Đổi mới cơ chế chính sách nhằm phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay

A. lời mở đầu Thực tiễn đã cho thấy sự tồn tại của kinh tế tư nhân là 1 yêu cầu khách quan. Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề phát triển kinh tế nhiều thành phần đặt ra như một yêu cầu tất yếu đối với nền kinh tế Việt Nam. Kinh tế tư nhân là một bộ phận của cơ cấu đó. Nó có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài vai trò của kinh tế tư nhân ngày càng được khẳng định rõ ràng nhất là t

doc17 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1360 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đổi mới cơ chế chính sách nhằm phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rong thời kỳ toàn cầu hoá này. Để cho kinh tế tư nhân phát huy hết sức mạnh của nó thì nhà nước không chỉ thừa nhận mà còn phải biết khai thác những tiềm năng của nó và mục tiêu dân giàu nước mạnh.Với tư duy đổi mới, đại hội lần thứ VI của đảng đã xác định cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiện vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ với những hình thức và bước đi thích hợp. Do vậy cần có những chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế, coi đó là giải pháp có ý nghĩa chiến lược lâu dài nhằm giải phóng năng lực sản xuất và khai thác mọi tiềm lực của đất nước. Hiện nay Đảng và nhà nước đã khẳng định: “Sự tồn tại của khu vực kinh tế tư nhân không chỉ là sự tồn tại khách quan chúng ta phải chấp nhận, mà nó còn rất cần thiết trong nền kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước những thời cơ thách thức mới. Cơ hội phát triển rút nhắn, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn đấu đưa Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 là hiện thực. Trong bối cảnh các nguồn lực của Việt Nam còn đang hạn chế, xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, coi kinh tế tư nhân như một động lực phát triển cơ bản là một hướng đi hoàn toàn đúng đắn. Hiện nay vai trò cũng như các chính sách được nhà nước xác định rất rõ trong nghị quyết hội nghị lần thứ năm ban chấp hành trung ương đảng khoá IX. ĐỔI MỚI CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY B. NộI DUNG I> Thực trạng tình thế và phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay 1> Những mặt được a> Khơi dậy và phát huy được ý chí làm giàu của nhân dân, hình thành đội ngũ doanh nhân Phát triển kinh tế tư nhân theo chủ trương, chính sách của đảng, pháp luật của nhà nước đã khơi dậy và cổ vũ được tinh thần doanh nghiệp, ý chí làm giàu; củng cố và tăng thêm lòng tin của người đầu tư và kinh doanh vào đường lối đổi mới của đảng, luật pháp và chính sách của nhà nước; doanh nhân,doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh đúng pháp luật được xã hội tôn vinh. Hình thành được tầng lớp doanh nhân và ngày càng lớn mạnh. thủ tướng chính phủ đã quyết định lấy ngày 13/10 hàng năm-ngày bác hồ gửi thư cho giới công thương việt nam, hoan nghênh giới công thương đã đoàn kết lại thành công thương cứu quốc đoàn và gia nhập mặt trận việt minh là “Ngày doanh nhân việt nam”. Điều đó thể hiện sự thay đổi trong tư duy của đảng, coi trọng và đề cao vai trò của những doanh nhân, doanh nghiệp. b> Góp phần hình thành và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Luật doanh nghiệp với sự hiện diện của các loại hình doanh nghiệp đã ghi nhận được những quyền cơ bản của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường: quyền tự do kinh doanh, quyền tự chủ, tự quyết định các công việc của mình, quyền được bình đẳng trước pháp luật khi gia nhập thị trường. Đồng thời, bước đầu tạo lập được khung quản trị kinh doanh phù hợp với yêu cầu cơ bản của kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế nhằm tạo động lực và tăng cường trách nhiệm của doanh nghiệp trước pháp luật. Hình thành tương đối đồng bộ hệ thống