Đại học quốc gia hà nội
Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
Nguyễn Minh Hải
doanh nhân nữ ở hà nội hiện nay, vấn đề
và xu hướng phát triển
(Nghiên cứu trường hợp 3 doanh nghiệp tại Hà Nội: Cty CP Thiết bị trường học Linh Anh, Cty CP Thương mại Hà My, Cty CP Thiết bị giáo dục và đồ chơi Hà Thành)
Luận văn thạc sỹ
Hà Nội – 2008
Đại học quốc gia hà nội
Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
Khoa xã hội học
Nguyễn Minh Hải
doanh nhân nữ ở hà nội hiện nay, vấn đề
và xu hướng
125 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1398 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Doanh nhân nữ ở Hà Nội hiện nay, vấn đề và xu hướng phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát triển
(Nghiên cứu trường hợp 3 doạnh nghiệp tại Hà Nội: Cty CP Thiết bị trường học Linh Anh, Cty CP Thưong mại Hà My, Cty CP Thiết bị giáo dục và đồ chơi Hà Thành)
Luận văn thạc sỹ
chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 60.31.30
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Lê Thị quý
Hà Nội - 2008
Lời cảm ơn
Lời đầu tiên cho phép tôi gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giáo viên hướng dẫn, PGS.TS Lê Thị Quý, người đã có những định hướng quý báu cho tôi trong việc tiếp cận vấn đề nghiên cứu. Trong suốt quá trình làm luận văn, cô giáo Lê Thị Quý đã thường xuyên giúp đỡ, đạo điều kiện hướng dẫn để tôi hoàn thành luận văn của mình.
Xin cảm ơn đến gia đình, bạn bè, các thầy cô giáo trong khoa Xã Hội Học, đồng nghiệp nơi tôi công tác, những người đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Mặc dù đã hết sức cố gắng và nghiêm túc thực hiện luận văn, nhưng do còn những hạn chế về thời gian, cơ hội tiếp cận với khách thể nghiên cứu, do đó đề tài khó tránh khỏi những thiết sót. Tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô, cùng những ý kiến đóng góp của các bạn./.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn
Hà Nội, 03/2008
Nguyễn Minh Hải
Danh mục các chữ viết tắt
MPDF
Chương trình phát triển kinh tế tư nhân
IFC
Tổ chức tài chính quốc tế
GEM
Bộ phận Giới – doanh nghiệp – thị trường
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
VCCI
Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam
CLB
Câu lạc bộ
GCNQSDĐ
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
GDP
Tổng thu nhập quốc dân
ILO
Tổ chức lao động quốc tế
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức
Mục lục
Phần mở đầu……………………………………………………………
5
1. Tính cấp thiết của đề tài…………………………………………………...
5
2. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu của đề tài………………...
7
3. ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài………………………..
7
* ý nghĩa khoa học……………………………………………………………
7
* ý nghĩa thực tiễn…………………………………………………………….
7
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………..
8
* Mục đích nghiên cứu………………………………………………………..
8
* Mục tiêu nghiên cứu…………………………………………………………
8
5. Các phương pháp nghiên cứu của đề tài…………………………………
8
5.1 Phương pháp luận chung………………………………………………..
8
5.2 Phương pháp tiếp cận giới…………………………………………………
9
5.3 Phương pháp nghiên cứu cụ thể………………………………………........
11
5.3.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu………………………………………...
11
5.3.2 Phương pháp phỏng vấn sâu…………………………………………….
12
5.3.3 Phương pháp thảo luận nhóm tập trung……………………………............
12
6. Giả thuyết nghiên cứu…………………………………………………….
13
7. Khung lý thuyết……………………………………………………………
14
Phần nội dung……………………………………………………….
15
Chương 1: Cơ sở thực tiễn và lý luận của đề tài
15
1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu…………………………………………
15
2. Các lý thuyết sử dụng trong nghiên cứu đề tài…………………………..
19
2.1 Lý thuyết nữ quyền………………………………………………..............
19
2.2 Lý thuyết hành động xã hội……………………………………………….
22
2.3 Lý thuyết phát triển………………………………………………………..
24
3. Hệ khái niệm có liên quan đến đề tài nghiên cứu………………………..
26
Chương 2: Kết quả nghiên cứu…………………………………..
32
1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu……………………………………….
32
2. Tìm hiểu về 3 trường hợp doanh nghiệp được nghiên cứu……………...
35
3. Phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và vấn đề kinh doanh…………
41
3.1 Phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới………………………………...
41
3.1.1 Tìm hiểu về người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới…………....
41
3.1.2 Sự ra đời của Luật bình đẳng giới tạo cơ hội cho phụ nữ phát triển……..
43
3.2 Kinh doanh ở Việt Nam và sự tham gia của nữ giới……………………
43
3.3 Thuận lợi và khó khăn của doanh nhân nữ ở Việt Nam……………….
47
3.3.1 Các vấn đề gặp phải trong công việc kinh doanh………………………
47
3.3.2 Các vấn đề gặp phải trong cuộc sống gia đình…………………………
69
3.3.3 Các vấn đề gặp phải từ góc độ giới…………………………..................
73
4. Doanh nhân nữ ở Hà Nội, vấn đề và xu hướng phát triển………………
75
4.1 Môi trường kinh doanh và những nhân tố tác động tới sự thành công của doanh nhân nữ ở Hà Nội.....................................................................................
75
4.2 Doanh nhân nữ và vấn đề bình đẳng giới…………………………….........
80
4.3 Xu hướng phát triển của các doanh nhân nữ Hà Nội………………………
84
kết luận và khuyến nghị…………………………….....................
92
1. Kết luận……………………………………………………………………..
92
2. Khuyến nghị………………………………………………………………...
95
tài liệu tham khảo…………………………………………………...
97
Phụ lục……………………………………………………………………..
101
Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phụ nữ chiếm nửa dân cư trong xã hội với sức lao động dồi dào và óc sáng tạo phong phú, là nguồn lực to lớn và quan trọng của đất nước. Nhiều thập kỷ gần đây, số lượng nữ giới nắm giữ các chức vụ trong bộ máy chính quyền, tham gia vào lĩnh vực lao động trí óc ngày càng tăng. Theo thống kê trên thế giới hiện nay có khoảng 10 nữ Thủ Tướng, 3 nữ Tổng Thống, 6 Chủ tịch quốc hội và có khoảng 3.626 nữ nghị sĩ, chiếm hơn 10% tổng số nghị sĩ trên thế giới.(1) Điều này chứng tỏ, trình độ, trí tuệ, khả năng quản lý của phụ nữ không thua kém gì nam giới. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, kỷ nguyên của công nghệ thông tin và các tiến bộ khoa học kỹ thuật, phụ nữ ngày càng trở thành lực lượng quan trọng góp phần vào sự thành công về phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia.
