Chương 1
Sự cần thiết hoạt động thanh tra
của ngân hàng Nhà nước đối với ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
1.1. Sự hình thành và phát triển của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài
1.1.1. Sự phát triển của hệ thống Ngân hàng và hoạt động quản lý Nhà nước đối với các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Sự phát triển của hệ thống Ngân hàng trên thế giới gắn liền với sự phát triển của trình độ sản xuất và tiến bộ của xã hội loài người. Đến những năm cuối thế
61 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1566 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đổi mới hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với Ngân hàng liên doanh, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kỷ 19 đầu thế kỷ 20, các Ngân hàng thương mại trên thế giới nhất là ở Mỹ và các nước Tây Âu đã phát triển mạnh, cùng giai đoạn lịch sử đó đã xuất hiện ngân hàng phát hành - đó là Ngân hàng Trung ương làm nhiệm vụ phát hành tiền, nhận tiền gửi và cho vay đối với các Ngân hàng thương mại. Đến thời kỳ này, hệ thống Ngân hàng hai cấp trong nền kinh tế thị trường đã được xác lập và phát triển thành hệ thống Ngân hàng hiện đại. Các Ngân hàng đã và đang có những bước phát triển và hoàn thiện, thể hiện tính đa dạng và phong phú về thể chế; sự phân hoá thành những ngân hàng lớn và nhỏ trong sự cạnh tranh quyết liệt của cơ chế thị trường; chất lượng hoạt động nghiệp vụ không ngừng được nâng cao trở thành công nghệ ngân hàng hiện đại như ngày nay.
Sự mở rộng về quy mô và không ngừng được nâng lên về chất lượng của các Ngân hàng thương mại cùng với sự phát triển của hoạt động ngoại thương và xu hướng toàn cầu hoá hoạt động ngân hàng, làm cho hoạt động của các Ngân hàng thương mại không chỉ bị giới hạn trong mỗi quốc gia mà nó được phát triển mở rộng sang nhiều nước khác. Lúc này, sự chu chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu cũng vượt ra ngoài phạm vi quốc gia và mang tính quốc tế.
Mặt khác, mục tiêu của các Ngân hàng thương mại là tìm kiếm lợi nhuận, sự tìm kiếm này không chỉ ở trong nước mà còn được thực hiện cả ở nước ngoài. Khi các Ngân hàng thương mại mở rộng hoạt động của mình ra nước ngoài thì không chỉ là nhằm tìm kiếm nhiều lợi nhuận hơn, mà còn đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển bền vững của mình trong sự cạnh tranh ngày càng gat gắt của thị trường.
Với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận nên các Ngân hàng thương mại nhiều khi coi nhẹ việc tuân thủ luật pháp và các quy chế an toàn, có trường hợp không phục vụ cho định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước. Mặt khác, kinh doanh tiền tệ là loại kinh doanh gặp nhiều rủi ro nhất trong các loại kinh doanh. Những rủi ro chủ yếu trong kinh doanh tiền tệ mà các Ngân hàng thương mại thường gặp phải là:
- Rủi ro lãi suất,
- Rủi ro hối đoái và tỷ giá,
- Rủi ro hệ thống,
- Rủi ro môi trường,
- Rủi ro cơ chế v.v...
ở nước ta, thực hiện đổi mới cơ chế quản lý, Đảng ta yêu cầu "chuyển mạnh hoạt động của Ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa " [10]. Theo Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/03/1998 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), vào giữa năm 1988 chúng ta đã chuyển hệ thống ngân hàng một cấp thành hệ thống ngân hàng hai cấp, đó là Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng.
Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ ngân hàng theo quy định của pháp luật, mục tiêu chính của các Ngân hàng thương mại là lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh; nhưng phải tuân thủ nghiêm túc luật pháp và các quy chế. Mặt khác, kinh doanh tiền tệ là loại hình kinh doanh có nhiều rủi ro như đã phân tích ở trên. Vì vậy, để hạn chế những vi phạm của các Ngân hàng thương mại, giúp các Ngân hàng thương mại tránh được rủi ro đòi hỏi phải có sự quản lý của Nhà nước thông qua một cơ quan chức năng, đó là Ngân hàng Trung ương (ở nước ta là Ngân hàng Nhà nước) và thường được giao chủ yếu cho Thanh tra Ngân hàng. Điều này được quy định trong Luật các Tổ chức tín dụng, đó là: "Các tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng phải chịu sự thanh tra của Thanh tra Ngân hàng theo quy định của pháp luật " [5].
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan của Chính phủ và là Ngân hàng Trung ương của nước ta, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ. Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước bao gồm:
" - Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước;
- Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để Chính phủ xem xét trình Quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện chính sách này; xây dựng chiến lược phát triển hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng Việt Nam;
- Xây dựng các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo thẩm quyền;
- Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng, trừ trường hợp do Thủ tướng Chính phủ quyết định; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; quyết định giải thể, chấp thuận chia, tách, hợp nhất, sát nhập các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật;
- Kiểm tra, thanh tra hoạt động ngân hàng; kiểm soát tín dụng; xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo thẩm quyền;
- Quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo quy định của Chính phủ;
- Chủ trì lập và theo dõi kết quả thực hiện cán cân thanh toán quốc tế;
- Quản lý hoạt động ngoại hối và quản lý hoạt động kinh doanh vàng;
- Ký kết, tham gia các điều ước quốc tế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật;
- Đại diện cho Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức tiền tệ và ngân hàng quốc tế trong những trường hợp được Chủ tịch nước, Chính phủ uỷ quyền;
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng; nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ ngân hàng" [5].
Trong các chức năng trên, chức năng kiểm tra, thanh tra được giao chủ yếu cho Thanh tra Ngân hàng và tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Ngân hàng cũng được quy định cụ thể trong Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng.
Vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90, do chủ trương "đổi mới" quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước, kinh tế trong nước được kích thích và phát triển thông qua việc xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, Nhà nước thừa nhận vai trò của kinh tế hàng hoá với chủ trương "Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước". Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý, Đảng và Nhà nước ta cũng thực hiện "mở cửa" nền kinh tế nước ta với tất cả các nước, tạo cơ sở cho hoạt động đầu tư nước ngoài vào nước ta. Theo đó, nhiều ngân hàng nước ngoài đã xin phép Nhà nước để đầu tư vào nước ta dưới hình thức liên doanh (Ngân hàng liên doanh) hoặc thành lập chi nhánh 100% vốn nước ngoài (Chi nhánh ngân hàng nước ngoài).
1.1.2. Sự phát triển của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở nước ta
Sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm cho nhu cầu về vốn ngày càng tăng, nguồn vốn trong nước không đủ để đáp ứng. Do đó, cùng với việc hình thành ngân hàng hai cấp và chủ trương "mở cửa" của Đảng và Nhà nước, các ngân hàng nước ngoài đã dần có mặt hoạt động tại nước ta.
Ngay từ những năm cuối thập niên 80, nhiều ngân hàng nước ngoài của các nước đã đến tìm hiểu thị trường Việt Nam đề đầu tư. Năm 1989, ngân hàng nước ngoài đầu tiên được Nhà nước ta cấp giấy phép đặt văn phòng đại diện. Đến năm 1990, Ngân hàng nước ngoài đầu tiên được cấp giấy phép hoạt động tại Việt Nam dưới hình thức liên doanh theo Luật đầu tư nước ngoài.
Từ khi Ngân hàng nước ngoài đầu tiên được cấp giấy phép hoạt động tại nước ta năm 1990, hiện nay (tháng 12/2006) trên đất nước ta đã có 6 Ngân hàng liên doanh, 37 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 60 văn phòng đại diện của Tổ chức Tín dụng nước ngoài đang hoạt động cùng với các Tổ chức Tín dụng trong nước càng làm cho hoạt động tài chính - tiền tệ nước ta phong phú, đa dạng và sôi động hơn.
1.1.3. Những đặc điểm chủ yếu của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại nước ta
Theo Luật "Các Tổ chức Tín dụng" được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 15/6/2004, theo khoản 4, Điều 20 "Tổ chức Tín dụng nước ngoài là tổ chức tín dụng được thành lập theo luật pháp nước ngoài". Tại Chương VII, Luật này về "Tổ chức tín dụng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam" quy định hình thức hoạt động của Tổ chức tín dụng nước ngoài (Điều 105) gồm:
- Tổ chức tín dụng liên doanh;
- Tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài;
- Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
- Tổ chức tín dụng nước ngoài được đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam. Văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài không được thực hiện các hoạt động kinh doanh tại Việt Nam.
Với những quy định trong Luật "Các tổ chức tín dụng" trên đây và Luật "Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam", đặc điểm của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam là:
+ Được thành lập theo luật pháp nước ngoài;
+ Đối với Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh;
Ngoài hai đặc điểm theo quy định của Luật, Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài còn một số đặc điểm tác động đến hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước, đó là:
+ Tổng giám đốc các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là người mang quốc tịch nước ngoài, ngôn ngữ sử dụng trong giao tiếp với Ngân hàng Nhà nước thường là tiếng Anh. Chữ viết dùng trong các tài liệu giao dịch của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài chủ yếu là tiếng Anh, một số tài liệu sử dụng chữ viết của nước nguyên xứ.
+ Có nhiều quy định giới hạn hoạt động của các Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài nhằm hỗ trợ cho hoạt động của các Ngân hàng trong nước, như: Không được huy động tiết kiệm từ dân cư; vốn huy động từ các tổ chức và cá nhân Việt Nam không có quan hệ tín dụng với Ngân hàng không được vượt 30% vốn tự có .v.v...
+ Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài không được quy định là một pháp nhân Việt Nam.
+ Các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam thường đặt trụ sở ở những nơi có hoạt động "kinh tế thị trường" phát triển như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu nhằm thu được lợi nhuận cao, điều này được thể hiện rõ qua biểu đồ 1.1 (Phụ lục 1)
+ Trong quá trình hoạt động tại Việt Nam, các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài vừa phải tuân thủ luật pháp, quy chế của Việt Nam; đồng thời phải tuân thủ luật pháp của nước nguyên xứ. Như vậy, nó bị điều chỉnh bởi hai hệ thống pháp luật.
+ Hoạt động của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài không chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ, mà hoạt động của nó có quan hệ với nhiều nước (hiện tại là quan hệ vay, gửi tiền và thanh toán; trong tương lai sẽ còn được mở rộng hơn khi hoạt động của thị trường chứng khoán phát triển và mở rộng).
1.2. Sự cần thiết của hoạt động thanh tra của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
a- Những ảnh hưởng từ hoạt động của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với Việt Nam hiện nay
Như trên đã đánh giá, hoạt động của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở nước ta cùng các ngân hàng trong nước đã làm cho hoạt động của thị trường tài chính tiền tệ nước ta phong phú, đa dạng hơn. Mặt khác, hoạt động của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng có những ảnh hưởng rất lớn đối với các hoạt động kinh tế nói chung và các ngân hàng của Việt Nam nói riêng, đó là:
+ Đối với các hoạt động kinh tế của Việt Nam: Với tổng tài sản gần 35 nghìn tỷ đồng, dư nợ cho vay 20 nghìn tỷ đồng năm 2006 (bảng số 2.2), hoạt động của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy các hoạt động kinh tế của nước ta, tạo động lực cho sự tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Tuy nhiên, nếu không có sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì việc đầu tư của các ngân hàng này sẽ vì mục tiêu lợi nhuận mà xem nhẹ mục tiêu phát triển cân đối nền kinh tế.
+ Đối với các ngân hàng của Việt Nam: do có sức mạnh về vốn, công nghệ và điều kiện cạnh tranh trong hoạt động theo cơ chế thị trường, các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài thường có nhiều lợi thế hơn so với các ngân hàng trong nước như đối với nghiệp vụ cho vay, bảo lãnh và thực hiện các dịch vụ v.v... Do đó, nếu không có sự quản lý sẽ tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ chèn ép các ngân hàng trong nước, làm cho hệ thống các ngân hàng trong nước suy giảm do không đủ sức để cạnh tranh.
b- Đối với bản thân các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
Ngoài số vốn được cấp để được hoạt động theo Luật định, các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam (gọi tắt là ngân hàng nước ngoài) còn hoạt động bằng số vốn huy động từ các tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước. Trong khi vốn được cấp thường chỉ chiếm tỷ trọng trên dưới 20% tổng tài sản của một ngân hàng thì để đảm bảo an toàn và ổn định trong kinh doanh, Ngân hàng Nhà nước phải tổ chức quản lý và thực hiện giám sát hoạt động đầu tư của các ngân hàng nước ngoài nhằm mục đích để các ngân hàng này phải luôn trong trạng thái an toàn. Nó được thể hiện:
- Thứ nhất, đảm bảo chắc chắn rằng Ngân hàng nước ngoài đó phải có đủ khả năng chi trả thường xuyên cho người gửi tiền, kể cả khi khách hàng rút tiền ồ ạt. Đây là việc đảm bảo niềm tin, là tài sản vô cùng quý giá đối với mỗi ngân hàng nước ngoài trong cơ chế thị trường. Bởi vì một khi niềm tin này bị giảm sút, thì năng lực thu hút vốn của ngân hàng nước ngoài này bị giảm sút, do đó sẽ gặp khó khăn trong kinh doanh, thậm chí có thể mất khả năng thanh toán và dẫn đến phá sản.
Biện pháp đảm bảo để thoả mãn vấn đề này là phải quản lý tài sản ở trạng thái động trong tổng số tiền dự trữ của mỗi đơn vị, nghĩa là làm sao để mỗi ngân hàng nước ngoài luôn có một lượng vốn có thể đáp ứng được khả năng chi trả cho người gửi tiền. Yêu cầu của việc quản lý này là sao cho ngân hàng nước ngoài luôn luôn đảm bảo khả năng chi trả, nhưng lại không để lãng phí vốn, nghĩa là giảm thấp tối đa rủi ro trong sử dụng vốn vào kinh doanh. Việc đảm bảo khả năng chi trả của một ngân hàng nước ngoài không chỉ đơn thuần là đề phòng việc rút tiền ồ ạt của khách hàng và giữ niềm tin với người gửi tiền, mà nó còn ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tài chính, đến thu nhập và dẫn đến thua lỗ, phá sản của ngân hàng nước ngoài.
Nếu một ngân hàng nước ngoài quản lý tài sản không đủ mức cần thiết, thì để loại bỏ tình trạng thiếu hụt khả năng chi trả, ngân hàng nước ngoài đó có thể thực hiện nhiều biện pháp khác như: có thể giảm số tiền cho vay tương ứng, hoặc phải đôn đốc thu về một khoản vay chưa đến hạn; cũng có thể bán đi một số tài sản mà mình đang nắm giữ (như trái phiếu, tín phiếu v.v...) và như vậy, ngân hàng nước ngoài phải chịu phí tổn do những phương tiện mình đang quản lý ở tình trạng kém động, khi đó rủi ro kinh doanh xảy ra. Một biện pháp khác là ngân hàng nước ngoài phải vay tái chiết khấu từ Ngân hàng Trung ương; trong nghiệp vụ này, ngân hàng nước ngoài phải chịu phí tổn cao hơn, đó là lãi suất tái chiết khấu. Nếu trường hợp này xảy ra nhiều lần thì Ngân hàng Trung ương phải có biện pháp "khép cửa sổ chiết khấu" lại; và khi đó, ngân hàng nước ngoài phải có biện pháp đối phó với tình trạng vỡ nợ của mình. Một biện pháp khác là vay tiền các ngân hàng thương mại khác, thậm chí từ các tổ chức kinh tế đang có vốn tạm thời nhàn rỗi; nhưng việc này không phải lúc nào cũng dễ dàng. Nếu tình trạng trên kéo dài sẽ dẫn đến giá trị tài sản sụt dưới mức nguồn, làm cho ngân hàng nước ngoài không trả được nợ, dẫn đến mất khả năng thanh toán và sẽ bị phá sản.
