Phần mở Đầu
1-Lý do chọn đề tài
Thực hiện đường lối chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, được sự đồng tình hưởng ứng tích cực của nhân dân, khu vực kinh tế tư nhân gồm cả kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân d
105 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1531 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Đổi mới chính sách tài chính để phát triển kinh tế tư nhân trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam (105tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị -xã hội của đất nước. Cùng với các thành phần kinh tế khác, sự phát triển của kinh tế tư nhân đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó kinh tế tư nhân của nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém như: Phần lớn có quy mô nhỏ, vốn ít, khả năng tích tụ, huy động vốn kinh doanh còn thấp; thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh, môi trường pháp lý và môi trường tâm lý xã hội chưa thuận lợi, không ít đơn vị vi phạm pháp luật, trốn lậu thuế, gian lận thương mại, kinh doanh trái phép…
Quan điểm của Đảng trên một số vấn đề cụ thể về phát triển kinh tế tư nhân chưa được làm rõ để tạo sự thống nhất cao. Một số cơ chế chính sách của Nhà nước chưa phù hợp với đặc điểm của kinh tế tư nhân đại bộ phận có quy mô nhỏ và vừa; quản lý có phần buông lỏng và có những sơ hở, hạn chế việc thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển đúng hướng.
Đây thực sự là những rào cản cần được tháo gỡ giúp cho kinh tế tư nhân phát triển. Nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém, tạo điều kiện để kinh tế tư nhân trở thành một trong những “bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” thì những cơ chế, chính sách tài chính đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
Đề tài “Đổi mới chính sách tài chính để phát triển kinh tế tư nhân trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam” với mục đích nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và đề ra các giải pháp nhằm đổi mới chính sách tài chính để phát triển kinh tế tư nhân trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam.
2-Tình hình nghiên cứu
Thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận án và luận văn nghiên cứu về chính sách tài chính đối với các lĩnh vực kinh tế như; Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện chính sách tài chính để phát triển kinh tế tư bản Nhà nước” của tác giả Phạm Ngọc Dũng (Học Viện tài chính) chuyên ngành tài chính, lưu thông tiền tệ và tín dụng, Luận văn Thạc sĩ kinh tế “Đổi mới chính sách tài chính nhằm tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp Việt nam” của tác giả Nguyễn Quang Thuỵ, chuyên ngành kinh tế chính trị và rất nhiều bài viết như; “Chính sách tài chính hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân” của tác giả PGS.TS Bạch Thị Minh Huyền (Phó vụ trưởng vụ chính sách tài chính; “Đổi mới chính sách tài chính hộ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa” của tác giả Ths Đỗ Minh Tuấn- Viện khoa học tài chính... nhưng đến nay chưa có ai nghiên cứu một cách có hệ thống về chính sách tài chính và vai trò của nó đối với kinh tế tư nhân. Do đó tôi đã chọn đề tài này
3-Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở khẳng định vai trò của kinh tế tư nhân ở Việt nam hiện nay, nhìn nhận các chính sách tài chính đã thực thi trong thời gian qua đối với kinh tế tư nhân, từ đó kiến nghị một số giải pháp đổi mới các chính sách tài chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân ở Việt nam.
4-Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là lý luận về chính sách tài chính, thực trạng các chính sách tài chính đối với kinh tế tư nhân thời gian qua và các định hướng hoàn thiện chính sách tài chính để phát triển kinh tế tư nhân trong kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu lý luận về chính sách tài chính và các chính sách tài chính đối với sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân từ sau đổi mới đến nay và đưa ra một số giải pháp nhằm đổi mới chính sách tài chính để phát triển kinh tế tư nhân. Trong phạm vi luận văn, tác giả chỉ đề cập đến khu vực kinh tế tư nhân ở phạm vi hẹp hơn so với thực chất của nó, nghĩa là chỉ nghiên cứu kinh tế tư nhân trong nước chứ không bao gồm cả kinh tế tư nhân của nước ngoài tại Việt nam.
5-Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, lấy phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin làm phương pháp luận. Đồng thời luận văn sử dụng các phương pháp tư duy trừu tượng, phân tích thống kê, diễn giải quy nạp và kiểm chứng trên cơ sở dữ liệu khảo sát thực tiễn.
6-Những dự kiến đóng góp mới của luận văn
-Luận văn hệ thống hoá lý luận về chính sách tài chính và vai trò của chính sách tài chính đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân.
-Phân tích, đánh giá, thực trạng của chính sách tài chính đối với kinh tế tư nhân ở Việt nam thời gian qua.
Trên cơ sở đó luận văn đề xuất những quan điểm và giải pháp nhằm đổi mới chính sách tài chính để phát triển kinh tế tư nhân ở Việt nam.
7-Kết cấu của luận văn
Kết cấu chính của luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm chung về đổi mới chính sách tài chính để phát triển kinh tế tư nhân trong kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Chương 2: Thực trạng chính sách tài chính đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân ở Việt nam.
Chương 3: Quan điểm cơ bản và các giải pháp đổi mới chính sách tài chính để phát triển kinh tế tư nhân ở Việt nam.
Chương 1
Những vấn đề Lý luận và kinh nghiệm chung
về đổi mới chính sách tài chính để phát triển kinh tế tư nhân trong kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
1.1. Lý luận về chính sách tài chính và vai trò của nó đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân trong kinh tế thị trường định hướng XHCN
1.1.1. Kinh tế tư nhân và vai trò của nó trong kinh tế thị trường định hướng XHCN.
* Khái niệm về kinh tế tư nhân
Khu vực kinh tế tư nhân bao gồm hai thành phần kinh tế: kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân là hình thức kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về vốn và tư liệu sản xuất.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ là những đơn vị kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản xuất và hoạt động chủ yếu dưạ vào sức lao động của chính họ, ở thành thị và nông thôn, kinh tế cá thể, tiểu chủ có thể tồn tại độc lập dưới hình thức xưởng thợ gia đình, hộ làm thương mại- dịch vụ, hoặc có thể tham gia liên kết, liên doanh với các tổ hợp kinh tế khác dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Hiện nay, thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ được phát triển trong các ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh và được nhà nước tạo điều kiện giúp đỡ để phát triển năng động và có hiệu quả.
Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, do đó cần phải thuê mướn công nhân, nên sẽ có sự bóc lột những người lao động làm thuê. Như vậy, nhà tư bản tư nhân là người sản xuất kinh doanh theo kiểu tư bản chủ nghĩa để thu giá trị thặng dư do những người lao động làm ra. Để trở thành nhà tư bản, một cá nhân phải làm chủ một số tiền nhất định đủ để:
-Mua các tư liệu sản xuất cần thiết
-Thuê sức lao động để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời lợi nhuận thu được cũng phải đảm bảo:
+Đảm bảo cho gia đình và bản thân họ có mức sống cao trong xã hội mà không cần lao động trực tiếp.
+Đảm bảo có tích luỹ để tái sản xuất mở rộng.
Như vậy, nhà tư bản khác với tiểu chủ ở chỗ; quy mô sản xuất và vốn đầu tư lớn, số lao động thuê mướn và quy mô thu nhập của họ lớn hơn nhiều.
Từ sau đổi mới đến nay kinh tế tư nhân ở Việt nam được xác định là một trong những bộ phận cấu thành quan trọng của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng, tính tất yếu và sự đóng góp của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nước ta. Sự nhận thức cũng như định hướng phát triển đối với khu vực kinh tế tư nhân được nâng dần từ thấp đến cao qua các giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Hội nghị lần thứ V của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX đã ra nghị quyết số 14NQ/TW về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân đã nêu rõ: “Kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước”. Đây là khu vực kinh tế có những đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị- xã hội của đất nước
* Vai trò của kinh tế tư nhân trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam
Đối với mọi quốc gia, khu vực kinh tế tư nhân có vai trò hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế của đất nước. ở các nước Đông Nam á, khu vực tư nhân đang được đánh giá là nguồn lực chủ yếu, một mô hình phát triển thành công và là một công cụ quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đặc biệt đối với lĩnh vực xuất khẩu.
Đối với Việt nam, mặc dù trong quá trình phát triển đã trải qua nhiều thăng trầm song bước vào thời kỳ đổi mới (từ đầu năm 1990 trở lại đây) kinh tế tư nhân đã được khẳng định là một bộ phận cấu thành, có vị trí quan trọng lâu dài của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, được nhà nước tạo điều kiện, giúp đỡ để phát triển và có nhiều đóng góp cho nền kinh tế quốc dân.
Có thể thấy vai trò của kinh tế tư nhân thể hiện ở một số điểm chính sau;
Kinh tế tư nhân góp phần giải phóng sức sản xuất, thu hút mọi nguồn lực vào giải quyết việc làm, tăng thu nhập, và là nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước.
Trong những năm qua, khu vực tư nhân luôn chiếm tỷ trọng khá lớn và ổn định trong GDP, khoảng trên 50%, trong đó khu vực tư nhân trong nước chiếm khoảng trên 40%.
Năm 2000 tổng vốn sử dụng của khu vực này là 173.862 tỷ đồng, tăng 38,46% so với năm 1999. Trong đó hộ kinh doanh cá thể chiếm 36,62%; khối doanh nghiệp chiếm 63,38%. Vốn huy động đầu tư vào công nghiệp chiếm 28,77% thương mại 35,84%, còn lại thuộc các ngành khác. Vốn đầu tư phát triển là 35894 tỷ đồng, tăng 13,85 so với năm 1999, chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư của xã hội (năm 1999là 24,05%; năm 2000 là 24,31%). Tổng vốn đăng ký của khối doanh nghiệp tăng rất nhanh, năm 2000 là 13381 tỷ đồng tăng gấp hơn 4,5 lần so với năm 1996.
Có thể nói rằng khu vực tư nhân có vai trò quan trọng nhất, có tính quyết định trong việc giải quyết việc làm và tạo thu nhập cho người lao động. Tỷ trọng lao động trong khu vực tư nhân phi nông nghiệp trong nước có xu hướng tăng so với lực lượng lao động toàn xã hội: năm 1996 chiếm 11,2% năm 2000 là 12% (trong đó lao động ở hộ kinh doanh cá thể là 9,8% còn ở khối doanh nghiệp là 2,18%). Theo số liệu thống kê, năm 2000 số lao động trong khu vực tư nhân là 4.463.844 người, tăng 20,12% so với năm 1996 bình quân mỗi năm thu hút thêm được 196670 lao động. Chính việc thu hút được một số lượng đông đảo người lao động đã giúp giải quyết phần nào số lao động dôi dư trong quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước cũng như lực lượng lao động tăng lên hàng năm.
Giải quyết công ăn việc làm luôn là vấn đề bức xúc đối với hầu hết các nước trên thế giới. Sự tồn tại và phát triển các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là một phương tiện có hiệu quả để giải quyết vấn đề thất nghiệp, là nguồn chủ yếu tạo ra việc làm. Lý do đơn giản là phần lớn các doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, thường dễ dàng tạo lập với một lượng vốn không lớn, mặt khác nó thường xuyên đáp ứng được nhu cầu thay đổi của thị trường. Vì vậy, mặc dù số lượng lao động làm việc trong một doanh nghiệp tư nhân không nhiều nhưng theo quy luật số đông, với số lượng doanh nghiệp rất lớn trong nền kinh tế đã tạo ra phần lớn công ăn việc làm cho xã hội. Như vậy, xét trên góc độ giải quyết công ăn việc làm khu vực kinh tế tư nhân luôn đóng vai trò quan trọng, nhất là trong thời kỳ kinh tế suy thoái.
Phát triển kinh tế tư nhân sẽ tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi để huy động nguồn nhân lực vì:
Khu vực kinh tế tư nhân sử dụng lao động tại chỗ nên hầu như không phải giải quyết nơi ăn ở, các điều kiện về cơ sở hạ tầng khác như phương tiện giao thông, trường học, trạm xá….
Điều kiện đào tạo tay nghề cho người lao động thuận lợi hơn so với các khu vực kinh tế khác, hầu hết được đào tạo tại chỗ, thông qua kèm cặp của người nhà đã có tay nghề. Chi phí cho đào tạo không đáng kể, đồng thời qua truyền nghề như vậy sẽ duy trì được những làng nghề truyền thông, góp phần cùng xã hội dạy nghề mà chi phí chung của xã hội (kể cả chi phí của tư nhân và nhà nước) không đáng kể.
