Lời nói đầu
Khủng hoảng kinh tế Việt Nam vào những năm cuối thập kỷ 80, sự khẳng định chỗđứng của trường phái phi tập trung vào thập kỷ 80 với những thành công của một số nước trong việc cải tổ nền kinh tế, đặc biệt là Hàn Quốc. Đài Loan và Trung Quốc đã thúc đẩy cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng XHCN. Hệ thống tiền tệ- tài chính buộc phải có những cải tổ toàn diện để thực hiện sứ mạng là huyết mạch, là tr
45 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1283 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đổi mới cơ chế điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ung tâm tiền tệ tín dụng, thanh toán của nền kinh tế hàng hoá. Muốn vậy, giá trị của tiền tệ phải ổn định. Điều đó, đến lượt nó, đòi hỏi phải có một cơ chế lãi suất thích hợp.
Nhận thức rõ vấn đề, Đảng và Nhà nứơc mà đại diện là NHNN đã liên tục có những điều chỉnh cơ chế lãi suất. Vậy tại sao NHNN lại điều tiết cơ chế lãi suất như vậy?. Xuất phát từ nhận định trên em đã quyết định lựa chọn đề tài “Đổi mới cơ chế điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế” vì hai lí do:
Thứ nhất, trong lý tuyết kinh tế, lãi suất được coi là một công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua tác động điều chỉnh các mối quan hệ trên thị trường tài chính tiền tệ. Vì vậy, muốn ổn định thị trường tài chính tiền tệ, tạo điều kiện ổn định môi trường kinh tế vĩ mô không thể không đề cập đến vai trò của chính sách lãi suất trong hệ thống chính sách tài chính tiền tệ quốc gia.
Thứ hai, Chính sách lãi suất là đầu mối tập trung các quan hệ kinh tế, phản ánh chân thực và tác động trực tiếp đến lợi ích của mọi chủ thể kinh tế. Vì vậy, để huy động được nguồn vốn đầu tư phục vụ quá trình phát triển kinh tế thì chính sách lãi suất cũng giữ một vai trò hết sức quan trọng.
Bởi vậy mức lãi suất và sự vận động của nó thực sự trở thành một biến số kinh tế to lớn. Sự thay đổi của lãi suất mang theo sự thay đổi vận tốc cung ứng tiền tệ, tiếp theo đó là tổng cầu và giá cả. Vì thế, lãi suất trở thành “con bài” chủ đạo trong việc điều tiết, định hướng và phát triển kinh tế của một quốc gia. Xét về mặt vi mô, nó ảnh hưởng đến các doanh nghiệp, hộ gia đình và từng cá nhân trong việc sử dụng tài sản, vốn của họ.
Đề tài nghiên cứu nhằm đạt đến các mục đích sau đây:
.Làm rõ cơ sở lý luận ứng dụng lãi suất của nền kinh tế thị trường vào hoàn cảnh ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
.Xem xét trên bình diện vĩ mô về thực trạng xây dựng và điều hành chính sách lãi suất trong thời gian qua ở nước ta.
.Kiến giải về những định hướng hoàn thiện chính sách lãi suất nhằm tiếp tục đổi mới hoạt động của hệ thống ngân hàng nước ta.
Đề án “Đổi mổi cơ chế điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế” gồm 3 chương.
Chương I: Những cơ sở lý luận chung về lãi suất
Chương II: Quá trình đổi mới chính sách lãi suất của NHNN Việt nam trong quá trình hội nhập kinh tế
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm điều hành có hiệu quả chính sách lãi suất ở Việt Nam trong thời gian tới
Trong quá trình thực hiện đề án vì thời gian, tài liệu và trình độ nghiên cứu còn nhiều hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy, cô giáo và các bạn sinh viên
Em xin chân thành cảm ơn Thầy Đặng Ngọc Đức đã giúp em hoànthành đề án này.
Chương I: Những cơ sở lí luận chung về lãi suất
I. Nguồn gốc và bản chất của lợi tức.
Trong xã hội luôn tồn tại những người có vốn tiền tệ nhàn rỗi nhưng chưa có nhu cầu tiêu dùng, đầu tư song họ có thể cho người khác vay sử dụng số vốn này. tất nhiên họ vẫn là người sở hữu số vốn này. Những người đi vay sau khi chấp nhận một cơ chế nào đó của người cho vay đặt ra, thì họ được vay vốn. Người đi vay có toàn quyền sử dụng số vốn này trong thời gian đã thoả thuận. tuy nhiên họ không phải là người sở hữu số vốn trên. Như vậy, trong quan hệ tín dụng, quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn đã tách rời với nhau. Do đó để đảm bảo an toàn vốn của mình, người cho vay phải “ràng buộc” người đi vay bằng những cơ chế tín dụng hết sức nghiêm ngặt.