Vì vậy việc quản lý tiền dự trữ là nghệ thuật trong điều hành hoạt động kinh doanh của người quản lý ngân hàng nước ngoài trong nền kinh tế thị trường, nó nhằm đảm bảo khả năng chi trả thường xuyên xuất phát từ yêu cầu tạo và giữ niềm tin trong kinh doanh ngân hàng. Việc theo dõi, báo động để giúp cho ngân hàng nước ngoài thường xuyên đảm bảo khả năng chi trả là trách nhiệm của Ngân hàng Trung ương trong quản lý vĩ mô. Thực hiện trách nhiệm này, Ngân hàng Trung ương phải thông qua các hoạt động quản lý mà nó được thực hiện chủ yếu bởi hoạt động, giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ của Thanh tra Ngân hàng, đặc biệt là việc giám sát thường xuyên và định kỳ. Đó là việc phân tích các loại báo cáo do các chi nhánh ngân hàng nước ngoài gửi định kỳ đến Ngân hàng Nhà nước theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Mục đích của việc này là nhằm xem xét chất lượng tài sản, việc chấp hành các quy chế quản lý nhằm phát hiện kịp thời sự biến động của các tài khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản tiền dự trữ của bản thân ngân hàng nước ngoài để dự báo, chỉ điểm và ứng cứu khi cần thiết.
- Thứ hai, là vấn đề quản lý tài sản của ngân hàng nước ngoài, tức là đảm bảo chất lượng kinh doanh, yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng nước ngoài. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, để tạo ra thu nhập thì phải tổ chức sản xuất kinh doanh như thế nào để có sản phẩm hàng hoá tốt, giá thành hạ, được nhiều khách hàng tín nhiệm, tiêu thụ và thu hồi vốn nhanh. Đối với các ngân hàng nước ngoài thì cũng tương tự như vậy, có điều "hàng hoá" của các ngân hàng là loại hàng hoá đặc biệt, nó thể hiện ở chỗ:
+ Chỉ chuyển quyền sử dụng hàng hoá (tiền tệ) cho người vay trong một thời gian nhất định theo phương thức tùy thuộc vào bên vay nó theo hợp đồng giữa ngân hàng và khách hàng, do đó phải có biện pháp quản lý, theo dõi để thu hồi lại một cách tốt nhất;
+ Vốn cho vay của các ngân hàng luôn thuộc quyền sử dụng của khách hàng, nghĩa là nó nằm trong tay khách hàng và do khách hàng quản lý, sử dụng; chỉ khi nào thu hồi cả gốc và lãi, kết thúc hoạt động của tài khoản cho vay hoặc kết thúc một cam kết về thanh toán, chuyển tiền .v.v... thì hoàn thành chu kỳ kinh doanh, nên rất khó tính hiệu quả. Do đó yêu cầu về chế độ hạch toán và tài chính phải rõ ràng, nghiêm túc và thuận lợi.
+ Độ rủi ro cao và khả năng mất vốn luôn có thể xảy ra; việc này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố chất lượng hoạt động kinh doanh của khách hàng là rất quan trọng. Do đó mối quan hệ khăng khít giữa ngân hàng với khách hàng vay vốn là vấn đề cần quan tâm thường xuyên để tránh rủi ro trong cho vay.
Từ những vấn đề trên cho thấy quan hệ với khách hàng và tiêu thụ hàng hoá của ngân hàng không giống với các ngành kinh doanh khác.
Các ngân hàng nước ngoài thu lợi nhuận chủ yếu từ nghiệp vụ cho vay. ở Mỹ, 67% tài sản của các Ngân hàng là ở nghiệp vụ cho vay và trong những năm gần đây tạo ra hơn 60% thu nhập của các Ngân hàng. Đối với nước ta, nghiệp vụ cho vay của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng chiếm tỷ trọng rất lớn (khoảng 60% tổng tài sản) và tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu cho các tổ chức tín dụng với tỷ trọng hơn 70% tổng thu nhập (số liệu báo cáo của một số Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài có tổng tài sản trên 100 triệu USD năm 2003, 2004, 2005). Năm 1998, 1999, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, hoạt động cho vay của một số ngân hàng có giảm và chuyển sang đầu tư bằng cách gửi tiền ở các ngân hàng khác, làm cho tỷ trọng dư nợ cho vay và thu lãi từ nghiệp vụ cho vay có bị giảm so với các năm trước.
Trong nghiệp vụ cho vay thì việc thu thập thông tin đối với khách hàng vay là quan trọng nhất, phải thu thập thông tin từ nhiều nguồn như: qua các tài liệu của người vay cung cấp, qua các thông tin phòng ngừa rủi ro (tình hình tài chính và quan hệ kinh doanh) và các luồng thông tin khác. Việc tìm khách hàng tin tưởng để cho vay phải rất thận trọng, nhưng cũng phải năng động và quyết đoán, bởi vì nếu quá thận trọng sẽ mất đi những cơ hội cho vay mà chúng mang lại lợi nhuận cao. Đó là sự sàng lọc nhằm thiết lập những mối quan hệ lâu dài với khách hàng và sự giám sát thích hợp trong quá trình cho vay. Nếu ngân hàng nước ngoài làm tốt vấn đề này thì rủi ro sẽ ít hơn và lợi nhuận thu được sẽ cao hơn.
- Thứ ba, có liên quan đến hai vấn đề là tổ chức huy động vốn và quản lý tài chính của mỗi ngân hàng nước ngoài.
+ Việc huy động nguồn vốn sao cho chi phí phải thấp nhất, nhưng nguồn vốn huy động được phải ổn định, vững chắc, biểu hiện một chiến lược kinh doanh tích cực và mang tính lâu dài. Vì vậy cơ cấu nguồn vốn là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá một ngân hàng nước ngoài có vững mạnh và phát triển hay không.
+ Vấn đề quản lý tài chính là phải đạt được mục tiêu thu lợi nhuận tối đa. Từ mục tiêu này, mỗi ngân hàng nước ngoài phải có các biện pháp thích hợp trong chỉ đạo, điều hành; mặt khác, mỗi ngân hàng nước ngoài phải chấp hành đầy đủ các quy định về chế độ quản lý tài chính của Nhà nước, các nghĩa vụ với Nhà nước, trích lập và sử dụng các nguồn lực tài chính đúng, có hiệu quả, cải thiện đời sống người lao động v.v...
Sự có mặt của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam thể hiện sự phát triển hợp quy luật, mang tính lịch sử gắn liền với nhu cầu phát triển của kinh tế trong nước và sự phát triển không ngừng của nền tài chính tiền tệ Việt Nam. Nó đã cùng các tổ chức tín dụng trong nước đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung nhằm phục vụ đường lối "công nghiệp hoá, hiện đại hoá" đất nước và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế; tạo ra sự cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng, thúc đẩy sự phát triển của hệ thống ngân hàng trong nước.
Tuy nhiên, khi có mặt Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, hoạt động của nó phải tuân theo các quy định của luật pháp và phải phù hợp với đường lối phát triển và xây dựng nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Sự cạnh tranh của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài với các ngân hàng thương mại trong nước phải thể hiện sự lành mạnh, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức tín dụng trong nước. Hoạt động của nó cũng phải an toàn để đảm bảo sự an toàn về tài sản cho người gửi tiền. Do đó, vấn đề đặt ra cho Ngân hàng Nhà nước là phải có biện pháp và thực hiện giám sát, thanh tra đối với hoạt động của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam để đạt được những mục tiêu trên.