Nhu cầu về vốn để tạo ra một chỗ làm việc của khu vực kinh tế tư nhân cũng thấp hơn nhiều so với khu vực kinh tế Nhà nước hoặc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra loại hình kinh tế tư nhân có ưu điểm là huy động được vốn nhàn rỗi trong dân dưới nhiều hình thức khác nhau, sử dụng lao động ở nhiều trình độ, nhiều địa bàn và vùng khác nhau, tổ chức sản xuất phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương.
Phát triển kinh tế tư nhân cũng đem lại một nguồn ngân sách đáng kể. Theo kết quả điều tra, trong tổng số nộp ngân sách năm 2000 của các loại hình doanh nghiệp thì doanh nghiệp Nhà nước chiếm 52,7%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 37,42%, khu vực kinh tế tư nhân chiếm 9,34%. Về số tuyệt đối khu vực tư nhân đã đóng góp cho ngâ sách trên 58 tỷ đồng. Về số tuyệt đối lẫn tương đối, số nộp ngân sách của khu vực kinh tế tư nhân không nhiều so với khu vực nhà nước, nhưng nhà nước không phải trợ cấp lại cho doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân như đối với doanh nghiệp Nhà nước.
Kinh tế tư nhân cùng với kinh tế nhà nước có sự bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, tạo ra một nền kinh tế thị trường đích thực, có hiệu quả, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển mạnh mẽ.
Sự phát triển của các cơ sở kinh doanh tư nhân đã tạo ra một áp lực đáng kể buộc các doanh nghiệp nhà nước phải đổi mới để nâng cao khả năng cạnh tranh để tồn tại. Đồng thời một khu vực tư nhân lớn mạnh cũng là một dấu hiệu tối cần thiết để thực hiện thành công công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước. Nhờ sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân mà nhiều ngành nghề truyền thống ở Việt nam đã đươc hồi phục và phát triển, nhiều ngành nghề mới xuất hiện. Sản phẩm hàng hoá ngày càng phong phú, đa dạng. Trình độ kinh doanh của các cơ sở tư nhân ngày càng tiến bộ hơn, nhiều mặt hàng đã chiếm lĩnh được thị trường trong nước, thay thế được một số hàng nhập khẩu, tham gia xuất khẩu. Khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng vào việc thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực hơn.
Khu vực kinh tế tư nhân ở Việt nam còn là nơi tạo ra nhiều doanh nhân cho đất nước. Có thể sự đổ vỡ của một số doanh nghiệp là không thể tránh khỏi, nhưng sẽ xuất hiện các nhà doanh nghiệp tài năng và chính họ sẽ quyết định tương lai cho phát triển kinh tế của đất nước.
Như vậy, xét trên nhiều khía cạnh về lý thuyết và thực tiễn cũng như trên những mối qua hệ biện chứng của quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam, cho thấy rằng, kinh tế tư nhân là một hình thức kinh tế quá độ, giữ vai trò và vị thế quan trọng trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Nó là một bộ phận tất yếu cấu thành thể chế kinh tế thống nhất trong suốt quá trình đó. Do vậy, cần có một chiến lược theo đó là các chính sách và cơ chế quản lý phù hợp đối với kinh tế tư nhaan để phát huy vai trò và vị thế vốn dĩ của chúng, trước hết để thực hiện quá trình công nghiệp hoá đất nước và tiếp tục phát triển bền vững cùng voứi xu thế toán cầu hoá nền kinh tế.
1.1.2. Chính sách tài chính và vai trò của nó đối với kinh tế tư nhân trong kinh tế thị trường định hướng XHCN
1.1.2.1. Bản chất của quan hệ tài chính
Tài chính là một phạm trù kinh tế, là hệ thống các quan hệ kinh tế biểu hiện trong lĩnh vực hình thành và phân phối quỹ tiền tệ tập trung và không tập trung trong nền kinh tế.
Bản chất của quan hệ tài chính thể hiện qua các nhóm quan hệ tài chính sau:
- Nhóm quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, dân cư, các tổ chức xã hội với nhà nước.
Đây là nhóm quan hệ giá trị có tính chất bắt buộc vào ngân sách Nhà nước và sự phân phối của cải đó bảo đảm cho các hoạt động của Nhà nước. Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần của thời kỳ quá độ, nhóm quan hệ này biểu hiện ở mức độ và phạm vi khác nhau tuỳ thuộc vào hình thức sở hữu của các thành phần kinh tế cũng như cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước trong từng thời kỳ. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, quan hệ này phản ánh tính chất hai chiều. Ngân sách Nhà nước cấp phát vốn sản xuất ban đầu do Nhà nước giao cho các doanh nghiệp khi mới bưóc vào hoạt động, với tư cách là người nhận và được quyền sử dụng vốn, các doanh nghiệp đồng thời có trách nhiệm bảo toàn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và trích nộp đầy đủ, kịp thời các khoản phải nộp ngân sách… Đối với sở hữu ngoài quốc doanh quan hệ này thể hiện thông qua các khoản thuế phải nộp và sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước.
-Nhóm quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp, tổ chức xã hội, dân cư với hệ thống ngân hàng
Trong thời kỳ quá độ, quan hệ hàng hoá- tiền tệ, quan hệ thị trường được sử dụng và phát triển mạnh mẽ. Hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng ngày càng giữ vị trí quan trọng trong việc tài trợ cho các hoạt động xã hôị nói chung, sản xuất kinh doanh nói riêng.
Các mối quan hệ tài chính này được thể hiện thông qua việc các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư nhận những khoản tiền vay để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của mình, đồng thời trả nợ và trả lãi vay cho ngân hàng và ngược lại các doanh nghiệp, tổ chức xãc hội, dân cư có thể mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay, nguồn tín dụng trở thành một trong những nguồn tài chính quan trọng tài trợ cho các hoạt động của nhân dân, đặc biệt và trước hết trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
-Nhóm quan hệ tài chính giữa các chủ thể kinh tế với thị trường
Đây là mối quan hệ thể hiện sự mua – bán các “quỹ tiền tệ” tồn tại dưới các hình thức khác nhau. Trong thời kỳ quá độ, các quan hệ này được sử dụng và mở rộng nhằm phát huy tối đa mọi nguồn lực tài chính trong xã hội. Tham gia vào thị trường tài chính có mặt hầu hết các chủ thể kinh tế trong xã hội.đặc biệt quan trọng trong các mối quan hệ này là quan hệ mua bán vốn giữa các doanh nghiệp và nhân dân nói chung. Nhà nước cũng tham gia vào nhóm các quan hệ tài chính này với tư cách như người mua và bán các quỹ tiền tệ. Nhà nước bán quỹ tiền tệ của mình bằng việc phát hành công trái.
Trong mối quan hệ tài chính này quan hệ mua bán ‘vốn” giữa các doanh nghiệp và dân cư với nhau là đặc biệt quan trọng. Nhà nước cần tạo ra các điều kiện và biện pháp hữu hiệu để vừa hướng dẫn, điều tiết sự hình thành và phát triển của thị trường tài chính, vừa chống lại tính tự phát và sự lũng đoạn trên thị trường tài chính nhằm đưa nền kinh tế phát triển theo phương hướng đã định.
-Nhóm quan hệ tài chính trong nội bộ mỗi chủ thể.
Biểu hiện của quan hệ này là sự dịch chuyển của giá trị trong quá trình hoạt động của mỗi tổ chức như việc chi trả lương, thưởng cho viên chức, công nhân, người lao động; các khoản thu về tiền phát do vi phạm hợp đồng, vi phạm vật chất hay việc phân phối điều hoà vốn, phân phối thu nhập giữa các thanh viên trong nội bộ tổ chức.
Tài chính có hai chức năng là chức năng phân phối và chức năng giám đốc.
Hệ thống tài chính tương đối rộng bao gồm nhiều lĩnh vực: ngân sách Nhà nước, lưu thông tiền tệ - tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm, Tài chính doanh nghiệp, tàichính hộ gia đình v.v.. Hoạt động tài chính đan xen vào mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, cả tầm vĩ mô cũng như tầm vi mô. Tài chính có tác động trực tiếp và ảnh hưởng mạnh mẽ đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Vì vậy tài chính có vai trò to lớn đối với toàn bộ hoạt động kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân cũng như đối với hoạt động quản lý của Nhà nước.
1.1.2.2. Chính sách tài chính
Để ổn định nền tài chính của đất nước, Nhà nước cần ban hành hệ thống chính sách tài chính, đó là những đường lối và biện pháp về tài chính trong một thời kỳ tương đối dài. Thông qua việc ban hành các chính sách tài chính, Nhà nước thực hiên phân phối và phân phối lại các nguồn thu nhập và các quỹ tiền tệ, giám sát, kiểm tra việc huy động, hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm mục đích phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân.
Như vậy, Chính sách tài chính là hệ thống các quan điểm, chủ trương, biện pháp mà Nhà nước ban hành nhằm giải quyết các quan hệ tài chính.
* Nội dung của chính sách tài chính
Nếu hiểu theo nghĩa rộng, chính sách tài chính là hệ thống các quan hệ kinh tế trong phân phối các nguồn lực tài chính thông qua quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ để thoả mãn những nhu cầu của các chủ thể trong phát triển kinh tế- xã hội thì chính sách tài chính đầy đủ phải bao hàm cả chính sách tài chính- tiền tệ và tín dụng.
- Chính sách huy động vốn
Cần đưa ra được các mục tiêu huy động vốn, nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho các thời kỳ, xác định các nguồn vốn và các giải pháp để huy động các nguồn vốn hợp lý nhất, có chính sách để phát triển mạnh mẽ thị trường tài chính, góp phần tăng khả năng giao lưu vốn.
Ngoài các hình thức huy động vốn thông qua kênh ngân sách nhà nước, qua hệ thống ngân hàng, quỹ bảo hiểm và qua kho bạc nhà nước, cần có chính sách huy động vốn đa dạng, phong phú, thực hiện bằng nhiều kênh, nhiều tuyến.
Có thể khái quát chính sách huy động vốn về các mặt sau:
-Thực hành tiết kiệm, coi tiết kiệm là quốc sách, giữ lại 10% trong kinh phí ngân sách chuyển cho năm sau.
-Đa dạng hoá các kênh huy động vốn như phát hành cổ phiếu, trái phiếu, đẩy mức xã hội hoá các chi phí giáo dục, y tế lên một bước mới, coi huy động tiềm lực trong dân là quan trọng.
-Tổ chức hoàn thiện thị trường vốn ngắn hạn và dài hạn, tiến tới tổ chức huy động vốn qua thị trường chứng khoán.
-Đa dạng hoá các loại hình tài chính trung gian, các quỹ đầu tư, quỹ hõ trợ, tạo môi trường cạnh tranh trong huy động vốn, tạo điều kiện để các nhà kinh doanh nhỏ có nhiều cơ hội tự bỏ vốn, hoặc liên kết, liên doanh đầu tư.
-Muốn huy động vốn tốt cần có chiến lược bổ trợ quan trọng thông qua chính sách thuế, lãi suất, tỷ giá, triết khấu và bổ trợ khác.v.v..
-Chính sách hội nhập, mở cửa, huy động vốn bên ngoài…, coi đầu tư trực tiếp là hàng đầu, coi đầu tư kiểu tô nhượng là rất quan trọng.
-Nguồn ODA gắn chặt việc vay nợ với trách nhiệm trả nợ, tiến độ trả nợ, quản lý nợ thật chặt chẽ, cố gắng trả nợ đúng thời hạn.
-Có chiến lược xuất khẩu, du lịch, thu hút kiều hối…góp phần cân đối nguồn tiền vào với lượng tiền ra cân đối cán cân thanh toán..v.v..
- Chính sách ngân sách
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu được của Nhà nướcđể đảm bảo các khoản chi cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước.
Trong hệ thông tài chính, ngân sách nhà nước là một bộ phận chủ đạo, là điều kiện vật chất quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước do Hiến pháp quy định. Ngân sách nhà nước còn là công cụ quan trọng của Nhà nước có tác dụng điều tiết vĩ mô đời sống kinh tế, xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng.
Chính sách ngân sách bao gồm các nội dung
+Xác định tỷ lệ động viên vốn từ các nguồn khác nhau. Các hình thức và các giải pháp để động viên tập trung vốn cho nhà nước.
+ Phân phối và sử dụng vốn cho các nhu cầu để thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội.
+ Tổ chức cân đối ngân sách và có chính sách để xử lý tốt bội chi ngân sách.
- Chính sách thuế
Nghiên cứu ban hành một hệ thống thuế gồm các sắc thuế khác nhau, bảo đảm bao quát được nguồn thu và phát huy được tác dụng tích cực của mỗi sắc thuế đến các mặt đời sống xã hội, có các giải pháp tích cực để quản lý hệ thống thuế.
