Độc lập dân tộc phải gắn liền CNXH theo Tư tưởng Hồ Chí Minh

Đề bài: Anh, chị hãy làm rõ vấn đề : “Độc lập dân tộc phải gắn liền Chủ nghĩa xã hội theo Tư tưởng Hồ Chí Minh” . Hãy nêu rõ ý nghĩa, lí luận thực tiễn luận điểm trên ? Bài làm ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH I.Đặt vấn đề. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mục tiêu của con đường cách mạng mà Người

doc16 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3450 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Độc lập dân tộc phải gắn liền CNXH theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã lựa chọn, nó vừa đáp ứng được yêu cầu bức xúc của dân tộc và khát vọng của quần chúng nhân dân giành lấy độc lập, tự do, ấm no và hạnh phúc, giải phóng cuộc đời lầm than, đói khổ dưới ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai. Tư tưởng ấy đã đưa dân tộc ta đến độc lập, tự do, nước nhà Bắc – Nam thống nhất và ngày nay, đó là nguồn sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng một xã hội Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. II.Giải quyết vấn đề. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc của Hồ Chí Minh. Bởi lẽ, Người đã vượt qua giới hạn của những nhà yêu nước đương thời và phát hiện ra con đường cứu dân, cứu nước. Chúng ta tự hào với lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh kiên cường và bền bỉ để giữ vững độc lập dân tộc của dân tộc ta. Khi nước nhà bị bọn xâm lược giầy xéo thì dân tộc không có khát vọng nào cao hơn là giành độc lập dân tộc. Nhưng chúng ta vẫn biết là không phải bất cứ lúc nào những người con yêu nước của dân tộc cũng tìm thấy cho mình con đường cứu dân, cứu nước đúng đắn. Thực tiễn khi thực dân Pháp xâm lược nước ta cho đến những năm đầu của thế kỷ XX cho thấy, nhân dân ta, các thế hệ nối tiếp nhau đứng lên, mong đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại non sông đất nước. Song do chưa có đường lối đúng đắn như con đường “Tây du” và “Đông du” của các cụ Phan khởi xướng, do ngọn cờ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời, nên các phong trào, các cuộc khởi nghĩa yêu nước lần lượt thất bại, quần chúng cách mạng bị dìm trong biển máu. Sự thể đau lòng đến nỗi nhà yêu nước Phan Bội Châu buông lời: “Trăm lần thất bại chưa có một lần thành công”. Sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan, người thanh niên Nguyễn Tất Thành sau nhiều trăn trở đã ra đi tìm đường cứu nước vào năm 1911. Sau hơn 10 năm lăn lộn, qua nhiều nước để tìm tòi và thử nghiệm, Người đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với tư tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Người cho rằng phải học tập cách mạng Nga, khi được tiếp xúc: “Bản luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, Người đã sung sướng nói to lên: “Hởi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Vậy là, từ lòng yêu nước, thương dân thúc giục Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân thì đến với Cách mạng tháng Mười và chủ nghĩa Lê-nin, Người đã tìm thấy ở đó con đường cứu nước, cứu dân và giải phóng lao động và quả quyết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tư duy sáng tạo độc đáo của Người đối với Chủ nghĩa Mác – Lênin về tiến trình, logic phát triển của cách mạng vô sản ở Việt Nam. Lựa chọn con đường cách mạng vô sản là sự thống nhất giữa điều kiện khách quan với nhận thức và hoạt động chủ quan của Hồ Chí Minh. Đó là sự gặp gỡ của thời đại và Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là đóng góp to lớn nhất của Người với thời đại, đặc biệt là đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc. Đi theo con đường cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân, giải phóng quần chúng lao động khỏi áp bức bóc lột và đi đến mục tiêu cao cả của chủ nghĩa cộng sản là giải phóng con người. Thực hiện thắng lợi mục tiêu ấy thuộc về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội diễn ra trong suốt quá trình cách mạng, ở mỗi giai đoạn của cách mạng; thống nhất ở mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài. Bởi