Tóm lại, quản lý các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài thông qua hoạt động giám sát, thanh tra của ngân hàng Nhà nước là việc làm rất cần thiết. Nó không chỉ làm cho các ngân hàng này luôn luôn trong tình trạng vững vàng, ổn định và có xu thế phát triển, tạo được niềm tin cho những người gửi tiền ở ngân hàng mình; đồng thời tuân thủ đầy đủ, nghiêm túc quy định của luật pháp. Mà quan trọng hơn là làm cho các ngân hàng này hoạt động theo định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các ngân hàng trong nước, kích thích sự phát triển của hệ thống tài chính -tiền tệ nói riêng và nền kinh tế nói chung.
1.3. Căn cứ pháp lý và các phương pháp thanh tra, giám sát Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
1.3.1. Căn cứ pháp lý để thanh tra, giám sát Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
Thanh tra và Giám sát đối với Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là một trong những hoạt động quan trọng của Ngân hàng Nhà nước để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng đối với những ngân hàng này. Căn cứ pháp lý để thanh tra, giám sát Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài trước hết là Luật Đầu tư nước ngoài quy định về hình thức đầu tư, biện pháp bảo đảm đầu tư, quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài; Luật Ngân hàng Nhà nước quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước đối với nền kinh tế, đối với các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác; Luật các tổ chức tín dụng quy định về tổ chức và điều hành của các tổ chức tín dụng, về hoạt động của các tổ chức tín dụng, về kiểm soát đặc biệt, phá sản, giải thể, thanh lý, quy định về quản lý Nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của tổ chức khác, đặc biệt là Luật này có một Chương riêng quy định về tổ chức tín dụng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Ngoài ra còn có các bộ luật liên quan khác như Bộ Luật Dân sự, Lụât Doanh nghiệp v.v... cũng có những quy phạm điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng thương mại, trong đó có các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tiếp theo đó là các văn bản dưới luật như các Nghị định của Chính phủ và các văn bản pháp quy của Ngân hàng Nhà nước. Ngoài những văn bản pháp luật, pháp quy điều chỉnh chung hoạt động các tổ chức tín dụng như đã nêu ở trên; đối với Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài còn có một số văn bản riêng hoặc một phần cụ thể trong văn bản điều chỉnh hoạt động của chúng như Nghị định số 13/1999/NĐ-CP ngày 17/03/1999 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động của tổ chức tín dụng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam như về tổ chức điều hành, về nội dung hoạt động; Quyết định số 296/1999/QĐ-NHNN5 ngày 25/08/1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về giới hạn cho vay một khách hàng đối với các tổ chức tín dụng, trong đó cho phép chi nhánh ngân hàng nước ngoài được cho vay một khách hàng với tổng dự nợ lớn nhất là 15% tính trên vốn tự có của ngân hàng mẹ; Quyết định số 380/1997/QĐ-NHNN1 ngày 11/11/1997 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về trạng thái đồng Việt Nam đối với các Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng liên doanh tại Việt Nam, trong khi đó các ngân hàng Việt Nam tính trạng thái đối với đồng đô la Mỹ; quy định trong các giấy phép mở chi nhánh của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được huy động tiền gửi tiết kiệm .v.v...
1.3.2. Phương pháp thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
Các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam là các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các luật khác có liên quan. Thực hiện quản lý Nhà nước đối với các tổ chức này, Ngân hàng Nhà nước sử dụng nhiều cơ quan chức năng của mình, trong đó có Thanh tra Ngân hàng. Đối với Thanh tra Ngân hàng, việc thực hiện quản lý đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam cũng sử dụng hai phương thức chủ yếu là giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ đã nêu ở trên. Hai phương thức này được thực hiện tập trung bởi 2 phòng (bộ phận), phòng giám sát phân tích (thực hiện phương thức giám sát từ xa) và phòng thanh tra ngân hàng nước ngoài (thực hiện thanh tra tại chỗ). Tuy nhiên do đặc thù của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, nên phương thức giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ đối với những tổ chức này cũng có những điểm khác đối với việc giám sát thanh tra các ngân hàng thương mại trong nước.
a- Phương thức giám sát từ xa
Giám sát từ xa (hay thanh tra trên các báo cáo) là việc Ngân hàng Nhà nước tổ chức phân tích, đánh giá tình hình của TCTD dựa trên cơ sở các bảng cân đối kế toán, các chỉ tiêu thống kê định kỳ do TCTD gửi đến Ngân hàng Nhà nước theo quy định, trên cơ sở đó giúp cho Ngân hàng nhà nước có được những thông tin cần thiết về hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính của TCTD trong khi chưa tiến hành được các cuộc thanh tra tại chỗ. Giám sát từ xa phục vụ việc phát hiện nhanh và định kỳ những vấn đề cơ bản cần quan tâm để có những cảnh báo cho TCTD những vấn đề cần thiết hoặc tiến hành thanh tra tại chỗ.
Từ khi có Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, là đối tượng giám sát, thanh tra của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước. Thông qua hệ thống máy tính được nối mạng hàng tháng và Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài gửi báo cáo cho Ngân hàng Nhà nước Tỉnh, Thành phố trên địa bàn, sau đó các dữ liệu này được truyền về Trung ương để khai thác, phân tích, đánh giá. Các báo cáo bao gồm: Bảng cân đối tài khoản kế toán cấp III và hơn 170 chỉ tiêu thống kê ngoài cân đối.
Việc quy định những chỉ tiêu Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài phải báo cáo Ngân hàng Nhà nước được quy định tại quyết định số 159/ QĐ - NHNN ngày 15/9/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên phải đến tháng 5/1997, quy chế giám sát từ xa mới chính thức được ban hành theo Quyết định số 137/QĐ - NHNN ngày 24/5/1997 của Thống đốc và được áp dụng đối với các tổ chức tín dụng. Nội dung giám sát từ xa đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài đã được quy định trong quy chế này, gồm:
- Diễn biến về cơ cấu của vốn và tài sản
- Chất lượng tín dụng, bảo lãnh, hùn vốn, liên doanh vv…
- Việc đảm bảo khả năng thanh toán
- Tình hình thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh
- Việc thực hiện các quy chế an toàn của Ngân hàng Nhà nước.
Ngoài những nội dung trong quy chế giám sát từ xa ban hành theo quyết định của 137/QĐ - NHNN áp dụng đối với các tổ chức tín dụng tại Việt Nam nói chung trên đây. Đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, trong điều kiện quan hệ về vốn giữa chi nhánh tại Việt Nam với Ngân hàng mẹ ( Hội sở chính) và các chi nhánh của tập đoàn trên phạm vi toàn cầu, diễn ra thường xuyên, liên tục nên phải giám sát chặt chẽ số vốn gửi hoặc đầu tư - cho vay ra ngoài lãnh thổ Việt Nam. Đặc biệt ở những thời điểm việc đầu tư trong nước gặp khó khăn.
Nếu số vốn Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đầu tư ra nước ngoài lớn, chúng ta cần thu nhập thêm thông tin về những Ngân hàng, Công ty ở nước ngoài đang sử dụng vốn của Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam để có những kiến nghị phù hợp, nhằm đảm bảo an toàn cho Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
Trong mỗi chỉ tiêu giám sát đều được đối chiếu, đánh giá và so sánh với các giới hạn được Ngân hàng Nhà nước quy định cho Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại các quy chế liên doa._.nh.
Kết quả giám sát được báo cáo cho ban lãnh đạo và gửi cho phòng thanh tra các Ngân hàng nước ngoài và Ngân hàng liên doanh để khai thác, phục vụ hoạt động thanh tra tại chỗ.
