Đổi mới hoạt động kinh doanh của các Doanh nghiệp thương mại trong quá trình hội nhập

Lời mở đầu Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu,sản phẩm để giao lưu buôn bán quốc tế rất kém sức cạnh tranh về chất lượng , chủng loại, mẫu mã, đặc biệt là giá cả chưa phù hợp . Đứng trước tình hình của chúng ta Đảng và Nhà nước đã có những biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế một cách có hiệu quả. Đóng góp to lớn vào việc thúc đẩy hội nhập và tăng kim ngạch xuất khẩu là các doanh nghiệp thương mại. Trong quá trình hội nhập các doanh nghiệp thương mại nước ta đã

doc20 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1302 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đổi mới hoạt động kinh doanh của các Doanh nghiệp thương mại trong quá trình hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có những phương thức đổi mới hoạt động kinh doanh như thế nào, thành tưụ thu được, những mặt hạn chế và biện pháp thúc đẩy quá trình đổi mói đó như thế nào sẽ được đề cập đến trong bài viết này. Đây là một nội dung nghiên cứu rất cần thiết,vì vậy em chọn đề tài “Đổi mới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại trong quá trình hội nhập” Em trân trọng cảm ơn Thầy giáo Nguyễn Quang Anh đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài. Sinh viên I. Cơ sở lý luận về hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường. 1.Khái niệm kinh doanh, vai trò của kinh doanh. 1.1Khái niệm: Kinh doanh là việc thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện trên thị trường nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đối với kinh doanh thương mại thường có năm mục tiêu khách hàng đó là: chất lượng, đổi mới, cạnh tranh và lợi nhuận. Để thực hiện mục tiêu kinh doanh thì bản thân các doanh nghiệp hay là bản thân các nhà doanh nghiệp thường tiến hành hai giải pháp : - Mở rộng thị trường tăng doanh thu bán hàng cho doanh nghiệp, bản thân các doanh nghiệp phải hiểu rõ các chi phí bỏ ra trong kinh doanh để cắt giảm những chi phí không cần thiết. - Kinh doanh thương mại là hoạt động đầu tư tiền của, sức lao động, vào hoạt động mua bán lưu thông hàng hoá. Kinh doanh thương mại trước hết đòi hỏi phải có vốn kinh doanh,vốn kinh doanh là vốn bằng tiền và bằng các tài sản khác (nhà cửa, kho tàng, cửa hàng...) có thể lúc đầu là các khoản tích luỹ, góp vốn, vốn huy động hay vốn vay...có vốn mới thực hiện được chức năng lưu thông hàng hoá. - Kinh doanh thương mại đòi hỏi thực hiện hành vi mua và bán. Nhưng mua hàng không phải để dùng mà để bán cho người khác. Kinh doanh thương mại dùng vốn (tiền của, công sức) vào hoạt động kinh doanh cũng đòi hỏi sau mỗi chu kỳ kinh doanh, phải bảo toàn cả vốn lãi có như vậy mới có thể mở rộng kinh doanh, ngược lại thua lỗ phá sản. 1.2 Vai trò của Kinh doanh Thương Mại. Kinh doanh thương mại là lĩnh vực hợp đồng chuyên nghiệp trong lưu thông hàng hoá vì vậy nó có vị trí trung gian cần thiết giữa sản xuất và kinh doanh, là tiền đề của sản xuất, là hậu cần của sản xuất, là khâu không thể thiếu được trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Kinh doanh thương mại có tác động nhiều mặt, đối với lĩnh vực sản xuất vật chất và lĩnh vực tiêu dùng của xã hội. Nó cung ứng những vật tư, hàng hoá cần thiết một cách đầy đủ kịp thời, đồng bộ đúng số lượng, chất lượng một cách thuận lợi, với quy mô ngày càng mở rộng . 