- Chính sách tài chính doanh nghiệp
Là hệ thống các chính sách về huy động vốn, quản lý sử dụng vốn trong quá trình sản xuất, kinh doanh, phân phối thu nhập, tạo lập và sử dụng các quỹ khuyến khích của doanh nghiệp.
Sự tạo lập các quỹ này ban đầu có thể dựa vào thị trường tài chính, thu hút vốn qua việc huy động vốn cổ phần hay vay (phát hành trái phiếu, vay ngân hàng). Sau đó các quỹ này được bổ sung, tái tạo nhờ sự xuất hiện các nguồn tài chính trong doanh nghiệp thông qua việc phân phối để tạo lập các quỹ bù đắp, các quỹ từ lợi nhuận.
- Chính sách tài chính đối ngoại
Là hệ thống các quan điểm chính sách trong quan hệ của một nước với các nước các tổ chức quốc tế, trong các hoạt động huy động vốn nước ngoài, thanh toán quốc tế, quản lý ngoại hối, nhằm thức đẩy giao lưu kinh tế giữa các quốc gia.
- Chính sách kế toán, kiểm toán và thanh tra tài chính
Là những chính sách quy định công tác kế toán, kiểm toán và thanh tra tài chính, nhằm đảm bảo cung cấp hệ thống thông tin phục vụ cho hoạt động quản lý của nhà nước và của doanh nghiệp, phát hiện và xử ký những trường hợp làm sai chính sách, chế độ để đảm bảo cho các đơn vị chấp hành tốt các quy định của pháp luật.
- Chính sách tiền tệ tín dụng
Bao gồm các chính sách về lãi suất, tỷ giá hối đoái, tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc nhằm ổn định tiền tệ, tác động tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Những bộ phận kể trên có quan hệ mật thiết với nhau, hợp thành hệ thống chính sách tài chính thống nhất phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế- xã hội.
* Đặc điểm của chính sách tài chính
- Chính sách tài chính là loại chính sách rất nhạy cảm
Những nội dung và những điều chỉnh của chính sách tài chính thường rất nhạy cảm đối với đời sống kinh tế xã hội. Việc ban hành, sửa đổi, bổ sung một bộ phận nào đó trong chính sách tài chính có thể gây ra những phản ứng dây chuyền. Bởi vì trong nền kinh tế, các cá nhân, các doanh nghiệp, các nhà đầu tư... là đối tượng điều chỉnh của chính sách này hay chính sách khác, khi những quy định của chính sách làm lợi cho họ, sẽ có sự đồng tình ủng hộ. Ngược lại nếu những quy định của chính sách gây những khó khăn bất lợi cho họ, thì các chủ thể kinh tế sẽ có những phản ứng để bảo vệ lợi ích của mình. Chẳng hạn, khi chính phủ tăng thuế, có thể gây ra những làn sóng phản đối của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Thuế tăng sẽ làm cho thu nhập của họ giảm, sẽ ảnh hưởng đến tích luỹ và đầu tư của doanh nghiệp và dân cư. Do đó đối với chính phủ khi ban hành một sắc thuế mới hoặc điều chỉnh tăng thuế đều phải có cân nhắc rất thận trọng để tránh những xáo trộn trong nền kinh tế.
Đối với kinh tế tư nhân chính sách tài chính càng nhạy cảm, nó đụng chạm đến lợi ích của một bộ phận lớn các hộ gia đình kinh doanh cá thể, các chủ trang trại .... và phần lớn các nhà tư bản tư nhân trong và ngoài nước. ở nước ta thành phần kinh tế này vẫn còn đóng một vai trò đáng kể đối với nền kinh tế
- Chính sách tài chính liên quan đến nhiều mặt lợi ích khác nhau
Chính sách tài chính của một quốc gia là những văn bản pháp quy đưọc sử dụng để điều chỉnh các hoạt động tài chính. Các hoạt động tài chính luôn gắn hoạt động của các chủ thể trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội khác nhau. Chính sách tài chính có thể sẽ tác động thuận chiều hoặc ngược chiều đối với hoạt động của các chủ thể. Do đó nó đụng chạm đến nhiều mặt lợi ích của các chủ thể khác nhau trong xã hội. Quá trình thực thi chính sách tài chính có thể mang lại lợi ích chung cho các chủ thể liên quan hoặc có thể mang lại nguồn lợi cho chủ thể này ngược lại sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của người khác. Chẳng hạn một quốc gia có hệ thống chính sách tài chính tốt để khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài, có thể thu hút được nhiều dự án đầu tư, qua đó sẽ mang lại lợi ích cho cả nước sở tại và các chủ đầu tư nước ngoài. Nếu chính sách thuế mà việc động viên quá mức có thể mang lại cho nhà nước nguồn thu lớn nhưng sẽ thấy ngay phản ứng tức khắc của các doanh nghiệp, các chủ đầu tư và người lao động, vì chính sách thuế ảnh hướng đến thu nhập của họ.
- Chính sách tài chính luôn gắn với sự vận động của những nguồn lực tài chính.
Hoạt động tài chính là những hoạt động phân phối các nguồn lực tài chính, phân phối của cải xã hội nhằm mục đích đáp ứng những nhu cầu khác nhau của xã hội.
Hệ thống chính sách tài chính nhằm điều chỉnh các hoạt động phân phối nguồn lực này đảm bảo cho các dòng chảy vốn vận động theo đúng những quy luật khách quan. Nếu chính sách đúng, có tác động thuận chiều đối với sự vận động của các nguồn tài chính sẽ đánh thức các nguồn vốn tiềm năng đưa vào công cuộc phát triển kinh tế. Nếu chính sách sai, có tác động ngược chiều các dòng chảy vốn sẽ làm cho các tiềm năng đóng băng dần và mất đi.
* Các nhân tố tác động đến chính sách tài chính.
Chính sách tài chính chịu tác động bởi rất nhiều nhân tố.
- Bối cảnh kinh tế-xã hội: Chính sách tài chính được xây dựng phù hợp với bối cảnh kinh tế- xã hội sẽ đảm bảo tính khả thi của chính sách và có thể đạt được các mục tiêu đã chọn. Ví dụ trong bối cảnh ở nước ta hiện nay, nền kinh tế thị trường đang phát triển với trình độ ngày càng cao, vai trò của nhà nước trong việc giám sát trực tiếp nền kinh tế ngày càng hạn chế, thay vào đó là sự tăng cường vai trò của các công cụ tài chính, pháp luật...Do đó chính sách tài chính đưa ra phải trên cơ sở bối cảnh kinh tế- xã hội đó để đảm bảo tính chính xác và khả thi của chính sách.
- Cơ chế vận hành nền kinh tế: Cơ chế điều tiết nền kinh tế cũng là một nhân tố quan trọng tác động đến chính sách tài chính. Chính sách tài chính trong cơ chế chỉ huy, tập trung, quan liêu bao cấp sẽ không phù hợp với cơ chế thị trường năng động, linh hoạt và có sự điều tiết của nhà nước. Nếu chính sách tài chính đưa ra phù hợp với cơ chế kinh tế sẽ có tác dụng tích cực trong phát triển kinh tế xã hội và ngược lại. Ví dụ; trong cơ chế chỉ huy mệnh lệnh hành chính, chính sách tài chính chỉ mang tính hình thức, các quan hệ tài chính mang nặng tính cấp phát, còn trong cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước chính sách tài chính phải thực sự đóng vai trò là một đòn bẩy kinh tế đối với các chủ thể kinh tế.
- Những bài học kinh nghiệm trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách tài chính: Những bài học kinh nghiệm từ các chính sách ban hành trước đây có ý nghĩa rất quan trọng đối với mỗi nhà hoạch định chính sách. Nếu coi trọng kinh nghiệm sẽ tránh được những sai sót trong việc ra quyết định cho chính sách lần này. Ngoài ra còn có thể học hỏi những bài học kinh nghiệm của các nước trên thế giới và trong khu vực, rồi căn cứ vào tình hình cụ thể của nước mình để đưa ra những chính sách có lợi cho phát tri._.ển kinh tế- xã hội.
- Nhân tố cán bộ: Đây là chủ thể mang tính quyết đinh đối với chính sách tài chính. Bởi chính sách là sản phẩm tư duy của con người, do đó chất lượng cán bộ sẽ quyết định đến chất lượng và tính khoa học, tính khả thi của chính sách. Nếu những người có trách nhiệm soạn thảo chính sách có năng lực, có trình độ, nhận thức các quy luật khách quan của nền kinh tế một cách đúng đắn, biết nhìn xa trông rộng, lựa chọn được những kịch bản tốt để đưa ra một chính sách đáp ứng nhu cầu cuộc sống thì “chu kỳ sống” của chính sách đó sẽ được kéo dài trước những biến động kinh tế- xã hội, từ đó đảm bảo tính khả thi của chính sách.
- Xu thế của thời đại: Đây cũng là một nhân tố tác động không nhỏ đến việc ban hành các chính sách tài chính, nếu người lập kế hoạch nắm được xu thế phát triển chung của nền kinh tế trên thế giới cũng như trong khu vực thì có thể sẽ ban hành những chính sách đem lại lợi ích cho nước mình.
1.1.2.3. Vai trò của chính sách tài chính đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân trong kinh tế thị trường định hướng XHCN
* Chính sách tài chính góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân.
Để phát triển kinh tế tư nhân nhà nước phải sử dụng hệ thống công cụ chính sách bao gồm: Hệ thống chính sách hành chính, pháp luật, hệ thống chính sách kinh tế- tài chính, trong đó hệ thống chính sách tài chính là một công cụ rất quan trọng và có hiệu lực của Nhà nước, đặc biệt là chính sách thuế, chính sách tín dụng, chính sách đầu tư và tài trợ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp tế tư nhân nói riêng.
Chính sách tài chính kích thích thúc đẩy các tầng lớp dân cư bỏ vốn đầu tư trực tiếp tạo lập doanh nghiệp hoặc mở rộng quy mô hoạt động của các doanh nghiệp, góp phần tích cực vào việc phát triển nền kinh tế
Bằng chính sách ưu đãi thuế, miến giảm thuế đối với các doanh nghiệp mới thành lập, Nhà nước đã kích thích các tầng lớp dân cư bỏ vốn thành lập doanh nghiệp mới. Bên cạnh đó, chính sách tín dụng ưu đãi, chính sách đầu tư, tài trợ, cho vay, đã góp phần làm cho hàng loạt các doanh nghiệp tư nhân ra đời. Các khoản vốn tín dụng ưu đãi đã khuyến khích mọi thành phần dân cư bỏ vốn ra kinh doanh góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế. Đối với những doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động, Nhà nước cũng có các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thông qua các chính sách miễn giảm thuế, hoàn thuế thu nhập nếu doanh nghiệp sử dụng lợi nhuận sau thuế để tái đầu tư, chính sách tín dụng ưu đãi, bảo lãnh tín dụng…
Chính sách tài chính góp phần thúc đẩy tăng khả năng tự tích luỹ và mở rộng khả năng huy động vốn từ bên ngoài, giúp cho các doanh nghiệp tăng cường năng lực tài chính để phát triển sản xuất kinh doanh.
Hạn chế lớn nhất của các doanh nghiệp tư nhân là quy mô nhỏ, vốn ít, từ đó hạn chế đên việc trang bị máy móc thiết bị và công nghệ tiên tiến, đồng thời cũng rất khó khăn trong việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Với chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước sẽ giúp cho doanh nghiệp tăng thêm vốn kinh doanh. Khi nhà nước cho vay vốn với lãi suât thấp trên thực tế là đã thực hiện một khoản trợ cấp tài chính cho các doanh nghiệp tư nhân. Mặt khác, cho vay vốn với lãi suất thấp được xem như một cách giảm chi phí đầu tư, nâng cao khả năng thu lợi nhuận, khả năng tự tích luỹ cho doanh nghiệp.
Để thực hiện hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp phải sử dụng vốn chủ sở hữu đồng thời phải huy động vốn từ bên ngoài. Nhưng đối với các doanh nghiệp tư nhân, khả năng vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng rất hạn chế. Một mặt do vốn chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân phần lớn là nhỏ, các ngân hàng và các tổ chức tín dụng thường rất nghi ngờ khả năng trả nợ của các doanh nghiệp này. Mặt khác, một trong những điều kiện bắt buộc để vay vốn là phải có tài sản thế chấp, trong khi đó phần lớn các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân lại gặp khó khăn trong vấn đề tài sản thế chấp ngân hàng.