Nội dung giám sát từ xa đối với các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài được tiến hành như sau:
Một là, Tiến hành phân tổ cơ cấu tài sản Nợ và tài sản Có
- Về cơ cấu tài sản Nợ: cơ cấu tài sản Nợ có chiều hướng tăng trưởng là điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tuy nhiên việc đánh giá cơ cấu tài sản Nợ cần chú ý đến các vấn đề như: vốn huy động thị trường, khả năng huy động vốn, uy tín của các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài trên thị trường, kiểm tra mối quan hệ giữa vốn và việc sử dụng vốn như giới hạn vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn theo quy định.
- Đánh giá cơ cấu tài sản Có: là việc đánh giá những tài sản đem lại lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, gồm: dư nợ cho vay có khả năng thu được lãi; tiền gửi ở các ngân hàng khác; các khoản hùn vốn liên doanh; mua cổ phần…
- Giám sát đối với các khoản tín dụng, bảo lãnh lớn phát sinh trong 15 ngày có giá trị từ 5% vốn tự có của các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài trở lên.
- Giám sát dư nợ tín dụng đối với khách hàng từ 5% vốn tự có của các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài trở lên, gồm một số chỉ tiêu sau: đối tượng khách hàng được cấp tín dụng, tổng dư nợ tín dụng, giá trị tài sản thế chấp, cầm cố, loại cho vay.
Hai là, Giám sát chất lượng tài sản Có.
Đánh giá diễn biến và cơ cấu hoạt động tín dụng như đánh giá về phân loại; đánh giá chất lượng hoạt động cấp tín dụng. Đánh giá các hoạt động kinh doanh khác của các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài .
Ba là, Giám sát tình hình thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh
Thanh tra, giám sát trên tài khoản thu nhập và chi phí, khả năng sinh lời được phân tích theo các nguồn thu, chi chủ yếu như:
- Phân loại các khoản mục thu, chi theo một số tiêu thức giữa khoản mục thu nhập- chi phí.
- Đánh giá cơ cấu, diễn biến các khoản mục thu- chi.
- Tính toán một số tỷ lệ phản ánh kết quả kinh doanh.
Bốn là, Giám sát Vốn tự có.
Giám sát việc thực hiện quy định về các tỷ lệ để đảm bảo an toàn trong hoạt động các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài gồm:
- Xác định vốn điều lệ, quỹ bổ sung vốn điều lệ.
- Xác định tài sản Có rủi ro được tính theo quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong các hoạt động của các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
- Xác định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu.
- Giám sát việc chuyển nhượng cổ phần có ghi tên theo quy định.
- Giám sát về mức vốn pháp định của các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, vốn điều lệ ghi trên sổ sách kế toán tối thiểu phải bằng vốn pháp định do Chính Phủ quy định.
Năm là, Giám sát một số chỉ số tài chính chủ yếu của các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Xem xét phân tích đánh giá các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài một cách tổng thể dựa trên các chỉ số tài chính quan trọng; xác định các Ngân hàng liên doanh và Chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo nhóm, theo giá trị tài sản…
b- Phương thức thanh tra tại chỗ
Thanh tra tại chỗ là phương pháp thanh tra truyền thống, là việc thanh tra được tổ chức tại nơi làm việc của đối tượng thanh tra và tại các tổ chức kinh tế, cá nhân là khách hàng của ngân hàng trên cơ sở kiểm tra, xem xét các văn bản, thông tư chỉ đạo, các chứng từ, tài liệu, sổ sách, hợp đồng… có liên quan đến hoạt động huy động vốn, sử dụng vốn và công tác kế toán tài chính của đối tượng được thanh tra.
Đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, việc tiến hành thanh tra tại chỗ về cơ bản là giống thanh tra tại chỗ đối với các ngân hàng thương mại trong nước. Tuy nhiên do các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài có một số nét đặc thù (nêu tại điểm b phần 1.1.3 chương I), nên việc tiến hành thanh tra có phần khác với các ngân hàng thương mại trong nước, nó được thể hiện:
+ Đánh giá việc tuân thủ luật pháp của Việt Nam, nhưng đồng thời cũng xem xét, đánh giá việc tuân thủ những quy định của ngân hàng mẹ và luật pháp của nước nguyên xứ.
+ Đánh giá mức độ an toàn đối với tài sản hoạt động tại Việt Nam và đặc biệt là những tài sản đưa ra đầu tư ở nước ngoài.
+ Việc thu thập thông tin về ngân hàng khi tiến hành thanh tra trực tiếp trên phạm vi rộng và phức tạp, nó không chỉ những thông tin về bản thân ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, mà cả những thông tin về ngân hàng mẹ, các ngân hàng khác ở các nước có quan hệ với ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
+ Phải có mối quan hệ chặt chẽ với Thanh tra Ngân hàng Trung ương của các quốc gia có chi nhánh ngân hàng hoạt động tại Việt Nam để xử lý những vấn đề liên quan đến ngân hàng mẹ của Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam phát hiện qua thanh tra trực tiếp.
+ Phải thận trọng và thực hiện tốt những quy định về đối ngoại để không làm ảnh hưởng đến chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Nhà nước.
+ Xác định tư cách pháp lý của người lãnh đạo (Tổng Giám đốc, Giám đốc) có theo đúng các quy định của luật pháp Việt Nam không.
Mục tiêu của thanh tra tại chỗ đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài được xác định là:
- Xác định sự chính xác của các tài liệu kế toán đã gửi đến Thanh tra ngân hàng. Đánh giá sự phù hợp của hệ thống kế toán, đánh giá tình trạng tài chính - khả năng chi trả, chất lượng hoạt động, nhằm đảm bảo Ngân hàng được thanh tra không gây phương hại đến lợi ích của người gửi tiền.
- Xem xét việc tuân thủ các điều khoản về nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước, bởi vì sự vi phạm các vấn đề này có thể sẽ dẫn đến hậu quả về tài chính. Đánh giá tình hình chấp hành luật pháp và quy định trong các hoạt động kinh doanh tài chính của các tổ chức tín dụng nước ngoài trong một thời gian nhất định.
- Xem xét việc thực hiện các quy định của ngân hàng mẹ và luật pháp nước nguyên xứ của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thanh tra.
- Đánh giá, thẩm định năng lực, khả năng quản lý của Ban Tổng giám đốc và nhân viên; sự lành mạnh của ngân hàng; nghĩa là ngân hàng phải đủ vốn, luôn đảm bảo khả năng thanh toán và có lãi để đảm bảo sự lành mạnh về tài chính. Đây là sự bảo đảm cao nhất cho chính ngân hàng và người gửi tiền và nó là mối quan tâm nhất của Thanh tra ngân hàng.
- Giúp các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài thấy được những ưu điểm, những thiếu sót và tồn tại để khắc phục nhằm đưa hoạt động của mình đúng luật pháp, an toàn và có hiệu quả.
Việc thanh tra tại chỗ được thực hiện thông thường dưới hình thức tổ chức các đoàn thanh tra, kiểm tra trực tiếp định kỳ tại các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong một thời gian nhất định (thường là 1 tháng); ngoài ra còn tổ chức các cuộc thanh tra đột xuất với thời gian ngắn hơn.
c- Mối quan hệ giữa phương thức giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ
Thông qua các file cân đối kế toán hàng tháng, các ngân hàng thương mại gửi tới ngân hàng Nhà nước, phòng phân tích giám sát tiến hành phân tích, đánh giá đối với từng ngân hàng thương mại (trong đó có Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài). Đối với những ngân hàng thương mại có các thông tin sai sót, có các chi tiết nghi vấn trong báo cáo, có những vấn đề vi phạm, cán bộ phân tích, giám sát nhắc nhở, chấn chỉnh hoặc yêu cầu ngân hàng thương mại phải giải trình nếu có thông tin nghi vấn, chưa rõ ràng. Trong các trường hợp cần thiết, cán bộ phân tích, giám sát thông báo cho bộ phận thanh tra trực tiếp các ngân hàng thương mại để tổ chức thanh tra tại chỗ đột xuất các ngân hàng thương mại này. Kết quả phân tích giám sát được báo cáo ban lãnh đạo Thanh tra và ban lãnh đạo ngân hàng Nhà nước để ra các quyết định quản lý kịp thời. Đồng thời, kết quả phân tích giám sát được chuyển tới phòng thanh tra trực tiếp các ngân hàng thương mại để phục vụ cho việc thanh tra tại chỗ.