2.Nội dung của kinh doanh thương mại trong nền kinh tế quốc dân - Bước đầu tiên là phải nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trường về loại hàng hoá và dịch vụ để lựa chọn kinh doanh. Đối tượng kinh doanh thương mại là hàng hoá và các dịch vụ trong buôn bán hàng hoá, có thể kinh doanh một loại hàng hoá (chuyên doanh) hoặc một nhóm loại hàng hoá ( tổng hợp) nhưng trước khi tiến hành một hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp thương mại phải xác định nhu cầu thị trường về loại hàng hoá đó. Mỗi loại hàng hoá cụ thể có đặc tính cơ lí hoá học và trạng thái khác nhau cho sản xuất hoặc cho tiêu dùng, nên việc phải nghiên cứu xác định nhu cầu của khách hàng và sự đáp ứng cho nhu cầu đó hiện nay. Nguồn cung ứng (sản xuất hoặc nhập khẩu) loại hàng hoá đó cũng có thể doanh nghiệp kinh doanh những hàng hoá chưa hề có trên thị trường nhưng qua nghiên cứu tin chắc rằng nhu cầu của khách hàng sẽ có và ngày càng tăng lên. Nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trường mà doanh nghiệp sẽ đáp ứng đồng thời doanh nghiệp thương mại phải nghiên cứu và xác định khả năng của nguồn hàng, khả năng có thể khai thác, đặt hàng và thu mua để đáp ứng cho nhu cầu của khách hàng, từ đó doanh nghiệp lựa chọn mặt hàng và quyết định các cơ sở vật chất phù hợp với mặt hàng đã lựa chọn để đi vào kinh doanh. Việc nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trường về loại hàng hoá để lựa chọn kinh doanh không phải chỉ là một lần mà trong quá trình tồn tại phát triển kinh doanh. Doanh nghiệp thương mại luôn phải nghiên cứu nhu cầu khách hàng để đưa vào kinh doanh các mặt hàng mới, tiên tiến có nhu cầu trên thị trường . II. đánh dấu sự thành công trong quá trình hội nhập đã ký kết các hiệp định. 1. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ , bước tiến quan trọng trên con đường cải cách và hội nhập Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp .Hiệp định thương mại Việt – Mỹ có nội dung rất phong phú và đa dạng, với những phụ lục khác nhau và rất chi tiết về các sản phẩm và dịch vụ, về đầu tư và sở hữu trí tuệ: đề cập rất nhiều đến các vấn đề và các lĩnh vực như chất lượng sản phẩn trong công nghiệp, nông nghiệp, thuế quan… là bước mở màn cho Việt Nam đàm phán thuận lợi để gian nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Khi hiệp định được các cơ quan lập pháp của hai nước thông qua, phía Mỹ trên nguyên tắc sẽ áp dụng thuế suất phù hợp với WTO, tháo gỡ các rào cản phi thuế quan hạn chế định lượng mở đường cho hàng hoá Việt Nam vào thị trường Mỹ. Riêng hàng dệt may phía Mỹ đề nghị qui định quy chế thương lượng về quota nhập khẩu từ Việt Nam. Quy định này đã được thoả thuận trong các Hiệp định thương mại song phương giữa các nước như Trung Quốc, Bungari, Mông Cổ… song quota này cũng sẽ bổ sung thị phần ở mức độ đáng kể cho hàng dệt may của Việt Nam. Để biến khả năng này thành hiện thực, các doanh nghiệp Việt Nam cần có ngay một chương trình hành động cụ thể, bắt đầu từ việc năng cao trình độ tiếng anh thương mại, nghiên cứu luật pháp liên bang và các bang của Mỹ: xây dựng quan hệ thương mại, tìm đối tác, tổ chức tiếp thị… để ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp Mỹ. Theo ước tính của một báo cáo của Ngân hàng Thế Giới năm 1999, hiệp định này có thể giúp Việt Nam nâng cao xuất khẩu một cách mạnh mẽ, có thể đạt đến 768 triệu USD ngay trong năm đầu khi hiệp định có hiệu lực. Chúng ta tin rằng với sự năng động và nỗ lực của các doanh nhân Việt Nam sẽ cho phép vượt qua dự báo này, cùng với gia tăng là tạo ra việc làm cho nhiều sản phẩm và dịch vụ khác nhau, kể cả du lịch, sẽ góp phần tích cực để nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhìn vào thực trạng các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua sang Mỹ, mặt hàng nông sản chiếm ưu thế lớn. Điều này phản ánh đúng lợi thế so sánh giữa hai quốc gia. Mặt khác thị trường Mỹ là thị trường khó tính đòi hỏi rất khắt khe về chất lượng, trong đó tiêu chuẩn ISO là quan trọng nhất. Một khó khăn nữa cho doanh nghiệp Việt Nam khi thâm nhập thị trường Hoa Kỳ là hệ thống luật: Hệ thống luật của Hoa Kỳ rất phức tạp và mỗi bang lại có thể chế riêng nên không thể chủ quan tuỳ tiện áp dụng luật từ thị trường bang này sang bang khác. 2- Hợp tác nội khối và vị thế của Việt Nam trong Asean Thành lập cách đây 34 năm, ( ngày 8 tháng 8 năm 1967), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á ( ASEAN) hoạt động nhằm vào ba mục tiêu cơ bản là: thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển bền