Người đi vay sử dụng vốn vào mục đích kinh doanh-sản suất, lợi nhuận được tạo ra trong quá trình này tất yếu được phân chia theo một tỷ lệ thoả đáng giữa ngươì đi vay và người cho vay, tương ứng với nguồn vốn bỏ vào sản suất kinh doanh. Phần lợi nhuận dành cho người cho vay được gọi là lợi tức.
Như vậy về bản chất, lợi tức là một phần của lợi nhuận được tạo ra trong quá trình sản suất mà người đi vay phải nhượng lại cho người cho vay theo tỷ lệ vốn đã được sử dụng.
Về số lượng lợi tức được xem xét từ hai phía:
* Về phía người đi vay, lợi tức là số tiền ngoài phần vốn, mà người đi vay phải trả cho người cho vay sau một thời gian sử dụng tiền vay
* Về phía người cho vay, lợi tức là khoản chênh lệch tăng thêm giữa số tiền thu về và số tiền phát ra ban đầu, mà người sở hữu vốn thu được sau một thời gian cho vay nhất định.
Trên thực tế, nếu chỉ xem xét về số lượng, thì lợi tức chưa phản ánh được hiệu quả của số vốn cho vay phát ra. Vì vậy, trong kinh doanh tiền tệ, lợi tức luôn luôn được so sánh với số vốn cho vay để xác định khả năng sinh lời của từng loại vốn cho vay trên thị trường. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả này chính là lãi suất tín dụng.
II. Khái niệm về lãi suất tín dụng.
Một trong những đặc trưng của tín dụng là sau một thời gian nhất định người sử dụng phải hoàn trả cho người chuyển nhượng một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Phần giá trị lớn hơn chính là lợi tức tín dụng. Lợi tức tín dụng chính là phần người đi vay phải trả cho người cho vay. Lợi tức tín dụng được coi như là một hình thái bí ẩn của giá cả vốn vay, vì nó phải trả cho giá trị sử dụng của vốn vay (đó chính là khả năng đầu tư sinh lời hoặc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng). Lợi tức tín dụng cũng biến động theo quan hệ cung cầu trên thị trờng vốn như giá cả hàng hoá thông thường. Nhưng lợi tức tín dụng chỉ là hình thái bí ẩn của giá cả vốn vay mà theo mức đó là hình thái giá cả phi lý, vì nó chỉ phải trả cho giá trị sử dụng mà không phải là quyền sở hữu cũng không phải quyền sử dụng vĩnh viễn mà chỉ là trong một thời gian nhất định hơn nữa lợi tức tín dụng cũng không phải là biểu hiện bằng tiền của giá trị vốn vay như giá cả hàng hoá thông thường mà nó độc lập tương đối hay nhỏ hơn nhiều so với giá trị vốn vay. Lợi tức tín dụng là số tuyệt đối nên để biểu hiện một cách tổng quát về lợi tức tín dụng người ta sử dụng chỉ tiêu tương đối là lãi suất tín dụng.
Lãi suất tín dụng là tỷ lệ %giữa số tiền mà người đi vay phải trả cho người cho vay (lợi tức) trên tổng số tiền vay sau một thời gian nhất định sử dụng số tiền vay đó.
III. Nguyên tắc xác định lãi suất.
Những nguyên tắc xác định lãi suất hình thành theo cơ chế thị trường:
1. Căn cứ vào quan hệ cung-cầu tiền vay.
* Cung tiền vay chịu tác động của các yếu tố:
+ Mức thu nhập: Sự gia tăng thu nhập trong nền kinh tế sẽ làm tăng các khoản tiền dư thừa ngoài chi tiêu dẫn đến sự tăng lên của cung tiền vay qua đó kéo lãi suất hạ xuống.
+ Mức lạm phát: Sự gia tăng lạm phát làm cho giá trị thực tế của các khoản tiền giảm xuống làm cho giá trị các khoản tiền thu về khi cho vay giảm, cung tiền giảm, đẩy lãi suất tăng lên.
+ Mức rủi ro của việc cho vay: Khi mức rủi ro trong cho vay tăng lên, làm giảm bớt việc cho vay, cung về tiền vay giảm đẩy lãi suất lên cao.
*Những yếu tố tác động đến cầu tiền vay:
+ Mức lợi tức dự tính của các cơ hội đầu tư: Khi mức lợi tức này tăng làm tăng nhu cầu về vốn đầu tư, cầu tiền vay tăng đẩy lãi lên suất lên cao.
+Mức lạm phát: Sự gia tăng lạm phát làm giảm chi phí thực tế của việc sử dụng tiền vay, cầu về tiền vay tăng đẩy lãi suất lên cao.
+Mức bội chi ngân sách nhà nước: Ngân sách nhà nước bội chi làm tăng cầu tiền vay dẫn đến lãi suất tăng.
Khi cung tiền vay nhỏ hơn cầu tiền vay thì lãi suất tăng và ngược lại. Khi cung tiền vay bằng cầu tiền vay thì lãi suất ổn định.