cơ quan đăng ký kinh doanh và hệ thống cơ quan tài phán kinh doanh góp phần đưa việc quản lý nhà nước đối với việc tham gia, tổ chức lại, rút khỏi thị trường có nền nếp hơn và bảo vệ một cách có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. Thay đổi tư duy quản lý, tôn trọng và bảo đảm quyền “người dân được tự do kinh doanh trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm” và thực hiện nguyên tắc: “công chức trong bộ máy công quyền chỉ được làm những gì mà pháp luật quy định; chuyển từ cơ chế “quản đến đâu cho mở đến đó” sang “quản lý nhà nước phải theo kịp sự phát triển” c>Đóng góp ngày càng nhiều hơn cho phát triển kinh tế- xã hội Trong vài thập kỷ qua, kinh tế tư nhân đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy dộng các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần giữ vững ổn định chính trị- xã hội của đát nước, góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những năm gần đây,kinh tế tư nhân tăng trưởng liên tục, chiếm tỷ trọng khá lớn và ổn định trong GDP của nước ta. Năm 2004, GDP khu vực kinh tế tư nhân đạt 274.473 tỷ đồng chiếm 38,5% tổng GDP của cả nước . Giá tri sản lượng công nghiệp của kinh tế tư nhân có tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp, Từ năm 2001 đến cuối 2004, tổng số vốn đăng ký mới và đăng ký bổ sung của các doanh nghiệp kinh tế tư nhân đạt khoảng 197.122 tỷ đồng. Các trang trại đã thu hút được 11,5 nghìn tỷ đồng. Nhờ đó làm tăng tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực dân cư và tư nhân trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội từ 23,5% năm 2001 lên 27,4% năm 2004. Kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng thu hút nhiều lao động trong xã hội, nhất là số người đến tuổi lao động chưa có việc làm Công bố của ban chỉ đạo điều tra lao động- việc làm trung ương cho thấy, lao động đang làm việc tại thời điểm ngày 1/7/2005 trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước, tập trung chủ yếu trong khu vực kinh tê tư nhân là 38,355 triệu người chiếm 88,2% số lao động có việc làm tường xuyên trong cả nứơc. Đến cuối năm 2003 có gần 2 triệu lao động làm việc trong các doanh ngiệp tư nhân, tăng khoảng 1 triệu người so với năm 2000. Theo số liệu của bộ tài chính, năm 2004, số thu từ kinh tế tư nhân đạt khoản 13.100 tỷ đồng, chiếm khoảng 7,8% tổng thu ngân sách nhà nước. Sự phát triển kinh tế tư nhân đã góp phần mở mang ngành nghề và lưu thông hàng hoá. Sản phẩm ngày càng đa dạng và phong phú. Kinh tế tư nhân thu hút được ngày càng nhiều lao động ở nông thôn vào các ngành phi nông nghiệp, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở từng địa phương và ở cả nước. Hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ phát triển mạnh ở cả thành thị và nông thôn,tới từng thôn ấp, làng bản, vùng sâu, vùng xa. Trình độ sản xuất, kinh doanh của hinh tế tư nhân ngày càng tiến bộ hơn, thay thế hàng nhập khẩu và tham gia xuất khẩu tăng lên. Đã xuất hiện nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh hoạt động tốt, tạo được chỗ đứng trên thị trường, sản phẩm hàng hoá được người tiêu dùng tín nhiệm. có nhiều chủ kinh doanh thành đạt, đưa doanh nghiệp của mình phát triển, cải thiện được đời sống người lao động, đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách nhà nước, tham gia tích cực vào hoạt động xã hội từ thiện. Với tích chất phong phú, đa dạng, gon nhẹ, linh hoạt, năng động, kinh tế hộ gia đình, cá thể tiểu chủ có ưu thế về khả năng huy động nguồn lực phân tán tại chỗ như vốn, lao động, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, khoa học và công nghệ... vào sản xuất, kinh doanh. Các trang trại hoạt dộng kết hợp trồng trọt với chăn nuôi, sản xuất với chế biến và kinh doanh tổng hợp xuất hiện ngày càng nhiều. Phát triển trang trại đã và đang được khẳng định là mô hình phù hợp thực hiện mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá quy mô lớn, hiệu quả và bền vững. Cần khẳng định mặt tích cực của kinh tế tư nhân là cơ bản :kinh tế tư nhân đã, đang và sẽ tiếp tục có vai rò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đạt được kết quả trên là nhờ có đường lối đổi mới đúng đắng của đảng, khung pháp lý không ngừng hoàn thiện, môi trường kinh doanh ngày càng thông thoáng, thuận tiện và bình đẳng hơn giữa các thành phần kinh tế; sự chỉ đạo thực hiện kiên trì của chính phủ và các cấp, các ngành; nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào đường lối, chính sách của đảng và nhà nước, đồng thời do yêu cầu của cuộc sống, với tiềm năng to lớn, sự năng động và tinh thần doanh nghiệp vốn có, vươn lên không cam chịu đói nghèo, hăng hái đầu tư vào sản xuất, kinh doanh làm giàu cho bản thân, cộng đồng và xã hội. 2>Những khó khăn, yếu kém a>Những khó khăn Kinh doanh trong điều kiện của nước ta còn rất nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với kinh tế tư nhân. Bởi lẽ: môi trường đầu tư, kinh doanh chưa thuận lợi; khó tiếp cận nguồn lực (đất đai, vốn, nguồn nhân lực), thủ tục hành chính phức tạp và tam lý xã hội chưa thuận lợi. Hệ thống pháp luật về quyền tài sản, về hợp đồng, giải quyết tranh chấp hợp đồng chưa thật phát triển và rất khó thực thi. Môi trường đầu tư kinh doanh chưa thuận lợi. Báo cáo của nhân hàng thế giới ngày 14/9/2005 về hoạt động kinh doanh 2006 đã đánh giá việt nam là một trong ngững quốc gia thực hiện cải cách mạnh nhất cho hoạt động doanh nghiệp vì đã có những cải cách trong đăng ký kinh doanh, luật phá sản mới và các phương thức hợp lý hoá việc thực hiện ký hợp đồng và giảm chi phí đăng ký tài sản. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn nằm trong số 60 nước có hoạt động kinh doanh khó khăn nhất. Công bố của diễn đàn kinh tế thế giới ngày 28/9/2005, việt nam được xếp hạng 81/117 nền kinh tế về chỉ số cạnh tranh toàn cầu năm 2005, trong đó về cạnh tranh kinh doanh (80) và năng lực hành động của các cơ quan công quyền khá thấp (92). Kinh tế hộ gia đình ở nông thôn vẫn là sản xuất nhỏ, lạc hậu vẫn chiếm đa số. Thiếu mặt bằng sản xuất đang là trở ngại đối với các cơ sở kinh tế tư nhân. Hầu hết các hộ phải dử dụng nhà ở, đát ở của gia đình trong khu dân cư làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh nên chật hẹp, làm ô nhiễm môi trường, khó mở rộng sản xuất, kinh doanh. Một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp phải đi thuê lại đất, nhà xưởng của các đơn vị khác với giá cao hơn nhiều so với giá quy định của nhà nước, vì thế họ không dám đầu tư lâu dài vào nhà xưởng, máy móc thiết bị; phải chi cho việc cải tạo mặt bằng và đền bù quá lớn so với khả năng tài chính hạn hẹp của họ. Trong số 47 doanh nghiệp được phỏng vấn, chỉ chưa đến 10% có văn phòng trên đất riêng thuộc quyền sủ dụng của người sáng lập; khoảng 11%thuê lại đất của các doanh nghiệp nhà nước. Việc kiếm đủ vốn đầu tư vẫn là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp tư nhân, cả trong giai đoạn khởi nghiệp và hoạt động sau đó. Đa số các doanh nghiệp không thể vay tiền ngân hàng và họ tin rằng, việc khó tiếp cận các khoản tín dụng ngân hàng đang kìm hãm triển vọng phát triển của họ.Thủ tục hành chính phiền hà, phức tạp làm tăng chi phí và thời gian cho việc tuân thủ pháp luật. Thời gian hoàn thành các khâu đăng ký kinh doanh, khắc dấu, đăng ký mã số thuế, mua hoá đơn khoảng 60 ngày. Thủ tục đất đai, xây dựng nhanh cũng phải vài tháng, chậm co khi kéo dài cả năm. Sau 5 năm thi hành luật doanh nghiệp kể từ năm 2000, thủ tướng chính phủ quyết định bãi bỏ 186 giấy phép kinh doanh, chứng chỉ hành nghề...thì thới cuối năm 2005 số lượng “giấu phép con” tăng lên cả trăm cái. Thống kê của phòng thương mại và công nghiệp việt nam cho thấy, chỉ tính từ năm 2003 đến đầu năm 2005 số giấy có hiệu lực tăng từ 246 