vì, đối với một dân tộc đã phải trải qua một ngàn năm đô hộ của phong kiến phương Bắc và gần một trăm năm dưới gót sắt của chủ nghĩa thực dân thì khát vọng cao nhất và trực tiếp nhất là giành độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc. Nhưng để có độc lập thực sự cho dân tộc phải đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng, là điều kiện đảm bảo cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, là nhân tố đảm bảo vững chắc của nền độc lập dân tộc. Hồ Chủ Tịch đã từng nói : “Nhưng nếu nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”Và “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”Như thế nghĩa là cách mạng Việt Nam phải hướng tới mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột và bất công, tiến tới một xã hội “trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”Chính vì vậy, trong “Chính cương vắn tắt”, Người chủ trương tiến hành tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng hay là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và ngay trong cách mạng ấy, Người cũng xác định cần phải giải quyết hai nội dung cơ bản đó là : độc lập dân tộc và dân chủ nhân dân. Trong đó độc lập dân tộc là nhu cầu bức thiết cần phải tập trung sức lực giải quyết. Bởi mâu thuẫn giữa đế quốc xâm lược với nhân dân ta mà đông đảo là công nhân và nông dân là mâu thuẫn bao trùm lên tất cả, còn phong kiến chỉ là tay sai và chịu sự chi phối của thực dân đế quốc. Mâu thuẫn này nổi lên sâu sắc, gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhiệm vụ giải phóng dân tộc chống thực dân Pháp và tay sai đã là sự nghiệp nổi lên hàng đầu của nhân dân Việt Nam, cách mạng Việt Nam. Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ giải phóng dân tộc không có nghĩa là coi nhẹ vấn đề giai cấp, coi nhẹ chủ nghĩa xã hội. Trái lại, Người luôn quan niệm độc lập dân tộc là mục tiêu trước tiên phải giành được để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhất là ở giai đoạn đấu tranh giành chính quyền, chủ nghĩa xã hội mới chỉ là mục tiêu, nhưng nó chỉ rõ phương hướng đi lên của cách mạng Việt Nam – một cuộc cách mạng do giai cấp công nhân Việt Nam thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo. Chính vì vậy, sau mỗi bước thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, Người luôn quan tâm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng lực lượng cách mạng đi đôi với củng cố chính quyền cách mạng. Đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc thực sự đóng vai trò to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và tạo lập chế độ mới trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đường lối đó là cơ sở cho tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng, cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giai đoạn 1954-1975, cũng như thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trên phạm vi cả nước hiện nay. Tư tưởng của Người còn sâu sắc ở chỗ, độc lập dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà phải độc lập thực sự, phải gắn liền với thống nhất tổ quốc. Độc lập bao giờ cũng gắn liền với tự do dân chủ và ấm no hạnh phúc của nhân dân, nhất là đối với một nước thuộc địa, nửa phong kiến có trên 90% là nông dân. Dân chủ trước hết lúc này là phải giành lại ruộng đất cho dân cày và xác định quyền làm chủ của nông dân trên đồng ruộng của họ. Độc lập dân tộc và dân chủ là hai mục tiêu cơ bản, hai nội dung lớn mà cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải thực hiện. Hai nội dung đó quan hệ chặt chẽ và thúc đẩy nhau, song trước hết cần tập trung vào độc lập dân tộc vì nó giải quyết mâu thuẫn chủ yếu giữa toàn thể nhân dân ta với đế quốc xâm lược. Giải quyết mâu thuẫn này cũng là thực hiện được hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Và như thế, rõ ràng, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam là tư tưởng cách mạng không ngừng, là sự thống nhất giữa độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo, sau khi đã căn bản thực hiện thắng lợi các mục tiêu trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đó là sự lựa chọn của Hồ Chí Minh, của nhân dân Việt Nam và của chính lịch sử cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là xu thế phát triển của xã hội Việt Nam phù hợp với xu thế chung của lịch sử, của thời đại ngày nay. Xuất phát từ đặc điểm của thực tiễn xã hội Việt Nam, một nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa, nửa phong kiến bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nên trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Người không phải là đưa ra những ý tưởng cao xa, mà là đề cập đến những lợi ích rất cụ thể thiết thực, gần gũi với những nhu cầu đời thường của nhân dân lao động. Những quan niệm về chủ nghĩa xã hội được diễn đạt rất dễ hiểu, dễ đi vào lòng người và cổ vũ họ đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân và hướng tới chủ nghĩa xã hội. Để quần chúng dễ hiểu về chủ nghĩa xã hội, Người giải thích rõ : “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ (…). Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội” . III.Kết thúc vấn đề. Như vậy, có thể khẳng định rằng tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của Người thể hiện đậm nét sự công bằng xã hội. Nó không chỉ phản ánh mục tiêu, lý tưởng, bản chất sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn thể hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, đó là một chủ nghĩa xã hội tất cả vì con người và do con người. Trung thành với con đường đã chọn, suốt cuộc đời Hồ Chí Minh đã phấn đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người, vì một xã hội xã hội chủ nghĩa hiện thực trên đất nước Việt Nam. Mặc dù hiện nay chủ nghĩa xã hội thế giới sau những biến động khủng hỏang, sụp đổ đã có những dấu hiệu phát triển tích cực, nhiều nước khu vực Mỹ- latin tuyên bố xây dựng chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI, sự nghiệp đổi mới chủ nghĩa xã hội ở nước ta đạt thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử … Song các thế lực thù địch vẫn đang ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo lọan lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Hơn nữa, ngay một bộ phận nhân dân ta, trong đó có cả những cán bộ, đảng viên đã một thời không tiếc máu xương cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhưng đứng trước những khó khăn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường kết hợp với sự chống phá quyết liệt của kẻ thù, đã mất phương hướng chính trị, dao động về lập trường tư tưởng. Thậm chí có người phủ nhận những thành quả cách mạng mà nhân dân ta giành được, cho rằng chúng ta tiến hành kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ là sai lầm, gây nên sự mất mát hy sinh không cần thiết… Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, một số người còn cho rằng đã là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thì phải tự do hóa, chế độ một đảng lãnh đạo là không tương dung với kinh tế nhiều thành phần, hoặc đã chấp nhận kinh tế thị trường thì đừng nói đến định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, họ khuyên chúng ta không nên tiếp tục con đường xã hội chủ nghĩa mà nên đi theo chủ nghĩa xã hội dân chủ hay dừng lại ở chế độ dân chủ nhân dân, củng cố chế độ dân chủ nhân dân đến khi nào chuẩn bị đầy đủ các yếu tố hãy đi lên chủ nghĩa xã hội cũng chưa muộn, v.v… Trước những diễn biến của tình hình trên đây, rõ ràng đều nhắm tới mục tiêu, ý đồ đen tối là phủ định tư tưởng xuyên suốt trong di sản Hồ Chí Minh đối với cách mạng nước ta, mong muốn lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do vậy, đòi hỏi chúng ta phải vững tin vào con đường Bác Hồ đã lựa chọn, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đọan cách mạng hiện nay, tiếp tục quá trình đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, tiến lên xã hội xã hội chủ nghĩa, vì dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Ý nghĩa, lí luận thực tiễn của luận điểm trên: Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước tiếp tục phát triển trong tình hình có những diễn biến phức tạp. Bên