2. Căn cứ vào thời hạn cho vay.
Lãi suất tín dụng dài hạn
Lãi suất tín dụng trung hạn
Lãi suất tín dụng ngăn hạn
3. Căn cứ vào cơ chế lãi suất dương.
Tỷ lệ lạm phát bình quân
<
Lãi suất huy động bình quân
<
Lãi suất cho vay bình quân
<
Tỷ lệ lợi nhuận bình quân
IV. Phân loại lãi suất tín dụng.
Tuỳ theo mục đích sử dụng mà ta có thể phân loại lãi suất tín dụng theo nhiều cách khác nhau, chẳng hạn như:
1. Phân loại theo giá trị.
-Lãi suất danh nghĩa: Là lãi suất mà ngời cho vay đợc hởng,không tính đến sự biến động của giá trị tiền tệ
-Lãi suất thực: Là lãi suất sau khi đã loại trừ sự biến động của giá trị tiền tệ, như lạm phát hoặc lên giá tiền tệ.
2. Phân loại theo góc độ điều tiết vốn.
-Lãi suất tái chiết khấu: Là lãi suất cho vay ngắn hạn mà NHTƯ dành cho các NHTM, trong trường hợp cấp vốn cho chúng thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá.
-Lãi suất danh nghĩa: Là lãi suất mà ngời cho vay đợc hởng,không tính đến sự biến động của giá trị tiền tệ
-Lãi suất thực: Là lãi suất sau suất tái chiết khấu là lãi suất của các NHTM để từ đó chúng ấn định lãi suất chiết khấu và lãi suất cho vay khác trong khung lãi suất được phép.
-Lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng: Là lãi suất mua bán vốn giữa các NHTM do NHTƯ điều hành và ấn định.
3. Phân loại theo hình thức thanh toán.
-Lãi suất trả trước: Là loai lãi suất mà người đi vay phải trả cho người cho vay trước khi sử dụng tiền vay.
-Lãi suất trả sau, cùng với vốn: Hình thức này còn được gọi là cho vay đơn. Trong trường hợp này người đi vay được ngân hàng (hoặc người cho vay) cho vay một số tiền nhất định gọi là vốn gốc, người đi vay phải cam kết trả lại cho người cho vay đủ vốn kèm theo một số tiền lãi nhất định.
-Lãi suất trả dần cùng với vốn: Hình thức này còn được gọi là cho vay hoàn trả cố định. Hình thức này đòi hỏi người đi vay phải trả nợ dần (cả vốn lẫn lãi) theo định kỳ đều đặn (tháng, quý, năm).
Ngoài các hình thức phân loại trên còn có rất nhiều hình thức phân loại khác song đại bộ phận chúng đều do NHTƯ kiểm soát và khống chế. Xu hướng chung sẽ tiến tới một lãi suất phổ thông đơn giản. Hiện nay, ở các nước chậm phát triển lãi suất tín dụng còn cao. Còn ở các nước có nền kinh tế phát triển lãi suất thường hạ. Ngày nay do sự hội nhập kinh tế giữa các quốc gia, cho nên mặt bằng lãi suất có cơ hội được thiết lập giữa nhiều nước trong khu vực và nhiều nước trên thế giới.
V. Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng.
1. Lượng cung, cầu vốn vay.
Lí thuyết vốn có thể cho vay là sự đơn giản hoá một vấn đề phức tạp. Mọi sự thay đổi về các điều kiện cung và cầu vốn đều tác động đến lãi suất. Chẳng hạn như: tăng tiết kiệm sẽ dẫn đến tăng cung vốn nhiều hơn, và nếu cầu vốn không thay đổi để cân bằng được cung cầu, thì nó sẽ đẩy đường cung dịch về bên phải và thiết lập một lãi suất thấp hơn. Ngược lại, sự tăng cầu vốn mà không tương ứng với sự tăng cung vốn, thì sẽ làm đường cầu dịch về bên phải và thiết lập một lãi suất cao hơn.
2. Thời hạn hoàn trả vốn.
Nói chung, thời hạn hoàn trả tiền vay càng dài, ngân hàng sẽ yêu cầu lãi suất càng cao. Lí do là ngân hàng sẽ gặp tình hình rủi ro lớn hơn trong những thay đổi thực trạng tài chính của doanh nghiệp trong tương lai và thời gian cho vay càng dài, tài sản thế chấp càng có thể bị sút giảm tới mức mà giá trị của nó sẽ không còn đủ để đảm bảo cho số dư tiền vay. Giả sử rằng một thiết bị có vòng đời là 6 năm, chệnh lệch tài sản thế chấp sẽ dễ chấp nhận khi khoản vay có thời hạn 3 năm hơn là khoản vay có thời hạn 5 năm và điều này sẽ được xem xét khi ngân hàng tính mức lãi suất áp dụng cho khoản vay.