Đi vào nền kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước đã dành nhiều quan tâm và có chính sách khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp. Vì vậy cơ hội phát triển của các doanh nhân (cả nam và nữ) đã được mở rộng. Sự xuất hiện đông đảo của đội ngũ doanh nhân nữ có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Quản lý, điều hành doanh nghiệp đòi hỏi người chủ doanh nghiệp phải luôn năng động, sáng tạo. Theo nghĩa này, doanh nhân nữ cũng như doanh nhân nam phải là những người có trí tuệ, có tài lãnh đạo, có bản lĩnh và đặc biệt phải có một tinh thần thép để đứng vững và vượt qua những khó khăn trong môi trường kinh doanh khốc liệt. Trên thực tế, có một số người vẫn cho rằng, kinh doanh là công việc của người đàn ông, còn phụ nữ chỉ phù hợp với các công việc “nhẹ nhàng”, làm người vợ, người mẹ trong gia đình.
(1). Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH, Nxb Chính trị Quốc gia, 2005.
Trong lịch sử và cho đến tận ngày nay, chúng ta thường thấy phần lớn các doanh nhân thành đạt là nam giới, phụ nữ có chăng chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Điều này không phải do sự yếu kém của phụ nữ mà do từ phía xã hội trên vấn đề phụ nữ. Nhưng hiện nay, tình hình này cũng đã có nhiều chuyển biến. ở các quốc gia phát triển như Mỹ, Nhật, Châu âu... đã nhiều tấm gương phụ nữ điển hình trên mọi lĩnh vực. Còn ở Việt Nam hiện nay, chưa bao giờ phụ nữ lại đạt trình độ cao và tham gia nhiều vào lĩnh vực kinh tế đến như vậy, họ là những giáo sư, những nhà chính trị, nhà kinh tế, các nữ doanh nhân thành đạt. Thành công mà các doanh nhân nữ mang lại bước đầu đã đánh dấu sự tồn tại và vị trí quan trọng của nữ giới trong môi trường kinh doanh. Số liệu thống kê dân số năm 1999 ở Việt Nam cho biết, phụ nữ đại diện cho 49% lực lượng lao động, sở hữu khoảng 30% số doanh nghiệp vừa và nhỏ, đóng góp đáng kể cho nên kinh tế. (1)
Tuy nhiên, các doanh nhân nữ đã và đang gặp phải những khó khăn, không chỉ trong môi trường kinh doanh, mà trên cương vị là những nữ giám đốc, những người lãnh đạo họ phải đối mặt với cả những khó khăn về sự đố kị và những thành kiến của xã hội. Các chị có rất ít thời gian để chăm lo cho gia đình, cho cuộc sống riêng tư của mình.
Một xã hội phát triển là một xã hội bình đẳng, mà trong đó chính quyền và nhân dân tạo cơ hội cho cả nam và nữ cùng phát triển. Một nền kinh tế vững mạnh không chỉ là công sức riêng nam giới mà còn có cả sự đóng góp quan trọng của phụ nữ.
(1) Tổng cục thống kê, Thống kê dân số năm 1999.
Tìm hiểu về những thuận lợi và khó khăn của những người phụ nữ làm kinh doanh sẽ giúp chúng ta có cái nhìn đầy đủ, sâu sắc hơn về vấn đề giới trong xã hội hiện đại. Vấn đề đang đặt ra cho các doanh nhân nữ là gì ? Các vấn đề này giống và khác với nam doanh nhân như thế nào? Nhận thức của phụ nữ và nam giới trên vấn đề giới và xu hướng phát triển của họ ra sao? Để trả lời cho các câu hỏi trên, tác giả đã lựa chọn đề tài nghiên cứu “Doanh nhân nữ ở Hà Nội hiện nay, vấn đề và xu hướng phát triển “. Do sự hạn chế về thời gian và kinh phí, tác giả chỉ tập trung chủ yếu vào việc Nghiên cứu trường hợp 3 doanh nghiệp tại Hà Nội: Cty CP Thiết bị trường học Linh Anh, Cty CP Thương mại Hà My, Cty CP Thiết bị giáo dục và đồ chơi Hà Thành, cùng với việc phân tích các tài liệu có sẵn.
2. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Doanh nhân nữ ở Hà Nội hiện nay, vấn đề và xu hướng phát triển.
* Khách thể nghiên cứu:
- Nữ doanh nhân trên cương vị giám đốc, phó giám đốc đang làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức hoạt động kinh doanh.
- Thành viên gia đình các doanh nhân nữ.
- Nam doanh nhân.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi địa bàn nghiên cứu: Thành phố Hà Nội
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: Tháng 06/2007 - 02/2008
3. ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
* ý nghĩa khoa học:
Đề tài nhằm góp phần vào việc nghiên cứu lý luận xã hội học nói chung và xã hội học giới, về một vấn đề còn ít người nghiên cứu là nữ doanh nhân, so với nam doanh nhân. Qua nghiên cứu cũng giúp tác giả có những nhận thức sâu hơn, đầy đủ hơn về các lý thuyết xã hội học, trong đó có lý thuyết xã hội học về giới, xã hội học kinh tế - doanh nghiệp.
* ý nghĩa thực tiễn:
Thông qua kết quả nghiên cứu đề tài sẽ phân tích được những thuận lợi, những khó khăn, các vấn đề gặp phải của các nữ doanh nhân trong môi trường kinh doanh, cũng như trong cuộc sống. Trên cơ sở đó, đề tài sẽ đưa ra các khuyến nghị trong việc hỗ trợ các doanh nhân nữ có cơ hội phát triển toàn diện, giúp họ khắc phục những khó khăn trong công việc và trong cuộc sống gia đình.
4. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Mô tả tình hình phát triển của đội ngũ doanh nhân nữ, những thuận lợi, khó khăn, và xu hướng phát triển của doanh nhân nữ trong tương lai. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số khuyến nghị nhằm hỗ trợ các doanh nhân nữ có điều kiện phát triển, góp phần nâng cao vai trò của người phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
1. Mô tả thực trạng hoạt động của 3 doanh nghiệp nữ đã lựa chọn.
2. Phân tích các yếu tố tác động tới sự phát triển của doanh nhân nữ hiện nay.
3. Phân tích những thuận lợi, khó khăn của doanh nhân nữ trong hoạt động kinh doanh và trên bình diện giới.
4. Đề xuất các giải pháp, khuyến nghị, nhằm phát huy những lợi thế và khắc phục những khó khăn, tạo điều kiện cho nữ doanh nhân có nhiều cơ hội phát triển.