văn hóa, bảo vệ sự ổn định chính trị và kinh tế trong khu vực, chống lại các thế lực bên ngoài; là diễn đàn giải quyết các tranh chấp và xung đột trong khu vực từ chỗ chỉ có 5 quốc gia thành viên đến nay Asean đã quy tụ đầy đủ 10 nước trong khu vực. Mục đích hoạt động nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, văn hoá của các thành viên trên cơ sở hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau bình đẳng cùng có lợi. Trong gần ba thập kỷ qua, các nước Asean đã thu được nhiều thành tựu đáng khích lệ trong phát triển kinh tế xã hội. Năm 1993 các nước này đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 7.5% và triển vọng năm 1994 rất sáng sủa. Cùng nằm trong vùng Đông Nam á, lại có nhiều điểm tương đồng về lịch sử và văn hóa, Việt Nam và Asean đã có mối giao lưu từ lâu. Sau khi nước Việt Nam thống nhất, quan hệ Việt Nam – Asean càng phát triển trên cơ sở đề nghị các nước Đông Dương về một Đông Nam á hoà bình, ổn định, hợp tác và chủ trương của Asean về một khu vực hoà bình tự do trung lập. Từ đó mối quan hệ kinh tế thương mại cũng phát triển nhanh chóng, kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Việt Nam với từng nước thành viên Asean đã tăng lên đáng kể, riêng Singapore đã trở thành bạn hàng lớn thứ 2 của Việt Nam sau Nhật( Với kim ngạch mậu dịch năm 1993 là 1.4 tỷ USD) các bạn hàng quan trọng khác phải kể đến Inđônêsia, Malysia và Philipin. Hoạt động đầu tư của các nước Asean tại thị trường Việt Nam ngày càng sôi động, cho đến nay tất cả các nước Asean đều có các dự án đang triển khai ở Việt Nam với giá trị vốn đầu tư vài trăm triệu USD, chỉ trong vòng hơn 3 năm nay, vốn đầu tư của Asean vào Việt Nam tăng trên 10 lần. Đã có 30 hiệp định hợp tác kinh tế thương mại thanh toán tín dụng, hàng không, hàng hải… được ký giữa Việt Nam với các nước thành viên Asean. Cuộc đi thăm hữu nghị của thủ tướng Võ Văn Kiệt tới 6 nước thành viên Asean và chuyến thăm Việt Nam của các nhà lãnh đạo Nhà nước, chính phủ, Quốc hội của các nước Asean tới Việt Nam càng tăng cường thêm các mối quan hệ hữu nghị vốn có tinh thần” khép lại quá khứ, hướng tới tương lai với những triển vọng tốt đẹp”. Tháng 7 năm 1992 với việc tham gia Hiệp ước Bali – một bước lớn trong quan hệ Việt Nam - Asean, Việt Nam đã trở thành quan sát viên của tổ chức này. Tại hội nghị Bộ trưởng ngoại giao Asean lần thứ 26 ( tháng 7 năm 1993) họp ở Singapore, Việt Nam đã tham gia với tư cách là quan sát viên, Hội nghị nhất trí và hoan nghênh Việt Nam dự diễn đàn về chính trị và an ninh khu vực( ARF) với tư cách là một bên đối tác quan trọng. Tháng 12 năm 1993, cuộc hội thảo Việt Nam - Asean lần thứ 3 đã hài lòng ghi nhận những bước phát triển tích cực và nhanh chóng trong mối quan hệ Việt Nam- Asean; và nêu rõ : “ Việc mở rộng Asean để Việt Nam và các nước Đông Nam á khác gia nhập sẽ tạo nên sức mạnh tập thể to lớn để tranh thủ tối đa các cơ hội hợp tác và phát triển…” III. Đổi mới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mạI. 1.Nội dung đổi mới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại . Một số doanh nghiệp đã xác định đúng đắn phương hướng kinh doanh kết hợp với kinh doanh tổng hợp. Nhờ thực hiện tốt phương hướng kinh doanh nay nên nhiều công ty đã mở rộng sản xuất kinh doanh ,khai thác triệt để nguồn vốn , đội ngũ lao động công nghệ hiện đang có và thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng lao động và công nghệ.Một số doanh nghiệp như tổng công ty máy và phụ tùng .Công ty thiết bị toàn bộ và kỹ thuật ,công ty xuất nhập khẩu sản xuất gia công và bao bì TPHCM. Công ty điện máy Đà Nẵng ,công ty vải sợi miền nam … đã giữ được tính chất chuyên doanh, giữ tỷ trọng kinh doanh các mặt hàng chủ yếu khoảng 60-70% còn các mặt hàng phụ khác chiếm khoảng 30-40%. Tổng công ty Muối, tồng công ty xăng dầu Việt Nam giữ tỷ trọng kinh doanh các mặt hàng chủ yếu từ 80-90%. Thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh mấy năm qua chứng tỏ rằng. Những công ty nào không có phương hướng không có chiến lược kinh doanh để tạo ra một số mặt hàng chủ yếu, chỉ có “buôn chuyến”,’’đánh quả” từng đợt ngắn, từng thương vụ thì hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ bấp bênh không ổn định, có thể lãi lớn và cũng có thể “sập tiệm”. Như vậy là những công ty có chiến lược kinh doanh đúng đắn đã tự mình làm lu mờ vai trò của mình trên thị trường trong nước và Thế Giới. - Các doanh nghiệp tăng cường nhu cầu thị trường và giá cả nhằm đáp ứng các nhu cầu,thị hiếu của dân cư trên thị trường trong nước và Thế Giới. Nhiều công ty như công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I, công ty xuất nhâp khẩu-sản xuất gia công bao bì Thành phố Hồ Chí Minh , công ty điện máy-xe đạp xe máy Hà Nội. Công ty điện máy Thành phố Hồ Chí Minh đã dành thời gian để nghiên cứu những đặc điểm của từng thị trường,nhu cầu của thị trường đặc điểm, phong tục tập quán tiêu dùng của khách hàng trong những năm qua …từ đó dự báo nhu cầu tiêu dùng hàng hoá trong những năm tới. Khi đã có những tư liệu về thị trường, các công ty đã phân tích, xem xét hàng hoá của mình có phù hợp với thị trường không ? Nếu hàng hoá đã phù hợp với thị trường rồi thì cần tiếp tục nâng cao chất lượng lên,nếu hàng hoá chưa phù hợp thì nhất thiết phải đổi mới hàng hoá sao cho thoả mãn được mọi nhu cầu đa dạng, phong phú của thị trường. Nhu cầu giá cả có ý nghĩa quan trọng giúp nhà sản xuất kinh doanh gắn hoạt động công ty với thị trường, gắn sản xuất kinh doanh với tiêu dùng . Qua nhu cầu giá cả thị trường về những hàng hoá mà công ty kinh doanh, quan hệ tỷ giá giữa các loại hàng hoá, giá giữa các vùng, giá cả trên thị trường Việt Nam và giá Thế Giới…sẽ giúp nhà sản xuất kinh doanh rút ra kết luận cần thiết khi định giá để rao cho công ty vừa bán được hàng, vừa có lãi suất cao nhất. Việc coi trọng quảng cáo và xúc tiến thương mại, các doanh nghiệp đã mở rộng được hoạt động sản xuất kinh doanh bán được nhiều hàng hơn và nhanh hơn. Thông qua quảng cáo và xúc tiến thương mại, công ty định trước được mặt hàng gì sẽ phả sản xuất kinh doanh, bán hàng ở đâu. Khi nào và biết được cho phí lưu thông phải bỏ ra như mặt hàng điện máy,ô tô, xe máy…Nhờ quảng cáo mà người bán và người mua gặp nhau thoả thuận để mua,bán hàng hoá Trong những năm gần đây các doanh nghiệp thuộc Bộ Thương Mại đã tích cực sử dụng các phương tiện quảng cáo để giới thiệu hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, giới thiệu ấn phẩm, những tính chất, đặc điểm, cách sử dụng, tác dụng hữu ích giá cả hàng hoá…Tổng công ty xăng dầu Việt Nam đã có những chiến dịch quảng cáo dầu nhờn BP rầm rộ trên thông tin đại chúng và đạt hiệu quả cao : hàng bán rất chạy, nhiều người tiêu dùng thuộc lòng đoạn văn quảng cáo, biểu tượng chữ P của tổng công ty đã gây được tín nhiệm cao trên thị trường trong nước và thị trường thế giới. Một số doanh nghiệp đã chủ trương phát triển mạng lưới đại diện thương mại, tích cực tham gia hội chợ triển lãm thương mại trong nước và thế giới nên đã mở rộng được hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp nào quan tâm nâng cao sản phẩm và bao bì hàng hoá thì chất lượng hàng hoá ngày càng được nâng cao, đáp ứng các yêu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Thời gian qua doanh nghiệp nào quan tâm giải quyết vấn đề sản phẩm và bao bì thì chất lượng hàng hoá nâng cao hình thức hàng hoá ngày càng đẹp.Một số sản phẩm đã có chỗ đứng trên thị trường được người tiêu dùng ưa chuộng như dầu nhờn BP của tổng công ty xăng dầu Việt Nam, két bạc và cán cân của công ty thiết bị thương mại, sản phẩm in của công ty in thương mại…Những doanh nghiệp nào ít quan tâm nghiên cứu sản phẩm và bao bì để nâng cao chất lượng hàng hoá rất khó tiêu thụ rất khó xuất khâủ. Một số doanh nghiệp tích cực mở rộng mạng lưới sản xuất kinh doanh, phát triển các cửa hàng, cửa hiệu, đại lý nhằm hoàn thiện hệ thống tiêu thụ sản phẩm, hình thành và phát triển mối quan