Khắc phục những khó khăn nói trên và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp này bổ sung vốn, ở nhiều nước đã thực hiện hình thức bảo đảm tín dụng cho doanh nghiệp này vay vốn Chính phủ đứng ra thành lập quỹ bảo đảm tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Quỹ hoạt động với tư cách là một tổ chức tài chính của Nhà nước. Nguồn hình thành quỹ là từ vốn ngân sách và sự tài trợ đóng góp của các tổ chức tài chính tín dụng trong nước và quốc tế. Quỹ bảo đảm tín dụng sẽ góp phần khơi thông thêm nguồn vốn tín dụng, tăng khả năng vay vốn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa nói chung và doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc kinh tế tư nhân nói riêng, giúp các doanh nghiệp thực thi có hiệu quả các phương án đầu tư, tăng cường năng lực tài chính để phát triển sản xuất kinh doanh.
Thông qua chính sách đất đai, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân về tài sản thế chấp. Phần nhiều doanh nghiệp tư nhân phải thế chấp quyền sử dụng đất để vay tiền ngân hàng. Nếu chính sách về đất đai có những quy định chặt chẽ rõ ràng về quyền sử dụng đất, về giá khung giá đất… sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân có cơ sở làm đảm bảo để vay vôn tín dụng ngân hàng.
Bên cạnh đó, bằng chính sách phát triển thị trường tiền tệ, xây dựng phát triển hệ thống ngân hàng hiện đại đồng thời có chính sách thông thoáng và bình đẳng trong cho vay và trả vốn giữa kinh tế tư nhân với các thành phần kinh tế khác sẽ đáp ứng nhu cầu vốn cho kinh tế tư nhân phát triển.
Phát triển mạnh hình thức công ty cổ phần cũng là một trong những giải pháp để có thể tăng quy mô vốn của doanh nghiệp ngay từ bước khỏi đầu, nhưng muốn làm được điều này thì phải có một thị trường chứng khoán phát triển. Do đó thông qua các chính sách phát triển thị trường chứng khoán sẽ có tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân
Trong kinh tế thị trường chính sách phát triển thị trường tài chính có vai trò đặc biệt quan trọng thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển. Thành phần kinh tế này sẽ không thể phát triển nếu không có những chính sách thông thoáng cho phép các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu, trái phiếu thu gom vốn trong xã hội, mặt khác họ cũng cần thị trường này để di chuyển vốn sang lĩnh vực khác có lợi hơn.
Chính sách tài chính tác động góp phần tạo môi trường kinh doanh, tăng khả năng hoạt động kinh doanh và cạnh tranh của các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân trên thị trường trong nước và quốc tế.
Cùng với chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi. Nhà nước còn sử dụng chính sách tài chính tài trợ trực tiếp hoặc gián tiếp cho hoạt động kinh doanh của kinh tế tư nhân như trợ giá xuất khẩu, hỗ trợ đào tạo cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật, hỗ trợ về công nghệ, xúc tiến thương mại…nhằm giúp các doanh nghiệp tư nhân nâng cao khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Chính sách tài chính hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân về khoa học và công nghệ có vị trí quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh của kinh tế tư nhân nhằm thích ứng với yêu cầu của cơ chế thị trường và điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Thông qua ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho kinh tế tư nhân trong lĩnh vực này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ.
Hỗ trợ về công nghệ chủ yếu được thực hiện thông qua các trung tâm khoa học công nghệ quốc gia. Chính phủ các nước thường thông qua trung tâm này để tư vấn, phổ biến thông tin khoa học, công nghệ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng.Thậm chí trong một số trường hợp doanh nghiệp còn được chuyển giao công nghệ miễn phí hoặc với giá ưu đãi.
Trợ giá xuất khẩu là biện pháp tài trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu khi xuất khẩu trên thị trường thế giới xuống quá thấp. Biện pháp này được nhiều nước thực hiện nhằm giúp các doanh nghiệp vượt qua khó khăn khi thị trường xuất khẩu hàng hoá biến động theo hướng bất lợi.
Chính sách tài chính hỗ trợ kinh tế tư nhân về thông tin, đào tạo nguồn nhân lực.
Chúng ta đã biết phần lớn các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân có quy mô nhỏ, trình độ quản lý của của các nhà quản lý doanh nghiệp tư nhân còn yếu. Nếu nhà nước có chính sách hỗ trợ kinh tế tư nhân về vốn cũng như mở những trung tâm đào tạo cán bộ quản lý cho khu vực này cũng sẽ tạo cơ hội cho kinh tế tư tư nhân sớm phát triển ngang tầm vơí khu vực tư nhân ở các nước trên thế giới và trong thu vực.
Chính phủ nhiều nước đã thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng miễn phí hoặc tài trợ một phần. Thông qua chương trình đào tạo này, tay nghề của người lao động được nâng lên cùng với việc áp dụng các công nghệ quản lý tiên tiến, hiện đại, doanh nghiệp có điều kiện nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường.
* Chính sách tài chính góp phần định hướng, điều chỉnh sự phát triển kinh tế tư nhân.
Phát triển kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH đối với doanh nghiệp là vì lợi ích của họ chứ không phải của Nhà nước. Thậm chí từ một số thế mạnh của kinh tế tư nhân, một số quan điểm còn cho rằng nên tư nhân hoá nền kinh tế một cách triệt để, để khu vực kinh tế tư nhân phát triển một cách tự thân. Quan điểm này nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực, khai thác mọi tiềm năng và lợi thế đang tiềm ấn của kinh tế tư nhân. Thực ra quan điểm này không nhìn trước được những nhược điểm, khuyết tật của kinh tế tư nhân. Tuy đây là một khu vực kinh tế năng động nhưng nếu thiếu định hướng, quản lý thì dễ rơi vào tự phát, rối loạn vô chính phủ mạnh ai nấy làm. Điều đó càng trở lên phức tạp đối với kinh tế tư nhân từ một nền sản xuất nhỏ, phân tán, chưa quen với văn minh công nghiệp, pháp luật chưa hoàn thiện như Việt nam. Do đó những điều chỉnh và định hướng sự phát triển của kinh tế tư nhân cho phù hợp với mục tiêu XHCN của Nhà nước ta trong điều kiện hiện nay là hết sức cần thiết.
Để điều chỉnh sự phát triển của kinh tế tư nhân nhằm phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của nó. Nhà nước có thể sử dụng các công cụ khác nhau trong đó chính sách tài chính có vai trò rất quan trọng.
Vai trò dẫn đường của chính sách tài chính đối với kinh tế tư nhân là việc điều chỉnh lợi ích vật chất để phát huy tác dụng dẫn lối đưa đường đối với các hoạt động của cá nhân, doanh nghiệp và đối với phương hướng phát triển nền kinh tế .
Vai trò khống chế của chính sách tài chính đối với kinh tế tư nhân đều được sử dụng trong tất cả các loại hình chính sách, các chính sách này đều thông qua biện pháp này hay biện pháp khác để khiến người ta làm việc này không làm việc kia.
Việc khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển không đồng nghĩa với việc buông lỏng quản lý, mặc họ muốn làm gì thì làm, trái lại nó đòi hỏi Nhà nước phải có một hệ thống pháp luật được thể chế hoá đầy đủ rõ ràng cả tầm vĩ mô và vi mô, nhằm có thể phát huy tối đa mặt tích cực hạn chế bớt những tiêu cực của kinh tế tư nhân. Chính vì lẽ đó nhà nước phải có những quy định chặt chẽ về vốn góp và việc góp vốn vào doanh nghiệp, quy định về huy động vốn để tài trợ cho các hoạt động kinh doanh để đảm bảo là doanh nghiệp đưọc thành lập với số vốn thật, kinh doanh bằng vốn thật chứ không chụp giựt, tạo sự lành mạnh và ổn định của hệ thống tài chính tiền tệ.
Để phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân, vấn đề cần được quan tâm giải quyết là nhà nước phải có một chính sách, chế độ đồng bộ, toàn diện mang tầm cỡ chiến lược mà công việc không thể giải quyết nóng vội một sớm, một chiều. Chính vì vậy cần phải phát huy tốt các đòn bẩy kinh tế, đặc biệt là các đòn bẩy tài chính như tài trợ vốn của nhà nước, các ưu đãi về thuế, chi ngân sách để xây dựng cơ sở hạ tầng, những chương trình phục vụ cho sự phát triển kinh tế tư nhân, hỗ trợ về ngân sách cho các doanh nghiệp tư nhân nhằm giảm một số cước phí về khoa học- công nghệ
Chính sách thuế với những ưu đãi đối với các doanh nghiệp kinh tế tư nhân sẽ hạn chế được tình trạng trốn thuế- một vấn đề nan giải trong quản lý của nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp- Nếu doanh nghiệp tư nhân được hưởng những ưu đãi về thuế sẽ tăng được lợi nhuận và hạn chế được tình trang trốn thuế. Mặt khác thông qua chính sách thuế nhà nước có thể hạn chế được các doanh nghiệp tư nhân vì chạy theo lợi nhuận có thể kinh doanh những lĩnh vực có tác động tiêu cực đối với đời sống xã hội.
Chính sách tín dụng với những ưu đãi về lãi suất, nới rộng điều kiện vay trả đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, xem xét gia hạn nợ đối với những doanh nghiệp gặp khó khăn, rủi ro khách quan, ưu đãi lãi suất cho những doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu....sẽ phát huy tác dụng tích cực trong việc phát triển các ngành nghề theo một định hướng nhất định.
Đây chính là những viên thuốc quý tạo khâu đột phá cho quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế. Thuế là một trong những công cụ có hiệu lực chủ yếu để thực hiện sự phân phối và phân phôi lại thu nhập của các tầng lớp dân cư và các doanh nghiệp, góp phần xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, thúc đẩy phát triển kinh tế, thực hiện bình đẳng công bằng xã hội. Nền kinh tế vừa chịu sự điều tiết theo cơ chế “bàn tay vô hình “ của thị trường vừa thực hiện sự điều tiết theo cơ chế “bàn tay hữu hình” của Nhà nước
Khu vực kinh tế tư nhân có mục tiêu rõ ràng là lợi nhuận thu được. Trong cạnh tranh, một số doanh nghiệp có tài năng, tiền vốn, kỹ thuật, chăm chỉ làm ăn, có uy tín, có thể làm giàu một cách chính đáng. Đồng thời trong xu thế “mạnh được, yếu thua”, cũng phát sinh nhiều hoạt động kinh doanh xấu như trốn lậu thuế, mua bán chèn ép nhau, thậm chí tìm mọi thủ đoạn tinh vi, mọi mánh khoé xảo quyệt để chiến thắng đối phương. Lừa gạt, triệt tiêu lẫn nhau để vươn lên là điều khó tránh khỏi trong điều kiện kinh tế thị trường mới manh nha ở nước ta hiện nay. Do sự cạnh tranh một mất một còn này, các doanh nghiệp rất có thể dùng mọi thủ đoạn như giả mạo sổ sách, biến báo số liệu…để che đậy tình hình tài chính không lành mạnh của mình nhằm đánh lừa các chủ nợ để vay vốn, lừa dối các bạn hàng, giả dối cơ quan nhà nước để giảm thuế…chính vì vậy, những quy định rõ ràng về quản lý tài chính, về kiểm tra sổ sách kế toán, kiểm tra báo cáo tài chính của doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Do đó
+Những quy định chặt chẽ trong chế chính sách kế toán, kiểm toán và thanh tra tài chính cũng có tác dụng rất lớn trong việc kiểm soát và hạn chế những tiêu cực trong khu vực kinh tế tư nhân. Những quy định về chế độ kế toán sẽ đảm bảo đưa công tác kế toán của các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân vào nề nếp, qua đó đảm bảo cung cấp một hệ thống thông tin chính xác về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó nhà nước kiểm soát được hoạt động của các doanh nghiệp này không để các doanh nghiệp hoạt động vượt qua nhưng khuôn khổ cho phép.
+ Qua các hoạt động kiểm toán, thanh tra tài chính sẽ giúp Nhà nước xử lý kịp thời những hiện tượng tiêu cực trong hoạt động của doanh nghiệp như trốn lậu thuế, làm hàng giả, sản xuất kinh doanh trái phép vượt qua khuôn khổ của giấy phép kinh doanh.
