Lời nói đầu
Một trong những dự báo của thế kỷ 21 là : “Nền kinh tế thế giới càng lớn thì những phần tử nhỏ nhất trong nó sẽ càng mạnh hơn”. “Nền kinh tế thế giới càng lớn và càng rộng mở hơn , thì các công ty nhỏ và vừa sẽ càng thống trị nhiều hơn” .Năm 1996, 99.7% doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Mỹ đóng góp 51%tổng giá trị sản phẩm quốc dân ; tại Nhật Bản , 99.1% là các công ty vừa và nhỏ . thu hút 78% lực lượng lao động ; còn tại các nước EU con số tương ứng là 99.8% và 66%… ở khắp mọi nơi trên t
38 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1438 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đổi mới cơ chế chính sách đối với doanh nghiệp vừa & nhỏ nhằm thúc đẩy sự phát triển của chúng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hế giới , doanh nghiệp vừa và nhỏ đã và đang trở thành một bộ phận hợp thành sức sống kinh tế sôi động và tạo ra động lực tăng trưởng của từng quốc gia .
Thời gian qua cùng với sự hình thành và phát triển của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường . Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã phát triển một cách mạnh mẽ , đóng góp một vai trò quan trọng vào sự phát triển chung của nền kinh tế nước ta . Nó góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển các ngành và của cả nền kinh tế , tạo thêm hàng hoá dịch vụ , tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động , tăng thu nhập , nâng cao đời sống tạo nguồn thu quan trọng cho ngân sác nhà nước và đặc biệt nó được coi là “chiếc đệm giảm sóc của thị trường”. Hiện nay ở nước ta doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 65.9% so với tổng số doanh nghiệp Nhà nước, chiếm 33.6% so với doanh ngiệp có vốn đầu tư nước ngoài , đóng góp 25% GDP và 31% giá trị sản xuất công nghiệp , chiếm 78% mức bán lẻ của ngành thương nghiệp, 64% khối lượng vận chuyển hành khách và hàng hoá . Tuy nhiên hiện nay , chúng ta chưa có một chính sách đồng bộ nhằm tạo điều kiện cho loại hình doanh nghiệp này phát triển .
Đi tìm hướng đi đúng để vượt qua những trở ngại trên không phải là một công việc dễ dàng . Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam đang tìm ra những giải pháp hiệu quả cho chiến lược phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ . Đứng trước thực tế trên việc nghiên cứu về doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất quan trọng và cần thiết . Chính vì lẽ đó đã thôi thúc em nghiên cứu đề tài “ Đổi mới cơ chế chính sách đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm thúc đẩy sự phát triển của chúng ở Việt Nam”.
Do thời gian nghiên cứu và thu thập tài liệu có hạn , kinh nghiệm thực tế còn hạn chế , vấn đề nghiên cứu còn mới mẻ phong phú và phức tạp , thông tin lại chưa đầy đủ và bước đầu mới làm quen với công tác nghiên cứu nên bài viết này chắc chắn sẽ không khỏi có những khiếm khuyết . Em hy vọng với sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của thầy giáo , bài viết sẽ phần nào phác thảo được những nét cơ bản nhất về thực trạng đầu tư phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam thời gian qua , chỉ ra được những yếu kém vướng mắc , từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ mạnh mẽ hơn trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường .
PHầN NộI DUNG
PHầN 1: TổNG QUAN Về DOANH NGHIệP VừA Và NHỏ
Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ :
Tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ
ở Việt Nam, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là vấn đề được Nhà nước đặc biệt quan tâm. Vì sự thành đạt của một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của các doanh nghiệp. Mà trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế thị trường thì doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa chung, hoàn chỉnh về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để xác định chính xác loại hình này người ta căn cứ vào hai tiêu chí.
- Nhóm các trực chí định tính bao gồm : chuyên môn hoá thấp số đầu mối quản lý ít, không phức tạp. Nhóm nhân tố này phản ánh đúng bản chất vấn đề nhưng thường khó xác định. Bởi vậy nó mang tính tham khảo, kiểm chứng, ít được sử dụng trong thực tế.
Nhóm tiêu chí định lượng có thể bao gồm số lao động bên giá trị tài sản, vốn kinh doanh, doanh thu, lợi nhuận, nhóm tiêu chí này mỗi nước sử dụng hoàn toàn không giống nhau, có thể căn cứ vào cả lao động, vốn, doanh thu cũng có thể chỉ căn cứ vào số lao động hoặc vốn kinh doanh.
Khái niệm
Hãy xem xét khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ của một số nước trên thế giới để tham khảo.