cạnh những thời cơ lớn, chúng ta cũng đang đứng trước không ít thử thách cam go. Trong tình hình đó, một số người do phai nhạt lý tưởng, thoái hóa biến chất và cơ hội chính trị đã đưa ra một số quan điểm làm phân tâm xã hội, ảnh hưởng xấu tới quá trình đổi mới, quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một số người hoài nghi và cho rằng, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản không phải là sự lựa chọn của nhân dân Việt Nam. Theo họ, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản chỉ là sự lựa chọn của những người cộng sản ; cho nên, không nên tìm cách chứng minh sự lựa chọn con đường của Hồ Chí Minh cho đất nước là tuyệt đối đúng đắn . Theo họ, do giáo điều theo quan điểm của Lê-nin, Hồ Chí Minh đã thúc đẩy những nước phương Đông tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trong hoàn cảnh hoàn toàn không có những điều kiện để thực hiện cuộc cách mạng ấy. Gần đây, trong mức độ mềm dẻo hơn, cố mang tính "khách quan", "thực tế" hơn, có người cho rằng trước năm 1975, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đúng là mục tiêu, là lý tưởng của chúng ta. Nhưng sau năm 1975, khi đất nước đã có hòa bình, độc lập, thống nhất mà vẫn xem "độc lập dân tộc là mục tiêu" thì hoàn toàn vô nghĩa, là phủ nhận thành quả cách mạng mà nhân dân ta đã đạt được, là định khơi dậy cuộc đấu tranh đổ máu và thực tế lịch sử đã vượt qua . Còn vế thứ hai của mục tiêu "chủ nghĩa xã hội" thì sao ? Họ cho rằng, chủ nghĩa xã hội đang khủng hoảng và thoái trào. Sự tan rã của Liên bang Xô-viết, của các chế độ xã hội chủ nghĩa Đông Âu và của hệ thống xã hội chủ nghĩa nói chung là bằng chứng nói lên tính vô vọng của bất kỳ nước nào, khi còn xem chủ nghĩa xã hội là mục tiêu của sự phát triển . Tất cả những ý kiến ấy, vô tình hay cố ý, đều bỏ qua hiện thực lịch sử mà hầu hết những người có lương tri đều thừa nhận : Sự kết hợp giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã tạo ra những bước tiến to lớn không chỉ trong cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc, mà cả trong quá trình xây dựng xã hội mới. Những cuộc giải phóng vĩ đại không chỉ trên lĩnh vực chính trị, mà cả trên lĩnh vực kinh tế, tư tưởng, văn hóa, trên lĩnh vực phát huy nhân tố con người đã được thực hiện nhờ được cổ vũ bởi mục tiêu, lý tưởng đó. Chúng ta thấy rõ hơn thực tế vừa nêu ở nước ta, khi xem xét một số vấn đề sau đây : 1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - lô-gíc phát triển tất yếu của xã hội Việt Nam ngay từ đầu thế kỷ XX Sau khi buộc triều Nguyễn bạc nhược đầu hàng, thực dân Pháp đã cơ bản kết thúc giai đoạn vũ trang xâm lược nước ta. Chúng bắt đầu áp dụng chính sách thống trị thuộc địa : chuyên chế về chính trị ; vơ vét, bóc lột về kinh tế ; nô dịch về văn hóa. Nhân dân ta phải sống trong một tình cảnh lầm than. Với ý chí bất khuất kiên cường, chúng ta đã vùng lên anh dũng chống ngoại xâm ... Nhưng kết quả là các cuộc đấu tranh anh dũng đã bị thực dân Pháp và tay sai của chúng dìm trong biển máu ... Trước khi đi tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã làm "cuộc đại tổng kết lịch sử", nhìn nhận, đánh giá một cách hệ thống những con đường mà các bậc tiền bối đã đi qua. - Con đường của cụ Phan Bội Châu dựa vào Nhật, đánh Pháp chẳng khác gì "đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau". - Cụ Phan Châu Trinh định dựa vào Pháp để canh tân đất nước khác nào "xin giặc rủ lòng thương". - Chủ trương cầm súng chống Pháp của cụ Hoàng Hoa Thám khả dĩ hơn, nhưng còn mang nặng cốt cách phong kiến. - Con đường nghị viện mà Phan Văn Trường chủ trương, thử nghiệm cũng không đem lại kết quả. Nguyễn Ái Quốc tuy rất kính trọng các cụ, nhưng không đi theo con đường của các cụ. Trong tư tưởng, trong nhận thức của Người, chỉ có tinh thần yêu nước truyền thống, ý chí bất khuất ; chỉ với sức mạnh của truyền thống lịch sử sẽ không thể nào chiến thắng được quân xâm lược trong thời đại mới. Để giành được thắng lợi, nguồn sức mạnh đó cần được nâng lên một chất lượng mới và cùng với nó, điều căn bản hơn là phải nhận biết