Mặt khác, kết quả thanh tra tại chỗ là sự kiểm tra tính chính xác đối với các báo cáo giám sát mà các ngân hàng thương mại gửi tới Thanh tra Ngân hàng.
Mục tiêu và phương thức phối hợp giữa giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ về căn bản được tiến hành như trên. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên giữa hai bộ phận này chưa có sự phối hợp chặt chẽ với nhau. Đôi khi các thông tin của bộ phận giám sát cung cấp chỉ có giá trị tham khảo và các kết quả thanh tra tại chỗ không được phản hồi lại cho giám sát từ xa. Bên cạnh đó là việc nhìn nhận chưa đúng đắn về tầm quan trọng của giám sát từ xa trong hoạt động của Thanh tra Ngân hàng.
Các ngân hàng nước ngoài được thành lập và hoạt động theo lụât pháp của nước chính quốc, do đó các chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác nhau được điều chỉnh bởi các hệ thống luật pháp của các nước khác nhau. Các quy định về vốn, quy chế an toàn trong hoạt động, các giới hạn rủi ro, các quy định về mặt tổ chức đối với mỗi ngân hàng ở các nước cũng không hoàn toàn giống nhau; tuy vậy các quy định này đều đảm bảo một mục tiêu chung cho tất cả các ngân hàng là hoạt động an toàn, hiệu quả và đảm bảo tuân thủ pháp luật nước sở tại.
Thực hiện chính sách mở cửa, các ngân hàng nước ngoài muốn mở Chi nhánh ở Việt Nam thì phải thoả mãn đầy đủ các điều kiện về mặt lụât pháp, vốn và kỹ thuật. Khi đã được cấp giấy phép và hoạt động tại Việt Nam, các quy phạm pháp lý được dùng để điều chỉnh hoạt động của các Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là Luật đầu tư nước ngoài, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật thuế, các bộ Luật có liên quan đến hoạt động ngân hàng và các văn bản dưới luật như: các Nghị định của Chính phủ, các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, các văn bản liên Bộ hoặc các văn bản của Bộ trưởng các Bộ, ngành thuộc Chính phủ; các quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng thương mại nói chung và các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài nói riêng, đặc biệt là các văn bản của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Các văn bản luật và văn bản dưới luật nói trên đều nhằm mục đích điều chỉnh hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài sao cho chúng hoạt động an toàn, thúc đẩy sự phát triển kinh tế theo đúng định hướng của Nhà nước, tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các ngân hàng.
Với mục đích trên, hoạt động giám sát, thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải đạt được những yêu cầu, mục tiêu nhất định, đó là:
+ Với hoạt động giám sát, thanh tra, Ngân hàng Nhà nước đánh giá được những ngân hàng nào tuân thủ tốt, ngân hàng nào tuân thủ chưa tốt luật pháp để có biện pháp chấn chỉnh kịp thời, nghiêm túc, phát hiện những vấn đề còn thiếu đồng bộ, chưa chặt chẽ trong các văn bản quản lý để điều chỉnh, bổ sung sao cho các quy định trong văn bản quản l ý của Nhà nước vừa chặt chẽ, đồng bộ để việc quản lý đối với các ngân hàng tốt hơn.
+ Thông qua giám sát, thanh tra để phát hiện những ngân hàng vi phạm các quy định của Nhà nước, chấn chỉnh kịp thời những vi phạm của các ngân hàng, nâng cao ý thức tuân thủ luật pháp của các ngân hàng.
Hiện nay Ngân hàng Nhà nước đã tiến hành phân tích, giám sát định kỳ hàng tháng và thanh tra định kỳ hàng năm hoạt động của các Chi nhánh ngân hàng ngân hàng nước ngoài, Ngân hàng liên doanh. Kết quả giám sát, thanh tra của Ngân hàng Nhà nước trong những năm qua đã phát hiện và chấn chỉnh kịp thời một số vi phạm của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài như: vi phạm về tỷ giá mua bán ngoại tệ; vi phạm về lãi suất và phí cho vay .v.v... Một số ngân hàng vi phạm đã bị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ra quyết định cảnh cáo.
Tóm lại, sự phát triển của hệ thống ngân hàng và hoạt động của các ngân hàng thương mại là nhằm tìm kiếm nhiều lợi nhuận hơn đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển bền vững của chính các ngân hàng thương mại trong sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trường.
Với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta, chuyển hoạt động của nền kinh tế từ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường (trong đó có hoạt động ngân hàng) và chính sách "mở cửa" để "hội nhập" với kinh tế thế giới và khu vực đã tạo điều kiện để các ngân hàng nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới hình thức thành lập Ngân hàng liên doanh hoặc Chi nhánh ngân hàng nước ngoài với những đặc điểm riêng khác với các ngân hàng thương mại trong nước.
Với những lý do trên đòi hỏi chúng ta phải làm tốt chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng với việc tăng cường công tác giám sát, thanh tra nhằm đảm bảo tính tuân thủ luật pháp và sự an toàn cho hoạt động của Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam thông qua hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước với hai phương thức giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ trên cơ sở các căn cứ pháp lý của Nhà nước. Đó chính là sự cần thiết của hoạt động giám sát, thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở nước ta.
Chương 2
Hoạt động thanh tra của thanh tra Ngân hàng Nhà nước đối với ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
Hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước được quy định trong Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các Tổ chức tín dụng, Pháp lệnh Thanh tra và các văn bản pháp quy khác của Nhà nước. Nó được thực hiện ở nhiều đơn vị của Ngân hàng Nhà nước để giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước và chức năng của Ngân hàng Trung ương. Trong đó hoạt động chủ yếu được thực hiện bởi Thanh tra ngân hàng.
2.1. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Ngân hàng
Ngân hàng nước ngoài đầu tiên có mặt tại Việt Nam năm 1990, do đó đề tài này chỉ nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Ngân hàng từ khi có các Pháp lệnh Ngân hàng và Pháp lệnh Thanh tra cho đến nay.
2.1.1. Chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Ngân hàng
Pháp lệnh Thanh tra và hai Pháp lệnh Ngân hàng ra đời cùng với việc ban hành một loạt các văn bản pháp lý, pháp quy khác của Nhà nước đã khẳng định rõ vị trí, tầm quan trọng của công tác thanh tra trong hoạt động quản lý Nhà nước đối với toàn bộ hoạt động của nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, ngân hàng nói riêng. Bởi vì “Thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý Nhà nước” và hoạt động thanh tra nhằm “… góp phần tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước, thực hiện nghiêm chỉnh chính sách, pháp luật của Nhà nước”. Đối với Ngân hàng Nhà nước thì “Thanh tra Ngân hàng Nhà nước là tổ chức thanh tra chuyên trách của Ngân hàng Nhà nước trong hệ thống Thanh tra Nhà nước, thực hiện quyền thanh tra trong phạm vi quản lý Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước; chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và sự chỉ đạo của Thanh tra Nhà nước về công tác tổ chức và nghiệp vụ thanh tra”. Như vậy, Thanh tra Ngân hàng Nhà nước là một chức năng của cơ quan quản lý Nhà nước về Ngân hàng.
Sau khi luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật các Tổ chức tín dụng ra đời phù hợp với hoàn cảnh mới của hoạt động ngân hàng, tổ chức và hoạt động của Thanh tra Ngân hàng cũng cần phải được xác định lại cho phù hợp với tình hình mới. Những nội dung về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Ngân hàng sau khi có hai luật về Ngân hàng bao gồm:
- Thanh tra Ngân hàng là Thanh tra Nhà nước chuyên ngành về ngân hàng, được tổ chức thống nhất thuộc Ngân hàng Nhà nước. Thanh tra Ngân hàng có con dấu riêng.