- Hàn Quốc : là một nước công nghiệp trẻ, đạt được nhiều thành công chính là nhờ sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hàn Quốc đã có những đạo luật cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ trong đó xác định rõ những trực chuẩn để được công nhận là doanh nghiệp vừa và nhỏ, những trực chuẩn đó còn phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động cụ thể như sau :
+ Trong lĩnh vực chế tạo, khai thác xây dựng : doanh nghiệp có dưới 300 lao động thường xuyên và tổng vốn đầu tư dưới 600.000USD được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong số này doanh nghiệp nào có dưới 20 lao động được coi là doanh nghiệp nhỏ.
+ Trong lĩnh vực thương mại : Doanh nghiệp có được 20 lao động thường xuyên và doanh thu dưới 500.000USD/năm (nếu là bán lẻ) và dưới 250.000USD/năm (nếu là bán buôn) được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong số này doanh nghiệp nào có dưới 5 lao động thường xuyên được coi là doanh nghiệp nhỏ (các tiêu thức này được xác định từ những năm 70 đến nay tiêu thức về lao động đã thay đổi từ 2 đến 3 lần và vốn đã tăng lên hàng chục lần.
- Nhật Bản : Là một nước đã tạo nên một huyền thoại “thần kỳ” trong phát triển kinh tế vào những năm của thập kỷ 50 đến thập kỷ 70. Từ những năm 60, Nhật Bản có đạo luật cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ như sau :
+ Đối với doanh nghiệp sản xuất : Doanh nghiệp dưới 300 lao động và một khoản tư bản hoá (vốn đầu tư) dưới 100 triệu yên (tương đương với 1 triệu USD) được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong số này, doanh nghiệp nào có dưới 20 lao động được coi là doanh nghiệp nhỏ.
+ Đối với doanh nghiệp bán buôn : Doanh nghiệp có dưới 100 lao động hoặc có một khoản tư bản hoá dưới 30 triệu yên (tương đương với 100.000USD được coi là doanh nghiệp nhỏ).
+ Đối với doanh nghiệp bán lẻ, dịch vụ : Doanh nghiệp có dưới 50 lao động hoặc một khoản tư bản hoá dưới 40 triệu yên (tương đương với 100.000 USD) được coi là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Trong số này doanh nghiệp nào có dưới 5 lao động được coi là doanh nghiệp nhỏ (những tiêu thức này nay được xác định từ những năm 60, hiện nay vốn đã tăng lên hàng chục lần).2
Trong khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhật Bản chỉ quan tâm tới hai tiêu thức là vốn và lao động. Đối với tiêu thức lao động của loại hình doanh nghiệp nhỏ, Nhật Bản quan niệm gần giống Hàn Quốc rất thấp so với khu vực Châu á. Phải chăng các nước có tiềm lực kinh tế mạnh, nguồn nhân lực có hạn, họ quan tâm đến tiêu thức vốn đầu tư nhiều hơn.
- Thái Lan : là một trong những nước có tốc độ phát triển kinh tế nhanh, họ quan niệm doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 200 lao động, doanh nghiệp nhỏ có dưới 50 lao động3. Như vậy, Thái Lan chỉ quan tâm tới tiêu thức lao động và cũng không tính đến tính chất đặc thù của ngành kinh tế (tiêu thức này gần giống với Việt Nam).
Các nước khác như Philippin lại lấy tiêu thức chủ yếu là lao động, giá trị TSCĐ, Inđônêxia lấy tiêu thức vốn bình quân cho một lao động, Trung Quốc lại lấy tiêu thức sản lượng đầu tư. Mỹ lấy tiêu thức lao động, trị số hàng hoá bán ra (doanh thu tiêu thụ) đối với doanh nghiệp bán buôn, dịch vụ, đố với doanh nghiệp sản xuất thì có tính đến yếu tố ngành sản xuất.