3. Khả năng sinh lợi dự tính của các cơ hội đầu tư.
Càng có nhiều cơ hội đầu tư sinh lợi mà một doanh nghiệp dự tính có thể làm thì doanh nghiệp sẽ càng có nhiều ý định vay vốn và tăng số dư vay nợ nhằm tài trợ cho các cuộc đầu tư này. Khi nền kinh tế đang phát triển nhanh có rất nhiều cơ hội đầu tư được trông đợi là sinh lợi, do đó lượng cầu tiền cho vay ở mỗi giá trị lãi suất tăng lên.
4. Chi phí hoạt động ngân hàng.
Vì lãi suất cho vay = lãi suất huy động + chi phí hoạt động ngân hàng. Do đó chi phí hoạt động ngân hàng cao sẽ đẩy lãi suất tăng và chi phí hoạt động giảm sẽ làm lãi suất giảm.
Như vậy để duy trì mức lãi suất vừa phải, thúc đẩy nhu cầu vay vốn thì các ngân hàng cần tích cực giảm chi phí hoạt động cũng như thu hẹp các bộ phận cán bộ dư thừa hay cán bộ kém năng lực, tiết kiệm chi phí để giảm lãi suất cho vay.
5. Hoạt động thu, chi ngân sách Nhà nước.
Ngân sách Nhà nước vừa là nguồn cung tiền gửi vừa là nguồn cầu tiền vay đối với ngân hàng. Do đó, sự thay đổi giữa thu, chi ngân sách nhà nước là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất. Ngân sách bội chi hay thu không kịp tiến độ sẽ dẫn đến lãi suất tăng. Để bù đắp, chính phủ sẽ vay dân bằng cách phát hành trái phiếu. Như vậy lượng tiền trong dân chúng sẽ bị thu hẹp làm tăng lãi suất.
Ngoài ra khi thâm hụt ngân sách đã trực tiếp làm cầu về quỹ cho vay trong các định chế tài chính tăng lên, trong khi cung lại giảm và nâng cao lãi suất hoặc người dân dự đoán lạm phát sẽ tăng cao do Nhà nước tăng khối lượng cung ứng tiền tệ, dẫn tới việc găm tiền lại để mua tài sản khác làm cung quỹ cho vay bị giảm một cách tương ứng và lãi suất tăng lên.
Trường hợp bội thu ngân sách sẽ dẫn đến lãi suất giảm do sự vận động ngược lại với trường hợp bội chi ngân sách.
6. Tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước khác. Tỷ giá do quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như giá cả, thuế… Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay làm cho không một quốc gia nào, nếu muốn tồn tại và phát triển, lại không tham gia thực hiện phân công lao động và thương mại quốc tế. Thông qua quá trình trao đổi buôn bán giữa các nước tỷ giá hối đoái đã tác động đến lãi suất trong nước. Khi đồng nội tệ bị giảm giá, nghĩa là tỷ giá hối đoái giảm, xuất khẩu tăng lên nguồn thu ngoại tệ tăng lên. Điều đó làm tăng cung ngoại tệ, tương đương với việc tăng cầu nội tệ kết quả là lãi suất tăng lên.
Bằng cách lập luận tương tự, chúng ta sẽ thu được một mức lãi suất nội tệ thấp hơn nếu tỷ giá hối đoái tăng lên, đồng nội tệ có giá hơn. Tóm lại, khi mức giá của đồng tiền một nước so với các nước khác giảm xuống thì một ước đoán hợp lý là lãi suất trong nước sẽ tăng lên và ngược lại.
7. Lạm phát dự tính.
Như ta đã biết, chi phí thực của việc vay tiền được đo một cách chính xác hơn bằng lãi suất thực là lãi suất danh nghĩa trừ đi lạm phát dự tính. Do đó một lãi suất cho trước, khi lạm phát dự tính tăng lên, chi phí thực hiện việc vay tiền giảm xuống nên cầu tiền vay tăng lên. Mặt khác khi lạm phát dự tính tăng lên thì lợi tức dự tính của những khoản tiền gửi giảm xuống. Những người cho vay lập tức chuyển vốn tiền tệ vào một thị trường khác như thị trường bất động sản hay dự trữ hàng hoá, vàng bạc… Kết quả lượng cung tư bản cho vay giảm đối với bất kỳ lãi suất nào cho trước. Như vậy một sự thay đổi về lạm phát dự tính sẽ tác động đến cung cầu tư bản cho vay. Cụ thể, tăng lạm phát dự tính sẽ làm tăng lãi suất do giảm lượng cung ứng và tăng cầu về tư bản.
8. Thị trường vốn quốc tế.
Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới hiện nay, vốn được luân chuyển trên phạm vi quốc tế. Vì vậy lãi suất trên thị trường tiền tệ của một quốc gia cũng chịu tác động của thị trường vốn khu vực và thế giới.