5. Các phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Phương pháp luận chung
Chủ nghĩa Mác - Lê Nin quan niệm, vật chất có trước ý thức, vật chất quyết định ý thức, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. áp dụng lý luận này vào công trình nghiên cứu của mình, tác giả muốn tìm hiểu sự tác động của nền kinh tế - xã hội và những biểu hiện của nó tới hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Trong đó, tác giả xem xét, đánh giá những tác động từ phía các chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh và trên bình diện giới tới sự phát triển của các doanh nhân nữ.
Trên cơ sở vận dụng quan điểm Mác Xít về mối quan hệ biện chứng, trong nghiên cứu của mình, tác giả nhìn nhận mọi vấn đề nghiên cứu trong mối quan hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau qua việc phân tích những tác động của môi trường kinh tế – xã hội tới doanh nhân nữ và ngược lại. Mọi vấn đề không chỉ được nhìn nhận từ bên ngoài mà còn được xem xét đến cả những tác động và biến đổi từ bên trong.
Chủ nghĩa Duy vật lịch sử của Mác – Lênin cho rằng, sự ra đời của nền kinh tế thị trường trong chế độ Xã hội Chủ nghĩa sẽ không tránh khỏi sự hình thành về khoảng cách thu nhập và những bất bình đẳng sẽ là tất yếu, song sự cạnh tranh và tác động lẫn nhau giữa các thành phần kinh tế lại là điều kiện thúc đẩy quá trình tăng trưởng và phát triển. Đối với Việt Nam, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế được hình thành trong công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo. Các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta như Đại hội IX của Đảng chỉ rõ, bao gồm: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể với những hình thức đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế đó dựa trên những hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí có lúc đối lập nhau về bản chất kinh tế - xã hội, vừa hợp tác cùng có lợi, vừa cạnh tranh phát triển trong một chỉnh thể, tạo thành những bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Vận dụng quan điểm Mác Xít và dựa trên thực tiễn ở Việt Nam, tác giả xem xét sự thành công của một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phụ thuộc vào việc thỏa mãn khách hàng bằng cách sản xuất những sản phẩm mà họ muốn; bán các hàng hóa và dịch vụ với giá cả và chất lượng có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác. Do đó, doanh nhân nữ muốn phát triển cần phải vận động và nỗ lực không ngừng, cần phát huy năng lực của bản thân và biết tranh thủ thời cơ, vận hội của dân tộc.
5.2. Phương pháp tiếp cận giới
Đề tài nghiên cứu được thực hiện dựa trên cơ sở lý thuyết về giới, trước tiên là sự phân biệt về mặt giới và giới tính để thấy được vai trò và vị trí cụ thể của từng giới
1- Giới tính (sex): Giới tính là thuật ngữ khoa học bắt nguồn từ bộ môn sinh vật học dùng đề chỉ sự khác biệt về sinh học giữa nam và nữ, đó là sự khác biệt phổ thông và không thể thay đổi được “mọi người đàn ông đều có đặc điểm chung về giới tính và mọi phụ nữ cũng vậy”. Con người sinh ra đã có những đặc điểm về giới tính và đặc điểm này tồn tại suốt cuộc đời. (1)
2- Giới (gender): Là thuật ngữ xã hội học bắt nguồn từ bộ môn nhân loại học, nói đến vai trò trách nhiệm, quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ bao gồm việc phân chia lao động, các kiểu phân chia, các nguồn và lợi ích. Giới đề cập đến các quy tắc tiêu chuẩn theo nhóm, tập thể chứ không theo thực tế cá nhân. Vai trò giới được xác định theo văn hoá, không theo khía cạnh sinh vật học và có thể thay đổi theo thời gian, theo từng xã hội và các vùng địa lý khác nhau. Khi sinh ra chúng ta không mang theo những đặc tính giới mà chúng ta học được những đặc tính giới từ gia đình, xã hội và nền văn hoá của chúng ta.(2)
Việc tiếp cận giới trong nghiên cứu đề tài về doanh nhân nữ sẽ giúp tác giả có những phân tích sâu hơn về những thuận lợi và khó khăn của doanh nhân nữ dựa trên những đặc điểm về giới tính. Đồng thời, áp dụng cách tiếp cận giới trong nghiên cứu của mình, tác giả còn nhìn nhận và phân tích đến những yếu tố xã hội bên cạnh những nhân tố tự nhiên về sinh lý, giới tính. ý nghĩa của việc xác định những yếu tố xã hội sẽ góp phần quan trọng vào việc chỉ ra được những nhân tố tác động tới sự phát triển của các doanh nhân nữ.
Việc tiếp cận giới còn giúp tác giả có những so sánh giữa doanh nhân nữ và nam doanh nhân trong quá trình phát triển của họ dựa trên cơ sở những phân tích, đánh giá theo từng giới, đồng thời sử dụng các mối tương quan trong bức tranh chung.
(1),(2), UBQG vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam - 1995
5.3 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
5.3.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Phương pháp phân tích tài liệu cho phép tác giả tiếp cận tình hình nghiên cứu một cách nhanh nhất. Dựa trên những nghiên cứu đi trước, tác giả sử dụng nguồn thông tin đã được nghiên cứu để làm sáng tỏ cho vấn đề mình nghiên cứu. Mặt khác, những thông tin thu được không chỉ cung cấp một bức tranh chung về thực trạng doanh nghiệp nữ ở Việt Nam, mà còn giúp tác giả tìm ra những nét mới, những khía cạnh cần khai thác sâu cho đề tài về doanh nhân nữ hiện nay. Đề tài nghiên cứu về nữ doanh nhân nói riêng và nghiên cứu về phụ nữ - giới nói chung được nhiều nhà khoa học, sinh viên và các phương tiện truyền thông quan tâm. Đây là điều kiện thuận lợi cho tác giả trong việc tìm nguồn tài liệu cung cấp cho việc nghiên cứu của mình. Tác giả đã sử dụng một số dạng tài liệu sau:
Những công trình nghiên cứu khoa học, luận án tốt nghiệp.
Tài liệu nghiên cứu và xuất bản của các nhà khoa học trong nước.
Tài liệu dịch từ tiếng nước ngoài.
Các tạp chí: Xã hội học, Khoa học về phụ nữ, Vì sự tiến bộ của phụ nữ, Nghiên cứu kinh tế v.v.