ở nước ta, trước đây do chưa có tiêu chí chung thống nhất xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ nên một số cơ quan Nhà nước, tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đưa ra tiêu thức riêng để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ phục vụ công tác của mình. Theo công văn số 681/CP – KNT nêu trên, các doanh nghiệp có vốn điều lệ doanh nghiệp vừa và nhỏ dưới 5 tỷ đồng và số lao động trung bình hàng năm dưói 200 người là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tuy nhiên đây chỉ kà quy ước hành chính để xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợi doanh nghiệp vừa và nhỏ , , là cơ sở để các cơ quan Nhà nứoc , các tổ chức chính thức của Nhà nước thực thi chính sách đối với khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ . Việc các tổ chức phi chính phủ , các tổ chức tài chính không có chức năng thực thi các chính sách Nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ áp dụng các tiêu chí khác nhau là được . Việc đưa ra các tiêu thức xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ mưói chỉ có tính ước lệ , bản thân các tiêu chí đó chưa đủ xác định thế nào là khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Bởi vì , có rất nhiều các quan điểm khác nhau về việc các đối tượng , các chủ thể kinh doanh được coi là thuộc về hoặc không thuộc về khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ . Vì vậy , nhiều ý kiến cho rằng cần có quy mô rõ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam , là cơ sở sản xuất có đăng ký không phân biệt thành phần kinh tế . có quy mô về vốn hoặc lao động thoả mãn quy định của chính phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế .
Các tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ được áp dụng ở Việt Nam:
Tiêu chí
Công nghiệp
Thương mại , dịch vụ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong đó :
Doanh nghiệp nhỏ
Doanh nghiệp
vừa và nhỏ
Trong đó :
Doanh nghiệp nhỏ
Vốn sản xuất
Dưới 5 tỷ
Dưới 1 tỷ
Dưới 2 tỷ
Dưới 1 tỷ
Lao động thường xuyên (người)
Dưới 300
Dưới 50
Dưới 200
Dưới 30
Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ :
Khi sản xuất công nghiệp chưa ra đời thì đa số các doanh nghiệp trên thế giới có qui mô rất nhỏ . Với sự ra đời phương pháp tổ chức sản xuất Taylor , đặc biệt khi các tơ rớt xuất hiện , nền kinh tế toàn cầu cũng như các cường quốc Anh , Đức , Mỹ đã chứng kiến sự trỗi dậy của các tập đoàn doanh nghiệp khổng lồ : U. S.Steel., Dupont, General Motors, Ford, IBM, …cuối thế kỷ 19 và xuyên suốt các thập kỷ trong thế kỷ 20 . Giai đoạn này , doanh nghiệp vừa và nhỏ nhiều khi chỉ được biết đến là loại hình kinh doanh kém hiệu quả , tiền công thấp , cơ sở sản xuất lạc hậu . Nhưng cùng với sự phát triển xã hội thông tin , sự đi lên của thời tri thức , trong môi trường cạnh tranh gay gắt và không ngừng biến đổi , chúng ta đang chuyển từ quan niệm cho rằng qui mô lớn hơn là hiệu quả hơn sang quan niệm “nhỏ là đẹp”. Nền kinh tế thế giới càng lớn và rộng mở hơn , thì các công ty nhỏ và trung bình sẽ càng thống trị nhiều hơn . Tại sao doanh nghiệp vừa và nhỏ lại có vị trí quan trọng ? Đó là vì khả năng cung cấp việc làm , cơ cấu tổ chức linh hoạt , đó cũng là vì quan hệ cạnh tranh – hợp tác với doanh nghiệp lớn , là khả năng đổi mới và là hạt giống hình thành các ngành công nghiệp tương lai.
Với số lượng doanh nghiệp đông đảo bao gồm mọi thành phần kinh tế , doanh nghiệp vừa và nhỏ đã và đang có những đóng góp không thể phủ nhận vào sự phát triển kinh tế đất nước và giải quyết các vấn đề xã hội . ý nghĩa kinh tế – xã hội to lớn này không chỉ các nước phát triển mà cả nước đang phát triển cũng đều thấy rõ .
Giải quyết việc làm , tăng thu nhập cho ngưòi lao động , góp phần ổn định xã hội.
Tăng trưởng kinh tế của một quốc gia luôn gắn liền với việc giải quyết các vấn đề lớn , trong đó thất nghiệp là bài toán xã hội nhức nhối cà cấp bách của tất cả các nước trên thế giới . Sự tồn tại và phát triển các loại hình doanh nghiệp ở nhiều nước cho thấy , doanh nghiệp vừa và nhỏ là một phương tiện hiệu quả để giải quyết vấn đề việc làm . Mặc dù qui mô nhỏ , song với qui luật số lớn , doanh nghiệp vừa và nhỏ là nguồn chủ yếu tạo ra việc làm.
Nhìn chung , ở các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển , doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 90- 98% tổng số doanh nghiệp một quốc gia, và giải quyết công ăn việc làm cho khoảng 2/3 lực lượng lao động xã hội. Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Nhật Bản thu hút được 78% tổng số lao động . Xí nghiệp hương trấn và khu vực ngoài quốc doanh thành thị đã cung cấp gấp đôi số việc làm so với khu vực quốc doanh , cho hơn 100 triệu lao động Trung Quốc , trong đó tỷ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn đã tăng từ 7,2% năm 1978 và lên tới 23,82% sau mười năm . Còn tại Đài Loan , doanh nghiệp vừa và nhỏ cung cấp hơn 70% việc làm cho người lao động , có năm con số này lên tới 80%.
