thấy rằng trong hơn 70 năm tồn tại, CNXH ở Liên Xô đã để lại những giá trị tích cực có giá trị lâu dài đối với lịch sử toàn thế giới. Phần II. Những lý luận về thị trường I. Nền kinh tế kém phát triển mang tính tự cấp, tự túc ền kinh tế tự nhiên là hình thái kinh tế đầu tiên trong tiến trình phát triển kinh tế – xã hội của loài người. Nền kinh tế tự nhiên là loại hình kinh tế tiến hành sản xuất sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của bản thân người sản xuất. Các mối quan hệ sản xuất kinh tế đều mang hình thái quan hệ hiện vật. Đây là nền kinh tế thị trường có thị trường là kiểu hệ thống kinh tế đặc thù mà ở đó nhà nước chính thức có quyền lực kinh tế vô cùng to lớn, nhưng trong thực tế quyền lực đó là sự bác bỏ về việc tưởng một cái gì đó là việc thực hiện tích cực một sự lựa chọn. Mọi hoạt động của kinh tế đều được điều chỉnh bởi nhà nước, từ giá cả tất nhiên gồm cả giá ngoại hối và việc phân phối hàng tiêu dùng. II. Nền kinh tế hàng hoá. Nền kinh tế hàng hoá là một bước ngoặt phát triển cao hơn của kinh tế tự nhiên. Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế – xã hội mà trong đó hình thái phổ biến của sản xuất ra sản phẩm để bán để trao đổi trên thị trường. Trong nền kinh tế hàng hoá gần như toàn bộ sản phẩm lao động xã hội và dịch vụ đều mang hình thaí hàng hoá, tức là hầu như tất cả các mỗi quan hệ kinh tế đều được thực hiện dưới hình thái quan hệ hàng hoá, tiền tệ trên thị trường. III. Nền kinh tế thị trường tự do Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình tự cao được điều tiết bởi cơ chế thị trường ở đó sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai được quyết định thông qua thị trường cơ sở quan hệ cung cầu, giá cả. Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ cơ bản vận động dưới sự chi phối của quy luật thị trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận. Nhân tố cơ bản của cơ chế thị trường là cung cầu và giá cả thị trường. Trong nền kinh tế thị trường là hàng loạt những quy luật kinh tế vốn có của nó như: quy luật giá trị, quy luật kinh tế cung cầu, quy luật cạnh tranh... cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị trường tuân theo những quy luật trên. IV. Nền kinh tế thị trường hỗn hợp. Đây là nền kinh tế thị trường thị trường phát triển ở trình độ cao mà ở đó chú trọng tới vai trò quản lý của Nhà nước đối với kinh tế bên cạnh những quy luật vốn có của thị trường.Thị trường lúc này chịu sự điều tiết của cả “bàn tay vô hình” và “ bàn tay hữu hình”mà tuy theo mục đích phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia mà trong từng thời kỳ, tương quan giữa việc sử dụng “ bàn tay vô hình” và “bàn tay hữu hình” được điều chỉnh. Nền kinh tế này còn gọi là nền kinh tế hỗn hợp. B. phép phủ định biện chứng đối với công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt nam I. Sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá là tất yếu khách quan, phủ định lại nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã không còn phù hợp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 1. Những tồn tại và bất cập của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp ở Việt Nam Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước XHCN, đất nước ta bắt đầu xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hưũ công cộng về tư liệu sản xuất. Với sự nỗ lực của nhân dân ta có thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước XHCN khác mô hình kế hoạch hoá đã phát huy được tính ưu việt của nó, từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng công cụ kế hoạch hoá nhà nước đã tập trung vào tay mình một lực lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản và tiền bạc để ổn định và phát triển nền kinh tế. Nền kinh tế kế hoạch hoá trong thời kỳ đầu thực hiện ở nước ta đã tỏ ra phù hợp, nó đã tạo ra một bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế xã hội. Đồng thời nó cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nó đã cho phép Đảng và nhà nước huy động ở mức độ cao nhất sức người và sức của cho tiền tuyến. Nhưng sau ngày giải phóng Việt Nam bức tranh mới về hiện trạng kinh tế XH đã thay đổi. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả 3 loại hình kinh tế tự cấp, tự túc, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và nền kinh tế hàng hoá. Đó là thực tế khách quan tồn tại sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp tục chủ trương xây dựng nền kinh tế chỉ huy như ở Miền Bắc trước đây. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý cũ vào điều kiện kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện hàng loạt các hiện tượng tiêu cực. Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp có sự phân phối một cách mạnh mẽ mọi sản phẩm lao động, giá cả thì bị ấn định trước theo những chỉ tiêu của Nhà nước, điều này dẫn đến việc những quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá cả, quy luật cung cầu, quy luật giá trị vi phạm nghiêm trọng, làm cho tình hình lưu thông tiền tệ, giá cả không kiểm soát được, đặc biệt là trong những năm 80, lạm phát của nước ta đã lên đến 3 con số làm cho đời sống nhân dân vô cùng khó khăn và tình hình kinh tế nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng. Nền sản xuất kém phát triển được sự bảo hộ của nhà nước lại càng trở nên trì trệ. Bộ máy quản lý doanh nghiệp không hiệu quả, cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và không năng động, phong cách thì cửa quyền dưới chính sách bù lỗ của nhà nước ngày càng không đem lại bất cứ một hiệu quả kinh tế nào. Đồng thời do chủ quan cúng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý kinh tế, chúng ta đã không quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất của đất nước, trái lại đã dẫn tới việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các nguồn tài nguyên đó. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất kém hiệu quả, nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những việc đó gây ra rất xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế gặp rất nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như không có vốn đầu tư chủ yếu vào vay và viện trợ của nước ngoài. Để cuối những năm 80, giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao đã làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí một số địa phương nạn đói đang rình rập. Nguyên nhân sâu xa về sự xuy thái nền kinh tế là do áp dụng dập khuôn một mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả. Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng như trên, thêm vào đó viện trợ nước ngoài bị giảm sút đã đặt nền kinh tế nước ta với sự bức bách đòi hỏi phải đổi mới. 2. sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước là một xu hướng phát triển yếu khách quan. Trước những tồn tại và bất cập trên của nền kinh tế chỉ huy, tại Đại hội Đảng VI (1996) đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Đến đại hội đảng VII Đảng ta xác định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực tế đã diễn ra ở đó, tức là chuyển nền kinhtế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của Đảng trên mặt trận làm kinh tế. Xét dưới góc độ triết học, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường là đúng đắn và phù hợp với quy luật phủ định của phủ định và xu thế của thời đại. Thứ nhất, nếu không thay đổi cơ chế kinh tế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa muốn nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Thứ hai, do đặc trưng của nền kinh tế tập trung còn rất cứng nhắc nên nó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong gia đoạn ngắn và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng. Thứ ba, xét về sự tồn tại thực tế ở nước ta, những nhân tố của kinh tế thị trường. Về vấn đề này có rất nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều ý kiến cho rằng thị trường nước ta là thị trường mới hình thành còn non yếu và là thị trường sơ khai. Thứ tư, xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu về hàng hoá, dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới. Thứ năm, xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời với sự phát triển hoà nhập quốc tế, sự cạnh tranh giữa các quốc gia đã làm thay đổi hẳn về chất, không còn là dân số đông, vũ khí nhiều, quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Thứ sáu, sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường không thể nào giải quyết được những vấn đề do chính cơ chế đó và bản thân đời sống kinh tế – xã hội đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp lạm phát khủng hoảng, ô nhiễm môi trường, sự bùng nổ dân số cũng như hiện tượng XH khác. Những tình trạng và hiện tượng trên ở mức độ khác nhau trực tiếp hay gián tiếp đều có tác dụng ngược trở lại làm cản trở sự phát triển bình thường của xã hội nói chung và của nền kinh tế hàng hoá nói riêng, vì vậy, sự tác động của nhà nước một chủ đề có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan vào nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển kinh tế XH. Thiếu sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế chẳng khác nào khi vỗ tay mà chỉ dùng một tay. Như vậy, nhìn lại ta thấy, Việt Nam trong thời kỳ dài tiến hành xây dựng nền kinh tế cơ chế kế hoạch hoá tập trung, phủ định “bàn tay vô hình” của thị trường, cơ chế này đã có một vai trò lịch sử trong những