Trước hết thị trường vốn quốc tế quyết định lãi suất thực quốc tế rw. Sau đó lãi suất thực quốc tế lại ảnh hưởng gián tiếp đến lãi suất thực tại các nước theo từng quy mô của nền kinh tế mở:
Đối với nền kinh tế quy mô nhỏ: Lãi suất thực nội địa phải cao hơn lãi suất thực thế giới nếu muốn thu hút đầu tư quốc tế và ngăn cản người gửu tiết kiệm trong nước đầu tư vốn ra nước ngoài.
Đối với nền kinh tế mở quy mô lớn: Mức độ ảnh hưởng lãi suất quốc tế đến lãi suất thực trong nước không lớn bằng tác động ngược lại của sự thay đổi lãi suất do thay đổi tiết kiệm và đầu tư của nước đó đến lãi suất thực quốc tế do tiềm lực hùng mạnh hợp sát thực để có những quyết định đúng đắn đem lại lợi ích cho người đi vay cũng như đảm bảo quyền lợi của người cho vay, bảo toàn đồng vốn và đảm bảo cho các NHTM, tổ chức tín dụng kinh doanh có lãi và cao hơn nữa là ổn định giá trị đồng tiền, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. về tài chính.
Lãi suất tín dụng chịu tác động của rất nhiều yếu tố cho nên để xây dựng một chính sách lãi suất hợp lý, các nhà quản lý, các cơ quan chức năng có liên quan phải có một cách nhìn nhận tổng thể các yếu tố đó
VI. Vai trò của lãi suất tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
Lãi suất tín dụng là một trong những đòn bẩy kinh tế quan trọng của nền kinh tế thị trường. Nó tác động đến tất cả các doanh nghiệp có sử dụng vốn tín dụng nói riêng và do đó đến tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân nói chung. Tác dụng của lãi suất được thể hiện ở những nội dung sau đây:
1. Lãi suất tín dụng là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô.
Tăng hay giảm lãi suất cho vay, sẽ làm vốn của doanh nghiệp giảm xuống hay tăng lên. Như vậy quyết định đến việc thu hẹp hay mở rộng sản suất. Tình trạng này sẽ dẫn đến số lượng công việc làm trong xã hội tăng lên hay giảm xuống. Điều đó có nghĩa rằng, lãi suất tín dụng đã có ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải quyết tình trạng thất nghiệp trong xã hội
Mặt khác, tăng hay giảm lãi suất tiền gửi, đặc biệt là lãi suất tái chiết khấu sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng ngoại tệ đi vào trong nước .do đó sẽ ảnh hưởng đến cung cầu ngoại tệ dẫn đến sự thay đổi tỷ giá và quan hệ xuất nhập khẩu trong từng thời kỳ.
Như vậy, có thể khẳng định lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô.
2. Lãi suất tín dụng là công cụ điều chỉnh kinh tế vi mô.
Trong nền kinh tế, thường xảy ra những đột biến ở từng khu vực hay trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân do những nguyên nhân không lường trước được. Khi xảy ra những hiện tượng như vậy chính phủ thường sử dụng nhữnh công cụ kinh tế trong đó có lãi suất tín dụng để điều chỉnh lại những quan hệ tạo điều kiện cho kinh tế khu vực, ngành hay toàn bộ nền kinh tế phát triển. Chẳng hạn, trong điều kiện lạm phát, chính phủ có thể tăng lãi suất tiền gửi để rút bớt tiền trong lưu thông về, hoặc có thể áp dụng mức lãi suất khác nhau giữa các khu vực, để điều hoà lưu thông tạo mặt bằng giá cả hợp lý, đảm bảo cho sản suất và lưu thông hàng hoá phát triển.
Là công cụ điều chỉnh kinh tế vi mô, lãi suất tín dụng phải được xử lý kịp thời và chính xác. Điều đó đòi hỏi hệ thống ngân hàng phải nắm vững thông tin kinh tế, biết xử lý thông tin, để có những quyết định chính xác trong việc thực hiện chính sách lãi suất.
3. Lãi suất tín dụng là công cụ khuyến khích cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại
Trong khung lãi suất cho phép, để tăng khối lượng nguồn vốn huy động đồng thời để mở rộng quan hệ tín dụng với khách hàng, các NHTM có thể nâng lãi suất tiền gửi và hạ lãi suất cho vay. Đây chính là hoạt động cạnh tranh giữa các ngân hàng thơng mại. Thực chất của quá trình này là phân chia khối lượng tiền gửi và mở rộng phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng ra thị trường. Để đảm bảo cạnh tranh thắng lợi, mỗi ngân hàng thương mại đều có chiến lược khách hàng của mình. Chiến lược này được thực hiện bằng lãi suất ưu đãi. Muốn vậy các ngân hàng thương mại đều tìm mọi biện pháp giảm thấp chi phí kinh doanh và chi phí quản lý. Sự cạnh tranh lành mạnh giữa các NHTM sẽ tạo ra lợi ích kinh tế chung cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
4. Lãi suất tín dụng là công cụ khuyến khích tiết kiệm và đầu tư.
Theo lý thuyết tài chính, chúng ta có thể đa ra một phương trình đơn giản về thu nhập.