Cụ thể, tác giả sử dụng các số liệu định lượng và thông tin định tính từ:
(1). Công trình nghiên cứu “Doanh nhân nữ ở Việt Nam một khảo sát toàn quốc” do Chương trình phát triển kinh tế tư nhân (MPDF) và Bộ phận giới - Doanh nghiệp - Thị trường (GEM) thuộc Tổ chức tài chính quốc tế (IFC) thực hiện năm 2005.
(2). Báo cáo phát triển Việt Nam 2005, 2006: Kinh doanh, Quản lý và-điều hành, Ngân Hàng Thế giới, Hà Nội.
(3). Kết quả khảo sát doanh nghiệp năm 2005 tại 30 tỉnh, thành phố phía Bắc của Trung tâm Hỗ trợ kỹ thuật Doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
(4) Bài viết “Hỗ trợ doanh nhân nữ phát triển sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam” của Trung tâm Thông tin kinh tế, Phòng Thương Mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI).
(5). Các tài liệu nghiên cứu về giới khác.
5.3.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
Trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu của đề tài, bên cạnh việc phỏng vấn các doanh nhân nữ, đề tài còn phỏng vấn sâu các nam doanh nhân để có những so sánh đánh giá, làm rõ những lợi thế và những khó khăn ở các nữ doanh nhân so với đồng nghiệp nam giới; phỏng vấn các đối tượng là thành viên gia đình các doanh nhân nữ để có thêm thông tin đầy đủ và khách quan cho nghiên cứu. Tác giả tiến hành 15 phỏng vấn sâu:
- 10 cuộc phỏng vấn doanh nhân nữ trên cương vị là những lãnh đạo doanh nghiệp, trong đó, có 3 nữ giám đốc thuộc 3 doanh nghiệp được lựa chọn nghiên cứu trường hợp là: 1. Công ty Cổ phần thiết bị trường học Linh Anh.
2. Công ty Cổ phần thiết bị giáo dục và đồ chơi Hà Thành.
3. Công ty Cổ phần Thương mại Hà My.
Ngoài ra, tác giả còn phỏng vấn sâu 3 nam doanh nhân, 2 thành viên gia đình doanh nhân nữ.
5.3.3. Phương pháp thảo luận nhóm tập trung
Đề tài tiến hành 3 thảo luận nhóm tập trung, mỗi nhóm có thành viên mang đặc điểm khác nhau về giới tính, độ tuổi nhằm thu thập những thông tin đa dạng, khách quan và chính xác.
1/ Thảo luận nhóm 5 người: gồm 4 doanh nhân nữ và 1 thành viên gia đình doanh nhân nữ.
2/ Thảo luận nhóm 4 người: gồm 2 doanh nhân nam và 2 doanh nhân nữ.
3/ Thảo luận nhóm 7 người: gồm 4 doanh nhân nữ, 1 doanh nhân nam, 2 thành viên gia đình doanh nhân nữ.
6. Các giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết một: Môi trường kinh doanh hiện nay sẽ tạo ra nhiều nữ giới tham gia trên cương vị là những nhà quản lý, những người lãnh đạo.
Giả thuyết hai: Định kiến giới không còn là nguyên nhân chính cản trở người phụ nữ tham gia vào lĩnh vực kinh doanh.
Giả thuyết ba: Nữ giới mang những tố chất đặc biệt phù hợp với công việc kinh doanh và xu hướng phát triển của họ là rất tốt.
7. Khung lý thuyết
Điều kiện kinh tế - xã hội
Môi trường gia đình
Môi trường kinh doanh
Cộng đồng
Đặc điểm cá nhân
Trên bình diện giới
Các vấn đề gặp phải của nữ doanh nhân
Trong gia đình
Trong công việc
Xu hướng phát triển
Phần nội dung
Chương 1: cơ sở thực tiễn và lý luận của đề tài
1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Nghiên cứu về đội ngũ trí thức, lao động là phụ nữ nói chung và đội ngũ doanh nhân nữ nói riêng là mảng đề tài lớn đã được quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
Thứ nhất, mảng đề tài nghiên cứu về đội ngũ trí thức, lao động là nữ giới: Năm 1995, Bà Trương Mỹ Hoa có bài viết “Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế – xã hội và quản lý đất nước, định hướng đến năm 2000” đăng trên Tạp chí Cộng sản số 10/1995. Nội dung bài viết đề cập đến tầm quan trọng cũng như vị thế của người phụ nữ trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, trong đó tác giả nhấn mạnh đến đội ngũ trí thức và lao động là nữ giới, đó là nguồn lực lớn mạnh cần phải khai thác và phát huy nhằm góp phần thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tác giả Lê Thị Quý có đề cập đến nữ trí thức trong bài “Những vấn đề đặt ra cho khoa học nghiên cứu giới ở Việt Nam” trên Tạp chí Cộng sản số 18/1999. Bài “Nữ trí thức, những thuận lợi và thách thức” trên Tạp chí Khoa học và Tổ quốc số 5 (186), 2002. Trong các bài viết này, tác giả đã phân tích thực trạng sự phát triển của đội ngũ nữ trí thức là những lao động trí tuệ cao ở Việt Nam hiện nay. Những thuận lợi và khó khăn mang tính đặc thù của họ và sự đóng góp to lớn của họ vào sự phát triển của đất nước.
Tác giả Hoàng Thị Lịch có bài “Một vài điểm về bước tiến của các nhà khoa học nữ trong thời kỳ qua”, in trong tập “Mười năm bước tiến bộ của phụ nữ Việt Nam 1985 - 1995” Nxb. Phụ nữ - 1995. Trong bài viết này, tác giả đã khẳng định tài năng và chỉ ra những thành tựu to lớn mà các nhà khoa học nữ ở Việt Nam đã đạt được. Tác giả cũng đưa ra những tên tuổi của các nhà khoa học nữ được giới khoa học trong và ngoài nước đánh giá cao như: GS.TS Đặng Thị Hồng Vân, GS.TS toán học Võ Hồng Anh, GS.TS vật lý Phạm Thị Trân Châu... Tài năng và vị thế của nữ trí thức càng khẳng định hơn nữ tính của họ. Đó là những cố gắng âm thầm, bền bỉ và ý chí vươn lên đáng kinh ngạc của người phụ nữ.
Tác giả Đỗ Thị Thạch với cuốn “Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá” Nxb. Chính trị quốc gia – 2005 cũng đã tập trung làm rõ các quan niệm, khái niệm về trí thức nữ, cũng như những yếu tố tác động đến sự phát triển trí tuệ của phụ nữ, từ đó phân tích sự hình thành, những đặc điểm của nguồn trí thức nữ ở Việt Nam.