lên 298 loại. Doanh nghiệp còn bị thanh tra, kiểm tra chồng chéo, không đúng chức năng và kéo dài nhiều cơ quan nhà nước. Một số vi phạm của doanh nghiệp ở mức độ quan hệ kinh tế, quan ệ dân sự nâng lên truy cứu trách nhiệm hình sự. Kinh tế tư nhân chưa được nhìn nhận, đánh giá đúng mức trong quan niệm và nhận thức xã hội; vẫn còn một số mặc cảm, định kiến, e dè trong phát triển kinh tế tư nhân. b>Những yếu kém Cơ cấu kinh tế hộ nông dân chậm được cải thiện với tỷ trọng nông nghiệp đóng góp 79%. Tốc độ tăng công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn rất chậm, làm cho thu nhập của người nông dân tuy có tăng khá, nhưng khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành thị ngày một dãn ra. Đến cuối năm 2005 lao động nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 56,8% trong tổng lượng lao động toàn xã hội chỉ tạo ra 21%GDP.Con số này cho thấy GDP do lao động làm việc trong nông nghiệp tạo ra chỉ bằng 1/3 công nghiệp và dịch vụ.Mặt khác, chi phí cho sản xuất kinh doanh lại lớn (thông thường khoảng 80% tổng thu nhập) nên thu nhập của nông dân chủ yếu là công lao động, thu nhập ròng rất thấp. Hơn nữa, chi phí cho giáo dục,y tế ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu chi của hộ nông dân, nên đời sống của họ càng khó khăn hơn Đồng thời, sự chậm chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ làm cho tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn vẫn rất nghiêm trọng. Theo công bố của ban chỉ đạo điều tra lao động- việc làm, đến ngày 1/7/2005 tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở khu vực nông thôn trong cả nước là 80,7. Quy mô của doanh nghiệp tư nhân hầu hết là nhỏ, một số có quy mô vừa và lớn thuộc loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Vốn sản xuất kinh doan bình quân năm 2003 của một doanh nghiệp tư nhân là 1,34 tỷ đồng, trong đó dưới 1 tỷ đồng chiếm 66%; con số tương ứng của công ty trách nhiệm hữu hạn là 1,47 tỷ đồng và 38%; công ty cổ phần ;à 5,09 tỷ dồng và 25%. Bình quân một doanh nghiệp thu hút trên 30 lao động. Nhìn chung, các doanh nghiệp của tư nhân có trình độ khoa học- công nghệ, trang thiết bị kỹ thuật lạc hâu, tay nghề của người lao động thấp do đó, chất lượng sản phẩm, dịch vụ thấp, sức cạnh tranh yếu. Quản trị doanh nghiệp yếu kém, hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Tổ chức sản xuất, kinh doanh chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của bản thân hoặc gia đình. Phần lớn chủ doanh nghiệp và cán bộ quản lý chưa qua đào tạo. Các doanh nghiệp của tư nhân ít đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, tập trung nhiều vào những ngành nghề đòi hỏi ít vốn, thời gian thu hồi vốn nhanh, chưa đủ sức đầu tư lâu dài; tính hợp tác, liên kết còn thấp; một bộ phận vi phạm pháp luật, trốn thuế gian lận thương mại, chưa thực hiện tốt chính sách đối với người lao động. Về vi phạm của doanh nghiệp hoàn thuế giá trị gia tăng: theo báo cáo của chính phủ (trình kỳ họp thứ II, quốc hội khoá XI, tháng 11 năm 2002 tai hà nội) thì từ tháng 1 năm 1999 đến tháng 9 năm 2002 các cơ quan thuế đã hoàn thuế VAT cho 16.361 đơn vị với số tiền 14.916 tỷ đồng và mới chỉ qua kiểm tra 3.521 đơn vị đã phát hiện khoảng 1/2 số đơn vị kiểm tra được hoàn thuế sai, trong đó có doanh nghiệp của tư nhân lợi dụng luật doanh nghiệp để chiếm đoạt hoàn thuế VAT, phải kể đến không ít công chức thuế và hải quan đã lợi dụng những “doanh nghiệp ảo” do họ dựng lên để làm công cụ rút ruột ngân sách nhà nước thông qua việc hoàn thuế VAT (hải quan cửa khẩu tân thanh, lạng sơn và công chức thuế thái bình...) Các doanh nghiệp thường có định mức lao động cao, thiếu điều kiện bảo hộ và an toàn lao động,chưa thực hiện đầy đủ chế độ baỏ hiểm xã hội, số lao động tham gia bảo hiểm xã hội thấp,chỉ chiếm vài chục % tổng số lao động thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội, thường