Việt Nam chúng ta từ năm 1986 trở lại đây , vấn đề việc làm , vấn đề trình độ lao động thấp kém trong tình trạng dân số không ngừng gia tăng luôn tạo ra sức ép cho toàn xã hội , cả ở nông thộn lẫn thành thị . Tỷ lệ thất nghiệp chính thức là 7% ở thành phố và dự tính khoảng 30% ở nông thôn . Thực tế cho thấy , riêng ở khu vực nhà nước , năm cao nhất cũng chỉ thu hút được 1,6 triệu lao động . Trong khi đó chỉ riêng khu vực kinh tế tư nhân và hộ gia đình (98% là doanh nghiệp vừa và nhỏ ) đã cung cấp hơn 90% cơ hội việc làm cho lao động ở Việt Nam .
Tỷ trọng lao động trong các hình thức doanh nghiệp ,
1995-1998
1996(%)
1997(%)
1998(%)
Tổng
100,00
100,00
100,00
Nhà nước
9,08
9,19
9,1
-Doanhnghiệpnhànước
5,13
5,16
5,18
-Cơ quan hành chính
3,63
3,67
3,59
-Khối tập thể
0,32
0,36
0,33
Tư nhân
90,28
90,17
90,23
-Hộ gia đình và nông dân
89,21
89,02
88,93
-Khối tư nhân chính thức
1,07
1,16
1,31
Khối đầu tư nước ngoài
0,64
0,64
0,67
Cung cấp một khối lượng lớn , đa dạng và phong phú về sản phẩm , đóng góp vào kết quả hoạt động kinh tế .
Chiếm đa số các doanh nghiệp trong nền kinh tế , với khả năng thích nghi cao và nhiều lợi thế về vốn , công nghệ và qui mô nhỏ gọn , doanh nghiệp vừa và nhỏ phân bố trong hầu hết mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh và có mặt trên mọi khu vực lãnh thổ . ở Nhật Bản , hàng năm doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp hơn 55% GDP. Con số này ở Mỹ là hơn 50% , ở Đức là 53% .Trong khi đó, giá trị sản phẩm những năm 1980- 1991 của các xí nghiệp hương trấn Trung quốc đã có tỷ trọng tăng từ 43,14% lên 57,08% trên tổng giá trị sản phẩm ở nông thôn .
ở Việt Nam , chỉ tính riêng trong lĩnh vực công nghiệp , hàng năm các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tạo hơn 30% giá trị sản lượng ; hơn 50%giá trị công nghiệp địa phương và đóng góp khoảng 24%GDP . Trong tổng mức hàng hoá và dịch vụ bán lẻ , hàng năm doanh nghiệp vừa và nhỏ cung cấp khoảng 80%tổng mức bán lẻ của thị trường xã hội . Nếu không có sự tồn tại của doanh nghiệp vừa và nhỏ với mọi loại hình sở hữu , thì thị trường nội địa rất có thể đã bị chiếm lĩnh bởi hàng hoá Trung Quốc , hàng ngoại nhập lậu trong nhiều lĩnh vực các doanh nghiệp lớn còn có bở ngỏ , như ăn uống , may mặc , hàng tiêu dùng.
Huy động vốn và tận dụng các nguồn lực xã hội khác.
Trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước , ước tính mỗi năm chúng ta cần phải bỏ ra rất nhiều vốn đầu tư . Thực tế cho thấy các ngành sản xuất kinh doanh , các doanh nghiệp đang thiếu vốn trầm trọng , nguồn vốn đầu tư nước ngoài từ khi Việt Nam mở cửa đang thu hẹp dần , trong đó lại tồn tại một nghịch lý là vốn trong dân rất nhiều nhưng lại không huy động được . Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng đó , nhưng nguyên nhân chủ yếu là do môi trường đầu tư chưa thật thuận lợi và không ổn định . Trong tình hình đó , việc khởi sự một doanh nghiệp có qui mô nhỏ hoặc vừa sẽ có lợi thế vốn nhỏ , khả năng thu hồi vốn nhanh , đồng thời chính doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ tạo cơ hội cho đông đảo dân cư có thể tham gia góp vốn đầu tư. Đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân hay các hộ gia đình , hợp tác xã vừa huy động được vốn tự có của cá nhân , vừa tận dụng được các nguồn đầu tư phong phú đa dạng trong xã hội. Ước tính với trên 400.000doanh nghiệp công nghiệp ở mọi thành phần kinh tế đã thu hút khoảng 25.000 tỷ đồng , chưa kể phần thu hàng ngàn tỷ đồng nhàn rỗi khác phục vụ cho nhu cầu ngắn hạn về vốn của doanh nghiệp.