- Đối tượng của Thanh tra Ngân hàng bao gồm: tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng; hoạt động ngân hàng của các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước cho phép; việc thực hiện các quy định của pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng của các cơ quan, tổ chức và cá nhân.
- Mục đích hoạt động của Thanh tra Ngân hàng góp phần đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, phục vụ việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
- Nội dung hoạt động của Thanh tra Ngân hàng gồm:
+ Thanh tra việc chấp hành pháp luật về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng, việc thực hiện các hoạt động được quy định trong giấy phép hoạt động Ngân hàng.
+ Kiến nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, giám đốc chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Tỉnh, Thành phố và các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc thực hiện các biện pháp đảm bảo thi hành pháp luật về tiền tệ, và hoạt động Ngân hàng;
+ Xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo liên quan đến tổ chức và hoạt động Ngân hàng; Tham mưu giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng trong ngành Ngân hàng.
Nguyên tắc hoạt động của Thanh tra Ngân hàng:
+ Hoạt động của Thanh tra Ngân hàng phải tuân theo pháp luật, đảm bảo chính xác, khách quan, công khai, dân chủ, kịp thời;
+ Hoạt động của Thanh tra Ngân hàng không chịu sự can thiệp trái pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Ngân hàng:
+ Thực hiện việc giám sát thường xuyên và tiến hàng các cuộc thanh tra trực tiếp về tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng, hoạt động ngân hàng của tổ chức khác, nhằm phát hiện ngăn chặn các vi phạm; kiến nghị biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng.
+ Kiến nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước áp dụng các biện pháp xử lý: đặt tổ chức tín dụng vào tình trạng kiểm soát đặc biệt; đình chỉ một số hoạt động Ngân hàng của tổ chức tín dụng và của tổ chức khác có hoạt động Ngân hàng; thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động;
+ Xử phạt theo thẩm quyền và kiến nghị xử phạt vi phạm hành chính ngoài thẩm quyền trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật;
+ Đề nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận tổ chức kiểm toán vào kiểm toán tổ chức tín dụng.
+ Được bảo lưu ý kiến, nếu thủ trưởng cơ quan Ngân hàng Nhà nước cùng cấp không nhất trí với kết luận của Thanh tra Ngân hàng, đồng thời phải báo cáo cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định pháp luật về thanh tra;
+ Thẩm tra, xác minh, kết luận, kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý các khiếu nại, tố cáo liên quan đến ngành Ngân hàng; tham mưu cho Thống đốc ngân hàng Nhà nước, chỉ đạo, kiểm tra việc phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng theo quy định của pháp luật trong ngành Ngân hàng.
+ Bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra cho cán bộ, công chức, thuộc hệ thống Thanh tra Ngân hàng;
+ Quản lý, chỉ đạo việc thực hiện chương trình, kế hoạch và nghiệp vụ công tác thanh tra trong ngành Ngân hàng;
+ Thực hiện các nhiệm vụ theo quy định tại Pháp lệnh Thanh tra và các nhiệm vụ khác do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước giao.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Thanh tra Ngân hàng
- Tổ chức của Thanh tra Ngân hàng: Thanh tra Ngân hàng được tổ chức thành một hệ thống gồm:
+ Thanh tra Ngân hàng tại trụ sở chính Ngân hàng Nhà nước,
+ Thanh tra Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố.
Hiện nay, toàn hệ thống Thanh tra Ngân hàng có 759 cán bộ thanh tra, trong đó:
- Thanh tra Ngân hàng Trung ương: 104 cán bộ, được tổ chức thành 9 phòng, trong đó có 5 phòng thanh tra tại chỗ các tổ chức tín dụng.
- Thanh tra chi nhánh: 655 cán bộ
Thanh tra Ngân hàng Trung ương chịu sự điều hành trực tiếp của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng thanh tra các ngân hàng thương mại trên phạm vi cả nước. Thanh tra Ngân hàng ở các Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước chịu sự điều hành trực tiếp của Giám đốc Chinh nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố, thực hiện chức năng thanh tra trên địa bàn, đồng thời chịu sự quản lý chỉ đạo về chương trình, kế hoạch, nội dung, nghiệp vụ thanh tra của Thanh tra Ngân hàng Trung ương.
- Các chức vụ điều hành hoạt động của Thanh tra Ngân hàng:
+ Điều hành hoạt động củaThanh tra NHNN là Chánh thanh tra; giúp việc Chánh thanh tra có một số Phó chánh thanh tra. Chánh thanh tra do Thống đốc NHNN bổ nhiệm, miễn nhiệm sau khi thống nhất ý kiến với Tổng thanh tra; Phó Chánh thanh tra do Thống đốc NHNN bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Chánh thanh tra.
+ Điều hành hoạt động của Thanh tra chi nhánh NHNN là Chánh thanh tra chi nhánh; giúp việc Chánh thanh tra chi nhánh có một số Phó Chánh thanh tra chi nhánh. Chánh thanh tra chi nhánh do Giám đốc NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố đề nghị, Chánh thanh tra trình Thống đốc NHNN bổ nhiệm, miễn nhiệm. Các Phó chánh thanh tra chi nhánh do Giám đốc NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố bổ nhiệm, miễn nhiệm.
- Chỉ đạo điều hành hoạt động của hệ thống Thanh tra ngân hàng thực hiện theo cơ chế song trùng lãnh đạo:
+ Thống đốc NHNN chịu trách nhiệm chỉ đạo, điều hành việc thực hiện Thanh tra Ngân hàng trên phạm vi cả nước.
+ Tổng thanh tra chịu trách nhiệm chỉ đạo và hướng dẫn về tổ chức và nghiệp vụ thanh tra.
+ Thanh tra chi nhánh NHNN chịu sự điều hành trực tiếp của Giám đốc NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố nhưng chịu chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra của Chánh thanh tra.
Tổ chức bộ máy của Thanh tra ngân hàng được trình bày tại sơ đồ 2.1 (Phụ Lục 2)
2.2. Thực trạng hoạt động thanh tra của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước đối với Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
2.2.1. Thực trạng Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
Hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng được thực hiện bởi nhiều vụ, cục chức năng của Ngân hàng Nhà nước, nhưng chủ yếu vẫn do Thanh tra Ngân hàng Nhà nước thực hiện bằng hai phương thức: giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ.