Các tác giả Nguyễn Hữu Chí, Ngô Tuấn Dung và Phạm Thanh Vân với cuốn “Hoàn thiện, thực thi pháp luật về lao động nữ trong doanh nghiệp ngoài nhà nước” Nxb.Tư pháp - 2005 đã dành sự quan tâm cho việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật lao động với lao động nữ. Trước thực trạng đòi hỏi một lượng lao động nữ lớn như hiện nay thì việc sử dụng hệ thống pháp luật để bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ lao động cho các lao động nữ có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Điều này không chỉ nhằm đảm bảo sự bình đẳng cho lao động nữ mà còn góp phần vào việc hướng tới mục tiêu xây dựng một thị trường lao động ổn định và lành mạnh.
Đề tài khoa học cấp Bộ của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương “Bất bình đẳng giới về thu nhập của người lao động ở Việt Nam và một số gợi ý giải pháp chính sách” do Thạc sĩ Nguyễn Thị Nguyệt làm chủ nhiệm đã chỉ ra thực trạng bất bình đẳng giới trong thu nhập ở Việt Nam và đưa ra những yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề bất bình đẳng giới trong thu nhập, trong đó có những yếu tố về đặc tính người lao động, trình độ học vấn, về địa lý…Đề tài cũng làm rõ hơn những mức độ ảnh hưởng của nó và chỉ ra những giải pháp chính sách nhằm hạn chế những bất bình đẳng giới trong thu nhập ở Việt Nam.
Thứ 2, mảng nghiên cứu về phụ nữ trong lĩnh vực kinh doanh. Ngay từ những năm 1970 nhà lý luận nữ quyền Ester Boserup đã cho ra mắt cuốn sách có nhan đề “Vai trò của phụ nữ đối với sự phát triển kinh tế” Nội dung tác giả tập trung phân tích ảnh hưởng của các dự án phát triển đối với phụ nữ ở các nước phát triển.
Công trình nghiên cứu “Doanh nhân nữ ở Việt Nam một khảo sát toàn quốc” được thực hiện trên cơ sở hợp tác giữa Chương trình phát triển kinh tế tư nhân (MPDF) và Bộ phận giới - Doanh nghiệp - Thị trường (GEM) thuộc tổ chức tài chính quốc tế (IFC) thực hiện năm 2005. Nghiên cứu đã chỉ ra những khó khăn của các chủ doanh nghiệp nữ hiện nay trong quá trình quản lý, lãnh đạo doanh nghiệp cùng những hạn chế về kỹ năng kinh doanh... Nghiên cứu cũng đưa ra những ý kiến, quan điểm của các doanh nhân nữ về những mong muốn của họ ở sự hỗ trợ của chính phủ trong việc phát triển doanh nghiệp. Đây là một nghiên cứu lớn được thực hiện trên toàn quốc, với những thông tin định tính quan trọng được khảo sát với số lượng lớn các chủ doanh nghiệp nữ ở các loại hình kinh doanh khác nhau.
Bài viết “ Tiềm năng và hiệu quả kinh doanh của các nữ chủ doanh nghiệp nhìn dưới góc độ sự bình đẳng giới và chính sách đáp ứng giới” của tác giả Trần Hồng Vân, (Trung tâm nghiên cứu Giới và gia đình) đọc tham luận tại: Hội thảo nữ doanh nhân Nam Bộ trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế. Trong bài viết, tác giả đã chỉ ra được sự khác biệt trong đặc điểm của nữ chủ doanh nghiệp so với nam chủ doanh nghiệp. Tác giả đã phân tích những khó khăn mà các nữ chủ doanh nghiệp đang gặp phải đồng thời đưa ra những mong muốn và nhu cầu hỗ trợ cần được đáp ứng của các chủ doanh nghiệp. Trong đó, tác giả đặc biệt nhấn mạnh tới công tác nghiên cứu khoa học về các nữ chủ doanh nghiệp để từ đó đánh giá đúng thực trạng, xác định rõ nguyên nhân và các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp do nữ giới làm chủ.
Tác phẩm “Những bà chúa kinh doanh đông tây” Nxb Tổng hợp Đồng Nai in và tái bản năm 2005 của tác giả Hoàng Thanh Minh. Là cuốn sách có giá trị làm nguồn tư liệu không chỉ cho bản thân các doanh nhân nữ mà còn đối với các nghiên cứu về nữ doanh nhân ở Việt Nam. Cuốn sách điểm tên một số nữ doanh nhân nổi tiếng trên thế giới cũng như tìm hiểu và cuộc đời và sự nghiệp của họ, những khó khăn thách thức mà họ đã trải qua. Qua đó tác giả khẳng định vị thế của giới nữ trong xã hội, cụ thể là trong lĩnh vực kinh tế. Bằng tài năng, ý trí và nghị lực họ đã tìm cho mình một chỗ đứng trên thương trường, khẳng định địa vị của mình bên cạnh nam giới.
Tác giả Quốc Anh với bài viết “Doanh nhân nữ trước vận hội và thách thức mới” trên tạp chí điện tử Vnexpress. Với những khẳng định về vị thế của người phụ nữ trên thương trường qua những con số cụ thể. Bên cạnh đó tác giả còn chỉ ra những khó khăn, thách thức phía trước mà các doanh nhân nữ phải đối diện, trong cả môi trường công việc, trong việc chăm sóc cho gia đình và cả trong các quan hệ xã hội khác. Tuy tác giả chưa thực sự đi sâu vào phân tích, xong cũng phần nào cho chúng ta những cái nhìn thực tế bằng những con số và những tâm sự của các doanh nhân nữ.
Tác giả Hải Anh với bài viết “Xoá bỏ rào cản để nữ doanh nhân phát triển” trên Bản tin công đoàn công nghiệp số 31, tháng 10 năm 2006 đã chỉ ra những khó khăn lớn tạo thành rào cản đối với sự phát triển của các doanh nhân nữ hiện nay ở Việt Nam, đó là việc thiếu khả năng kinh doanh, thiếu kiến thức về quản lý tài chính và phương thức tiếp cận thị trường quốc tế. Từ đó tác giả cũng chỉ ra những định hướng nhằm hỗ trợ cho các doanh nhân nữ có điều kiện để phát triển cũng như những biện pháp bảo đảm sự bình đẳng giới, phát huy vai trò, vị thế của người phụ nữ trong xã hội.
