Lời mở đầu
Công tác Kế hoạch hoá ở Việt nam đã được tiến hành hơn 50 năm. Trong thời gian đó công tác kế hoạch luôn là công cụ chủ yếu của nhà nước để quản lý kinh tế - xã hội.
Với điều kiện mới của nền kinh tế, công tác quản lý kinh tế nói chung và công tác kế hoạch nói riêng cũng thay đổi để đáp ứng yêu cầu đổi mới đó.
Việt Nam với chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, cùng vớ
32 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1597 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đổi mới công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i xu thế hội nhập khu vức và quốc tế, đã đặt ra nhiệm vụ hết sức nặng nề, to lớn và quan trọng cho công tác kế hoạch hoá. Đó là đổi mới công tác kế hoạch từ tư duy, quan điểm định hướng, nội dung, phương pháp cđến cách thức chỉ đạo.
Đổi mới công tác kế hoạch là nhiệm vụ tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế.
Cũng chính vì vậy em đã chọn đề tài "Đổi mới công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam hiện nay"
Em xin trân thành cảm ơn PGS.TS Ngô Thắn Lợi đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
Bài viết được chia thành 3 phần:
Phần I: Cở sở lý luận về vai trò của kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường
Phần II) Sự cần thiết phải đổi mới công tác kế hoạch hóa ở Việt Nam
Phần III)Đổi mới công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam trong thời gian tới
Nội dung
Phần I) Cở sở lý luận về vai trò của kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường.
I)Tổng quan về kế hoạch hóa
1)Bản chất của kế hoạch hóa
Các môn khoa học quản lý đã định nghĩa: Quản lý lá sự tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm hướng đối tượng quản lý đi theo một mục tiêu định sẵn. Quá trình quản lý có thể mô tả sơ lược bằng quy trình kín sau đây:
Xác định mục tiêu Tổ chức Kiểm tra Điểu chỉnh Hạch toán
Như vậy, Kế hoạch hóa nằm trong những chức năng cơ bản của quy trình quản lý, là thể hiện ý đồ của chủ thể về sự phát triển trong tương lai của đối tượng quản lý và các giải pháp để thực hiện. Nó xác định xem một quá trình phải làm gì? Làm thế nào? Khi nào làm? Và ai sẽ làm?
Kế hoạch hóa vĩ mô nền kinh tế quốc dân là phương thức quản lý nền kinh tế của nhà nước theo mục tiêu. Nó thể hiện bằng những mục tiêu định hướng phát triển kinh tế-xã hội phải đạt được trong một khoảng thời gian nhất định của một quốc gia và những giải pháp chính sách, những cân đối vĩ mô cần thiết nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra một cách có hiệu qủa cao nhất. Một kế hoạch toàn diện đặt ra những mục tiêu bao hàm tất cả mọi mặt trong nền kinh tế quốc dân. Một kế hoạch từng phần sẽ đề cập đến một phần của nền kinh tế quốc dân
Kế hoạch hóa không chỉ là lập kế hoạch mà còn là quá trình tổ chức, thực hiện và theo dõi, đánh giá kết quả. Lập kế hoạch là lựa chọn một trong những phương án hoạt động cho tương lai của toàn bộ hay từng bộ phận của nền kinh tế. Còn tổ chức theo dõi và thực hiện được thể hiện bằng hệ thống các chính sách áp dụng trong thời kỳ kế hoạch xem như là những cam kết của chính phủ đối với hệ thống kinh tế.
Bản chất là giống nhau nhưng vai trò của kê hoạch hóa thể hiện ở các mức độ khác nhau trong hệ thống kinh tế thế giới.
2) Kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường
Đặc trưng cơ bản của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh là tính chất đa thành phần kinh tế, sở hữu tư nhân dưới nhiều hình thức khác nhau trong toàn bộ hệ thống kinh tế. Ở đây, thị trường chi phối các mặt hoạt động của đời sống kinh tế-xã hội. Trong nền kinh tế thị trường này, kế hoạch hóa thể hiện những cố gắng có ý thức của chính phủ để đạt được tăng trưởng nhanh với mức việc làm cao và ổn định giá cả thông qua các chính sách tài khóa và tiền tệ khác nhau của mình. Kế hoạch hóa giúp chính phủ ngăn chặn được sự mất ổn định kinh tế trong khi vẫn đảm bảo kích thích tăng trưởng nhanh. Những công cụ chính sách được sử dụng chủ yếu là công cụ trong lĩnh vực tiền tệ, tài chính và các quan hệ ngoại thương. Các chính sách tăng chi tiêu tài chính, điều chỉnh chi tiêu của chính phủ và tỷ lệ thuế được tăng cường đã tạo việc làm nhiều hơn và thu nhập cao hơn cho dân cư. Lạm phát và giảm phát được kiểm soát bằng chính sách tài chính, các cuốc điều chỉnh lãi suất hay các nguyên tắc chỉ đạo về giá lương. Những biến động trong cán cân thanh toán được xử lý bằng những điều chỉnh về thuế nhập khẩu, kiểm soát tỷ giá, hạn ngạch thuế. Trong tất cả các phương pháp nói trên thì những công cụ của chính sách là năng động và gián tịếp.