Bên cạnh một số chủ doanh nghiệp dành được thắng lợi trong cạnh tranh và giàu lên nhanh chóng, sẽ có không ít chủ đầu tư sa cơ lỡ vận, làm ăn thua lỗ, dẫn đến phải phá sản, giải thể. Hậu quả kéo theo sẽ là sự lãng phí về tiền vốn, gia tăng thêm lao động thất nghiệp, làm trì trệ nền kinh tế, ảnh hưởng không tốt đến trật tự an toàn xã hội, các tầng lớp dân cư ngày càng bị phân hoá cao về về thu nhập, đời sống, phát sinh tình trạng nặng nề về “kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra”. Để hạn chế bớt những hậu quả này, việc tính toán cơ hội đầu tư, đánh giá đúng đắn khả năng tài chính của doanh nghiệp thông qua hệ số phân tích tài chính là một yêu cầu đối với mọi nhà quản lý doanh nghiệp.
Từ sự phân tích trên có thể thấy rằng chính sách tài chính có một vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế tư nhân, nhằm góp phần làm tăng trưởng nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân sẽ cho phép ta khai thác được mọi tiềm năng của khu vực này, nhằm huy động vốn nội bộ phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH.
Điều đáng lo ngại trong quá trình phát triển kinh tế tư nhân không phải là chủ nghĩa tư bản gắn liền với giai cấp tư sản mà là sự yếu kém về tri thức, trình độ giai cấp công nhân, sự không bền chặt trong khối liên minh công nông- trí thức và tình trạng quan liêu, tham nhũng, bất cập trong điều hành của bộ máy nhà nước. Về mặt này, ở nước ta hiện đang có nhiều biểu hiện đáng lo ngại. Cần coi trọng việc đào tạo, sử dụng đãi ngộ tốt đội ngũ cán bộ, quan chức nhà nước và các nhà lãnh đạo các doanh nghiệp tư doanh để đảm đương được các chức năng quản lý kinh tế – tài chính trong các doanh nghiệp tư doanh, đảm bảo quá trình phát triển kinh tế theo định hướng XHCN.
1.2. Sự cần thiết phải đổi mới chính sách tài chính để phát triển kinh tế tư nhân trong kinh tế thị trường định hướng XHCN
1.2.1. Sự cần thiết phải đổi mới chính sách tài chính
Chính sách tài chính là một trong những công cụ quan trọng trong hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, đổi mới chính sách tài chính để phát triển kinh tế, theo kịp với các nước trong khu vực và trên thế giới là một yêu cầu khách quan.
- Đổi mới chính sách tài chính là đòi hỏi khách quan trước yêu cầu hội nhập và mở cửa của nền kinh tế
Hội nhập quốc tế là sự tham gia một nước vào quá trình phân công lao động quốc tế để khai thác các tiềm năng bên ngoài, kết hợp và phát huy tối đa nội lực, nâng cao sức mạnh về kinh tế và vị thế của quốc gia. Sự cần thiết của hội nhập quốc tế xuất phát từ đòi hỏi khách quan và yêu cầu của quy luật phát triển xã hội loài người. Thực tế đã cho thấy hầu hết các quốc gia trên thế giới không phân biệt nước công nghiệp phát triển hay nước đang phát triển đều đã và đang bị cuốn hút vào trào lưu hội nhập quốc tế để tìm tiếng nói chung trong các cơ quan quốc tế nhằm bảo vệ quyền lợi của mình và kiềm chế sự thao túng cuả các nước lớn .
Đối với nước ta, cùng với việc thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng ta đã có chủ trương mở rộng kinh tế đối ngoại trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài, chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cán bộ, luật pháp và nhất là về những sản phẩm mà chúng ta có khả năng cạnh tranh để hội nhập thị trường khu vực và thị trường quốc tế.
Hội nhập quốc tế đòi hỏi phải có sự điều chỉnh cơ chế, chính sách, thể chế của quốc gia (trong đó có chính sách tài chính), cho phù hợp với thông lệ quốc tế với các nguyên tắc, tiêu chuẩn, quy chế quốc tế được xây dựng trên nền kinh tế thị trường là chủ yếu. Vì vậy, trong giai đoạn đầu hội nhập quốc tế nước ta phải thực hiện điều chỉnh, đổi mới cơ chế, chính sách, thể chế kinh tế tài chính nhằm đáp ứng các yêu cầu của việc mở cửa giao lưu bình đẳng với các nưóc, các tổ chức khu vực và quốc tế mà nước ta đã và sẽ tham gia với tư cách thành viên chính thức.
- Đổi mới chính sách tài chính cho phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Trải qua hàng chục năm của cơ chế cũ, cơ chế chỉ huy, mệnh lệnh hành chính. Trong cơ chế đó chính sách tài chính tồn tại chỉ mang tính hình thức, năng về cấp phát, chưa thực sự phát huy vai trò là một đòn bẩy kinh tế, một công cụ để định hướng, điều tiết nền kinh tế. Với quan niệm sai lầm là xoá bỏ mọi thành phần kinh tế, nền kinh tế chỉ tồn tại hai thành phần kinh tế là kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân thuộc đối tượng cải tạo xoá bỏ, do đó chính sách tài chính chỉ tập trung vào đối tượng của khu vực kinh tế nhà nước, những ưu đãi về thuế suất, lãi suất vay vốn đều chỉ dành cho khu vực kinh tế nhà nước. Kinh tế tư nhân thậm chí không được hưởng một chút ưu đãi nào mà còn chịu mức thuế khoá rất nặng….v..v
Với chủ trương phát triển triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, để cho phù hợp với cơ chế kinh tế mới, trong thời gian qua, chính sách tài chính đã có có những chuyển biến tích cực trong quá trình điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đã phần nào xoá bỏ những rào cản, định kiến đối với kinh tế tư nhân và tạo điều kiện cho khu vực kinh tế này phát triển
Tuy nhiên bên cạnh đó chính sách tài chính của nước ta vẫn còn tồn tại những bất cập, Một mặt do xuất phát diểm của nền kinh tế nước ta còn thấp, do còn ảnh hưởng nặng nề của cơ chế cũ. Dẫn đến chính tài chính đổi mới còn chậm, chưa tương xứng với sự phát triển của các doanh nghiệp do đó vô hình chung đã tạo ra những bước cản trong quá trình phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó đổi mới chính sách tài chính sao cho phù hợp với cơ chế thị trường định hướng XHCN là một tất yếu khách quan.
-Những vấn đề về tài chính của kinh tế tư nhân hiện nay, đòi hỏi phải đổi mới chính sách tài chính để khuyển khích khu vực kinh tế này phát triển.
Kinh tế tư nhân là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế nhiều thành phần. Tuy vậy, hiện nay kinh tế tư nhân đang gặp phải những khó khăn vướng mắc lớn về tài chính như khả năng tiếp cận các nguồn vốn từ các kênh huy động trên thị trường trên thị trường vốn còn gặp rất nhiều khó khăn vướng mắc. Các chính sách thuế đã phần nào được cải thiện nhưng vẫn còn là gánh nặng đối với khu vực kinh tế tư nhân, Chính sách kiểm toán, kế toán còn nhiều điểm chưa phù hợp với tính chất và đặc thù của kinh tế tư nhân phần lớn có quy mô vừa và nhỏ. Một số chính sách chi ngân sách hỗ trợ cho kinh tế tư nhân còn dè dặt chưa thực sự ưu đãi đối vơí khu vực này. Từ những khó khăn về vốn dẫn đến hàng loạt những khó khăn như khả năng tiếp cận với thị trường khoa học- công nghệ hiện đại là không có, đội ngũ cán bộ quản lý trong khu vực kinh tế tư nhân phần lớn trình độ còn thấp, khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước của khu vực này còn yếu.. Để khu vực này hoạt động có hiệu quả và ngày càng phát huy tác dụng của mình trong kinh tế thị trường thì chính sách tài chính cần phải có những điều chỉnh, sửa đổi nhằm tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân ngày càng phát triển, góp phần đáng kể vào GDP, tạo ra của cải ngày một dồi dào cho xã hội nhằm xây dựng thành công CNXH ở nước ta.
1.2.2. Những yêu cầu đặt ra cho chính sách tài chính trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Đổi mới chính sách tài chính trong tình hình hiện nay là một đòi hỏi khách quan. Tuy nhiên, đổi mới chính sách tài chính vẫn phải trên cơ sở đám bảo các mục tiêu:
-Đối với mục tiêu tăng trưởng: Nguồn vốn bao giờ cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng cho tăng trưởng kinh tế của đất nước. Vì vậy việc huy động tối đa các nguồn vốn tăng trưởng là một trong những vai trò tối quan trọng của hệ thống tài chính. Chính sách tài chính quốc gia nhằm giải phóng các nguồn tiềm năng trong nước, phát huy cao độ nội lực, coi vốn trong nước là quyết định, đồng thời thu hút mạnh mẽ các nguồn tài chính bên ngoài, động viên, khai thác sử dụng các nguồn vốn phục vụ chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đạt hiệu quả cao.
Điều tiết hệ thống thuế có ảnh hưởng trực tiếp đến mức doanh lợi của doanh nghiệp và chính vì thế thuế là một công cụ có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy hoặc kìm chế tăng trưởng kinh tế. Dựa trên các mức thuế khác nhau, chính sách thuế tác động mạnh mẽ đối với việc thúc đẩy hay kiềm chế các khu vực kinh tế khác nhau theo một chiến lước cơ cấu kinh tế đang theo đuổi.
-Đối với mục tiêu ổn định vĩ mô: Chính sách tài chính quốc gia là công cụ hữu hiệu trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế quốc dân hợp lý nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Một môi trường vĩ mô ổn định là tối quan trọng cho các hoạt động kinh doanh của tư nhân và thực tế cho thấy, những quốc gia có những chỉ số kinh tế vĩ mô bất ổn định mà đặc biệt là lạm phát cao đều không có tốc độ tăng trưởng nhanh, nền kinh tế thường chứa đựng những nguy cơ bất ổn định và suy thoái kinh tế. Nhà nước trong những điều kiện như vậy phải có những can thiệp mạnh mẽ để lấy lại những cân bằng cho nền kinh tế. Ví dụ
+ Nếu nền kinh tế đang ở giai đoạn “nóng” có nguy cơ dẫn đến sản xuất thừa thì Nhà nước phải tăng thuế để giảm đầu tư, hoặc tăng lãi suất cho vay
+ Ngược lại, nếu nền kinh tế đang ở giai đoạn “lạnh” có nguy cơ dẫn đến đình trệ suy thoái thì Nhà nước phải cắt giảm thuế, hạ thấp lãi suất cho vay để kích thích đầu tư.
-Đối với mục tiêu công bằng xã hội: Thông qua thuế thu nhập để đảm bảo mục tiêu công bằng xã hội. Chính sách tài chính đưa ra phải làm sao vừa đảm bảo cho tăng trưởng kinh tế vừa đảm bảo công bằng xã hội trong phân phối thu nhập. Nhưng hai mục tiêu tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội lại luôn mâu thuẫn với nhau, nguyên nhân là vì:
+Trong điều kiện năng suất lao động xã hội thấp kém, muốn tăng trưởng kinh tế thì phải tăng tăng tích luỹ, do đó tiêu dùng bị hạn chế, không giải quyết được các vấn đề xã hội bức bách. Ngược lại, nếu tăng tiêu dùng thì tích luỹ sẽ bị hạn chế, do đó không thực hiện được mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
+Phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường tất yếu dẫn tới phân hoá giàu nghèo. Để hạn chế sự phân hoá giàu nghèo, chính sách tài chính phải thể hiện nội dung điều tiết thu nhập thông qua thuế thu nhập, song sự điều tiết đó có thể dẫn đến một trong hai trường hợp: hoặc là điều tiết quá mức làm triết tiêu động lực phát triển kinh tế; hoặc là điều tiết không phân biệt Tính chất của các nguồn thu nhập làm tổn hại lớn tới lợi ích của người lao động.
Chính vì vậy, việc đưa ra một chính sách tài chính như thế nào để vừa đảm bảo được mục tiêu tăng trưởng kinh tế lại vừa đảm bảo giải quyết được các vấn đề xã hội là một công việc hết sức khó khăn, đòi hỏi những chủ thể quản lý phải có trình độ chuyên môn cao.
Để đảm bảo các mục tiêu nêu trên, chính sách tài chính phải đáp ứng yêu cầu
Một là: Trên cơ sở khai thác nguồn lực bên trong và bên ngoài mà phân bổ, sử dụng nhằm thúc đẩy đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
Hai là: Chính sách tài chính thúc đẩy quá trình đổi mới kinh tế một cách toàn diện, sâu sắc, đổi mới chính sách tài chính với khâu cơ bản là đổi mới chính sách thuế, chính sách ngân sách nhà nước theo hướng nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý, phát triển thị trường tài chính, gắn liền với phát huy vai trò công cụ tài chính, tiền tệ trong nền kinh tế, thực hiện việc kiểm kê, kiểm soát nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Ba là: Chính sách phân phối các nguồn lực tài chính phải tuân thủ nguyên tắc có trọng tâm, trọng điểm trên cơ sở bảo đảm những cân đối lớn như:
+ Cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng
+ Cân đối giữa tích tụ và tập trung
+ Cân đối giữa đầu tư con người và đầu tư cho phát triển kinh tế
+ Cân đối giữa nguồn tài chính trontg nước và nguồn tài chính nước ngoài….