được thời đại đang sống, tìm ra nguồn sức mạnh mới, động lực mới cả trong nước và trên trường quốc tế. Đi khắp năm châu bốn biển, Người thấy rằng dù ở nước Pháp, nước Anh hay nước Mỹ, vẫn đang diễn ra sự phân cực giàu nghèo. Bên cạnh thiểu số những kẻ giàu có sống phè phỡn bằng áp bức, bóc lột là đa số những người lao động sống cơ cực. Ở đâu cũng khổ cực, cũng nhức nhối nạn kỳ thị, phân biệt chủng tộc, và độc lập dân tộc ở đó không đi liền với ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Người cũng nhận ra rằng, mặc dù nước Pháp, nước Anh là quê hương của các cuộc cách mạng tư sản, là những cường quốc đang lớn tiếng cổ xúy cho các khẩu hiệu bình đẳng, tự do, nhưng các thuộc địa của họ, dù ở châu Á, châu Phi hay Mỹ La-tinh, đều là địa ngục trần gian đối với người lao động bản xứ và là thiên đường của bọn thực dân. Đối với không ít nhà cách mạng của các dân tộc thuộc địa, cách mạng tư sản Anh, Pháp có thể cung cấp những nguyên mẫu đáng noi theo. Hào quang của các xứ sở đó có thể rọi sáng con đường giải phóng dân tộc họ. Nhưng đối với Nguyễn Ái Quốc, các cuộc cách mạng đó - cách mạng tư sản là các cuộc cách mạng "không đến nơi" ; con đường tư bản chủ nghĩa không thể là khuôn mẫu, là cứu cánh cho các dân tộc đang rên xiết dưới ách thực dân và đang khát khao một con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp để tiến tới một xã hội, mà ở đó có sự thống nhất giữa độc lập dân tộc và tự do, ấm no, hạnh phúc cho quảng đại quần chúng nhân dân. Theo Người, những lời tuyên bố tự do của các nhà chính trị tư sản chỉ là những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc. Muốn giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình. Chính lập trường yêu nước, lòng khát khao giải phóng dân tộc đã mang lại cho Nguyễn Ái Quốc hòn đá thử vàng chắc chắn để không mơ hồ, lạc hướng trong vô số lý luận, học thuyết đương thời. Ngay khi được biết về Quốc tế II, câu hỏi mà Nguyễn Ái Quốc đặt ra và có ý nghĩa quyết định đối với sự lựa chọn lập trường chính trị của Người là Quốc tế đó có giúp đỡ các dân tộc nô lệ và lệ thuộc đấu tranh giải phóng mình không ? Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại (1917) đã mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử nhân loại, thời kỳ bắt đầu thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng các dân tộc bị áp bức. Từ phía các dân tộc bị áp bức, khẩu hiệu mà Tôn Trung Sơn, nhà cách mạng vĩ đại của Trung Quốc đưa ra : "Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc" đã phản ánh nhu cầu và niềm khát vọng chung của họ. Nhưng chưa có một dân tộc thuộc địa nào tự mình đủ sức giành thắng lợi đầu thế kỷ XX. Ở Việt Nam, vào nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, mọi nỗ lực giải phóng dân tộc đều không thành công, mọi con đường cứu nước đều bế tắc. Điều đó càng chứng tỏ rằng, các dân tộc thuộc địa không thể chỉ dựa vào sức lực vốn có của mình để chiến thắng sự liên hiệp của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Nhu cầu tìm bạn đồng minh được đặt ra cho tất cả các dân tộc phụ thuộc và thuộc địa. Những điều kiện để thoả mãn nhu cầu đó đã xuất hiện : cả phía giai cấp vô sản lẫn phía các dân tộc bị áp bức đều có nhu cầu kết hợp với nhau để chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Mặt khác, hoàn cảnh lịch sử chung của thời đại đã phát triển tới mức đặt song hành cuộc đấu tranh giải phóng của giai cấp vô sản quốc tế với cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa và tạo ra đầy đủ tiền đề để hai cuộc cách mạng này kết hợp với nhau. Từ thực tế đó, Người rút ra kết luận mang tầm chiến lược là : Trong thời đại ngày nay, muốn cứu nước, giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác, ngoài con đường cách mạng vô sản ; chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam đã chứng minh điều đó. 2. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội sau kháng chiến chống Mỹ cứu nước Sau ngày giải phóng 30-4-1975, có nhiều ý kiến đặt ra đối với cách mạng Việt Nam : - Một số người cho rằng, do hai miền còn có những khác biệt đáng kể về kinh tế và nhiều vấn đề khác, nên chưa thống nhất đất nước vội. Hãy để miền Nam làm tiếp nhiệm vụ còn lại của cách mạng về xã hội, đến khi giữa hai miền có sự hòa đồng thì sẽ tiến hành thống nhất đất nước, tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. - Để miền Nam phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa một thời gian, sau đó sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. - Miền Nam nên xác lập chế độ dân chủ nhân dân một cách triệt để và trung lập để tranh thủ sự giúp đỡ của mọi nước có thể chế chính trị khác nhau nhằm tạo những tiền đề cần thiết rồi sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. - Một số khác cực đoan hơn, cho rằng giờ đây chủ nghĩa tư bản và loài người nói chung đang chuyển sang một xã hội "hậu công nghiệp", không còn có vấn đề xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa nữa. Do vậy, cứ khư khư khẳng định con đường xã hội chủ nghĩa là bảo thủ, sai lầm. Đối với chúng ta, kinh nghiệm lịch sử hiện đại chứng minh rằng, thống nhất đất nước chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở độc lập dân tộc thực sự - độc lập trên nền tảng của chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, từ đó sẽ tạo ra những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết cho việc bảo vệ vững chắc chủ quyền của dân tộc. Đó là nguyện vọng chung của nhân dân. Nhân dân ta đi theo Đảng tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân không chỉ nhằm thoát khỏi ách đô hộ của ngoại bang, cũng không phải chỉ nhằm thoát khỏi gông cùm của phong kiến, để rồi lại rơi vào tình trạng bị giai cấp tư sản bóc lột, mà còn muốn thoát khỏi mọi kiểu áp bức, bóc lột để mọi người đều được sống trong ấm no, tự do và hạnh phúc. Muốn vậy, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vấn đề còn lại chỉ là đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội như thế nào, theo mô hình nào, chứ không phải là vấn đề có nên tiến lên chủ nghĩa xã hội hay không ? Mặc dù có sự khủng hoảng kinh tế - xã hội vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX khiến cho Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, nhưng không vì thế mà cho rằng con đường mà dân tộc ta lựa chọn là sai lầm. 3. Vấn đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới hiện nay Trước hết cần khẳng định : Mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có nội dung mang tính lịch sử, cụ thể. Trong các giai đoạn khác nhau, trong các thời kỳ khác nhau của cuộc cách mạng do Đảng ta lãnh đạo, mục tiêu đó mang nội dung không hoàn toàn như nhau. Trước 1945, mục tiêu đó có nội dung trực tiếp nhất là đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân ; xóa bỏ sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, tạo tiền đề chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội cho việc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1954 đến ngày 30-4-1975, mặc dù chỉ có miền Bắc đã bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc để quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn là nhiệm vụ chính trị số một, bao trùm trong cả nước. Mục tiêu "Độc lập dân tộc" lúc đó là giữ vững thành quả độc lập dân tộc mà nhân dân miền Bắc đã đạt được : loại bỏ sự thống trị của đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai của Mỹ ở miền Nam nhằm làm cho miền Nam thoát khỏi chủ nghĩa thực dân mới. Chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội mang đầy đủ những đặc trưng, bản chất của mình vẫn là mục tiêu, lý tưởng cần vươn tới đối với cả nước. Từ sau ngày 30-4-1975, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vẫn là mục tiêu nhưng với nội dung mới. Tuy độc lập dân tộc với nghĩa thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới đã đạt được trong thực tế, nhưng việc giữ vững, củng cố và phát huy thành quả đó trong xây dựng xã hội mới vẫn là một vấn đề không đơn giản. Chủ nghĩa đế quốc nói chung, đế quốc Mỹ nói riêng đang ra sức sử dụng nhiều con đường, bằng nhiều biện pháp khác nhau, từ kinh tế đến văn hóa, khoa học, công nghệ, dân tộc và tôn