3) Kế hoạch hóa trong nền kinh tế mệnh lệnh
Thể hiện rõ nhất của cơ chế này là nền kinh tế Liên Xô cũ, những nền kinh tế Xô Viết ở Đông Âu, kể cả Việt Nam trước cuộc cải cách kinh tế năm 1990. Ở các nước này cơ sở kinh tế để xây dựng và hoàn thiện là chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, Nhà Nước chuyên chính vô sản không nhưng đóng vai trò điều hành chính trị mà còn khả năng điều tiết và quản lý toàn diện, trực tiếp các vấn đề kinh tế. ở đây Chính Phủ đã thực hiện khống chế trực tiếp những hoạt động kinh tế thông qua quá trình đưa ra những quyết định từ trung ương. Các mục tiêu cụ thể được định trước bởi các nhà kế hoạch ở trung ương đã tạo nên cơ sở cho một nền kinh tế quốc dân toàn diện và đầy đủ. Nguồn nhân lực vật lực chủ yếu và tài chính được phân phối không phải theo giá thị trường và các điều kiện cung cầu mà phân phối theo nhu cầu vật tư, lao động, vốn của kế hoạch tổng thể. Các nội dung trên khẳng định bản chất kế hoạch hóa trong nền kinh tế mệnh lệnh là kế hoạch hóa trực tiếp.
4) Kế hoạch hóa phát triển trong khuôn khổ nền kinh tế hỗn hợp của các nước thế giới thứ ba.
Đặc điểm của hầu hết các nền kinh tế này là sự tồn tại của một bối cảnh thể chế trong đó một phần nguồn lực sản xuất do tư nhân sở hữu và điều hành còn phần kia lại do nhà nước kiểm soát. Như vậy, có thể nhận biết hai thành phần của kế hoạch hóa trong nền kinh tế hỗn hợp là:
- Kế hoạch hóa trực tiếp: Điều này thể hiện ở việc chính phủ sử dụng có cân nhắc nguồn vốn trong và ngoài nước để thực hiện dự án đầu tư nhà nước và để huy động, chuyển các nguồn lực khan hiếm vào các lĩnh vực có thể mong đợi là đóng góp lớn nhất vào việc thực hiện mục tiêu kinh tế lâu dài.
- Kế hoạch hóa gián tiếp:Chính phủ các nước đang phát triển đưa ra các chính sách kinh tế để kích thích, hướng dẫn và trong một số truờng hợp còn kiểm soát hoạt động kinh tế tư nhân nhằm đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa nguyện vọng của doanh nghiệp tư nhân và mục tiêu chính phủ.
Như vậy kế hoạch hóa về mặt bản chất là giống nhau với mọi nền kinh tế. Nhưng nội dung và hình thức biểu hiện là khác nhau trong các phương thức sản xuất khác nhau. Cần phân biệt hai loại hình kế hoạch hóa sau đây:
- Thứ nhất: Kế hoạch hóa tâp trung. Đây là kế hoạch tập trung phân phối nguồn lực bằng hệ thống các quyết định của các cấp lãnh đạo, nó thể hiện ở tính chất pháp lệnh, tính hiện vật và tính cấp phát-giao nộp trong hệ thống chỉ tiêu và chỉ đạo công tác kế hoạch.
- Thứ hai: Kế hoạch hóa phát triển.Đây là sự tác động của chính phủ vào nền kinh tế vĩ mô thông qua việc thiết lập một cách chủ động mối quan hệ khả năng với mục đích nhằm đạt đuợc các mục tiêu đặt ra bằng việc sư dụng hiệu quả nguồn tiềm năng hiện có. Kế hoạch phát triển được xem là công nghệ của sự lựa chọn các hoạt động hợp lý và tối ưu. Trong đó chủ yếu là:
- Lựa chọn, sắp xếp nguồn lực khan hiếm.
- Đưa ra các định hướng phát triển.
- Xác định các cơ chế chính sách điều tiết vĩ mô.