+ Cân đối giữa các vùng, các lĩnh vực, giữa công trình trọng điểm và không trọng điểm…
Bốn là: Quản lý tài chính quóc gia theo pháp luật nhà nước, triệt để chống tham ô, lãng phí, thực hành tiết kiệm.
1.3. Kinh nghiêm của nước ngoài trong việc Đổi mới chính sách tài chính để phát triển kinh tế tư nhân
Hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới, khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, đóng góp đáng kể vào GDP và ngân sách Nhà nước, tạo ra nhiều chỗ làm việc mới. Chính sự phát triển của khu vực tư nhân này làm giảm nhẹ phần lớn các căng thẳng về các vấn đề xã hội mà quốc gia phải giải quyết. Vì vậy, Chính phủ nước nào cũng quan tâm khuyến khích và hỗ trợ mọi mặt cho phát triển kinh tế tư nhân ở nước mình.
Mỗi nước có điều kiện và trình độ phát triển kinh tế khác nhau, và do đó chính sách của chính phủ mỗi nước trong việc khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển cũng có những điểm khác nhau. Tuy nhiên, có thể thấy, các nước đều sử dụng chính sách tài chính như là một công cụ quan trọng để khuyến khích sự tăng trưởng và phát triển của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Cộng hoà Liên Bang Đức… và các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc, Trung Quốc đều tập trung vào một số vấn đề chủ yếu sau:
* Miễn giảm thuế để thúc đẩy đầu tư
Chính phủ Mỹ quy định những công ty có tổng thu nhập từ 335.000USD trở lên thì mức thuế suất thu nhập công ty là 34%. Còn đối với những công ty có thu nhập dưới 335.000 USD (chủ yếu là những doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa) chỉ phải chịu thuế suất trung bình thấp hơn 34%. Đây chính là cách giảm thuế cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (trong đó có kinh tế tư nhân) của chính phủ Mỹ.
Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp mới thành lập Chính phủ Hàn Quốc đã quy định các doanh nghiệp được miễn giảm thuế thu nhập từ 50% đến 100% trong 4 năm đầu hoạt động và miễn giảm thuế 20 đến 30% thuế thu nhập trong hai năm tiếp theo. Đối với những doanh nghiệp hoạt động ở vùng nông thôn, Chính phủ Hàn quốc có hình thức miễn toàn bộ thuế thu nhập trong vòng 3 năm đầu và giảm 50% thuế thu nhập trong 2 năm tiếp theo.
ở Malaysia, hệ thống ưu đãi thuế có tính mềm dẻo hơn, phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của chính phủ trong từng thời kỳ. Từ năm 1971 đến năm 1985, việc miễn thuế được thực hiện trên cơ sở khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động. Từ năm 1986 đến nay, việc miễn giảm thuế được thực hiện theo đạo luật khuyến khích đầu tư năm 1986. Nội dung quan trọng của đạo luật này là quy chế đi tiên phong. Chính phủ định kỳ công bố danh sách các sản phẩm, ngành nghề cần khuyến khích dầu tư. Các doanh nghiệp được thành lập và đầu tư vào lĩnh vực này được khuyến khích miễn thuế 5 năm đầu.
-Trung Quốc thực hiện bãi bỏ mọi quy định mang tính hạn chế và phân biệt đối xử với đầu tư tư nhân về thuế, lĩnh vực kinh doanh. Trung quốc cho biết trừ những lĩnh vực có liên quan đến an ninh quốc phòng và thuộc độc quyền nhà nước thì các lĩnh vực còn lại sẽ cho phép thành phần tư nhân đầu tư vào.
Ngoài ra, để giúp các doanh nghiệp tư nhân tăng khả năng tài chính và tạo điều kiện để các doanh nghiệp này nhanh chóng đổi mới tài sản cố định, nhiều nước đã thực hiện chính sách hoãn thuế cho doanh nghiệp bằng cách cho phép doanh nghiệp thực hiện khấu hao nhanh tài sản cố định.
* Thực ._.g, nhưng đó lại là vấn đề hết sức khó khăn và cần thời gian. Vì vậy, trong điều kiện cơ sở hạ tầng và điều kiện kinh doanh chưa được cải thiện nhiều, Nhà nước cần sử dụng công cụ thuế để khuyến khích, thúc đẩy dân chúng bỏ vốn đầu tư thành lập doanh nghiệp để khai thác khả năng của từng vùng. Việc ưu đãi, miến giảm thuế thu nhập đối với các doanh nghiệp này cần nhiều hơn và thời gian dài hơn.
3.3.2.4. Thực hiện chính sách thuế nhằm thúc đẩy mạnh xuất khẩu và bảo hộ có điều kiện hàng hoá trong nước.
Thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập, Việt nam đang mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và đẩy mạnh tiến trình hội nhập với thế giới. Cùng với việc gia nhập ASEAN, việc tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), thực hiện hiệp định chung về ưu đãi thuế quan (CEPT) sẽ tạo điều kiện cho việc Việt nam đẩy mạnh xuất khẩu, trao đổi hàng hoá, dịch vụ đối với các nước trong khu vực . Mặt khác, mở cửa thị trường sẽ làm cho hàng hoá các nước ASEAN đưa vào Việt nam nhiều hơn và điều đó sẽ trở thành thách thức to lớn đối với các ngành sản xuất còn non trẻ và đặc biệt là đối với các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ của Việt nam trong quá trình phát triển.
Trong tình hình đó cần phải tiếp tục cải cách hệ thống thuế cho phù hợp với việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và đẩy mạnh phát triển nền kinh tế. Thực hiện giảm bớt và tiến tới xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan đối với tất cả các hàng hoá và dịch vụ (trừ những hàng hoá và dịch vụ nằm trong danh mục cấm xuất khẩu) để đẩy mạnh tối đa hoạt động xuất khẩu, tạo điều kiện thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân tham gia sản xuất hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó cần đẩy nhanh việc hoàn thuế giá trị gia tăng đối với hàng xuất khẩu, đặc biệt đối với các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ, vì các doanh nghiệp này luôn ở tình trạng thiếu vốn.
3.2.3. Chính sách kế toán, kiểm toán và thanh tra tài chính đối với kinh tế tư nhân.
Kinh nghiệm ở các nước có nền kinh tế thị trường cho thấy Nhà nước thực hiện việc quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp (cả doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) theo cơ chế: Quản lý bằng các quy định luật pháp bắt buộc doanh nghiệp phải tuân thủ; Quản lý thông qua các quy định của các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp.
Chính sách và cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp tư nhân luôn đi theo hướng hỗ trợ, giúp đỡ các doanh nghiệp tư nhân, song không can thiệp trực tiếp vào hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Như đã phân tích, phát triển kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH đối với các nhà đầu tư là vì lợi ích của họ chưa không phải của Đảng Cộng sản. Do đó nhà nước phải có những điều chỉnh và định hướng sự phát triển của kinh tế tư nhân cho phù hợp với mục tiêu XHCN. Những quy định chặt chẽ trong chính sách kế toán, kiểm toán sẽ có tác dụng lớn trong việc kiểm soát và hạn chế được những tiêu cực trong khu vực kinh tế tư nhân nhằm định hướng cho nó phát triển có ích cho mục tiêu XHCN.
Về chế độ hạch toán kế toán, để phù hợp với thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh và trình độ quản lý của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Bộ tài chính đã ban hành các chế độ kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đối với hộ kinh doanh cá thể, chế độ kế toán còn được quy định đơn giản hơn.
Để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển cũng như hạn chế tính tự phát của kinh tế tư nhân. Căn cứ vào những đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân.
+Có quy mô khá khác nhau; trong đó phần lớn có quy mô vừa và nhỏ.
+Vốn không thuộc sở hữu Nhà nước
+Các hoạt động của doanh nghiệp gắn chặt với sự vận động của nền kinh tế thị trường.
-Ngày càng đa dạng về lĩnh vực hoạt động.
Chính sách kế toán, kiểm toán đối với khu vực kinh tế tư nhân trong thời gian tới cần phải được sửa đổi theo hướng:
Thứ nhât: Xây dựng Luật kế toán Việt nam
Luật kế toán được xây dựng theo quan điểm là; Đưa tất cả những quy định về kế toán, thể chế thành các điều luật theo hướng đáp ứng yêu cầu quản lý của nền kinh tế thị trường, của hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực có tính đến đặc thù của các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (như; Tổ chức công tác kế toán; Tổ chức bộ máy kế toán; Quy định chức năng, nhiệm vụ của kế toán trưởng; Quy định vấn đề hành nghề kế toán; Quy định vấn đề thuê kế toán trưởng và nhân viên kế toán; Quy địnhvề các hành vi bị nghiêm cấm…)
Thứ hai:Xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán doanh nghiệp Việt nam
Hệ thống chuẩn mực kế toán doanh nghiệp Việt namđược xây dung trên cơ sở hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế, phù hợp với các điều kiện và đặc điểm phát triển kinh tế- xã hội Việt nam sẽ quy định các nguyên tắc và phương pháp chung nhất làm cơ sở cho việc ghi chép kế toán và lập báo cáo tài chính. Vì lẽ đó các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thuộc mọi lĩnh vực và mọi thành phần kinh tế sẽ phản ánh đúng đắn các hoạt động, nghiệp vụ kinh tế, trên cơ sở đó tạo lập được hệ thống thông tin đầy đủ, tin cậy phục vụ cho việc điều hành, quản lý hoạt động kinh doanh của mình và giúp cho cơ quan Nhà nước thực hiện được việc giám sát tài chính đối với doanh nghiệp.
Thứ ba: Sửa đổi, hoàn thiện chế độ kế toán doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chế độ kế toán doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được Bộ tài chính ban hành theo quyết định số 1177-TC/QĐ/CĐKT ngày 23/12/1996 và được thực hiện thống nhất trong cả nước từ ngày 01/01/1997. Chế độ kế toán này là sự quy định vận dụng chế độ kế toán doanh nghiệp áp dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Qua quá trình thực hiện đã thể hiện sự phù hợp và đáp ứng được các yêu cầu quản lý của của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các lĩnh vực và các thành phần kinh tế. Tuy nhiên do yêu cầu đổi mới quản lý và đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, đòi hỏi cần có sự sửa đổi bổ sung cho phù hợp.
Xuất phát từ nhiều đặc điểm riêng có của loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ trong đó có kinh tế tư nhân (như đã nêu ở trên) thì hệ thống kế toán- với vai trò là công cụ tạo lập và cung cấp hệ thống thông tin quản lý- phải được sửa đổi, bổ sung theo hướng: Gọn nhẹ, phản ánh đầy đủ, rõ ràng tong hoạt động; Phù hợp với các lĩnh vực hoạt động; Thích ứng với các loại quy mô đơn vị như; Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã. Căn cứ đặc điểm, quy mô, yêu cầu và trình độ quản lý, từng doanh nghiệp được phép vận dụng chế độ kế toán doanh nghiệp vừa và nhỏ, phù hợp với điều kiện cụ thể của mình.
Thứ tư: Hướng tăng cường hoạt động kiểm toán độc lập
Các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo tài chính của các doanh nghiệp sau khi được Tổ chức kiểm toán độc lập xác nhận là trung thực và hợp lý sẽ có giá trị pháp lý để cơ quan Nhà nước quản lý, điều hành, giám sát; để cơ quan thuế quyết toán thuế nộp ngân sách nhà nước; Cho các cổ đông, các nhà đầu tư, các bên tham gia liên doanh, liên kết, các khách hàng và tổ chức, cá nhân xử lý các mối quan hệ về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên có liên quan trong quá trình hoạt động của đơn vị. Vì lẽ đó hướng tăng cường kiểm toán độc lập đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ là đưa các đối tượng này vào diện kiểm toán độc lập và quy định kiểm toán bắt buộc đối với một số doanh nghiệp thuộc các loại hình công ty cổ phần. Công ty trách nhiệm hữu hạn, hoặc cả công ty hợp doanh và doanh nghiệp tư nhân có vốn pháp định trên 10 tỷ đồng.