hệ gắn bó giữa sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng. Trong quá trình hợp tác với các cơ sở sản xuất, các con đường thương mại thường sử dụng các biện pháp kinh tế sau : +Ký hợp đồng tiêu thụ hàng hoá lâu dài với các cơ sở sản xuất hiệp định +Hỗ trợ vật tư, nguyên liệu, tiền vốn, cho cơ sở sản xuất. Khi họ đề nghị. +Đặt các đơn hàng sản xuất, phối hợp với cơ sở sản xuất nâng cao cải tiến mặt hàng nâng cao chất lượng hàng hoá, đáp ứng với mọi nhu cầu của thị trường. Trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp đã tích cực mở rộng mạng lưới sản xuất kinh doanh hình thành và phát triển mối quan hệ gắn bó giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Cung ứng nguyên liệu sản xuất, tiêu thụ sản phẩm giảI quyết việc làm cho hàng ngũ lao động. -Vận dụng đấu thầu và khoán trong sản xuất kinh doanh để nâng cao hiệu quả và tạo ra động lực kinh tế cho người lao động. Bản chất của đấu thầu là hình thức cạnh tranh để đạt được lợi nhuận cao nhất cho cả hai phía, người giao thầu và người nhận thầu. Khoán có tác dụng nâng cao tính chủ động sáng tạo, năng suất chất lượng hiệu quả cao và tạo ra động lực kinh tế cho người lao động. Việc vận dụng đấu thầu trong các doanh nghiệp chưa áp dụng nhiều, còn khoán thì hầu như doanh nghiệp nào cũng đã thực hiện. Một số doanh nghiệp đã vận dụng linh hoạt đấu thầu và khoán, có cơ chế kiểm tra giám sát chặt chẽ, thường xuyên nên đạt hiệu quả cao, bảo toàn và phát triển được nguồn vốn, thu nhập của người lao động tăng. Một số doanh nghiệp không những chỉ quan tâm mở rộng hoạt động kinh doanh ở các trung tâm thành phố và khu công nghiệp mà còn quan tâm đến thị trường, nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Các doanh nghiệp đã chú trọng mở rộng hoạt động kinh doanh những mặt hàng thiết yếu nhất, nhu cầu lớn có tác dụng quyết định đến sản xuất và đời sống tập trung chi phối những thị trường đông dân cư có ảnh hưởng lớn đến kinh tế xã hội như thành phố, khu công nghiệp…mở rộng hoạt động kinh doanh vào những thời điểm bùng nổ nhu cầu như NO-EN và Tết dương lịch…Đồng thời cũng đã chú trọng mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh ở thị trường nông thôn, miền núi vùng sâu, vùng xa. Trong 5 năm 1991-1995 các doanh nghiệp đã cung ứng 102.284 tấn dầu hoả, 182.589 tấn muối Iốt. 2. Những nguyên nhân dẫn đến tình trạng hoạt động kinh doanh kém hiệu quả. Hiện nay tổ chức của thương mại quốc doanh đang phân tán và manh mối, Nhà nước không có khả năng đầu tư thêm nhiều vốn cho các doanh nghiệp nhà nước. - Chẳng hạn trong những năm gần đây mỗi năm Bộ thương mại chỉ bổ sung vốn 10 tỷ đồng nên chỉ mang tính chất “cứu đói- rải mành” và như muối bờ biển. Nhà nước chưa có chính sách vốn thoả đáng đối với các doanh nghiệp kinh doanh các nông sản xuất khẩu phải mua theo thời vụ như gạo, lạc ,mía, hạt điều … Do các doanh nghiệp này phải vay ngân hàng với lại suất cao nên không thể dùng vốn vay để đầu tư phát triển sản xuất,ứng trước vốn cho nông dân thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng, dự trữ nguồn hàng xuất khẩu với khối lượng lớn và đáp ứng được nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến diễn ra liên tục quanh năm các doanh nghiệp không đủ vốn để dự trữ lưu thông với khối lượng cần thiết. Việc điều hành quản lý vốn của Bộ thương mại trước đây và Bộ tài chính hiện nay cũng chưa linh hoạt và kém hiệu quả. Có doanh nghiệp thừa vốn hàng chục tỷ đồng trong khi có doanh nghiệp khác lạI thiếu vốn, không vay được tiền của ngân hàng để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, không bảo đảm được mức thu nạp trung bình cho công nhân viên chức. Đa số các doanh nghiệp nhà nước chưa có phương hướng kinh doanh rõ ràng chưa có chiến lược kinh doanh hoặc không xem xét kỹ các phương án kinh doanh để có sự lựa chọn chính xác nhằm tạo ra một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu,thị trường xuất khẩu ổn định và chiếm lĩnh thị trường trong nước. Nhiều