Sự khác nhau cơ bản giữa kế hoạch hóa tập trung và kế hoạch hóa phát triển thể hiện: Một bên là tính cưỡng chế còn bên kia là tính thuyết phục. Với kế hoạch phát triển việc đặt ra kế hoạch nhằm xác định những mục tiêu chiến luợc có liên quan trực tiếp đến sự phát triển trong tương lai của nền kinh tế đất nước, mục tiêu của kế hoạch hóa phát triển chỉ là cố gắng ngăn chặn để cho nền kinh tế khỏi đi lạc với mục tiêu tăng trưởng ổn định bằng những công cụ chính sách năng động và gián tiếp thì kế họach hóa tập trung không chỉ tạo ra một loạt các mục tiêu cụ thể thể hiện quá trình phát triển kinh tế mong muốn mà còn cố gắng thực hiện kế hoạch của mình bằng việc khống chế trực tiếp những hoạt động trực tiếp của toàn bộ nền kinh tế.
Ở Việt Nam hiện nay đang hướng tới việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống kế hoạch phát triển. Tuy vậy, xuất phát từ tính chất quá độ của một nền kinh tế hỗn hợp nên trong nội dung của kế hoạch phát triển ở nước ta vẫn còn bao hàm dung lượng nhất định của kế hoạch hóa tập trung. Trên một mức độ nhất định tính chất pháp lệnh, tính chất phân bổ trực tiếp, khống chế cụ thể vẫn tồn tại. Trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường, dung lượng các vấn để trên sẽ giảm trong công tác kế hoạch hóa Việt Nam. Đó cũng chính là những yêu cầu đổi mới của công tác kế hoạch hóa.
II) Sự cần thiết của kế hoạch trong nền kinh tế thị trường
1) Sự cần thiết của kế hoạch trong nền kinh tế thị trường
1.1) Sự thất bại của thị trường
Vào những thập niên 70-80, hệ thống kinh tế kế hoạch hóa tập trung của nhiều nước đang phát triển có xu thế rơi vào giai đoạng khủng hoảng. Trước tình hình đó các nhá kịnh tế học phương tây bắt đầu công khai sử dụng cơ chế thị trường như một công cụ chủ yếu để nâng cao hiệu quả và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Lý luận và thực tiễn đã đưa ra những kết luận khách quan về những ưu thế và thất bại của thị trường.
Những thất bại sau đây là lý do tồn tại của kế hoạch hóa
- Những quyết định của thị trường không đem lại những kết quả tốt nhất khi có những khác nhau trong khả năng sinh lợi của xã hội và tư nhân. Trên thực tế khả năng sinh lợi của xã hội có thể nâng cao hơn hoặc thấp hơn khả năng sinh lời tư nhân do tác động của ngoại ứng.
- Sự tồn tại độc quyền và phát triển mạnh của độc quyền trong nền kinh tế phát triển. Một nhà độc quyền sẽ sản xuất ít hơn và đặt giá cao hơn các doanh nghiệp cạnh tranh.
- Thị trường tự do không đem lại mức tiết kiệm cao như xã hội mong muốn. Những thị trường hàng hóa và thị trường các yếu tố sản xuất được tổ chức sơ sài và sự tồn tại của giá cả bị xuyên tạc làm người sản xuất và người tiêu dùng thiếu những thông tin cần thiết để hành động sao cho sản xuất và phân phối có hiệu quả.
- Thất bại của thị trường trong việc đặt giá cho các nhân tố sản xuất dẫn đến những chênh lệch lớn trong việc đánh giá của xã hội và tư nhân đối với các dự án đầu tư.
Do đó nếu không có sự can thiệp của Chính Phủ thì thị trường bị xem là dẫn đến sự phân phối sai lầm những nguồn lực hiện tại và tương lai, hoặc là dẫn đến một cái gì đó không phù hợp với lợi ích xã hội lâu dài.
Như vậy sự tồn tại các khuyết tật thị trường đã đặt ra yêu cầu phải có sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế. Nhưng không phải tất cả sự can thiệp nào của chính phủ cũng giải quyết và khắc phục được các khuyết tất của thị trường. Vì vậy muốn bảo đảm tính hiệu qủa và tránh các hậu quả phụ của sự can thiệp Chính Phủ, điều quan trọng là phải có sự tổ chức tốt sự can thịệp của mình. Đó chính là kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường.
1.2) Huy động và phân bổ nguồn lực khan hiếm
Nguồn lực của nền kinh tế rất hạn chế, người ta không thể phí phạm những nguồn nhân lực lành nghề và nguồn tài chính hạn chế vào đầu tư sản xuất phi hiệu quả. Do đó dự án đầu tư phải được lựa chọn không những trên cơ sở phân tích năng xuất từng phần, mà còn tùy theo bối cảnh của một chương trình phát triển tổng thể và những mục tiêu lâu dài. Kế hoạch hóa là phương thức thích hợp để lựa chọn và phối hợp những dự án đẩu tư nhằm chuyển những nhân tố khan hiếm vào các lĩnh vực sản xuất có hiệu quả nhất.