giáo, nhằm thay đổi bản chất chế độ của chúng ta, thậm chí, nhằm xác lập trở lại quyền thống trị của chúng cùng bè lũ tay sai. Chúng ta thấy rõ mưu đồ đó qua nhiều thủ đoạn của giới cầm quyền Mỹ và bè lũ tay sai cùng những hành động thực tế của chúng. Ngay khi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ còn đang trong quá trình đàm phán và sơ bộ được ký kết, tờ Thời báo Oa-sinh-tơn có đoạn : Việc ký kết bước đầu hiệp định thương mại với Việt Nam ngày 25-7 đánh dấu chặng đường cuối cùng trên con đường nước Mỹ trở lại Đông Dương sau cuộc chiến Việt Nam. Oa-sinh-tơn hy vọng rằng, các cải cách kinh tế và mậu dịch được kích thích bởi hiệp định này sẽ giúp Mỹ, bằng con đường thương mại, hoàn thành được những gì đã không thể hoàn thành được bằng đại bác : chuyển hóa một chính quyền cộng sản sang một xã hội cởi mở... Ai cũng biết, "xã hội cởi mở" mà Mỹ nói ở đây chính là xã hội tuân theo những chuẩn mực dân chủ, nhân quyền của Mỹ, tức là một nước lệ thuộc Mỹ. Mục tiêu độc lập dân tộc biểu hiện rõ nhất ở chỗ bảo đảm có đường lối độc lập, tự chủ trong phát triển đất nước. Nó xa lạ với mọi sự sao chép bên ngoài, ỷ lại bên ngoài, lệ thuộc bên ngoài. Cùng với đó, một nội dung không kém phần quan trọng là bảo đảm độc lập tự chủ trong chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế ; tiếp thu những tinh hoa của nhân loại nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc. Ngay với nghĩa cổ điển của từ đó, độc lập dân tộc giờ đây cũng không phải không đứng trước những nguy cơ. Sự vi phạm độc lập, chủ quyền vùng biển, vùng trời, biên giới đất liền của các thế lực thù địch vẫn thường xuyên diễn ra với mức độ khác nhau. Các vấn đề "Nhà nước Đê Ga độc lập" vẫn âm ỉ, các thủ đoạn núp sau tôn giáo, dân tộc, nhằm gây rối chính trị - xã hội... là những minh chứng cho điều đó... Việc bảo đảm toàn vẹn chủ quyền quốc gia vẫn thường xuyên được đặt ra. Với những ý nghĩa như vậy, độc lập dân tộc của chúng ta vừa là một hiện thực lịch sử, vừa là một mục tiêu ngay trong giai đoạn hiện nay và cả trong một tương lai không ngắn. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội luôn luôn là mục tiêu của chúng ta.Hiện nay, sự khủng hoảng, thoái trào của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội không phải là cơ sở để ai đó đi tới kết luận rằng : chủ nghĩa xã hội là một sai lầm lịch sử ; rằng : "chủ nghĩa tư bản muôn năm", là triển vọng duy nhất và cuối cùng của mọi dân tộc, của mọi quốc gia. Sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội chỉ là khủng hoảng của một kiểu, một mô hình bị biến dạng của chủ nghĩa xã hội. Từ kinh nghiệm thành công và chưa thành công của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ những tri thức và kinh nghiệm mới mà loài người đã tạo ra trong những thể chế chính trị - xã hội khác nhau trong hiện thực lịch sử và thời đại, những người mác-xít có khả năng đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhờ vậy, chủ nghĩa xã hội sẽ không chỉ thoát khỏi khủng hoảng, mà còn có bước phát triển rực rỡ trong tương lai. Thắng lợi to lớn của Trung Quốc trong quá trình cải cách và mở cửa suốt 24 năm qua, những thành tựu to lớn mà Việt Nam đạt được trong hơn 16 năm đổi mới là một thực tế không ai có thể phủ nhận. Phát huy những bài học kinh nghiệm đã được tích lũy trong quá trình đó, phát triển và vận dụng sáng tạo chúng vào hoàn cảnh của mỗi dân tộc sẽ mang lại triển vọng huy hoàng cho mọi quốc gia đang và sẽ phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, ngay từ những năm 30 của thế kỷ XX, Đảng ta đã quan niệm độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không phải là hai mục tiêu khác nhau, bên ngoài nhau. Độc lập dân tộc mà chúng ta cần có là độc lập dân tộc của một nước xã hội chủ nghĩa. Chỉ khi đó, độc lập dân tộc mới đi liền với sự giàu có, hạnh phúc chung của nhân dân. Độc lập dân tộc là thuộc tính nội tại của chủ nghĩa xã hội với tư cách một chế độ xã hội ; không có độc lập dân tộc thì không có xã hội xã hội chủ nghĩa. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31403.doc