Thu nhập = Tiêu dùng + Tiết kiệm
Phương trình này không những đúng với đặc điểm tài chính của các hộ gia đình, các doanh nghiệp mà cả đối với nền tài chính quốc gia. Giả sử, trong điều kiện của một nền kinh tế bình thường, tỷ lệ giữa tiêu dùng và tiết kiệm là hợp lý. Để tăng tỷ lệ tiết kiệm, khuyến đầu tư, tức là tăng khả năng tài chính cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thì biện pháp có hiệu quả nhất là tăng lãi suất huy động vốn. Khi lãi suất huy động vốn tăng lên, thì trước hết các hộ gia đình phải xem xét lại các khoản chi cho tiêu dùng thường xuyên, có thể giảm chi hoặc hoãn một số khoản chi này, để tăng thêm tỷ lệ tiết kiệm trong tổng thu nhập. Sau đó từ khoản tiết kiệm này, họ sẽ chọn hướng đầu tư: Gửi vào ngân hàng, vào quĩ bảo hiểm, hay đầu tư vào thị trường chứng khoán... khi thấy có lợi hơn.
Như vậy có thể khẳng định lãi suất là công cụ can thiệp có hiệu lực để phân chia giữa quỹ tiêu dùng và tiết kiệm. Nhưng nâng lãi suất huy động vốn đến mức độ nào, thì cần phải cân nhắc thận trọng để đảm bảo sự phát triển hài hoà của nền kinh tế quốc dân.
Chương II: QUá TRìNH Đổi mới chính sách lãI suất CủA nhnn việT NAM trong quá trình hội nhập kinh tế.
I. Tính tất yếu khách quan của việc đổi mới
1 Do quá trình chuyển đổi từ cơ chế kinh tế tập trung sang cơ chế kinh tế mở .
Trong chiến tranh chống kẻ thù xâm lược , bảo vệ tổ quốc cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã phát huy hiệu quả cao . Cùng với nó , chúng ta đã đập tan được kẻ thù xâm lược , thống nhất đất nước tạo điều kiện bước đầu để xây dựng đất nước theo đường lối XHCN . Tuy nhiên sang thời bình , khi chùng ta bước vào xây dựng và phát triển kinh tế , thì chính sách kinh tế kế hoạch hoá tập trung dã bộc lộ những yếu kém rõ rệt , nó kìm hãm sự phát triển kinh tế , hạn chế việc phát huy tiềm năng và tính sáng tạo của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh . Điều đó đã làm phát sinh nhiều tiêu cực trong xã hội , gây rối loạn trong việc phân phối và lưu thông . Cụ thể , trong thập niên 80 , sản xuất ách tắc , lưu thông trì trệ : Từ 1976 – 1981 , sản suất công nghiệp tăng bình quân 0,6%/năm , nông nghiệp tăng 1,9%/năm , thương nghiệp quốc doanh tăng 0,4%/năm , trong khi dân số tăng từ 2,3 – 2,4%/năm , nền kinh tế bị khủng hoảng nghiêm trong , lạm phát leo thang mà đỉnh điểm của nó lạm phát phi mã vào cuối nhữnh năm 80 …
Đứng trước tình hình đó , Đảng và nhà nước ta đã chủ trương chuyển đổi cơ chế kinh tế , từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường có sự kiểm soát của nhà nước . Hệ quả tất yếu của việc đổi mới đó là sự ra đời của hàng loạt các chính sách kinh tế nhằm phục vụ cho việc thực hiện thành công việc đổi mới trong đó có chính sách tiền tệ mà cụ thể của nó là việc chuyển đổi cơ chế diều hành chính sách lãi suất ở nước ta trong hơn 10 năm qua .
2 Do những bất cập của chính sách lãi suất trước đó đã không còn phù hợp với điều kiện hiện tại
Trước năm 1992 , do lạm phát ở mức rất cao ( đã có lúc trở thành lạm phát phi mã ) nên NHNN đã buộc phải sử dụng chính sãch lãi suất âm . Nhưng khi lạm phát đã được kiểm soát ở mức hai con số thì ciệc duy trì chính sách lãi suất âm không còn phù hợp nữa . Hơn nữa do việc chuyển đổi cơ chế ngân hàng từ cơ chế một cấp sang cơ chế hai cấp thì đòi hỏi việc thay đổi cơ chế đIều hành lãi suất là tất yếu đồng thời đảm bảo cho hoạt động có lãi của các NHTM .