Thị trường cạnh tranh tự do có xu hướng hạn chế đầu tư, chuyển đầu tư nhiều hơn sang lĩnh vực xã hội ít mong muốn, không tính đến những lợi nhuận phụ thêm có được từ một chương trình đầu tư dài hạn đã được điều phối có kế hoạch.
1.3) Thái độ, tâm lý của dân cư
Sự công bố cụ thể về những mục tiêu xã hội và kinh tế quốc gia dưới dạng một kế hoạch phát triển cụ thể có những ảnh hưởng quan trọng về thái độ hay tâm lý đối với dân cư.
Khi chính phủ có được những bản kế hoạch khả thi và hợp lý, sẽ động viên tốt hơn sự quan tâm và tham gia của các bộ phận khác nhau trong xã hội vào việc thực hiện mục tiêu chung của toàn nền kinh tế, nó có thể tập hợp dân chúng đằng sau chính phủ để tiến hành những chương trình quốc gia lớn. Bằng sự ủng hộ của quần chúng, Chính Phủ thông qua kế hoạch hóa huy động được tổng hợp nguồn lực của xã hội, yêu cầu mọi công dân cùng nhau làm việc để xây dựng đất nước.
Kế hoạch kinh tế được coi là công cụ tốt nhất để đảm bảo động lực cần thiết vượt qua những lực cản của chủ nghĩa bè phái và chủ nghĩa truyền thống trước một yêu cầu chung đòi hỏi tiến bộ xã hội và cuộc sống ấm no cho mọi người.
1.4) Viện trợ và thu hút đầu tư nước ngoài
Muốn huy động được vốn viện trợ nước ngoài, kể cả song phương và đa phương một cách có kết quả, chính phủ các nước thường phải có những kế hoạch phát triển rõ ràng với những mục tiêu cụ thể và những dự án đầu tư được xây dựng theo những tịêu thức quy định.
Với những kế hoạch của mình, các nước nhận viện trợ có cơ sở tốt hơn để thuyết phục những nhà tài trợ rằng số tiền vốn họ vay sẽ được sử dụng một cách có mục đích trong kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân.
Trong một chừng mực nhất định việc mô tả dự án tỷ mỉ và cụ thể trong khuôn khổ một kế hoạch phát triển toàn diện càng nhiều bao nhiêu thì mong muốn của các nước đang phát triển về việc tìm kiếm viện trợ nước ngoài bằng mọi giá cũng nhiều bấy nhiêu.
2)Vai trò và chức năng của kế hoạch trong nền kinh tế thị trường
Kế hoạch hoá phát triển là kế hoạch ở tầm vĩ mô, kế hoạch mang tính hướng dẫn và thể hiện dứới dạng các chính sách phát triển. Một kế hoạch như vậy sẽ phải thực hiện được các chức năng cơ bản sau đây:
2.1) Chức năng điều tiết, phối hợp, ổn định kinh tế vĩ mô
Trên phương diện kinh tế vĩ mô, hoạt động kế hoạch hóa phải hướng tới mục tiêu chính: Ổn định giá, bảo đảm công ăn việc làm, tăng trưởng và cân đối cán cân thanh toán quốc tế. Các mục tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau, sự thiên lệnh hay quá nhấn mạnh vào mục tiêu nào sẽ ảnh hưởng xấu đến việc đạt được mục tiêu khác và cuối cùng sẽ ảnh hưởng đến cân bằng tổng thể kinh tế. Chức năng này của kế hoạch hóa thể hiện ở:
- Hoạch định kế hoạch chung tổng thể của nền kinh tế, đưa ra và thực thi các chính sách cần thiết bảo đảm các cân đối kinh tế nhằm sử dụng tổng hợp nguồn lực, phát huy hiệu quả tổng thể kinh tế-xã hội, thúc đẩy tăng trưởng nhanh theo phương thức thống nhất, bảo đảm tính chất xã hội của các hoạt động kinh tế.
- Bảo đảm mồi trường kinh tế ổn định và cân đối. Tạo những điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật, xã hội, bảo vệ môi trường, tạo tiền đề hành lang pháp lý cho phát triển kinh tế lành mạnh.
- Bảo đảm sự công bằng xã hội giữa các vùng, các tầng lớp dân cư bằng kế hoạch sử dụng ngân sách và các chính sách điều tiết.