3.2.4. Chính sách ngân sách hỗ trợ kinh tế tư nhân phát triển.
3.2.4.1. Chính sách hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý kinh doanh, bồi dưỡng kiến thức về khoa học công nghệ.
Kinh tế tư nhân, một thành phần kinh tế được đánh giá là năng động, sáng tạo, đầy tiềm năng phải được phát triển mạnh mẽ, được xem như là một nhiệm vụ có tính chiến lược trong công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Vì vậy Nhà nước phải có chính sách hỗ trợ về ngân sách cho kinh tế tư nhân trong việc đào tạo nhằm nâng cao năng lực quản lý của khu vực kinh tế này cũng như hỗ trợ ngân sách trong việc ứng dụng khoa học- công nghệ hiện đại, coi đây là một trong những chính sách cần được ưu tiên đào tạo.
Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN, để hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân phát triển, Hội nghị lần thứ V ban chấp hành TW Đảng kháo IX đã khẳng định “Nhà nước trợ giúp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biếtđường lối chủ trương của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, trình độ chuyên môn kỹ thuật và năng lực kinh doanh cho các chủ doanh nghiệp và người lao động. Đối với chủ doanh nghiệp cần quan tâm bồi dưỡng giáo dục, phát huy tinh thần yêu nước và trách nhiệm trước cộng đồng xã hội, có đạo đức kinh doanh tôn trọng chữ tín, tự giác chấp hành chính sách của đảng, pháp luật của nhà nước, chăm lo đời sống và điều kiện làm việc cho người lao động tại doanh nghiệp”
Để chính sách trên sớm đi vào cuộc sống, tạo môi trường thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển, cần thực hiện tốt những giải pháp cụ thể sau đây:
Một là: Chính phủ cần thể chế hoá chủ trương nói trên thông qua các chế độ chính sách cụ thể, tạo hành lang pháp lý để các ngành, các cấp, các địa phưong thực hiện.
Hai là: Hình thành các trường, trung tâm ở các vùng để tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực và cán bộ quản lý cho khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt vùng sâu, vùng xa, khuyến khích hỗ trợ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước mở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân.
Ba là: Phân loại các ngành nghề kinh tế khu vực kinh tế tư nhân đang hoạt động để làm căn cứ xây dựng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, thiết thực, tiếp cận kịp thời những kiến thức mới trong kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Bốn là: Tổ chức đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý cho khu vực kinh tế tư nhân phải theo một quy trình nhất định, có bài bản, có hệ thống, tránh việc chia cắt kiến thức cho nhiều trường, nhiều nơi đào tạo.
Năm là: Đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý cho khu vực kinh tế tư nhân, tránh việc giảng dạy khuôn sáo, xa thực tế. Vận dụng các phương pháp giảng dạy theo tình huống, nêu ra vấn đề thực tiến, dùng lý luận để giải quyết thực tiễn. Hình thức bồi dưỡng đa dạng, linh hoạt, phù hợp với đặc điểm quản lý của khu vực kinh tế này.
Sáu là: áp dụng một số chính sách tài chính, tín dụng hỗ trợ cho đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý nói riêng và nguồn nhân lực kho khu vực kinh tế tư nhân nói chung như; miễn học phí, giảm học phí đối với người học, miễn giảm thuế cho những cơ sở đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực của một số lĩnh vực thuộc kinh tế tư nhân cần ưu tiên.
Bảy là: Xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động. Mở rộng hệ thống dịch vụ tư vấn khoa học, công nghệ, quản lý cho các hộ kinh doanh và các doanh nghiệp. Hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin. Nhà nước cần quan tâm hơn nữa việc phát triển các trung tâm thông tin nhằm cung cấp thông tin cho doanh nghiệp một cách thường xuyên.
Tiến bộ khoa học và công nghệ luôn là một yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh tranh của sản phẩm doanh nghiệp trên thị trường. Vì vậy chính sách ngân sách nhà nước cần phải tập trung vào chi ngân sách xây dựng các trung tâm tư vấn hỗ trợ phát triển KTTN, các trung tâm này sẽ trợ giúp các doanh nghiệp trên các khía cạnh như; bồi dưỡng kiến thức khoa học công nghệ cho các hộ kinh doanh và doanh nghiệp, nâng cao năng lực quản lý điều hành doanh nghiệp, cung cấp thông tin thị trường, mở rộng các hoạt động xúc tiến thơng mại; hướng dẫn xây dựng và quản lý dự án đầu tư cho doanh nghiệp.
Sớm giảm giá dịch vụ viễn thông, internet bằng với mức các nước trong khu vực. Hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư đổi mới, chuyển giao công nghệ; có thuế suất ưu đãi đối với vật tư hàng hoá nhập khẩu cần ưu đãi; cho phép hạch toán chi phí đổi mới, hiện đại hoá công nghệ được tính vào giá thành sản phẩm.
Tám là: Tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho các thành phần kinh tế, trong đó có khu vực kinh tế tư nhân. Từng bước đưa công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho khu vực kinh tế tư nhân đi vào nề nếp, thực hiện thường xuyên và đảm bảo chất lượng ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đa dạng của khu vực kinh tế này trong những năm tới.
Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư đổi mới, chuyển giao công nghệ, có thuế suất ưu đãi đối với vật tư hàng hoá nhập khẩu cần ưu đãi; cho phép hạch toán chi phí đổi mới, hiện đại hoá công nghệ được tính vào chi phí sản phẩm.
3.2.4.2. Đổi mới chi ngân sách hỗ trợ tư vấn cung cấp các thông tin về tài chính đối với doanh nghiệp tư nhân.
Hiện nay, cùng với quá trình phát triển và hội nhập thị trường tài chính, các dịch vụ tài chính ngày càng trở nên đa dạng hơn, mở ra nhiều cơ hội hơn cho các doanh nghiệp trong viêc lựa chọn các dịch vụ taì chính phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên trên thực tế, nhận thức của các doanh nghiệp về vai trò của các loại hình dich vụ tài chính còn hạn chế. Qua điều tra khảo sát của phòng thương mại công nghiệp Việt nam thì các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân rất thiếu thông tin về dịch vụ tài chính. Do đó các cơ quan quản lý của nhà nước, các chủ thể cung ứng các dịch vụ tài chính, các hiệp hội ngành nghề…cần có biện pháp tuyên truyền, hỗ trợ tư vấn thông tin về các loại hình dịch vụ tài chính cho các doanh nghiệp. Qua đó các doanh nghiệp nhận thức được vai trò của dịch vụ tài chính đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, lựa chọn loại hình dịch vụ tài chính phù hợp với nhu cầu khả năng của mình. Thời gian gần đây, đứng trước yêu cầu của quá trình hội nhập, việc cung cấp thông tin về dịch vụ tài chính cho các doanh nghiệp đã được chú trọng hơn. Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam đang triển khai một dự án nhằm tăng cường phổ biến, tư vấn thông tin về dịch vụ tài chính cho các doanh nghiệp Việt nam.
3.2.4.3. Chính sách hỗ trợ mặt bằng sản xuất kinh doanh
Như đã trình bày ở trên, phần lớn các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp sử dụng chính nhà ở của chủ doanh nghiệp làm trụ sở giao dịch, kinh doanh. Việc sử dụng Nhà ở làm trụ sở giao dịch kinh doanh thường gây những khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do diện tích chật hẹp, điều kiện và phương tiện làm việc không thuận lợi.
Vì vậy, việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ có mặt bằng sản xuất kinh doanh phù hợp là rất cần thiết. Các địa phương có thể dành quỹ đất và thực hiện các chính sách khuyến khích để xây dựng các khu công nghiệp, các cụm công nghiệp cho các doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa có mặt bằng xây dựng trụ sở, nhà xưởng, sản xuất kinh doanh.
Nhà nước cần có các chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân trong việc thuê đất, chuyển nhượng, thế chấp và các quyền khác về sử dụng đất theo các quy định hiện hành.
3.2.5. Một số giải pháp tài chính khác
-Nhà nước có chính sách khuyến khích các ngân hàng thương mại cung cấp tín dụng hoặc góp vốn vào các doanh nghiệp thuộc kinh tế tư nhân
Một thực tế hiện nay là các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là tư nhân nhỏ và vừa thường không được ngân hàng thương mại quan tâm đến việc cho vay vốn, để thúc đây kinh tế tư nhân phát triển nhà nước có thể khuyến khích các ngân hàng thương mại cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp tư nhân dưới hình thức góp vốn cùng hợp tác kinh doanh. Để khuyến khích các ngân hàng thương mại cho tư nhân vay vốn, Nhà nước có thể sử dụng các biện pháp như hỗ trợ lãi suất đối với khoản cho vay đối với doanh nghiệp tư nhân, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho ngân hàng cho vay đối với kinh tế tư nhân nếu ngân hàng cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân đạt được một tỷ lệ nhất định.
-Cho phép các doanh nghiệp khấu hao nhanh tài sản cố định
Khấu hao tài sản cố định là vấn đề hết sức quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu mức khấu hao cao thì có thể thu hồi vốn nhanh và ngược lại, mức khấu hao thấp thì thu hồi vốn chậm. Và có thể mất vốn do hao mòn vô hình gây ra. Mặt khác mức khấu hao cao hay thấp còn làm thay đổi số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong năm.
Về mặt lý thuyết, tổng thu nhập chịu thuế và thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của doanh nghiệp trong một thời kỳ dài là không thay đổi khi áp dụng các phương pháp khấu hao tài sản cố định khác nhau. Tuy nhiên trong thời gian ngắn, nếu doanh nghiệp khấu hao nhanh tài sản cố định thì mức thuế thu nhập phải nộp thấp và do đó có thể tăng cường tích tụ vốn cho doanh nghiệp. Vì vậy, để hỗ trợ cho kinh tế tư nhân phát triển Nhà nước nên cho phép các doanh nghiệp tư nhân thực hiện khấu hao nhanh tài sản cố định để một mặt các doanh nghiệp có điều kiện tích tụ, tập trung vốn, mặt khác thu hồi nhanh vốn cố định sẽ giúp cho các doanh nghiệp có điều kiện để đầu tư chiều sâu, đổi mới máy móc thiết bị, trang bị công nghệ hiện đại.
-Xây dựng chính sách bảo hiểm xã hội đối với người lao động làm việc tại hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp tư nhân theo hướng đa dạng hoá các sản phẩm bảo hiểm để phù hợp với từng nhóm đối tượng theo các mức đóng và hưởng khác nhau.
Vấn đề tài chính liên quan đến sử dụng lao động của khu vực tư nhân theo tôi cần chú trọng vào
-Trao quyền chủ động về chính sách tiền lương cho doanh nghiệp. Nhà nước chỉ khống chế tiền lương tối thiểu và vận hành tôt hệ thống giải quyết tranh chấp hợp đồng lao động
-Cùng với phát triển thị trường lao động sẽ phát sinh nhiều vấn đề liên quan đến bảo hiểm xã hội cho người lao động, nên phải có chính sách tài chính giải quyết mâu thuẫn giữa việc làm, bảo hiểm xã hội và không tăng gánh nặng cho doanh nghiệp theo hướng người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước cùng chia sẻ trách nhiệm tài chính giải quyết mâu thuẫn này. Một mặt cần nhanh chóng mở rộng bảo hiểm xã hội bắt buộc tới tất cả người lao động không phân biệt thành phần kinh tế, đảm bảo công bằng cho cả người có việc làm và ngừời nghỉ việc, mất việc làm. Mặt khác nhà nước hỗ trợ một phần để giảm nhẹ gánh nặng đóng bảo hiểm xã hội cho các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động, giúp cho các doanh nghiệp này không không vì phải đóng bảo hiểm xã hội mà suy giảm khả năng cạnh tranh hay buộc phải sa thải công nhân
-Có cơ chế và chính sách tài chính thích hợp khuyến khích kinh tế tư nhân sử dụng càng nhiều lao động càng tốt. Trước mắt có thể áp dụng hình thức hỗ trợ nhà nước luỹ tiến theo số lao động sử dụngcho phần đongs góp bảo hiểm xã hội bắt buộc của doanh nghiệp.
Khi Luật doanh nghiệp chưa ra đời, bảo hiểm xã hội đối với các đơn vị kinh tế tư nhân còn nhiều hạn chế, do không có cấp nào, ngành nào quản lý, nắm chắc các doanh nghiệp này về nơi hoạt động kinh doanh và số lượng lao động mầ doanh nghiệp sử dụng là hai yếu tố để bảo hiểm xã hội có cơ sở khai thác, phát triển đến người lao động.