Bên cạnh đó trên các sách, báo, tạp chí, cũng có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề doanh nhân nữ; tác giả Châu Anh có bài Nữ doanh nhân 8X trên tạp chí Vnexpress, tạp chí Diễn đàn doanh nghiệp có bài Làm quân sếp nữ, và bài Để thành sếp nữ giỏi giang trên Thế giới phụ nữ.
Nghiên cứu về doanh nhân nữ là mảng đề tài không còn quá mới, nhưng ở Việt Nam, các vấn đề của doanh nhân nữ vẫn chỉ được đề cập nhiều trên những bài báo và tồn tại ở những số liệu mang tính thống kê. Đặc biệt, ở góc độ giới nói riêng và các nghiên cứu xã hội học, nghiên cứu về doanh nhân nữ vẫn còn là nội dung chưa có nhiều tác giả quan tâm tìm hiểu. Vì thế việc nghiên cứu các vấn đề của nữ doanh nhân cũng như xu hướng phát triển của họ có một ý nghĩa quan trọng, trước hết là đối với bản thân tác giả, đồng thời qua đó giúp chúng ta có cái nhìn đầy đủ và sâu sắc hơn về những thuận lợi và khó khăn của doanh nhân nữ trong công việc, gia đình và các quan hệ xã hội. Điểm khác biệt so với nhiều công trình đi trước, trong nghiên cứu của mình, tác giả xem xét vấn đề của doanh nhân nữ trên bình diện giới. Đồng thời, phân tích và làm rõ hơn những đặc điểm cá nhân nào của nữ giới là yếu tố thuận lợi, khó khăn cho sự phát triển công việc kinh doanh của họ.
2. Các lý thuyết sử dụng trong nghiên cứu đề tài
1. Lý thuyết nữ quyền
Nữ quyền (Feminism): Có nghĩa là những người đấu tranh cho quyền của phụ nữ. Những ai tìm cách chấm dứt sự phụ thuộc của phụ nữ. Chủ nghĩa nữ quyền bao gồm các lý thuyết xã hội khác nhau, giải thích nguyên nhân của việc phụ nữ bị áp bức trong xã hội và phong trào nữ quyền là một lực lượng xã hội để thay đổi quan hệ giới nhằm nâng cao địa vị của phụ nữ. Các đại biểu lớn của thuyết nữ quyền gồm:
+ Bà Ann Oakley, người đưa thuật ngữ “Giới “ vào XHH.
+ Bà Simone de Beauvoir – nhà triết học hiện sinh Pháp với tác phẩm (Giới tính thứ hai) ( the Second Sex)
+ Bà Betty Friedan ( Mỹ – 1963 ) với tác phẩm (Sự huyền bí của nữ tính – Feminine Mystique.
Cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 các phong trào nữ quyền ra đời song không phải là phong trào thống nhất. Mục tiêu là xoá bỏ sự thống trị của Nhà nước với phụ nữ đã tập hợp những người nữ quyền để tìm hiểu vì sao phụ nữ bị áp bức. Có một số thuyết tiêu biểu là thuyết nữ quyền tự do, nữ quyền cấp tiến, nữ quyền Macxit, nữ quyền XHCN, nữ quyền hiện sinh.
Ann Oakley, người đưa ra thuật ngữ ”Giới” vào XHH, là một tác giả theo thuyết nữ quyền. Và chính các tác giả nữ quyền là những người đã khẳng định quan điểm Giới trong XHH. Tầm quan trọng của giới với tư cách là hệ thống phân tầng trong đó nữ giới bị xếp hạng và đánh gía thấp hơn nam giới chủ yếu được nhấn mạnh bởi các nhà XHH chịu ảnh hưởng thuyết nữ quyền. Tìm hiểu về hai thuyết nữ quyền lớn.
1. Thuyết nữ quyền tự do (liberal feminism)
Chủ nghĩa nữ quyền tự do áp dụng những nguyên tắc tự do đối với phụ nữ bắt nguồn từ triết lý tự do của chủ nghĩa tư bản. Triết lý này nổi lên cùng với sự phát triển của CNTB và nhu cầu về dân chủ và quyền tự do chính trị. Triết lý chính trị của nó dựa trên niềm tin vào sự độc lập và tự thực hiện cá nhân. Niềm tin này dựa vào giá trị đạo đức nền tảng là mọi người đều có khả năng trí tuệ như nhau. Lý thuyết chính trị tự do lấy nền tảng là khái niệm loài người với tư cách là những tác nhân có lý trí. Một xã hội tốt cần phải bảo vệ nhân phẩm của mỗi cá nhân và điều này cần được phản ánh trong các thể chế chính trị, trong sự bình đẳng về chính trị.
Lý tr._.í của loài người được thuyết tự do xem như là 1 khả năng “ tinh thần “ và có 1 giá trị đặc biệt. Thuyết tự do dựa vào 2 cách tiếp cận: cơ thể con người và trí tuệ. Cái làm cho sinh vật trở thành con người chính là khả năng biết suy luận chứ không phải hình dáng của cơ thể. Rousseau và Kant nghĩ rằng khả năng nắm vững được các nguyên tắc đạo đức đã làm cho con người khác với động vật.
Theo họ sự bị trị của phụ nữ bắt rễ trong những ràng buộc về tập quán và pháp lý. Phụ nữ bị tước đi việc học hành và bị giam hãm trong gia đình. Những ràng buộc này ngăn cản phụ nữ tham gia hoặc thành công trong những những nơi được coi là thế giới công cộng (public world). Bởi vì xã hội tin tưởng một cách sai lầm rằng do bản chất của mình, phụ nữ kém năng lực hơn nam giới về trí tuệ hoặc thể chất, xã hội đã gạt bỏ phụ nữ ra khỏi hàn lâm viện, các diễn đàn và thương trường. Phụ nữ ít có cơ hôi để phát huy trí tuệ của mình và vì vậy trí tuệ của họ luôn bị thấp hơn nam giới. Nam và nữ không được hưởng gia đình như nhau nên cũng rất khó quyết định phụ nữ và nam giới có khả năng trí tuệ như nhau không. Do chính sách sai lầm này, tiềm năng đích thực của nhiều phụ nữ không được bộc lộ. Muốn thay đổi vai trò của phụ nữ trong xã hội cần phải thông qua cải cách và giáo dục. Công bằng giới đòi hỏi phải có cơ hội như nhau và sự xem xét đến từng cá nhân không tính đến giới tính của họ.
2. Thuyết nữ quyền Macxit (Canada)
Quan điểm macxit ở đây là phát sinh từ Chủ nghĩa Mác, nói đến cách hiểu và vận dụng nó trong các tác phẩm của các tác giả nữ quyền macxit phương Tây (tuy nhiên nó không bao gồm khối các nước XHCN).