- Kế hoạch hóa còn thể hiện chức năng điều tiết nền kinh tế phù hợp với xu thế hội nhập, toàn cầu hóa ngày càng tăng. Để thực hiện chức năng này KHH phải xây dựng những chính sách chuyển giao công nghệ thuận lợi tìm ra được hướng “đi tắt đón đầu” giúp cho nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến khác
2.2) Định hướng phát triển kinh tế-xã hội
Đây là chức năng thể hiện bản chất của kế hoạch trong nền kinh tế thị trường và chính nó không làm cho công tác kế hoạch hóa không bị lu mờ trong cơ chế thị trường. Chức năng này thể hiện ở:
- Công tác kế hoạch hóa phải xây dựng được các chiến lược và quy hoạch phát triển toàn bộ nền kinh tế cũng như quy hoạch phát triển theo nghành, vùng lãnh thổ, xây dựng kế hoạch phát triển dài hạn. Kế hoạch đưa ra hệ thống mục tiêu phát triền vĩ mô về kinh tế-xã hội, xây dựng các dự án, các chương trình, tìm các giải pháp và phương án thực hiện, dự báo khả năng, phương hướng phát triển, xác định các cân đối lớn…nhằm thực hiện chức năng dẫn dắt, định hướng phát triển, xử lý kịp thời các mất cân đối xuất hiện trong nền kinh tế thị trường.
- Chức năng định hướng còn thể hiện ở việc chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tâp trung theo phương thức” giao nhận” với hệ thống chằng chịt các chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà Nước sang cơ chế kế hoạch hóa gián tiếp, định hướng phát triển. Các chỉ tiêu mà Nhà Nước cần giám sát và quản lý chủ yếu là những giá trị ở tầm vĩ mô và tất nhiên nó mang tình định hướng, không cứng nhắc và không áp đặt.
2.3) Kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế-xã hội
Nội dung chủ yếu của chức năng này bao gồm việc: Chính Phủ thông qua các cơ quan chức năng thường xuyên theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện các tiến độ kế hoạch, thực hiện và tuân thủ các cơ chế, thể chế, chính sách hiện hành áp dụng trong thời kỳ kế hoạch. Đánh giá kết quả của việc thực hiện các chính sách, các mục tiêu đặt ra. Phân tích hiệu quả tài chính, hiệu quả kinh tế-xã hội bảo đảm các luận cứ quan trọng cho việc xây dựng các kế hoạch của thời kỳ tiếp sau.
III) Sự khác biệt giữa kế hoạch hóa tập trung và kế hoạch hóa trong cơ chế thị trường
Vai trò và chức năng của hệ thống kế hoạch trong nền kinh tế thị trường được thể hiện rõ hơn khi so sánh với hệ thống kế hoạch trong nên kinh tế tập trung
Cơ chế KHH tập trung
Cơ chế thị trường
- KH mang tính chủ quan duy ý chí: xuất phát từ ý muốn chủ quan của nhà nước, không căn cứ vào tiềm lực thực tế và không gắn với nhu cầu thực sự của nền KTQD
- KH gắn với thị trường: định hướng sự phát triển dựa trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng (khả thi), nhận thức được qui luật (khoa học), nắm bắt được nhu cầu (thực tiễn), vì thế kế hoạch vững chắc hơn
KH thay thế cho thị trường, vì sự tồn tại của thị trường sẽ phá vỡ những cân đối cứng mà KH đã đề ra.
- KH bổ sung hỗ trợ cho thị trường: thị trường chỉ giải quyết vấn đề ngắn hạn, riêng lẻ, vì lợi ích cục bộ. KH có cái nhìn dài hạn, mang tính đón bắt, vì lợi ích chung, toàn cục.
- KH mang tính mệnh lệnh: giao chỉ tiêu và cấp phát nguồn lực, đồng thời chỉ định cả địa chỉ tiêu thụ.
- KH mang tính định hướng: Hoạt động như bộ khung làm cơ sở để hoạch định các chính sách đòn bẩy và các biện pháp gián tiếp để thực hiện định hướng
- KH thiếu tính linh hoạt: vì là pháp lệnh nên mang tính cứng nhắc, mọi sự điều chỉnh KH chỉ là hình thức.
- KH mang tính linh hoạt. Khi các điều kiện thị trường thay đổi thì KH cũng sẽ có sự điều chỉnh theo.