doanh nghiệp nhà nước chỉ lo “buôn chuyến”, “đánh quả” từng đợt ngắn, từng thương vụ nên hiệu quả sản xuất kinh doanh rất bấp bênh không ổn định có thể lãI lớn và cũng có thể “sập tiệm”-không gây được tín nhiệm với khách hàng và có lúc đã làm mất bạn hàng. Trong năm 1994 vì lợi ích trước mắt đã có doanh nghiệp không thực hiện hợp đồng xuất khẩu cao su cho Singapore, Hông Kông.Malaixia…Để bán sang thị trường Trung Quốc vì được giá cao hơn. (mặc dù các công ty này cầm trong tay nhân dân tệ hoặc đổi hàng chứ không được nhận ngoại tệ mạnh) Như vậy những doanh nghiệp nhà nước không có chiến lược kinh doanh đúng đắn đă tự mình làm lu mờ vai trò của doanh nghiệp trên thị trường và mất bạn hàng thường xuyên ổn định. Một số doanh nghiệp nhà nước có vốn lớn, vay được nhiều tiền của ngân hàng nhưng lại thiếu năng lực sản xuất kinh doanh đúng đắn, hàng hoá không phù hợp với nhu cầu thị trường, sử dungh vốn không đúng mục đích (chẳng hạn dùng vốn lưu động để xây dựng cơ bản và mua sắm trang thiết bị…) dẫn đến tình trạng kinh doanh thua lỗ, nợ nần chồng chất. Một số doanh nghiệp đưa vốn lưu động vào liên doanh liên kết, nhưng chưa phát huy hiệu quả hoặc không có hiệu quả, thậm chí còn có doanh nghiệp thất thoát vốn trong quá trình liên doanh hàng chục tỷ đồng. -Việc đối xử của cơ quan quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp chưa bình đẳng hợp lý. Những doanh nghiệp nào được chọn làm thiết yếu thường có”lợi nhuận siêu ngạch”, hoạt động sản xuất kinh doanh dễ dàng, còn các doanh nghiệp nhỏ phảI làm đạI lý, uỷ thác thì cơ cực trăm bề và hoạt động sản xuất kinh doanh thường kém hiệu quả. Đội ngũ cán bộ chậm được đổi mới, đào tạo và đào tạo lại chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới, một bộ phận không ít thoái hoá biến chất không được xử lý và kiên quyết, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh. Các vụ chức năng của Bộ chưa giành nhiều quan tâm và đIều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, việc xử lý các văn bản có lúc còn chậm sự phối hợp hoạt động giữa các vụ chưa thật nhịp nhàng. Việc xây dựng hệ thống thu thập và xử lý thông tin thị trường và hoạt động kinh doanh làm cơ sở cho các doanh nghiệp, làm căn cứ xây dựng kế hoạch và đIều hành kinh doanh trong mấy năm gần đây có nhiều cố gắng phục vụ khá tốt nhưng so với yêu cầu chất lượng thông tin vẫn chưa được cao chưa kịp thời công tác phân tích và dự báo còn yếu, chưa làm được chức năng định hướng cho các doanh nghiệp trong hoạt độngkinh doanh. Để thành công hội nhập các doanh nghiệp thương mại không ngừng đổi mới hoạt động kinh doanh để đáp ứng tốt yêu cầu mà quá trình hội nhập đặt ra. IV. biện pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại trong quá trình hội nhập. 1.Thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong xu thế hội nhập và tự do hoá thương mại quốc tế. Hàng năm nước ta đã có nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện chinh sách thuế nhập khẩu, xuất khẩu góp phần thúc đẩy xuất nhập khẩu điều tiết tiêu dùng. Tuy nhiên vẫn còn nhiều điều chưa phù hợp với thông lệ quốc tế trong điều kiện hội nhập tự do hoá thương mại: Mức thu thu còn cao, biểu thuế còn nhiều thuế xuất… rồi những bất cập trong tổ chức thực hiện làm giảm hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu, vì vậy cần thiết phải bổ sung hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu. Đối với thuế xuất khẩu: Chỉ thu đối với các mặt hàng xuất khẩu mà Việt Nam đã có thị trường ổn định hoặc nguyên liệu thô cần cho sản xuất trong nước như qoặng thô, phế liệu kim loại… điều chỉnh theo hướng giảm và tiến tới bỏ thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng như may mặc,da giầy, nông sản chế biến để khuyến khích xuất khẩu. Thuế nhập khẩu Giảm bớt mức thuế nhập khẩu và mức thuế cao nhất để phù hợp với điều kiện hội nhập, về lâu dài mức thuế phù hợp với yêu cầu của AFTA là 0 – 5%, nhưng trước mắt ta phải giảm dần, song với các mặt