năm 1950 – 1979 và đã có tác dụng đáng kể trong việc tập trung các nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH và đáp ứng nhu cầu của cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Song cơ cấu này đã được duy trì quá lâu, làm cho từ tập trung ở mức cần thiết chuyển sang tập trung cao độ, phát sinh quan liêu bao cấp kìm hãm và cản trở sự phát triển kinh tế trong thời bình. Đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ mới, khi cách mạng đã chuyển giai đoạn và trong bối cảnh tình hình quốc tế có nhiều thay đổi, đồng thời nhận thức sâu sắc phép phủ định biện chứng là cái mới sẽ tất yếu khách quan ra đời thay thế cho cái cũ không còn phù hợp nữa, vì vậy, trong Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986), Đảng và Nhà nước ta đã mạnh dạn đưa ra đường lối đổi mới, điều chỉnh cơ cấu kinh tế để chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, công nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế tư nhân và có những chính sách mở rộng hợp tác quốc tế nhằm đưa nền kinh tế nước ta dần dần hội nhập với nền kinh tế thế giới. Theo hướng căn bản của sự đổi mới cơ chế quản lý đã được đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được Đại hội VII của Đảng khẳng định: “ tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu qủa cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước”. Những thay đổi chính sách quan trọng đã được đề ra trong đường lối mới là. Khẳng định sự phát triển lâu dài nền kinh tế nhiều thành phần. Điều này có ý nghĩa là xoá bỏ sự kỳ thị trước đây đối với kinh tế tư nhân, đồng thời đặt kinh tế nhà nước vào môi trường cạnh tranh bình đẳng. Khẳng định các quan hệ thị trường có vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Đổi mới chính sách cơ cấu theo hướng tập trung các nguồn lực gia và ba mục tiêu lớn: phát triển nông nghiệp phát triển sản xuất hàng tiêu dùng, đẩy mạng xuất khẩu và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, ổn định môi trường kinh tế và xã hội thông qua việc cố gắng đạt các mục tiêu: cắt giảm lạm phát, giảm thiếu hụt ngân sách, giảm mức bộ chi tiền mặt và ngân cao mức sống của nhân dân. Những thay đổi có tính chất chiến lược về chính sách theo tinh thần các kết luận của đại hội VI diễn ra kể từ năm 1998, và sau đó tiếp tục thúc đẩy của các nghị quyết đại hội lần VII của Đảng cộng sản Việt Nam. Định hướng lớn trong chính sách kinh tế mà đại hội VII đề ra. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN. Xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng và quyền quản lý của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có chủ, mọi đơn vị kinh tế đều có chủ. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước công nghiệp hoá, thoát khỏi tình trạng nông nghiệp lạc hậu. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đi đôi với việc tăng cường vai trò quản lý của nhà nước về kinh tế – xã hội. Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam đã khái quát đường lối đổi mới kinh tế sau đại hội VII, tiếp tục đổi mới kinh tế với điểm trung tâm là hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Thực hiện quan điểm chiến lược đó, Đảng và nhà nước Việt Nam đã có những chủ trương cần thiết để từng bước chuyển nền kinh tế tự nhiên, lực lượng sản xuất bị vô chủ ở nhiều cấp độ khác nhau sang nền kinh tế thị trường qua ba bước cơ bản. - Cải cách cơ cấu sở hữu, biến nền kinh tế về cơ bản dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể đối với tư liệu sản xuất thành nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên đa dạng hoá hình thức sở hữu tư liệu sản xuất. - Đổi mới kinh tế chuyển từ trạng thái nhà nước, chỉ huy nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính, bằng kế hoạch hoá tuyệt đối và tập trung cao sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. - Từng bước chuyển sang nền kinh tế tự cấp, tự túc, ưu tiên công nghiệp nặng sang nền kinh tế hàng hoá và hình thành một hệ thống kinh tế mở. Tóm lại, kể từ khi đại hội VI đến đại hội VIII của Đảng cộng sản Việt Nam, hướng phát triển kinh tế ở Việt Nam cơ bản là chuyển từ nền kinh tế hiện vật, tự túc với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. II. Tính kế thừa trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam 1. Đặc trưng của nền kinhtế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước ở Việt Nam a. Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinhtế kém phát triển, mang tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá, vận động theo cơ chế thị trường. Thật vậy, đi lên CNXH không qua giai đoạn phát triển TBCN nên nước ta thiếu cái “ cốt vật chất” của một nền kinh tế phát triển, cơ cấu hạ tầng vật chất và xã hội thấp kém, phân công lao đọng xã hội chưa sâu sắc, các mối quan hệ kinh tế kém phát triển, thị trường còn đơn điệu. Đồng thời chúng ta còn mắc phải những sai lầm, chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, mà đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không tuân thủ theo “ quá trình lịch sử tự nhiên” trong sự phát triển xã hội nói chung và trong nền kinh tế nói riêng. Điều này đòi hỏi phải có một sự đổi mới sâu sắc và toàn diện cho phù hợp với yêu cầu của quy luật khách quan, phù hợp với xu thế thời đại ngày nay. b. Nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần. Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần là do nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liêụ sản xuất. Đại hội đảng VII đã khẳng định các thành phần kinh tế đang tồn tại khách quan tương ứng với tình chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn lịch sử hiện nay có là: quốc doanh, tập thể, cá thể, tư nhân, TBCN và tư bản nhà nước. Nền kinh tế nhiều thành phần đang trong sự vận động của cơ chế thị trường ở nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển kể cả trong điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vừa phản ánh tính đa dạng phong phú trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc quản lý theo định hướng XHCN. Do đó, việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường quản lý nhà nước về kinh tế xã hội. Để hạn chế và khắc phục những hậu quả của mặt trái kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường mang lại, giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng phương hứng và phát huy bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, đại hội đảng VII nhấn mạnh: nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý kinh tế – xã hội bằng pháp luật, kế hoạch chính sách, thông tin, tuyên truyền, giáo dục và các công cụ khác. c. Nền kinh tế phát triển theo hướng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài bằng nhiều hình thức. Biệt lập trong trong sự phát triển kinh tế là cha đẻ của đói nghèo. Do đó, việc mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài dưới nhiều dạng khác nhau đối với nước ta như là một tất yếu trong sự phát triển. Tất yếu là vì sản xuất và trao đổi hàng hoá tất yếu vượt khỏi phạm vi quốc gia, mang tính chất quốc tế, đông thời đó cũng là tất yếu của sự phát triển nhu cầu nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập với nhịp điệu của nền kinh tế thế giới. d. Nền kinh tế hàng hoá phát triển theo định hướng XHCN thông qua bản chất và vai trò quản lý của nhà nước. Sự vận động của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường không thể nào giải quyết hết được những vấn đề do chính cơ chế đó và bản thân đời sống KT –XH đặt ra. Đó là tình trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng, ô nhiễm môi trường.... cũng như hiện tượng xã hội khác. Những tình trạng và hiện tượng trên ở những mức độ khác nhau, trực tiếp hay gián tiếp đều có tác động ngược trở lại, làm cản trở sự phát triển bình thường của một xã hội chung và của nền kinh tế hàng hoá nói riêng. Vì vậy, sự tác động của nhà nước vào nền kinh tế là một tất yếu để làm cho nền kinh tế lành mạng hơn, giảm bớt những thăng trầm, đột biến xấu trên con đường phát triển của nó. 2. Tính kế thừa khi chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý nhà nước ở Việt Nam. Trước đây do chủ quan nóng vội muốn xây dựng một nền kinh tế thuần khiết XHCN, nhà nước ta đã xây dựng một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hạch hoá tập trung cao độ với thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu mà không chú ý tới yếu tố thị trường, hàng hoá sản xuất ra được định giá sẵn và không tuân theo những quy luật của thị trường. Trên thực tế, cơ chế kinh tế đó đã là vật cản đối với sự phát triển kinh tế. Do đó, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ra đời mang tính khách quan nó là kết quả của giải quyết mâu thuẫn tự có của nền kinh tế tự cung tự cấp. Tuy nhiên, khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần không có nghĩa là phủ định sạch trơn tất cả những gì của nền kinh tế cũ mà một sự chuyển đổi có tính chất kế thừa, trên cơ sở khắc phục, sử đổi những tồn tại, sai lầm vốn có và phát huy những mặt tốt, mặt tích cực của nó, điều này được thể hiện như sau. Trước hết đó là việc công nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế khác bên cạnh hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần hiện nay ở Việt Nam gồm các thành phần kinh tế: thành phần kinh tế tư bản tư nhân... Như vậy mặc dù đã phủ định loại bỏ n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0152.doc