Phần II) Sự cần thiết phải đổi mới công tác kế hoạch hóa ở Việt Nam
Quá trình hơn 50 năm kế hoạch hóa ở nước ta có thể chia thành 2 thời kỳ lớn:
Thời kỳ đầu từ 1955-1985 là thời kỳ áp dụng cơ chế kế hoạch hóa pháp lệnh (cũng còn gọi là cơ chế kế hoạch hóa tập trung). Trong đó, từ:1955-1975 áp dụng cho miền Bắc và từ 1975-1985 mở rộng ra cả nước. Trong những năm cuối của thời kỳ này, cũng đã có một số đổi mới, nhưng về cơ bản, vẫn là kế hoạch hóa pháp lệnh. Phải đến thời kỳ từ năm 1986 đến nay, sau đại hội lần thứ VI của Đảng khẳng định đường lối đổi mới, công tác kế hoạch hóa mới thực sự được từng bước đổi mới theo cơ chế thị trường
I) Cơ chế kế hoạch hóa tập trung ở Việt Nam
Trong thời kỳ 1955 đến 1985 Cơ chế kế hoạch hóa pháp lệnh đã quán triệt đường lối cải tạo, xây dựng và phát triển kinh tế với ý nghĩa kế hoạch là cương lĩnh thứ hai của Đảng. Nó có những đặc điểm sau:
- Kế hoạch hóa phân bổ nguồn lực phát triển cho các mục tiêu đối với hai thành phần kinh tế cơ bản là quốc doanh và tập thể.
- Cơ chế kế hoạch hóa tâp trung theo phương thức “giao-nhận” với hệ thống chằng chịt các chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà Nướ, giao đến tận các cơ sở kinh doanh theo cách bao cấp cả “đầu vào” lẫn “đầu ra” trong quá trình sản xuất kinh doanh.
- Cơ chế kế hoạch hóa mang nặng tính chất hiện vật và mang nặng tính khép kín trong từng ngành, từng vùng lãnh thổ.
Với cơ chế này, chúng ta đã thực hiện thành công các mục tiêu khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế xã hội sau 1954, thực hiện có kết qủa mục tiêu phát triển kinh tế và kháng chiến chống Mỹ dành thắng lợi mùa xuân năm 1975, hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Tuy vậy, sau năm 1975, tình hình kinh tế-xã hội của đất nước có nhiều thay đổi. Chính từ yêu cầu của vấn đề sản xuất, đời sống và hiệu quả kinh tế đã nảy sinh những dấu hiệu đổi mới của công tác kế hoạch hóa vào những năm đầu thập niên 80.
II) Đổi mới cơ chế kinh tế ở Việt Nam
1) Đường lối đổi mới kinh tế
Nhận thức những mặt hạn chế của cơ chế cũ Đại hội đảng lần thứ VI (12-1986) đã xác định đường lối đổi mới kinh tế với nội dung cơ bản: phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà Nước quản lý nền kinh tế nhằm định hướng dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế, đảm bảo sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội.
Công tác kế hoạch hóa trong nền kinh tế chuyển đổi như vậy không thể là kế hoạch hóa tập trung mệnh lệnh mà nó phải được chuyển đổi sang một mô hình mới với những nét đặc trưng sau đây:
- Một là chuyền từ cơ chế kế hoạch hóa phân bổ nguồn lực sang cơ chế kế hoạch hóa khai thác nguồn lực phát triển và định hướng sử dụng các nguồn lực đó theo mục tiêu đối với tất cả thành phần kinh tế.
- Chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa pháp lệnh, trực tiếp sang cơ chế, chính sách phù hợp và khuyến khích nhằm đạt được mục tiêu.
- Chuyển từ kế hoạch hóa mang tính khép kín trong từng ngành, vùng, lãnh thổ sang cơ chế kế hoạch hóa theo chương trình mục tiêu với sự kết hợp hải hòa giữa các nghành, các vùng, cả bên trong và bên ngoài theo hướng tối ưu hóa và hiệu quả các hoạt động kinh tế-xã hội.
Một kế hoạch hóa với các đặc trưng như vậy phải là kế hoạch hóa định hướng và kế hoạch hóa dưới dạng các chính sách, nó bao gồm một hệ thống cả chiến lược phát triển, quy hoạch phát triển, kế hoạch phát triển, chương trình phát triển và bao trùm tất cả các thành phần kinh tế.
2) Đổi mới công tác kế hoạch hóa trong thời gian qua
Nhà Nước ta đã có chương trình, dự án đầu tư của Chính Phủ bảo đảm điều kiện thực hiện các mục tiêu lớn, đi đôi với sử dụng chính sách đòn bẩy kinh tế là chính để hướng dẫn và hỗ trợ các ngành, các địa phương và cơ sở phát triển theo định hướng kế hoạch.
Kế hoạch hóa đã chuyển dần từ kế hoạch pháp lệnh sang kế hoạch định hướng với việc tập trung nỗ lực xây dựng chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng quy hoạch phát triển. Việc tăng cường nghiên cứu xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển tạo cơ sở khoa học và thực tiễn cho công tác kế hoạch hóa trung hạn và kế hoạch hóa hàng năm. Được biểu hiện thông qua chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội thời kỳ 1991-2000, với trọng tâm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là sự mở đầu giai đoạn áp dụng phối hợp chiến lược với quy hoạch, giữa quy hoạch và kế hoạch trung hạn và ngắn hạn trong hệ thống kế hoạch hóa.