Đồng thời , với qui mô nhỏ , gọn các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường sử dụng nguyên vật liệu tại chỗ , thuộc phạm vi địa phương dễ khai thác sử dụng . Khi trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ khảo sát 1000 doanh nghiệp nhỏ, thì có tới 80% nguồn nguyên vật liệu cung ứng cho doanh nghiệp là khai thác từ địa phương. Kỹ thuật , trang thiết bị trong doanh nghiệp vừa và nhỏ có đặc điểm không đòi hỏi đầu tư tốn kém , và phần lớn cũng là sản phẩm sản xuất trong nước . Ưu thế này đặc biệt có ý nghĩa trong điều kiện Việt Nam cần phát triển hơn nữa mô hình làm ăn hiệu quả trong các ngành nghề truyền thống , tiểu thủ công nghiệp .
Làm cho nền kinh tế năng động hiệu quả hơn
Do số lượng các doanh nghiệp tăng lên rất lớn làm tăng tính cạnh tranh, giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế , đồng thời làm tăng số lượng và chủng loại hàng hoá dịch vụ trong nền kinh tế . Ngoài ra , các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng thay đổi mặt hàng , công nghệ và chuyển hướng kinh doanh nhanh làm cho nền kinh tế văng động hơn . Sự có mặt của các doanh nghiệp vừa và nhỏ lớn kinh doanh có hiệu quả hơn :làm đại lý , vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn , giúp tiêu thụ hàng hoá , cung cấp các đầu vào như nguyên liệu , thâm nhập vào mọi ngõ ngách thị trường mà các doanh nghiệp lớn không với tới được .
Góp phần quan trọng vào việc tạo lập sự phát triển cân đối và hoàn thiện cơ cấu kinh tế .
Kinh tế thị trường phát triển nhưng lại kèm theo sự phân hoá giàu nghèo giữa dân cư các vùng , giữa thành thị với nông thôn , giữa các ngành lợi thế và kém lợi thế , thực tế này gây ra trạng thái mất cân đối nghiêm trọng trong nhiều nền kinh tế . Chính doanh nghiệp vừa và nhỏ là lực lượng doanh nghiệp có vai trò tích cực xoá đi sự mất cân bằng này . Hơn nữa , việc phát triển mạnh loại hình doanh nghiệp này có ý nghĩa lớng trong quá trình chuyển dịch kinh tế theo hướng công nghiệp hoá , hiện đại hoấ đặc biệt ở nông thôn :
Cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi , mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế được tăng cường : doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng trưởng cả về chất lượng; doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại , kinh doanh có hiệu quả hơn.
Cơ cấu ngành : bên cạnh các hoạt động thầu phụ , gia công sản phẩm cho các ngành công nghệ cao , doanh nghiệp vừa và nhỏ phân bố trong hầu hết các lĩnh vực công nghiệp nhẹ , đảm nhận việc phát triển hàng tiêu dùng , khội phục và phát triển nhiều ngành nghề , làmg truyền thống .
Cơ cấu lãnh thổ : doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nhiều nước phân bố đều khắp các khu vực thành phố và nông thôn , đặc biệt tại các địa bàn lãnh thổ doanh nghiệp lớn . Tuy nhiên , ở Việt Nam doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa phát huy vai trò tích cực của mình tại khu vực nông thôn , mật độ tập trung ở các đô thị lớn còn cao , sự phối hợp sản xuất kinh doanh còn manh mún.
Những ưu thế và hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Những ưu thế :
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng thoả mãn nhu cầu có hạn trong những thị trường chuyên môn hoá , khuynh hướng sử dụng nhiều lao động với trình độ kỹ thuật trung bình thấp , đặc biệt là sự mềm mại và nhanh chóng thích nghi với các nhu cầu và thay đổi của kinh tế thị trường , doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể bước vào các thị trường mới mà không thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp lớn , và sẵn sàng phục vụ ở những nơi xa xôi nhất hoặc các khoảng trống vừa và nhỏ của thị trường . Vì maketing khối lượng lớn thường là mối quan tâm của các doanh nghiệp lớn . Doanh nghiệp vừa và nhỏ là loại hình sản xuất lấy quyền sở hữu phân tán thay cho địa điểm sản xuất tập trung , tổ chức bộ máy chỉ đạo gọnh nhẹ do vậy nó có nhiều điểm mạnh:
Dế dàng khởi sự và năng động nhạy bén với thị trường . Doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ cần một số vốn hạn chế , một mặt bằng nhỏ hẹp đã có thể khởi sự doanh nghiệp . Vòng quay sản phẩm nhanh do đó có thể sử dụng vốn tự có , hoặc vay bạn bè , người thân dễ dàng , tổ chức quản lý gọn nhẹ dễ quyết định , khi nhu cầu thị trường thay đổi hoặc doanh nghiệp gặp khó khăn thì dễ dàng thay đổi tình thế , nội bộ dễ thống nhất .