Từ tháng 3/1992 , khi lạm phát đã được kiểm soát ở mức hai con số , NHTƯ đã huỷ bỏ chính sách lãi suất âm . Chính sách lãi suất mà NHTƯ quy định trong giai đoạn này là chính sách lãi suất dương có quy định cụ thể từng mức và tiếp đó NHTƯ còn cho phép các NHTM được sử dụng lãi suất cho vay thoả thuận . Việc bãi bỏ chính sách lãi suất âm , đồng thời chuyển sang cơ chế lãi suất dương là hoàn toàn hợp lý vì nó còn tính đến cả lợi nhuận của các NHTM cũng như lợi ích của người gửi tiền .
Việc quy định lãi suất cụ thể trở nên quá cứng nhắc trong khi nền kinh tế thị trường năng động đòi hỏi phải có một chính sách lãi suất mềm dẻo hơn . Với cơ chế này , nhà nước đã can thiệp quá sâu vào hoạt động của các ngân hàng , kìm hãm tính năng động của các ngân hàng trong việc điều chỉnh mức lãi suất cho phù hợp với thị trường vốn . Đồng thời quá trình hội nhập kinh tế đòi hỏi phải có một chính sách lãi suất phù hợp với chính sách lãI suất chung của khu vực và thế giới .
Trước những yêu cầu cấp bách đó , ngày 1/1/1999 NHTƯ đã thay việc quy định múc lãi suất cụ thể và lãi suất chi vay thoả thuận bằng cơ chế trần lãi suất . Việc áp dụng cơ chế trần lãi suất đã phần nào giải quyết được những vấn đề trước mắt , tạo điều kiện để các NHTM có thể thay đổi mức lãi suất cho phù hợp với yêu cầu trong vấn đề cung – cầu vốn , đồng thời ổn định giá trị đồng tiền nội tệ .
Tuy nhiên , sang cuốinăm 1999 và đầu năm 2000 tì cơ chế trần lãi suất đã bộc lộ những hạn chế của nó : không kiềm chế được lạm phát , tạo ra mức trênh lệch không hợp lý giữa lãi suất nội tệ và ngoạI tệ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn tại các NHTM , các NHTM thi nhau hạ mức lãi suất cho vay nhằm tháo gỡ tính trạng đó , các NHTM hoạt động gần như không có lãi do mức trênh lệch giữa lãi suất đầu ra và lãi suất đầu vào quá thấp . Cùng với tình trạng đó là hiện tượng giảm phát kéo dài mặc dù Chính phủ đã dùng nhiều biện phá kích cầu nhưng vẫn không hiệu quả . Trước tình trạng đó NHTƯ đã quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất , từ ngày 5/8/2000 bắt đầu áp dụng cơ chế chính sách lãi suất cơ bản . Đây là bước đi đầu tiên trong quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam , để tiến tới hội nhập kinh tế thế giới và khu vực.
II. Diễn biến quá trình đổi mới chính sách lãi suất ở Việt Nam trong thời gian qua.
Sau hơn 10 năm đổi mới cả tổ chức và cơ chế chính sách hoạt động ngân hàng sang cơ chế thị trường cũng là hơn 10 năm đổi mới việc điều hành chính sách lãi suất. Chính sách lãi suất của nhà nước ta trong hơn 10 năm qua phải nói là đổi mới rất mạnh mẽ nhưng cũng rất thận trọng, đi dần từng bước phù hợp với từng giai đoạn trên con đường hướng tới một chính sách lãi suất thị trường theo hướng tự do hoá lãi suất. Chính sách lãi suất của nước ta trong hơn 10 năm qua đã trải qua các giai đoạn sau:
1. Giai đoạn 1988-1992.
1.1 Nội dung của việc đổi mới : Là giai đoạn thực hiện lãi suất thực âm.
Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của Hội đồng Bộ trưởng và hai pháp lệnh về ngân hàng (1/10/1990) đã đấnh dấu một điểm mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng. Từ đây hệ thống ngân hàng từng bước đổi mới cơ cấu tổ chức của mình: từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, từng bước chuyển hoạt động ngân hàng sang cơ chế thị trường,Trong giai đoạn này xuất hiện thêm một mối quan hệ mới, quan hệ giữa Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và NHTM.Tuy nhiên do lạm phát còn ở mức cao (487,2% năm 1986 ,393,8% năm 1988) nên chính sách lãi suất chưa thực hiện được chính sách lãi suất dương mà vẫn theo chính sách lãi suất âm. NHNN quy định cụ thể các loại lãi suất tiền gửi và tiền vay để các NHTM thực hiện .
Lãi suất âm có đặc điểm:
-Lãi suất tiền gửi thấp hơn lạm phát
-Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động và thấp hơn lạm phát.