hàng nước ta không có tiềm năng lợi thế và chưa có khả năng sản xuất trong nước những năm sắp tới – những mặt hàng là nguyên vật liệu quan trọng và chủ yếu cho sản xuất các ngành có thế mạnh cạnh tranh XK…thì cần xây dựng mức thuế nhập khẩu thấp hơn nước bảo hộ, biểu thuế nhập khẩu hoàn thiện là 8 mức: 0%, 3%, 5%, 10%, 20%, 30%, 40%, 50%. Đồng mức thuế suất cao nhất là 60% giảm xuống còn lại 50%. Cần xác định rõ mức thuế nhập khẩu tạm thời cho các loại hàng hoá đặc biệt trong luật thuế hiện nay chưa có quy định mức thuế tạm thời đối với một số hàng nhập khẩu quá thấp so với so với giá cả của hàng hoá nhằm gây rối hoặc mang tính chất đe doạ sự phát triển sản xuất trong nước, vì vậy cần phải qui định về thuế xuất tạm thời chống lại tình trạng bán phá giá, bảo hộ giá để nhằm chống cạnh tranh không lành mạnh. Bên cạnh đó phải tăng cường bồi dưỡng đào tạo nâng cao trình độ nhận thức, kỹ năng vận dụng và tổ chức thực luật pháp của các cán bộ ngành nên chú ý tới việc gắn trách nhiệm lợi ích vật chất đối với cán bộ, cần đổi mới trang bị phương tiện làm việc của đội ngũ tuần tra chống buôn lậu, trốn thuế. Cải tiến qui trình thuế xuất khẩu – nhập khẩu, góp phần thúc đẩy xuất nhập khẩu, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước. 2. Thương mại điện tử và cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam Hàng năm gần đây có thể coi là những năm phát triển và diễn ra những thay đổi vô cùng to lớn của nền thương mại toàn cầu dựa trên internet. Thương mại điện tử ( Electronic commerce) đã thực sự trở thành mối quan tâm hàng đầu của chính phủ các nước, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp. Doanh số buôn bán thông qua mạng toàn cầu trong năm 1999 đã đạt con số hàng trăm tỷ USD, vì vậy Việt Nam cần thiết phải hội nhập vào thương mại điện tử. Trước hết cần phải hiểu rõ khái niệm về thương mại điện tử, thuật ngữ thương mại điện tử (Electric commercial) không chỉ đơn thuần hiểu nó là công việc “ buôn bán qua mạng” mà phải hiểu thương mại điện tử là việc trao đổi các thông tin thương mại thông qua các phương tiện của công nghệ thông tin, không in ra giấy trong bất cứ công đoạn nào của toàn bộ quá trình giao dịch. thương mại điện tử sử dụng các phương tiện như máy điện thoại, máy fax, các hệ thống thiết bị thanh toán tự động, các mạng cục bộ ( LAN), mạng diện rộng ( WAN) và mạng toàn cầu ( Internet) để chuyển tải thông tin phục vụ kinh doanh. Ngày nay, hình thức hoạt động chủ yếu của thương mại điện tử bao gồm thư điện tử ( Electronic – Mail) thanh toán điện tử ( Electronic payment), trao đổi dữ liệu điện tử ( Electronic Date interchange) giao gửi số hoá các dữ liệu. Doanh nghiệp Việt Nam cần phải vượt qua rào cản về chuyên môn và ngôn ngữ để nắm bắt được tất cả những thông tin liên quan trên mạng. Nhà nước và các cơ quan hữu quan còn phải thiết lập hệ thống bảo vệ chống các phần mềm độc hại được truyền qua mạng bảo đảm an toàn trong kinh doanh và an ninh quốc gia. Theo tổng kết của Ban thương mại điện tử tuy chưa đạt được thành tựu lớn, song thương mại điện tử Việt Nam đã bắt đầu định hình và bước đầu đi vào hoạt động có chiều sâu và mang định tính chuyên môn. Biểu hiện cụ thể là thủ tướng chính phủ phê duyệt đề án thành lập Hội đồng quốc gia về thương mại điện tử và phương án từng bước tham gia và áp dụng thương mại điện tử ở Việt Nam. Ngoài ra là kế hoạch đào tạo cán bộ cho môi trường thương mại điện tử Việt Nam dưới sự tài trợ của Canada, Nhật Bản, Australia và kế hoạch hình thành các cơ sở cho chương trình quốc gia về kỹ thuật thương mại điện tử với tổng vốn đầu tư ban đầu là 1 tỷ đồng. 3.