Dễ dàng phát huy bản chất hợp tác . Nền sản xuất càng phát triển càng đòi hỏi có sự chuyên môn hóa sâu và hiệp tác hoá rộng . Tuy nhiên doanh nghiệp vừa và nhỏ thường chỉ có thể tiến hành một hoặc một vài công đoạn trong quá trình sản xuất một sản phẩm hoàn chỉnh , mà các công đoạn sản xuất phải kết hợp với nhau để hoàn thành một sản phẩm hoàn chỉnh đưa ra tiêu thu trên thị trường , do đó các doanh nghiệp phải tự hoàn chỉnhbản thân mình và tiến hành hợp tác sản xuất , nếu không sẽ bị đào thải .
Thu hút nhiều lao động , hoạt động có hiệu quả với chi phí cố định thấp . Do các doanh nghiệp có vốn ít nên đầu tư vào tài sản cố định cũng ít , họ thường tận dụng lao động thay thế cho vốn , đặc biệt các nước có nguồn lao động dồi dào và nhân công rẻ .
Không hoặc có ít xung đột giữa người sử dụng lao động và người lao động . Do quy mô vừa và nhỏ , sự ngăn cách giữa người sử dụng lao động và người lao động không lớn , và bản thân người chủ , người sử dụng lao động luôn sát với công việc của người lao động , do vậy nếu có xung đột , mâu thuẫn cũng dễ dàng giải quyết .
Có thể duy trì sự tự do cạnh tranh . Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường không có tình trạng độc quyền , họ dễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh . Tự do cạnh tranh là con đường tốt nhất đêt phát huy mọi tiềm lực .
Có thể phát huy tiềm lực thị trường trong nước . Sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở giai đoạn đầu là phương thức tốt để sản xuất thay thế nhập khẩu . Các nước đang phát triển như nước ta , chỉ cần lựa chọn một số mặt hàng để sản xuất thay thế nhập khẩu với mức chi phí và vốn đầu tư thấp , kỹ thuật không phức tạp , sản phẩm phù hợp với sức mua của dân , từ đó nâng cao năng lực sản xuất lẫn sức mua của thị trường .
Dễ dàng tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể phát triển ở khắp mọi nơi, mọi vùng của đất nước, lấp vào khoảng trống và thiếu vắng của doanh nghệp lớn, tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng, đây là một chiến lược kinh tế xã hộ quan trọng của đất nước .
Có thể nhanh chóng giảm bớt nạn thất nghiệp. Doanh nghiệp vừa và nhỏ lấy mục tiêu phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân là chủ yếu , do vốn đầu tư thấp và thường thu hút nhiều việc làm , giải quyết được tình trạng thất nghiệp ở từng địa phương , nâng cao giá thị ngày công , có lợi cho nhân dân.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là nơi đào luyện các nhà doanh nghiệp và là cơ sở kinh tế ban đầu để phát triển thành doanh nghiệp lớn . Có thể nói môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ như hiện nay là điều kiện tốt để đào tạo , sàng lọc ra các nhà doanh nghiệp trẻ có tài , có năng lực.
Những bất lợi :
Hiện nay , việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ phần lớn gặp nhiều bất lợi . Trước hết phải nói đến nguồn vốn . Do quy mô nhỏ , vốn ít nên khó khăn trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng trang thiết bị , nhà xưởng. Việc áp dụng công nghệ hiện đại cũng gặp rất nhiều khó khăn đặc biệt là công nghệ đòi hỏi vốn đâù tư lớn , do đó ảnh hưởng tới năng suất , chất lượng và hiệu quả , hạn chế khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có nguồn vốn hạn chế và còn thiếu kinh nghiệm do đó rất thiếu nguồn nhân lực được đào tạo , có trình độ tay nghề , yên tâm với công việc …Mặt khác đội ngũ chủ doanh nghiệp chưa được đào tạo để thích nghi với nền kinh tế thị trường và cơ chế quản lý mới , nên thiếu năng lực để quản lý , điều hành doanh nghiệp , thiếu kiến thức tiếp thị và quản trị kinh doanh.