1.2 Đánh giá quá trình đổi mới
Việc thực hiện chính sách lãi suất âm trong giai đoạn này đã góp phần quan trọng vào việc hạn chế và kiểm soát siêu lạm phát một cách thành công. Năm 1985, Việt Nam thực hiện cải cách giá - lương – tiền với mục tiêu bãi bỏ sự kiểm soát giá cả và chấm dứt tình trạng bao cấp qua giá. Trong bối cảnh không có sự thay đổi căn bản nào trong điều tiết vĩ mô, nhưng biện pháp này ngay lâp tức dẫn đến sự mất ổn định kinh tế, Lạm phát tăng mạnh và bùng nổ thành siêu lạm phát trong suốt ba năm 1986 – 1988 (tỷ lệ lạm phát lần lượt tron ba năm là : 487,2% , 231,8% , 393,8% ). Năm 1989, Việt Nam đưa ra chương trình ổn định kinh tế với nội dung chủ yếu là thắt chặt tài chính – tiền tệ, mà nòng cốt là thực hiện chính sách lãi suất thực dương. Cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay Được nâng lên cao hơn tốc độ trượt giá (9%/tháng đối với tiền gửi không kỳ hạn và 13%/tháng đối với tiền gửi 3 tháng). Biện pháp này có tác động tức thì trong việc chặn đứng siêu lạm phát. Tiền trôi nổi ngoài lưu thông được đưa vào hệ thống ngân hàng, làm giảm áp lực phát hành tiền nhằm đáp ứng nhu cầu tín dụng của nền kinh tế. Chính vì vậy, tỷ lệ lạm phát năm 1989 đã giảm mạnh xuống mức 34,7%.
Thời gian
Tỷ lệ lạm phát của tháng Trước(% tháng)
Lãi suất huy động vốn (% tháng)
Lãi suất cho vay bình quân (% tháng)
Lãi suất tiền gửi các tổ chức kinh tế
Lãi suất tiền gửi
tiết kiệm
3 tháng
Không kỳ hạn
3 tháng
Không kỳ hạn
16/3/89
1/4/1989
1/6/1989
1/7/1989
10/2/1990
20/3/1990
9,2
5,4
-0,2
-2,9
2,9
3,8
2,5
5,8
4
3
2,4
1,8
1,8
4
2,7
1,8
1,2
0,9
12
12
9
7
7
6
9
9
7
5
4
2,4
3,37
3,37
5
3,8
3
2,4
Tháng 5/1990 mới thực sự đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong đổi mới hoạt đông ngân hàng theo hướng thị trường, có sự quản lý của nhà nước. Lãi suất kinh doanh của các NHTM được NHNN khống chế bằng các quy định sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay.
Tóm lại chính sách lãi suất trong thời kỳ này đã góp phần thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, kiềm chế lạm phát ở mức thấp, tạo điều kiện cho NHTM huy động được vốn lớn, nhưng đặc trưng cơ bản vẫn là chính sách lãi suất âm, mức lãi suất cho vay thấp hơn mức lãi suất tiền gửi, lãi suất tiền gửi thấp hơn tỉ lệ lạm phát … làm cho lãi suất không thể hiện được vai trò chức năng của nó, không là đòn bẩy của nền kinh tế, không phát huy được tính hiệu quả trong quá trình sử dụng vốn và đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng.
2. Giai đoạn từ 1992-1995
2.1 Nội dung của việc đổi mới :chuyển từ lãi suất thực âm sang lãi suất thực dương.
Khi mà lạm phát đã được kiềm chế và đẩy lùi tương đối thấp, có điều kiện thực hiện lãi suất dương – tức là lãi suất tiền gửi cao hơn lạm phát. Tháng 10/1992 NHNN bắt đầu thực hiện lãi suất dương và đến tháng 3/1993 thì thực hiện lãi suất dương hoàn toàn, nhưng NHNN vẫn quy định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể có sự phân biệt lãi suất giưã các thành phần kinh tế. Cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thấp hơn doanh nghiệp ngoài quốc doanh, lãi suất cho vay ngắn hạn còn cao hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn, lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn lãi suất tiền gửi các tổ chức kinh tế.
Chính sách lãi suất thực dương đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình chuyển hoạt động ngân hàng sang cơ chế thị trường, đảm bảo lợi ích thực sự của ba bên: người giá, người vay tiền và ngân hàng, xoá bỏ bao cấp trong hoạt động tín dụng.
Từ 10/1993 thực hiện chính sách lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, vừa cho vay theo lãi suất thoả thuận vượt mức lãi suất cho vay cụ thể (Quyết định 184/QĐ-NH1 ngày 28/9/1993).
Lãi suất giai đoạn này có hai loại: Lãi suất cho vay DNNN 1,8%/tháng và lãi suất cho vay đối với các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh 2.1%/tháng.
Lãi suất cho vay theo thoả thuận giưã ngân hàng và khách hàng: Nếu vốn huy động tiết kiệm và tiền gửi theo các mức lãi suất quy định mà không đủ để cho vay thì các tổ chức tín dụng được phép phát hành kỳ phiếu với mức lãi suất cao hơn lã._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35185.doc