Đón đầu thị trường tạo ra nét độc đáo của doanh nghiệp Ngày càng có nhiều doanh nghiệp, nhiều sản phẩm và dịch vụ xuất hiện, cạnh tranh trên thị trương thì tính chất, đặt trưng không dễ nhầm lẫn và mang nét độc đáo của mỗi doanh nghiệp ngày càng trở nên quan trọng và mang tính quyết định hơn. Sự phát triển nhanh chóng, thường xuyên trong lĩnh vực công nghệ cao đòi hỏi doanh nghiệp, doanh nhân không chỉ phải đảm bảo khả năng phục vụ chuyên môn thường xuyên, có khả năng tiếp cận các công nghệ mới mà còn phải thường xuyên năng động sáng tạo. Nhất là phải có ý tưởng đặc biệt nhăm đưa sản phẩm, dịch vụ tới người tiêu dùng vốn đang ngày càng trở nên khó tính và có nhiều phương thức lựa chọn hơn. Chỉ có ai luôn quan tâm đến môi trường kinh doanh của mình mới hiểu ra những quyết định đúng đắn và kịp thời. Quá trình toàn cầu hoá trong nhiều lĩnh vực, nhiều ngành không chỉ dẫn đến những diễn biến cạnh tranh dày đặc hơn, khốc liệt hơn mà còn mang nhiều yếu tố bất ngờ, khó lường trước hơn. Thị trường càng đa dạng phong phú và phức tạp thì các sản phẩm lại càng khó bao quát. Đặt biệt đối với khách hàng, những người sẽ tiêu thụ các hàng hóa, sản phẩm của doanh nghiệp. Trước mắt khách hàng, các sp của vô vàn nhà cung cấp ngày càng trở nên giống nhau khó phân biệt tốt xấu. Các doanh nghiệp phản ứng ra sao? Phản ứng đầu tiên là yêu cầu về chất lượng không còn được chú trọng hàng đầu. Thay vào là yếu tố giá cả và các yếu tố marketing như quảng cáo, tiếp thị, hỗ trợ, xúc tiến bán hàng… Vậy là trong nhiều lĩnh vực ngành nghề kinh doanh như hàng quần áo, đồ điện tử, du lịch, các hăng hàng không và cả trong lĩnh vực xây dựng… tư tưởng hạ giá tối đa dường như đang chế ngự, hoạt động kinh doanh lại càng trở nên quyết liệt hơn. Tuy nhiên nếu chỉ có hàng giá rẻ cũng nhiều khi có tác dụng ngược lại. Theo đuổi cạnh tranh về giá cả sẽ dẫn đến mất dần tính độc đáo đặc trưng của mỗi doanh nghiệp. doanh nghiệp nào không tìm cách thoát dần ra khỏi cuộc chiến cạnh tranh về giá cả thì sẽ không thể tạo ra trong con mắt khách hàng một hình ảnh độc đáo đặc trưng của doanh nghiệp. Như vậy mặc dù vẫn chú trọng đúng mức đến yếu tố giá cả, nhưng để khẳng định vị thế lâu dài trên thị trường, doanh nghiệp phải tìm cách xây dựng và phát triển một vị trí nhất định. doanh nghiệp nào chú trọng tới điều này và phản ứng nhanh nhạy theo kịp sự biến đổi của thị trường chắc chắn sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn các đối thủ cạnh tranh. Các doanh nghiệp phải thường xuyên đặt câu hỏi: làm thế nào có thể phát hiện những “lỗ hổng” trên thị trường, tìm ra lĩnh vực kinh doanh mới cho thị trường và nhu cầu của khoa học luôn thay đổi. Muốn đạt được cái đích mà doanh nghiệp, bên cạnh việc phân tích và phát triển trên cơ sở thế mạnh, sở trường của mình còn phải biết nhìn nhận, phân tích từ góc độ khoa học, chẳng hạn nếu trả lời được câu hỏi khoa học sẽ phản ứng thế nào nếu một doanh nghiệp đột nhiên không còn trên thị trường, hoặc khoa học sau một thời gian sử dụng một loại sản phẩm sẽ có những đòi hỏi gì thêm nữa. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp có thể đón đầu và đưa ra các sản phẩm hay dịch vụ kèm theo mà chỉ mình mới có hay có sớm hơn đối thủ cạnh tranh. Chỉ những doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh luôn tìm cách tạo ra tính độc đáo đặc trưng của riêng mình mới không bị lao vào một cuộc cạnh tranh “ rẻ hơn, rẻ hơn nữa và rẻ nhất”, để rồi nhanh chóng bị các gã khổng lồ đè bẹp hay nuốt chửng trên thị trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn. Kết Luận Bước vào thế kỷ 21, nền kinh tế nước ta cũng bước vào hội nhập với các nước trên thế giới với những cơ hội và thách thức mới, buộc chúng ta phải tính toán cân nhắc một cách nghiêm túc và đúng đắn về đường lối chính sách. Một trong những vấn đề kinh tế bức xúc hiện nay của chúng ta là: Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nói chung của ta còn rất yếu kém so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Nói chung, hầu hết các doanh nghiệp chưa có chiến lược phát triển lâu dài, ổn định, mà mới chỉ có kế hoạch kinh doanh ngắn hạn, thậm chí kế hoạch cho từng thương vụ... Mặt khác, về phía quản lý nhà nước, một số chính sách thuế, quản lý, thủ tục hành chính còn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34638.doc