ký hơp đồng lao động ngán hạn để tránh nộp bảo hiểm xã hội . II>Kinh tế tư nhân- một trong những động lực của nền kinh tế nước ta hiện nay Báo cáo chính trị tại đại hội lần thứ X của đảng xác định nước ta có 5 thành phần kinh tế và các thành phần đó “đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”, trong đó kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) ‘có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”. Vai trò quan trọng của nền kinh tế tư nhân được thể hiện ở những nội dung sau: Một là, kinh tế tư nhân khai thác và tận dụng có hiệu quả tiềm năng về vốn,các nguồn nguyên liệu ở từng địa phương. Phát triển kinh tế tư nhân sẽ tạo ra nguồn đầu tư quan trọng đóng góp vào quá trình tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế quốc dân. Hai là, kinh tế tư nhân phát triển sẽ tạo việc làm cho một lượng lớn lao động, bảo đảm đời sống và do đó góp phần vào việc ổn định kinh tế- xã hội Vai trò này càng có ý nghĩa quan trọng hơn trong điều kiện nước ta đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Ba là, kinh tế tư nhân tạo ra nhiều sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ,đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, góp phần bình ổn giá cả, kiềm chế lạm phát. Khu vực kinh tế tư nhân có thế mạnh trong việc huy động vốn, khai thác các tiềm năng khác có hiệu quả, đóng góp ngày càng lớn cho ngân sách nhà nước... Bốn là, kinh tế tư nhân giữ vai trò hỗ trợ, bổ sung cho khu vực kinh tế thuộc sở hữu nhà nước, tạo thành mối liên kết cùng hợp tác, cùng cạnh tranh để cùng phát triển. Vai trò hỗ trợ không chỉ tạo ra hàng hoá đáp ứng nhu cầu tiêu dùng mà còn là động lực để kinh tế nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo của mìng thông qua cạnh tranh. Với sự xuất hiện ngày càng nhiều các chủ thể kinh tế tư nhân Năm là, kinh tế tư nhân góp phần duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống, qua đó sử dụng và phát huy kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, kinh nghiệm quản ký sản xuất đã được tích luỹ qua nhiều thế hệ, kết hợp truyền thống và tính hiện đại trong sản xuất. Đặc điểm cơ bản nhất của ngành nghề truyền thống là gắn chặt với kinh tế cá thể và thực tế đã chứng minh, kinh tế tư nhân phát triển thì các ngành nghề truyền thống phát triển. Trong điều kiện hiện nay, cạnh tranh là động lực cho các chủ thể kinh tế nâng cao tay nghề, ứng dụng khoa học-công nghệ mới. Sáu là, kinh tế tư nhân tạo lập sự cân đối về phát triẻn kinh tế giữa các vùng, góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, không thể không có doanh nghiẹp quy mô lớn, có nhiều vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại trong một số ngành, nhằm tạo ra sức mạnh để cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Để làm được điều đó, cần tăng khả năng tích tụ và tập trung vốn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tạo điều kiện để vươn lên thành doanh nghiệp lớn. Đó là quá trình các chủ doanh nghiệp phải tự đổi mới công nghệ, kỹ thuật tại doanh nghiệp của mình, chuyển dịch cơ cáu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý hơn. Điều này càng trở nên có ý nghĩa đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nước ta. Bảy là, kinh tế tư nhân góp phần nâng cao chất lượng lao động, nuôi dưỡng tiềm năng trí tuệ kinh doanh.Tiềm năng trí tuệ, kinh nghiệm quản lý,tay nghề lao động và kinh nghiệm sản xuất kinh doanh được tích luỹ, lưu truyền trong tưng ngành nghề sẽ góp phần quan trọng cho tăng trưởng kinh tế bền vững. Trong giai đoạn 2006-2010, báo cáo của ban chấp hành trung ương đảng khoá IX đã đề ra phương hướng tiếp tục phát triển mạnh mẽ các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình kinh doanh nghiệp của tư nhân là: Tạo điều kiện thuận lợi cho các loại hình kinh tế tư nhân đầu tư phát triển theo quy định pháp luật, không hạn chế về quy mô, ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn. Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử; thực sự bìng đẳng, tạo thuận lợi để các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hộ kinh doanh được tiếp cận các nguồn vốn tại các tổ chức tín dụng của nhà nước Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp lớn của tư nhân, các tập đoàn kinh tế tư nhân có nhiều chủ sở hữu với các doanh nghiệp lớn của tư nhân, các tập đoàn kinh tế tư nhân có nhiều chủ sở hữu với hình thức công ty cổ phần. Có chính sách, giải pháp thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển. Khuyến khích tư nhân mua cổ phần của doanh nghiệp nhà nước. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược, là chính sách đúng đắn của đảng và nhà nước ta trong thời kỳ qá độ đi lên chủ nghĩ xã hội. Thực tiễn 20 năm đổi mới đã chứng minh vai trò to lớn của kinh tế tư nhân trong tiến trình phát triển của đất nước. Để kinh tế tư nhân tiếp tục phát triển và đóng góp ngày càng tích cực cho nền kinh tế nước ta trong những năm tới, đòi hỏi các ngành, các cấp, các địa phương cần có những giải pháp có tính khả thi đồng bộ cả trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Tăng nhanh số lượng doanh nghiệp mới, mở rộng và phát triển theo chiều sâu những doanh nghiệp hiện có. Hình thành cho được một số doanh nghiệp của tư nhân có năng lực cạnh tranh cao, tham gia các tập đoàn kinh tế mạnh do doanh nghiệp nhà nước làm nòng cốt. Đến năm 2010 sẽ có 50 vạn doanh nghiệp của tư nhân được đăng ký. Đến thời điểm đó các doanh nghiệp của tư nhân sẽ trở thành nòng cốt của kinh tế tư nhân, trở thành động lực cho phát triển kinh tế xã hội. Tăng tỷ trong của tư nhân hoạt động trong các ngành công nghiệp, trước hết là công nghiệp chế biến. Khuyến khích họ tham gia những dịch vụ có giá trị gia tăng cao (nhân hàng tài chính, bảo hiểm, viễn thông... ) tăng cường sự tham gia vào các hoạt động công ích. Từng bước mở rộng đầu tư ra nước ngoài. III> Giải pháp để phát triển kinh tế tư nhân trong tương lai Để khai thác, phát huy tốt hơn các nguồn lực nhằm khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân trong thời gian tới, cần tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau đây: 1>Thống nhất về các quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghhĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân; khuyến khích , hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi và định hướng, quản lý sự phát triển của kinh tế tư nhân theo pháp luật, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Các hộ kinh doanh cá thể được nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển cả ở nông thôn và thành thị; khuyến khích các hộ liên kết kinh hành các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý và tâm lý xã hội để các doanh nghiệp của tư nhân phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm, nhất là trên những định hướng ưu tiên của nhà nước; khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của cả người lao động và người sử dụng lao động. Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người sử dụng lao động và người lao động trên cơ sở pháp luật và tinh thần đoàn kết, chăm lo bồi dưỡng, giáo dục các chủ doanh nghiệp nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, gắn bó với lợi ích đất nước và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tăng cường sự lãnh đạo của đảng, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị- xã hội và các hiệp hội doanh nghiệp đối với kinh tế tư nhân nói chung cũng như trong từng doanh nghiệp. 