Khả năng tiếp cận thị trường còn yếu . Phần lớn các doanh nghiệp chưa tự tìm được khách hàng , chưa có mạng lưới khách hàng , chưa có kinh nghiệm thiết lập quan hệ kinh doanh với các bạn hàng. Sự hiểu biết của các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ về thị trường nước ngoài và xu thế của nó , về các nghiệp vụ ngoại thương , các quy định của quốc tế , của các nước khác và của ngay trong nước liên quan đến quản lý xuất nhập khẩu còn chưa thấu đáo . Nhiều chủ doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng truyền thống để xuất khẩu nhưng lại chưa được đào tạo về nghiệp vụ xuất nhập khẩu . Những hạn chế đó nhiều khi dẫn đến những phức tạp , rủi ro không đáng có . Ngay cả rào cản về ngôn ngữ cũng là một trở ngại . Số lượng các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng trực tiếp đàm phán với doanh nhân nước ngoài không cần phiên dịch không nhiều .
Do tình trạng sản xuất manh mún nên sản phẩm của các doanh nghiệp này thiếu tính đồng bộ về tiêu chuẩn , về chất lượng kỹ thuật . Việc thu gom hàng để kuất khẩu vì thế cũng rất khó khăn . Trong khi đó hàng xuất khẩu của một số nước đưa ra thị trường thế giới vẫn bị đối xử , phân biệt , chịu những rào cản thương mại như thuế quan cao hhơn , các biện pháp bảo vệ vê sinh – dịch tễ và tiêu chuẩn kỹ thuật , làm cho khả năng xâm nhập thị trường giảm xuống.
Bên cạnh đó , một số thủ tục hành chính còn chưa tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ áp dụng những ý tưởng mới vào kinh doanh, phát huy tính năng động , linh hoạt – một ưu thế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ .
III. Tính tất yếu khách quan của phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ :
Lịch sử ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hoá gắn liền với sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp . Giai đoạn tiền sử không có sự phân biệt giữa giới chủ và người thợ . Người sản xuất hàng hoá vừa là người chủ sở hữu tư liệu sản xuất , vừa là người lao động trực tiếp , vừa là người quản lí công việc của mình (của gia đình mình ), vừa là người trực tiếp mang sản phẩm của mình trao đổi trên thị trường . Đó là loại doanh nghiệp cá thể , doanh nghiệp gia đình , doanh nghiệp cực nhỏ . Trong thời kỳ hiện đại , thông thường đại đa số những người khi mới trưởng thành để đi làm việc được đều muốn thử sức mình trong kinh doanh . Với một số vốn trong tay ít ỏi , với một trình độ nhất định , lĩnh hội được trong các trường chuyên nghiệp , bắt đầu khởi nghiệp , phần lớn hộ đều thành lập doanh nghiệp nhỏ chỏ của riêng mình , tự sản xuất , tự kinh doanh.
Trong sản xuất kinh doanh có một số người gặp vận may và đặc biệt là nhờ sự tài ba của mình biết chớp thời cơ có sáng kiến cải tiến kỹ thuật , khéo điều hành và tổ chức sắp xếp công việc , cần cù , chịu khó tiết kiệm , và thành đạt , ngày càng giàu lên , tích luỹ được nhiều của cải , tiền vốn , thường xuyên mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh , đến một lúc nào đó , lực lượng của gia đình không đảm đương hết công việc , cần phải thuê thêm người làm và họ trở thành ông chủ . Ngược lại , một bộ phận người sản xuất hàng hoá nhỏ khác hoặc do không gặp vận may trong sản xuất kinh doanh và đời sống, hoặc do kém cỏi không biết chớp thời cơ , không có sáng kiến cải tiến kỹ thuật , không biết tính toán quản lý và điều hành doanh nghiệp đã dẫn đến thua lỗ triền miên , buộc phải bán tư liệu sản , đi làm thuê cho người khác . Những giai đoạn đầu , các ông chủ và những người thợ cùng lao động trực tiếp với nhau và những người làm thuê thường là bà con họ hàng của ông chủ sau đó thì mở rộng dần ra . Các học giả thường xếp loại này vào phạm trù doanh nghiệp vừa và nhỏ .