Công tác quy hoạch đã có những cố gắng và chuyển biến bước đầu. Gắn được mục tiêu chiến lược vào nội dung quy hoạch, xác định được tiềm năng, định hướng phát triển cho từng vùng, từng địa phương. Tài liệu quy hoạch bước đầu đã giúp các cấp lãnh đạo ở trung ương, địa phương xác định mục tiêu, nhiệm vụ và tăng cường sự chỉ đạo phát triển kinh tế-xã hộ ở từng địa phương cũng như cả nước.
Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và quy hoạch phát triển, các kế hoạch 5 năm đã được xây dựng với những thay đổi lớn về phương pháp và nội dung: Tăng cường kế hoạch hóa kinh tế vĩ mô, từng bước xóa bỏ kế hoạch hóa mệnh lệnh và giảm đến mức tối thiểu các chỉ tiêu pháp lệnh, chuyển sang kế hoạch hóa định hướng, chú ý hơn các chỉ tiêu trên các lĩnh vực xã hội, khoa học, công nghệ, đã có nhiều cố gắng xây dựng và điều hành, đảm bảo cân đối lớn trong kế hoạch giá trị, xây dựng và thực hiện chương trình và dự án quốc gia, chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Kế hoạch hàng năm đã chú trọng đến những cân đối lớn, đặc biệt là cân đối tài chính-tiền tệ, cân đối cán cân thanh toán quốc tế, cân đối vốn đầu tư toàn xã hội.
Thực tế nói trên chứng tỏ ý tưởng chuyển dần việc điều hành kế hoạch từ can thiệp vi mô sang chú trọng các vấn đề vĩ mô, các cân đối lớn ngày càng thể hiện rõ và phát huy hiệu lực kinh tế.
3) Những tồn tại của công tác đổi mới kế hoạch trong thời gian qua
3.1) Về lý luận và phương pháp luận cho việc đổi mới công tác kế hoạch hóa.
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, chúng ta chưa xây dựng được một cơ sở lý luận và phương pháp luận về kế hoạch hóa phù hợp với thực tế đổi mới của đất nước, do vậy không khỏi lúng túng khi thiết kế nội dung kế hoạch cũng như phương thức điều hành kế hoạch.
Cho đến nay vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau về vai trò của Nhà Nước trong quản lý kinh tế. Nhà Nước cần làm gì, đến đâu, như thế nào, đều là những vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau. Vai trò của nhà nước vói tư cách là người điều tiết vĩ mô nền kinh tế nhiều khi bị nhầm lẫn với vai trò Nhà Nước là chủ đầu tư làm cho nội dung kế hoạch còn nặng về phân bổ đầu tư Nhà Nước mà chưa coi trọng đúng mức việc vận dụng chính sách để huy động các nguồn lực khác. Kế hoạch hóa vì thế chưa bao quát, chưa phát huy hiệu lực đầy đủ đối với tổng thể nền kinh tế.
3.2) Về công tác kế hoach hóa
Quá trình đổi mới kinh tế trong thời gian qua đã giảm bớt sự bao cấp trong nền kinh tế, đặc biệt là bao cấp qua ngân sách, song một số hình thức bao cấp khác lại xuất hiện ở những lĩnh vực như: khoanh nợ, xóa nợ, cấp đất…
Các thông tin kinh tế xã hội không chính xác, thiếu ăn khớp và không đựợc phân tích đầy đủ trong quá trình xây dựng kế hoạch đã làm cho nội dung kế hoạch nhiều khi không phù hợp với thực tế.Mục tiêu kế hoạch vừa nhiều, vừa cao hơn khả năng có thể đảm đương cả về năng lực thực hiện lẫn năng lực vật chất.
Kế hoạch không chỉ chịu ảnh hưởng của cơ quan trong hệ thống kế hoạch mà còn chịu sự tác động của nhiều tổ chức khác ngoài hệ thống kế hoạch, điều đó làm cho kế hoạch, đặc biệt kế hoạch đầu tư càng bị phân tán hơn. Bên cạnh đó kế hoạch còn phải thông qua quá nhiều cấp nên thường có xu thế “chia đều”, làm giảm hiệu quả
Công tác kế hoạch chỉ được quan tâm nhiều ở cấp trung ương, trong khi bộ máy kế hoạch lại không đủ khả năng có được hệ thống thông tin giám sát ở mọi cấp từ cơ sở, do vậy việc thực hiện nhiều khi diễn ra sai lệch với ý đồ của kế hoạch.