2>Tạo môi trường thuận lợi về thể chế và tâm lý xã hội cho sự phát triển của kinh tế tư nhân Sửa đổi, bổ sung luật doanh nghiệp và một số quy định chưa thống nhất giữa các văn bản pháp luật đã ban hành về những vấn đề liên quan đến kinh tế tư nhân theo hướng xoá bỏ phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế Quy định rõ những ngành nghề, lĩnh vực kinh tế tư nhân không được phép kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện; khi thay đổi các quy định cần có thời gian chuyển tiếp và chính sách bổ sung để doanh nghiệp thích ứng, giảm thiểu thiệt hại cho người kinh doanh. Xác định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nứơc trong đăng ký kinh doanh và quản lý hoạt động của kinh tế tư nhân; Làm tốt công tác phổ biến, tuyên truyền quan điểm, đường lối, chính sách của đảng, nhà nước đối với việc phát triển kinh tế tư nhân. cổ vũ và biểu dương kịp thời những danh nhân, dơn vị sản xuát, kinh doanh có hiệu quả, đúng pháp luật, có đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế- xã hội đất nước, bảo đảm lợi ích người lao động, tạo điều kiện cho tổ chức đảng, các môi trường tâm lý xã hội thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân. 3> Sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách Tập trung sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế về cơ hội và khả năng lựa chọn các điều kiện để phát triển; tiếp tục tháo gỡ các kho khăn, vướng mắc, sửa đổi những quy định chưa phù hợp với trình độ,quy mô kinh doanh để kinh tế tư nhân có thể thụ hưởng những chính sách ưu đãi của nhà nước đối với các ngành, vùng, các sản phẩm và dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển không phân biệt thành phần kinh tế; chú trọng tạo điều kiện, hỗ trợ những doanh nghiệp nhỏ và vừa. a> Chính sách đất đai Sửa đổi, bổ sung luật đất đai theo hướng: Đối với đất ở của tư nhân đã được cấp quyền sử dụng, đất đang được tư nhân dùng làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh do được chuyển nhượng lại một cách hợp pháp quyền sử dụng hoặc được nhà nước giao đã nộp tiền sử dụng theo quy định của pháp luật, thì tư nhân đó được tiếp tục sử dụng mà không phải nộp thêm tiền thuê đất cho nhà nước khi dùng đất này vào sản xuất, kinh doanh. b>Chính sách tài chính, tín dụng Thực hiện chính sách tài chính, tín dụng đối với kinh tế tư nhân bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác; bảo đảm để kinh tế tư nhân tiếp cận và được hưởng các ưu đãi của nhà nước cho kinh tế hộ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, cho đầu tư theo các mục tiêu được nhà nước khuyến khích. Nhà nước hỗ trợ về xây dựng cơ sở hạ tầng chung (giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc…), tạo điều kiện thuận kợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Sớm ban hành quy định của nhà nước về cơ chế tài chính đối với doanh nghịêp nhỏ và vừa, trong đó có doanh nghiệp của tư nhân. Kinh tế tư nhân được dùng tài sản hình thành từ vốn vay để thế chấp vay vốn ngân hàng. Đơn giản hoá các thủ tục cho vay đi liền với tăng cường các dịch vụ thanh toán, bảo lãnh, tư vấn cho kinh tế tư nhân; bổ sung, sửa đổi một số quyết định để tạo thuận lợi cho việc xử lý tài sản thế chấp khi người vay không trả được nợ đến hạn. sớm triển khai hoạt động các quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Sửa đổi, bổ sung chế độ kế toán phù hợp với trình độ của doanh nghiệp nhỏ và vừa; tạo điều kiện cho doanh nghiệp của tư nhân sử dụng dịch vụ kiểm toán; thực hiện công khai tình hình tài chính doanh nghiệp hàng năm. c> Chính sách lao động- tiền lương Kinh tế tư nhân phải thực hiện đúng quy định của bộ luật lao động về ký kết hợp đồng lao động, tiền lương, tiền công, thời gian làm việc, bảo đảm các điều kiện vệ sinh và an toàn lao động…; bổ sung chế tài cần thiết để xử lý vi phạm.Sớm ban hành đồng bộ các quy định về bảo hiểm xã hội để người lao động trong hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp của tư nhân đều được tham gia. d> Chính sách hỗ trợ về đào tạo, khoa học và công nghệ Nhà nước trợ giúp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết đường