Do những hạn chế cốt tử về tài chính nên khu vực kinh tế tư nhân rất cần sự hỗ trợ tài chính của Nhà nước. Ngoài những chính sách hỗ trợ gián tiếp cho kinh tế tư nhân như đã nêu ở trên, Nhà nước có thể hỗ trợ trực tiếp cho kinh tế tư nhân như; thay thế các ưu đãi thuế bằng hỗ trợ tài chính nhà nước từ quỹ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp, hỗ trợ tài chính cho khoản đóng góp bảo hiểm xã hội cho những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động hỗ trợ đầu tư trực tiếp cho các doanh nghiệp thuộc ngành nghề, khu vực cần tập trung phát triển.
* Một số điều kiện để thực hiện thành công các giải pháp.
Thứ nhất: Duy trì sự ổn định kinh tế – xã hội
Một trong những điều kiện cơ bản để dân chúng bỏ vốn đầu tư trực tiếp là sự ổn định kinh tế vĩ mô, trong đó ổn định về tài chính- tiền tệ là rất quan trọng. Nếu lạm phát ở mức cao và không có khả năng kiểm soát được sẽ làm tăng rủi ro trong đầu tư và do đó dân chúng sẽ không dám bỏ tiền ra đầu tư trực tiếp.
Ngược lại, duy trì được sự ổn định về kinh tế- xã hội sẽ tạo niềm tin cho dân chúng vào chính sách phát triển lâu dài nền kinh tế nhiều thành phần. Sự tin tưởng vào tương lai là điều kiện tiên quyết cho quyết định đầu tư dài hạn của dân chúng. Vì vậy, cần tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế để tăng sự tin tưởng của dân chúng và khi đó sự khuyến khích kinh tế tư nhân đầu tư phát triển thông qua chính sách tài chính nói trên mới đạt được hiệu quả cao.
Thứ hai: Kết hợp đồng bộ chính sách tài chính với các công cụ quản lý vĩ mô.
Để thực hiện các giải pháp tài chính nhằm khuyến khích kinh tế phát triển cần kết hợp đồng bộ với việc thực hiện các công cụ quản lý vĩ mô khác như hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, xây dựng chiến lược phát triển và tăng cường kiểm tra giám sát.
Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp tạo môi trường pháp lý đầy đủ để khuyến khích và bảo vệ kinh tế tư nhân. Ngoài việc hoàn chỉnh hệ thống luật pháp nói chung, cần ban hành các văn bản quy định các tiêu thức, quyền hạn và nghĩa vụ mà khu vực kinh tế tư nhân phải tuân theo. Mặt khác cần ban hành luật cạnh tranh, chống độc quyền để thực hiện cạnh tranh lành mạnh và đồng thời là căn cứ quan trọng để xem xét hỗ trợ kinh tế tư nhân vượt qua khó khăn, tăng cường khả năng cạnh tranh.
Các chính sách tài chính nhằm hỗ trợ kinh tế tư nhân chỉ thực sự đưa lại hiệu quả khi đánh giá đúng đắn tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp trong việc thực hiện pháp luật, trong đó cần có cơ chế, chính sách bắt buộc các doanh nghiệp thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kế toán thống kê của Nhà nước.
Thứ ba: Các điều kiện khác
-Cần tiếp tục cụ thể hoá, hoàn thiện Luật doanh nghiệp, luật phá sản, luật khuyến khích đầu tư trong nước.. cho phù hợp với tình hình thực tế.
-Về mặt bằng kinh doanh cần cụ thể hoá các chính sách đất đai tạo thuận lợi cho việc thuê, mua đất giải quyết mặt bằng sản xuất kinh doanh. Ban hành các những quy định nghiêm ngặt để chống lại các hành vi trái pháp luật, đặc biệt là gian lận trốn lậu thuế, buôn bán lừa đảo, tàn phá tài nguyên…
-Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng rộng khắp, từ thành thị đến nông thôn, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát riển của doanh nghiệp .
-Về phía bản thân các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực về vốn doanh nghiệp cần phải coi trọng việc lập dự án và trình bày nhu cầu của mình một cách rõ ràng, dễ hiểu. Để lập được dự án và chứng minh được nhu cầu vay vốn là thực sự cần thiết, điều này không đơn giản.. Song doanh nghiệp phải tự hoàn thiện, mặt khác phải tranh thủ sự trợ giúp của của các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp.
Doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao năng lực tài chính, tạo uy tín với bạn hàng và với ngân hàng. Đối với doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân cần nhận thức rõ quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong chiến lược phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Nhà nước tôn trọng quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, vì vậy các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân cần mạnh dạn bỏ vốn của các tổ chức tín dụng để kinh tế tư nhân phát triển tương xứng với tiềm năng của nó.
Tóm lại: Chính sách tài chính hỗ trợ kinh tế tư nhân đã và đang từng bước góp phần thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển. Để tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách đòi hỏi các doanh nghiệp nói chung, các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân nói riêng phải chấp hành tốt các quy định của Nhà nước, trên cơ sở đó tổng kết, rút kinh nghiệm, qua đó đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp./.
Kết luận
Phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó có kinh tế tư nhân là một chủ trương lớn của Đảng Cộng sản Việt nam, nhằm khai thác mọi nguồn lực để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Thông qua nghiên cứu đề tài “Đổi mới chính sách tài chính để phát triển kinh tế tư nhân trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam”. Luận văn đề cập đến những nội dung chủ yếu sau:
1-Luận văn góp phần làm rõ bản chất của quan hệ tài chính, triong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam.
2-Khái quát lý luận về chính sách tài chính, đặc điểm nội dung của chính sách tài chính. Vai trò của chính sách tài chính trong việc hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân, trong việc định hướng và kiểm soát đối với sự phát triển kinh tế tư nhân ở Việt nam. Luận văn cũng chỉ ra rằng để phát triển kinh tế tư nhân cần phát huy tác dụng của nhiều công cụ khác nhau, trong đó chính sách tài chính có vai trò cực kỳ quan trọng để khuyến khích thúc đẩy kinh tế tư nhân. .
Kinh nghiệm quý báu của các nước phát triển, của Trung Quốc là những bài học rất tốt cho Việt nam trong việc hoạch định và sử dụng các chính sách tài chính để hỗ trợ khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển cũng đã được khái quát trong luận văn.
3-Với bối cảnh kinh tế- xã hội của Việt nam trong thời kỳ 2001-2010, Luận văn nghiên cứu đề xuất 5 quan điểm cơ bản cần quán triệt trong đổi mới chính sách tài chính để phát triển kinh tế tư nhân. Đặc biệt chú trọng hai quan điểm; “Đổi mới chính sách tài chính phải nhằm tăng cường vai trò quản lý và định hướng của Nhà nước để phát triển kinh tế tư nhân” và “Đổi mới chính sách ài chính phải theo hướng tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”
Luận văn tập trung đề xuất các hướng tiếp tục đổi mới hệ thống chính sách tài chính để phát triển kinh tế tư nhân ở Việt nam, đảm bảo cơ sở khoa học và tính khả thi, các chính sách tài chính chủ yếu cần hoàn thiện và đổi mới gồm: Chính sách huy động vốn và phát triển thị trường tài chính, chính sách tín dụng chính sách thuế, Chính sách ngân sách nhà nước, chính sách kiểm toán, kế toán thanh tra tài chính. Và một số chính sách khác liên quan đến tài chính của doanh nghiệp.
Trên đây là những nội dung cơ bản của luận văn mang tính khái quát cả về lý luận và thực tiễn. Đổi mới chính sách tài chính để phát triển kinh tế trong đó có kinh tế tư nhân là một vấn đề phức tạp cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, nó cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Chúng ta có thể phát huy những tích cực của kinh tế tư nhân góp phần xây dựng thành công CNXH ở Việt nam.
Danh mục tài liệu tham khảo
1)Vũ Đình Bách (1998), Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt nam, NXB Chính trị quốc gia.
2)Vũ Đình Bách, Ngô Đình Giao (1998), Phát triển các thành phần kinh tế và các tổ chức kinh doanh ở nước ta, NXB chính trị quốc gia.
3)Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình kinh tế chính trị Mác –Lênin, NXB Chính trị quốc gia, Hn 2002.
4)Phạm Ngọc Dũng (2001), Hoàn thiện chính sách tài chính để phát triển kinh tế tư bản nhà nước ở Việt nam, Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành tài chính, lưu thông tiền tệ và tín dụng.
5)Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, khoa kinh tế chính trị; Giáo trình kinh tế chính trị Mác –Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH, NXB chính trị quốc gia, HN 2001.
6)Học viện tài chính; Tài liệu hội thảo “Giải pháp kinh tế- tài chính hỗ trợ kinh tế tư nhân phát triển”, Hn 2002
Vũ Quốc Tuấn và Hoàng Thu Hà; Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa: Kinh nghiệm của nước ngoài và phát triển DNNVV ở Việt nam, NXB thống kê 2001
7)GS TS Nguyễn Thanh Tuyền, PGS.TS Nguyễn Quốc Tế- TS Lương Minh Cứ; Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam, NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh 2003.
8)TS Hà Huy Thành; Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân- Lý luận và chính sách; NXB Chính trị quốc gia, Hn 2002.
9)Học viện tài chính-Viện khoa học tài chính; Tài chính hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, NXB Tài chính, Hn 2002.
10)Nguyễn Văn Thức; Sở hữu- Lý luận và vận dụng ở Việt nam; NXB Khoa học xã hội, Hn 2004.
11)Tổng cục thống kê; Niên giám thống kê 2003, NXB thống kê, HN 2004
12)Đảng Cộng Sản Việt nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB chính trị quốc gia, HN 2001.
13)Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương; Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu học tập các nghị quyết hội nghị lần thứ năm ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX, NXB chính trị quốc gia, Hn 2002.
14) Tạp chí nghiên cứu Châu Âu số 5/1996, 6/1996, 2/1999, 4/1999
15) Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 209, 218, 223, 248, 268, 269
16)PGS.TS Nguyễn Thị Cành; “Quan điểm và chính sách phát triển kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH”, Tạp chí phát triển kinh tế tháng 7 năm 2002.
17)Văn Chương; “Ngân hàng không còn là cánh cửa hẹp với doanh nghiệp dân doanh”, tạp chí Tài chính- tín dụng, số 23, tháng 12/2003.
18)PGS.TS Bach Minh Huyền; Chính sách tài chính của Việt nam trong tiến trình hội nhập, Tạp chí Tài chính doanh nghiệp số 6, 2003.
19)PGS.TS Bạch Thị Minh Huyền; Chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, Tạp chí Tài chính doanh nghiệp, số 8, 2003.
20)TS Lê Khoa; “Chính sách vĩ mô đối với khu vực tư nhân”, tạp chí phát triển kinh tế tháng 7 năm 2002.
21)Ngô Lâm Khuê; Thuế thu nhập doanh nghiệp- Một số nội dung cần tiếp tục hoàn thiện; Tạp chí tài chính – tín dụng số 18 tháng 9/2002.
22)TS Nguyễn Đăng Nam; Thực hiện Luật Doanh nghiệp Nhìn từ góc độ các giải pháp tài chính; Tạp chí Tài chính doanh nghiệp số 2003
23)Th.s Trần Đức Lộc; Giải pháp nào để huy động có hiệu quả vốn của doanh nghiệp tư nhân và dân cư; Tạp chí Tài chính, tháng 2/2004.
24)Diêu Hương- Hà Tiểu Lâm; Khu vực kinh tế tư nhân trung quóc: Chính sách, quá trình phát triển và những trở ngại trước mắt; Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 287 tháng 4/2002.
25)TS Nguyễn Đăng Nam; Tài chính với sự phát triển kinh tế tư nhân; Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 292- tháng 9/2002.
26)TS Lê Thị Băng Tâm; “Chính sách tài chính thúc đẩy kinh tế tư nhân của Việt nam”, Tạp chí Tài chính-Tín dụng, tháng 3/2003
27)TS Hồ Ngọc Yên (2002) “Vấn đề sở hữu và kinh tế tư bản tư nhân ở nước ta hiện nay”, Tạp chí phát triển kinh tế tháng 7 năm 2002.
28) Tài liệu Hội thảo “Khung pháp lý cho khu vực kinh tế tư nhân ở Việt nam” Viện Quản lý kinh tế trung ương, Hà nội 2001
29)Tài liệu hội thảo “Những vấn đề bức xúc về kinh tế – xã hội và nhân văn đối với kinh tế tư nhân ở hà nội” Viên nghiên cứu kinh tế, đại học kinh tế quốc dân.
30)Một số tài liệu khác có liên quan.
Mục lục
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NKT350.doc