Bất cứ ai, đặc biệt là phụ nữ, đều không đạt được những cơ hội thật sự bình đẳng trong một xã hội có giai cấp khi của cải vật chất sản xuất ra bởi một số đông không có quyền hành lại nằm trong tay một số ít đầy quyền lực. Dựa theo Engels, họ cho rằng sự áp bức phụ nữ bắt nguồn trong việc nảy sinh chế độ tư hữu, giải phóng phụ nữ phụ thuộc vào việc phụ nữ tham gia vào nền sản xuất; Trong xã hội, nam giới chịu sự áp bức của giai cấp, chủng tộc. Phụ nữ còn chịu thêm sự áp bức về giới. Trong xã hội tư bản người chồng là giai cấp tư sản, người vợ là vô sản. Tuy nhiên quan hệ giữa phụ nữ và nam giới không giống như tư sản với vô sản.
Quan điểm của Lênin về tầm quan trọng của xã hội hoá (chia sẻ) việc nhà, người ta muốn thay đổi gia đình với tư cách một đơn vị kinh tế, vì nó là một cơ cấu nuôi dưỡng hệ thống tư bản chủ nghĩa.
Tư hữu về tư liệu sản xuất bởi một số ít người, khởi đầu toàn là nam, đẻ ra một hệ thống giai cấp mà những biểu hiện thời nay là chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc. Bản thân chủ nghĩa tư bản, chứ không chỉ các quy tắc xã hội rộng hơn, là nguyên nhân của sự áp bức phụ nữ.
Nếu tất cả phụ nữ (chứ không riêng những người có đặc quyền và ngoại lệ) muốn giải phóng, hệ thống tư bản chủ nghĩa phải được thay thế bằng một hệ thống xã hội trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi người. Dưới chủ nghĩa xã hội, vì không ai lệ thuộc về kinh tế vào bất cứ ai khác, phụ nữ sẽ được tự do về kinh tế đối với nam, bình đẳng với nam giới.
Như vậy, điều khác biệt của thuyết nữ quyền macxit là ở chỗ nó giúp mọi phụ nữ, dù là vô sản hay tư sản, hiểu sự áp bức phụ nữ không do kết quả của những hành động có chủ ý của cá nhân, mà là sản phẩm của các cơ cấu chính trị kinh tế và xã hội gắn liền với chủ nghĩa tư bản. (1)
Có thể nói, lý thuyết nữ quyền là hệ thống các quan điểm về tình trạng của phụ nữ. Chúng được xây dựng dựa trên cơ sở của các học thuyết xã hội lớn và các minh chứng khoa học nên có thể lý giải các vấn đề về giới, bất bình đẳng giới...Hệ thống các quan điểm nữ quyền bao gồm sự mô tả, phân tích, giải thích nguyên nhân và hậu quả của tình trạng bị áp bức của phụ nữ, đưa ra những chiến lược về giải phóng phụ nữ. Đây được coi là hệ tư tưởng giải phóng phụ nữ với mục đích đưa ra các giải pháp giải quyết những vấn đề phụ nữ như loại bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ, nâng cao địa vị của phụ nữ...
(1) Trích Bài bài giảng về Nữ quyền của PGS.TS Lê Thị Quý
Vận dụng quan điểm nữ quyền, tác giả phân tích và nghiên cứu vấn đề trên cơ sở lấy phụ nữ làm trung tâm. Xem xét các doanh nhân nữ như một lực lượng xã hội quan trọng trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Chỉ ra những bất bình đẳng trong quá trình phát triển của các doanh nhân nữ, từ đó tìm ra những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao năng lực cho doanh nhân nữ, tạo điều kiện cho nữ doanh nhân phát triển góp phần vào việc tiến tới bình đẳng giới, nâng cao địa vị xã hội cho người phụ nữ.
2. Lý thuyết hành động xã hội
Đại biểu tiêu biểu của lý thuyết này là Mác Weber. Khác với quan điểm của lý thuyết hành vi, lý thuyết hành động đề cập đến động cơ và mục đích bên trong của hành động. Ngoài việc con người phản xạ với các kích thích từ môi trường tự nhiên, con người còn suy nghĩ về nó và lựa chọn cách ứng xử một cách có lý trí và tuân theo cả tình cảm. Và con người ta không chỉ hành động khi có lợi mà còn cái người ta gọi là có ý nghĩa (có giá trị).
Weber cho rằng có bốn loại mẫu hành động: Một số hành đồng của con người do cảm xúc thúc đẩy, những hành đồng này khó kiểm soát vì nó mang tính tự phát. Có những hành động mang tính truyền thống (những hành động do thói quen, được con người cho là đúng và được lưu truyền từ đời này qua đời khác), hành động này bị chi phối bởi các yếu tố bên ngoài như phong tục tập quán, quyền lực, nhận thức. Hành động mang tính hợp lý giá trị - là những hành động phải suy nghĩ, cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng, thậm chí diễn ra cả xung đột trong nội tâm. Cuối cùng là hành động duy lý – công cụ là hành động tuân thủ theo một quan phương tiện - mục đích, nghĩa là con người phải lựa chọn các mục đích và phương tiện hợp lý để đạt được mục đích cao nhất của mình. Và hành động xã hội của cá nhân con người không chỉ bị thúc đẩy bởi các động cơ vật chất, kinh tế như hành động hợp mục đích mà còn bị chi phối bởi các yếu tố tinh thần như niềm tin, lý tưởng, giá trị, chuẩn mực văn hóa.
Lý thuyết hành động xã hội của Max Weber là hệ thống lý luận cơ bản và quan trọng trong xã hội học. Với đề tài nghiên cứu của mình tác giả nhìn nhận hoạt động kinh doanh của các nữ doanh nhân như những hành động xã hội với ý nghĩa chủ quan nhất định, như M. Weber định nghĩa: "Hành động xã hội là một hành vi mà chủ thể gắn cho ý nghĩa chủ quan nhất định”. (1)
Với nhu cầu và động cơ cụ thể, mọi hoạt động kinh doanh được tiến hành bằng những hành động nhằm đạt những mục tiêu nhất định. Theo quan điểm của Weber, chúng ta coi những hành động tìm kiếm lợi nhuận làm giàu của các doanh nhân là những động cơ của các quá trình và hiện tượng kinh tế. Ngoài ra còn có cả những động cơ thuộc yếu tố về văn hoá - quyền lực.