Trong qua trình sản xuất kinh doanh , một số người thành đạt đã phát triển doanh nghiệp của mình bằng cách mở rộng sản xuất kinh doanh và như vậy nhu cầu về vốn sẽ đòi hỏi nhiều hơn. Nhu cầu về vốn ngày càng tăng , nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đã thôi thúc các nhà doanh nghiệp hoặc một số người cùng nhau góp vốn thành lập xí nghiệp sản xuất kinh doanh , hoặc phát hành cổ phiếu thành lập công ty cổ phần . Bằng cách liên kết ngang, liên kết dọc hoặc hỗn hợp nhiều nhiều tập đoàn kinh tế , nhiều doanh nghiệp lớn được hình thành và phát triển.
Nền kinh tế một quốc gia là tổng hợp các doanh nghiệp lớn , bé tạo thành. Phần đông các doanh nghiệp lớn , trưởng thành , phát triển từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ . Quy luật đi từ nhỏ đến lớn là tất yếu của sự phát triển bền vững mang tính phổ biến của đại đa số các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường .Đồng thời sự tồn tại của đại đa số các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường . Đồng thời sự tồn tại đan xen và kết hợp các loại quy mô doanh nghiệp làm cho nền kinh tế của mỗi nước khắc phục được tính đơn điệu , xơ cứng , tạo nên sự đa dạng , phong phú , linh hoạt , vừa đáp ứng những nhu cầu phát triển đi lên dần những biến đổi nhanh chóng của thị trường trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại , đảm bảo tính hiệu quả chung của nền kinh tế .
Để phát triển nền kinh tế đất nước không thể không có các doanh nghiệp lớn với tiềm lực kinh tế , kỹ thuật hiện đại nhằm tạo khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế . Ngoài việc xây dựng các doanh nghiệp lớn thật cần thiết chúng ta phải tích cực tập trung hình thành các doanh nghiệp vừa và nhỏ , tạo điều kiện cho nó sớm vươn lên thành những doanh nghiệp lớn . Đây thực sự là việc cần phải làm trong giai đoạn phát triển hiện nay.
Phần 2: phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
Tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
Việt Nam
Quá trình hình thành và phát triển :
Trước năm 1986 , các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh nói chung , doanh nghiệp tư nhân , cá thể nói riêng , chưa thật sự được quan tâm khuyến khích hỗ trợ phát triển , do vậy họ phải tổ chức hoạt động núp dưới bóng các hình thức khác nhau như tổ hợp , hộ gia đình , hợp tác xã , xí nghiệp công tư hợp doanh… Chỉ từ khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần , thừa nhận sự tồn tại lâu dài các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất kinh doanh , thì khu vực kinh tế tư nhân mới thật sự yên tâm bỏ vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh , cũng từ đó hàng loạt cơ sở sản xuất kinh doanh tư nhân , cá thể , hộ gia đình …ra đời và phát triển , góp phần đáng kể vào giải quyết việc làm , tăng thu nhập cho người lao động . Cuộc khảo sát 1000doanh nghiệp nhỏ năm 1991 ở 8 tỉnh trên cả hai miền đất nước đã kết luận :có tới 49%số doanh nghiệp được điều tra đã tồn tại từ trước năm 1986 , trong đó phần lớn là doanh nghiệp tư nhân , nhưng dưới các hình thức tên gọi khác , còn 51%số doanh nghiệp ra đời trong khoảng thhời gian tư 1987-1991. Thời kỳ 1992-1994 là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của doanh nghiệp tư nhân , với các hình thức xí nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn , công ty cổ phần , sự giảm sút của các hợp tác xã , tổ hợp đã chững lại.
Tốc độ hình thành và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ nhìn chung là tương đối nhanh , giai đoạn 1990- 1994 mỗi năm tăng thêm 15-20%cơ sở mới . Khu vực doanh nghiệp nhà nước, năm 1990 là năm có số doanh nghiệp cao nhất: 12.000doanh nghiệp , trong đó có trên 50%thuộc công nghiệp phía Bắc là 225 lao động và 125 đối với phía Nam. Tính đến 12/1993 cả nước có khoảng 17.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ chính thức đăng ký hoạt động với các hình thức là doanh nghiệp nhà nước , xí nghiệp tư nhân , công ty trách nhiệm hữu hạn , công ty cổ phần , xí nghiệp liên doanh và khoảng gần 500.000cơ sở sản xuất công nghiệp nhỏ khác .
Đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam :
Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ có ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển và việc hoạch định chính sách đối với các doanh nghiệp này .Tình trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ như hiện nay có nguyên nhân sâu xa từ những điều kiện lịch sử xa xưa cũng như do mô hình kinh tế cũ tá._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0248.doc