Với hai phương thức trên, thực trạng hoạt động thanh tra của Ngân hàng Nhà nước đối với Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là:
Ngay từ năm 1990, Ngân hàng Nhà nước đã cấp giấy phép đầu tiên cho Ngân hàng liên doanh Indovina (ngân hàng Công thương Việt Nam liên doanh với Ngân hàng Suma của Indonesia) và vào năm 1992 Ngân hàng Nhà nước đã cấp giấy phép đâut tiên cho Ngân hàng nước ngoài ANZ ( Australia & New Zealand Banking Group) với vốn điều lệ là 20 triệu USD. Đến nay, đã có 6 Ngân hàng liên doanh và 37 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã được cấp giấy phép hoạt động tại Việt Nam cụ thể qua bảng 2.1 (Phụ Lục 3)
Quản lý Nhà nước của Ngân hàng Trung ương đối với các đơn vị này được thực hiện ở nhiều vụ, cục chức năng như: Vụ Chính sách tiền tệ, Vụ Các ngân hàng; Vụ Quản lý ngoại hối; Vụ Quản lý ngoại hối; Vụ Tín dụng, Thanh tra Ngân hàng… Trong đó Thanh tra Ngân hàng là đơn vị được giao giám sát, thanh tra theo các quy định về thanh tra tại Pháp lệnh thanh tra; các quy định về tiền tệ- tín dụng- ngân hàng tại các Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng và các quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Ngay sau khi thực hiện chính sách mở cửa, trong lĩnh vực tài chính tiền tệ đã có nhiều ngân hàng lớn của một số nước xin phép đặt văn phòng đại diện và mở chi nhánh ở nước ta. Trong đợt đầu (2000-2004) đã có 11 ngân hàng nước ngoài được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép mở chi nhánh 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh với số vốn ban đầu các ngân hàng này đưa vào Việt Nam là 135 triệu USD. Đến nay, số các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài có mặt tại Việt Nam là 37 đơn vị với số vốn các ngân hàng nước ngoài đưa vào Việt Nam (vốn điều lệ) là 490 triệu USD; vốn huy động gần 2 tỷ USD và các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã dùng số vốn huy động và vốn điều lệ để cho vay các Công ty, doanh nghiệp trong nước gần 1,5 tỷ, bảo lãnh và mở L/c trị giá hàng trăm triệu USD. Ngoài việc tạo vốn và đầu tư cho các doanh nghiệp ở Việt Nam có vốn để sản xuất kinh doanh, việc các ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đưa máy móc, thiết bị và các phần mềm cùng kinh nghiệm hoạt động ngân hàng đã góp phần phát triển công nghệ ngân hàng ở Việt Nam. Bảng 2.2 (Phụ lục 4)
2.2.2. Thực trạng hoạt động thanh tra của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước đối với Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
Ngay khi chuẩn bị cho việc cấp giấy phép cho các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức đào tạo đội ngũ công chức có trình độ chuyên môn, ngoại ngữ giỏi, am hiểu pháp luật; để vừa tiếp thu được công nghệ mới của các tổ chức tín dụng lớn, hiện đại trên thế giới, đồng thời thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước đối với tổ chức này.
Việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài của Ngân hàng Nhà nước được thể hiện ngay từ khâu đầu tiên (do Vụ Các Ngân hàng thực hiện) là xem xét để cấp giấy phép cho các ngân hàng nước ngoài được phép mở chi nhánh (loại hình 100% vốn nước ngoài); hoặc liên doanh tại Viêt Nam.
Đây là khâu cực kỳ quan trọng trong việc “mở cửa và hội nhập” thuộc lĩnh vực tài chính, tín dụng với nước ngoài, nó vừa đảm bảo cho sự an toàn trong hoạt động của các tổ chức tài chính tín dụng trong nước, vừa thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng. Đó là việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài; tiếp thu được công nghệ mới hiện đại…
Hiện nay, 37 ngân hàng nước ngoài đã được Nhà nước cấp giấy phép đầu tư vào nước ta thành lập Ngân hàng liên doanh hoặc Chi nhánh ngân hàng 100% vốn nước ngoài, kết quả hoạt động của các ngân hàng này đến nay về cơ bản vẫn đảm bảo an toàn, hầu hết các ngân hàng đều có ý thức tuân thủ nghiêm túc luật pháp và các quy chế.
Sau khi các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài được cấp giấy phép hoạt động, hoạt động quản lý đối với các ngân hàng này hầu hết được tập trung tại Thanh tra Ngân hàng Nhà nước với hai phương thức hoạt động là giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ như đối với các tổ chức tín dụng trong nước.
2.2.2.1. Đối với phương pháp giám sát từ xa:
Trong số các tổ chức tài chính tín dụng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam hiện nay, việc giám sát từ xa đã được thực hiện đối với toàn bộ các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Ngay sau khi khai trương hoạt động các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải gửi cân đối kế toán và các báo cáo theo quy định tại quyết định số 159/QĐ-NH1 và quyết định số 137/QĐNH3 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về thanh tra Ngân hàng để thực hiện phân tích giám sát.
Hiện nay, Thanh tra Ngân hàng đều nhận đầy đủ các file cân đối kế toán và các báo cáo truyền qua mạng vi tính hàng tháng, báo cáo phân loại chất lượng tín dụng và cam kết hàng quý của 37 Chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 6 Ngân hàng liên doanh. Trên cơ sở số liệu hoạt động của các tổ chức tín dụng từ mạng truyền, Thanh tra Ngân hàng đã thực hiện giám sát, phân tích để đánh giá sự phát triển, mức độ an toàn về việc chấp hành các quy chế của từng Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài và của toàn khối.
Kết quả giám sát thanh tra hàng tháng được tổng hợp, báo cáo Ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước để chỉ đạo và thực hiện chức năng quản lý đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Khi giám sát phân tích hoạt động của các ngân hàng, Thanh tra Ngân hàng đã chấn chỉnh ngay đối với những Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài có vi phạm các quy định về huy động vốn bằng tiền đồng của Chi nhánh ngân hàng nước ngoài, gửi vốn ra nước ngoài; hoặc dư nợ cho vay quá hạn tăng; phải trả thay các cam kết không chính xác hoặc áp dụng các tài khoản trên báo cáo kế toán gửi Ngân hàng Nhà nước chưa đúng với số hiệu tài khoản kế toán trong hệ thống kế toán ban hành theo Quyết định số 1146/2004/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Những vi phạm và các tồn tại trên của các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài sau khi giám sát hàng tháng, Ngân hàng Nhà nước đã có công văn nhắc nhở, chấn chỉnh đối với các ngân hàng.
Cùng với việc báo cáo Ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước, kết quả giám sát đồng thời được chuyển tới bộ phận thanh tra trực tiếp các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài để phục vụ cho hoạt động thanh tra tại chỗ. Căn cứ vào kết quả giám sát phân tích đối với mỗi ngân hàng, bộ phận thanh tra trực tiếp xem xét mức độ an toàn trong hoạt động và việc chấp hành quy chế của mỗi ngân hàng để có sự lựa chọn thanh tra trực tiếp trước, sau tại ngân hàng nào. Không chỉ có vậy, từ số liệu giám sát, bộ phận thanh tra trực tiếp còn sử dụng các số liệu về hoạt động của ngân hàng được chọn thanh tra qua kết quả giám sát từ xa để chuẩn bị cho cuộc thanh tra trực tiếp đạt kết quả cao nhất.
Như vậy, với chương trình giám sát theo hệ thống các chỉ tiêu CAMEL, cho đến nay việc giám sát phân tích hoạt động của Thanh tra Ngân hàng đối với các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định. Đó là thông qua số liệu giám sát và phân tích, Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời nắm bắt tình hình hoạt động những vấn đề cơ bản trong việc chấp hành quy chế, cơ chế của Ngân hàng Nhà nước tại mỗi Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài hàng tháng, giúp Ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước sớm có thông tin đầy đủ về ngân hàng này để có những quyết định đúng đắn trong quản lý, chỉ đạo và xây dung điều chỉnh cơ chế quản lý đối với chúng. Đồng thời là cơ sở đáng tin cậy để thanh tra tại chỗ có thể lựa chọn đúng đối tượng và đạt hiệu quả cao khi thực hiện thanh tra tại chỗ.
2.2.2.2. Đối với phương pháp thanh tra tại chỗ:
Từ năm 1995 đến hết năm 2006, Thanh tra Ngân hàng đã thực hiện trên 140 lượt cuộc thanh tra tại chỗ các Ngân hàng liên doanh; Chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các chi nhánh, chi nhánh phụ tại Việt Nam; ngoài ra còn tổ chức hàng chục cuộc kiểm tra theo những nội dung khác nhau tại các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
Với trên 140 lượt cuộc thanh tra tại chỗ tại các Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài nói trên, Thanh tra Ngân hàng đã phát hiện kịp thời những vi phạm của mỗi đơn vị, có trên 500 kiến nghị với ngân hàng được thanh tra và một số kiến nghị với Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về cơ chế, chính sách quản lý đối với các đơn vị trong khối, đó là :
+ Trước hết, khi thanh tra tại chỗ tại đơ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3726.doc