Trong quá trình xây dựng Kế Hoạch, phần nghiên cứu cơ chế chính sách còn chưa thật tương xứng, chưa cụ thể hoá được chiến lược, chưa bao quát được các thành phần kinh tế, chưa chú ý đúng mức đến tính đặc thù ở từng địa phương. Nhiều vấn đề trong chính sách vĩ mô còn chưa xác định rõ và nhất quán, các chính sách đòn bẩy còn kém hiệu lực. Cách thức thực hiện chính sách vẫn mang nặng tính can thiệp hành chính, áp đặt, mà chưa chú trọng vận dụng cơ chế thị trường để thiết kế và thực hiện chính sách.
Phần III)Đổi mới công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam trong thời gian tới
I) Định hướng đổi mới kế hoạch hoá
1)Kế hoạch hoá trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước quản lý thị trường bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách, các công cụ đòn bẩy kinh tế và bằng nguồn lực cuả khu vực kinh tế nhà nước. Để làm được việc đó, cần tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của nhà nước.
Nhà nước một mặt phải xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mặt khác phải hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường, xây dựng và hoàn thiện các công cụ pháp luật, kế hoạch, các thiết kế tài chính, tiền tệ và những phương tiện về vật chất và tổ chức cẩn thiết cho sự quản lý của mình, tạo điểu kiện cho cơ chế thị trường hoạt động hữu hiệu.
Thị trường hướng dẫn trực tiếp các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh. Kế hoạch kinh tế vĩ mô của Nhà Nước chỉ mang tính định hướng. Cần xác định rõ mục tiêu, xác định rõ mức độ và cách thức mà khu vực kinh tế nhà nước thực hiện để góp phần váo việc thực hiện mục tiêu đã định. Đối với các thành phần kinh tế khác, kế hoạch không có tính áp đặt, mà thông qua các biện pháp chính sách thống nhất với lợi ích của doanh nghiệp để khuyến khích họ tự nguyện hành động theo hướng mục tiêu kế hoạch đã đặt ra.
Như vậy đổi mới kế hoạch hóa phải ăn khớp với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nói chung, phù hợp với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc sử dụng công cụ kế hoạch hóa phải phù hợp với cơ chế thị trường, phải đảm bảo phân định giữa quản lý Nhà Nước và quản lý kinh doanh ở các doanh nghiệp Nhà Nước. Công tác điều hành kế hoạch phải được thực hiện thông qua những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô là chủ yếu, phối hợp sử dụng những biện pháp gián tiếp và biện pháp trực tiếp.
2) Kế hoạch hoá trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, và hội nhập quốc tế.
Nhân tố quyết định thành công và hiệu quả của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là khoa học và công nghệ. Kết quả của tiến trình hội nhập phụ thuộc rất nhiều vào sức cạnh tranh của nền kinh tế, mà yếu tố quan nhất để đảm bảo sức cạnh tranh lâu dài là công nghệ.. Chính vì lý do này mà nội dung đổi mới kế hoạch hóa cẩn đặc biệt chú trọng vấn đề đổi mới công nghệ.
Tốc độ phát triển công nghệ ngày càng cao, số lượng sản phẩm mới, công nghệ mới ngày càng nhiều đã đặt ra một nhiệm vụ quan trọng cho công tác kế hoạch hóa là phải xây dựng những chính sách chuyển giao công nghệ thuận lợi, tìm ra được hướng “đi tắt, đón đầu” giúp cho nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến.
Trong tình hình ngân sách còn khó khăn, một biện pháp hữu hiệu cho vấn đề này là khuyến khích chuyển giao công nghệ thông qua đầu tư nước ngoài. Trong những năm vừa qua, đa số các dự án đầu tư nước ngoài hướng chủ yếu vào thị trường nội địa với công nghệ ở mức trung bình, chưa góp phần làm tăng rõ rệt sức cạnh tranh trong những năm tới cần hướng tới những chính sách ưu tiên hơn nữa cho việc chuyển giao công nghệ và khuyến khích mạnh hơn các nhà đầu tư trong và ngoài nước áp dụng những công nghệ tiên tiến thông qua những biện pháp như hình thành các khu công nghệ cao, hỗ trợ bằng chính sách thuế, hỗ trợ cho trung tâm tư vấn chuyển giao công nghệ, hình thành các quỹ hỗ trợ công nghệ, quỹ hỗ trợ xuất khẩu…
Kế hoạch hóa phải đóng vai trò quan trọng trong điều tiết nền kinh tế phù hợp với xu thế hội nhập, toàn cầu hóa đang ngày càng gia tăng đối với nền kinh tế Việt Nam. Trong thời gian trước mắt, việc hình thành những chính sách kinh tế để ứng phó với cuộc khủng hoảng trong khu vực là một nhiệm vụ cấp bách trong công tác kế hoạch hóa.
Cân bằng cán cân thanh tóan là một trong bốn mục t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0112.doc