lối, chủ trương của đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, trình độ chuyên môn kỹ thuật, năng lực kinh doanh cho chủ doanh nghiệp và người lao động. Đối với chủ doanh nghiệp, cần quan tâm bồi dưỡng, giáo dục phát huy tinh thần yêu nước và trách nhiệm trước cộng đồng xã hội, chấp hành chính sách của đảng, pháp luật của nhà nước, chăm lo dời sống và điều kiện làm việc co người lao động tại doanh nghiệp. Mở rộng hệ thống dịch vụ tư vấn khoa học, công nghệ cho các hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Nhà nước hỗ trợ mở các lớp ngắn hạn miễn phí bồi dưỡng kiến thức khoa học, công nghệ cho hộ kinh doanh, doanh nghiệp của tư nhân; hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin, thuê, mua trả góp thiết bị để đổi mới công nghệ. e> Chính sách hỗ trợ về thông tin, xúc tiến thương mại Có cơ chế và phương tiện bảo đảm cho khu vực kinh tế tư nhân, nhận được những thông tin cần thiết về luật pháp, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, của các ngành, các vùng; các thông tin dự báo trung hạn, dài hạn về các ngành, các sản phẩm ở trong nước nà trên thế giới; các dự án phát triển có nguồn vốn từ nhân sách nhà nước và các nguồn vốn đầu tư nước ngoài Nhà nước khuyến khích và hỗ trợ kinh doanh, doanh nghiệp của tư nhân và các hiệp hội đẩy mạnh hoạt đông xúc tiến thương mại ở cả thị trường trong nước và ngoài nước. g> Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để thấy rõ những đặc điểm mới của kinh tế tư nhân ở nước ta trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phân tích thực trạng, xu hướng phát triển để có quyết sách phù hợp đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân theo chủ trương của đảng. 4> Tiếp tục hoàn thiện và tăng cường quản lý nhà nước Chức năng quản lý nhà nước đối với khu nực kinh tế tư nhân là: Xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý và ban hành chính sách, cơ chế quản lý đối với các đơn vị sản xuất, kinh doanh; xây dựng quy hoạch và trợ giúp đào tạo cán bộ quản lý cho doanh nghiệp; giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, chế độ, chính sách nhà nước của doanh nghiệp, nắm chắc tình hình đăng ký kinh doanh và hoạt động của các hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân ở các bộ, ngành và uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố. Các cơ quan bảo vệ pháp luật chỉ kiểm tra khi doanh nghiệp của tư nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Các cơ quan quản lý nhà nước phải có chương trình thanh tra, kiểm tra định kỳ đối với doanh nghiệp, thông báo trước cho doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các kết luận thanh tra, kiểm tra của mình. Thực hiện tốt quy định về báo cáo định kỳ của doanh nghiệp.Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật, phân biệt rõ những vi phạm quan hệ dân sự với những vi phạm hình sự, khắc phục việc hình sự hoá các tranh chấp trong quan hệ kinh tế của doanh nghiệp. 5> Tăng cường sự lãnh đạo của đảng, phát huy vai trò của mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các hiệp hội doanh nghiệp đối với việc phát triển kinh tế tư nhân Xây dựng tổ chức cơ sở đảng và các tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên, hội liên hiệp thanh niên trong các doanh nghiệp của tư nhân có đủ điều kiện; quan tâm thực hiện việc này ngay khi doanh nghiệp bắt đầu hoạt động. Đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong khu vực kinh tế tư nhân. Những đảng viên đang làm chủ doanh nghiệp tư nhân chấp hành tốt điều lệ đảng và luật pháp, chính sách của nhà nước thì vẫn là đảng viên của đảng. Các cấp uỷ và tổ chức đảng quán triệt và phổ biến sâu rộng trong đảng và nhân dân về quan điểm của đảng đối với việc phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt trận tổ qu._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0195.doc
Tài liệu liên quan