Trong toàn bộ quá trình hoạt động kinh doanh, bên cạnh những thuận lợi các doanh nhân nữ còn gặp nhiều khó khăn - thách thức. Để phát huy những lợi thế của mình và khắc phục những khó khăn gặp phải, các doanh nhân nữ không ngừng phấn đấu, nâng cao kiến thức và tìm những cơ hội để phát triển. Đó là những hành động xã hội được gắn với những ý nghĩa chủ quan nhất định.
3. Lý thuyết phát triển
Đã từ lâu, các nhà tư tưởng, các nhà triết học, xã hội học đã đề cập đến sự phát triển. Có thể đưa ra những quan điểm về phát triển như sau:
- Theo quan điểm Mác - Lênin, trong đó Lê-nin đề cập đến phát triển và tự phát triển
- Thời kỳ tiền tư bản chủ nghĩa đề cập đến phát triển và tuần hoàn, phát triển và thuyết tiến hoá của Darwin
- Quan điểm phát triển của các nhà xã hội học phương Tây (A. Comte, H. Spencer, E. Durkheim, M. Weberr): A. Comte đưa ra quan điểm ba giai đoạn của sự phát triển. H. Spencer coi phát triển là sự tiến hoá sinh học. E. Durkheim nhìn phát triển từ sự đoàn kết xã hội, đoàn kết cơ học- đoàn kết hữu cơ.
(1). Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (đồng chủ biên), Xã hội học đại cương, NXB. Giáo dục, Hà Nội, 1999.
Lý thuyết phát triển hiện đại hiện nay là thuyết tương lai học. Kinh tế tri thức và phát triển. Thế giới ảo và phát triển…
* F. Tonnies ,một trong những nhà sáng lập xu hướng lý thuyết trong xã hội học Đức đã có lý khi nhấn mạnh tới sự phát triển của xã hội dựa trên nền tảng của một "ý chí xã hội" mà theo ông vừa là sự tổng hợp một cách hợp lý những "ý chí cá nhân" vừa là sự tích tụ có sàng lọc những sản phẩm tinh thần của quá khứ. Loại trừ những tư tưởng chưa rõ ràng hoặc khiến cho nhiều học giả cho là duy tâm về ý thức của con người trong "ý chí xã hội", điều đáng trân trọng ở Tonnies là ông đã mở ra một hướng suy nghĩ trong đó khẳng định sức mạnh tinh thần của con ngời với tư cách là chủ thể có ý thức của chính sự phát triển xã hội. Chủ thể này, mặc dù chịu sự chi phối của cơ sở kinh tế xã hội nhưng hoạt động không hoàn toàn thụ động mà trong những hoàn cảnh nhất định còn vựợt lên trước rất xa khỏi cơ sở kinh tế xã hội nói trên, định hướng cho sự phát triển xã hội.
* O. Spengler, E. Husserl và nhiều học giả khác, trong quá trình nghiên cứu sự phát triển không đồng đều của các nền văn minh đã cố gắng đi theo xu hướng phân tích những khác biệt trong lĩnh vực văn hóa tinh thần giữa các nền văn minh. Mặc dù còn rất nhiều quan điểm cần phải được phân tích và tranh luận thêm nhưng sự khẳng định của các ông về vai trò và ý nghĩa của những hoạt động tinh thần của con người đối với sự phát triển của xã hội là không thể phủ nhận được
* E. Husserl đã từng coi văn hóa như là một "linh hồn" của mỗi dân tộc. Sự khác biệt của dân tộc này với dân tộc khác trước hết là sự khác biệt của các nền văn hóa. Văn hóa là nền tảng cho sự liên kết dân tộc về không gian và thời gian, là sợi dây nối liền từ thế hệ này sang thế hệ khác dẫn tới sự bảo tồn và phát triển dân tộc. Bởi vậy, văn hóa là một nhân tố đối với sự phát triển.
* Giáo s J.K. Galbraith, một trong những nhà nghiên cứu phát triển nổi tiếng hiện nay, khi nói về chiến lược phát triển cho các nước Châu á-Thái Bình Dương đã khẳng định rằng cái cần thiết đối với các nước nói trên là công nghệ. Bởi vì theo ông công nghệ là cái đang thiếu ở đây chứ không phải là văn hóa. Văn hóa ở đây đã là một nền tảng có sẵn hết sức phong phú. Chính cái nền tảng văn hóa này khi nó đón nhận kỹ thuật và công nghệ mới sẽ tạo điều kiện cho toàn bộ xã hội cất cánh. Điều này cũng theo Galbraith, là hoàn toàn khác với châu Phi bởi vì cái mà châu Phi cần lại chính là văn hóa và sách giáo khoa chứ không phải là công nghệ hiện đại, cái mà họ chưa đủ tầm cỡ để "tiêu hóa". Nhận xét của Galbraith đáng được chú ý ở chỗ, nó nhắc nhở chúng ta về một trong những nhân tố mạnh mẽ mà chúng ta có đối với sự phát triển - đó là sức mạnh văn hóa dân tộc.
Ngày nay, tính toàn cầu không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà đã cụ thể hóa và trở thành những giải pháp thực tiễn có tính chiến lược đối với sự phát triển của các quốc gia. Nhiều nhà khoa học cũng đã khẳng định, về một "kỷ nguyên toàn cầu hóa", "một nền kinh tế toàn cầu", "văn hóa toàn cầu" đang đứng trước nhân loại.
Thực tế đã chỉ cho các dân tộc thấy rõ rằng, trong những điều kiện của xã hội hiện đại, thật khó mà phát triển được nếu bị rơi vào những hoàn cảnh biệt lập, bị tách rời khỏi dòng chảy chung của toàn thể nhân loại. Nhân loại ngày nay, dù muốn dù không, vẫn phải gắn bó với nhau, chia sẻ với nhau những sáng tạo văn hóa, tiếp thu ở nhau những thành quả tiến bộ nhất của tư duy và những hoạt động thực tiễn. (1)
Vận dụng quan điểm về phát triển trong nghiên cứu của mình, tác giả coi việc mở rộng thị trường, hợp tác với các đối tác nước ngoài của các doanh nhân nữ ở Việt Nam là tất yếu của quá trình phát triển. Để tồn tại và cạnh tranh trong môi trường kinh doanh khốc liệt, bản thân các doanh nhân nữ phải tự nâng cao trình độ, kỹ năng kinh doanh và tiếp thu những tri thức mới của nhân loại cho việc điều hành và quản lý doanh nghiệp. Đặc biệt không thể tách rời sự hợp tác, liên kết và hỗ trợ lẫn nhau trong môi trường chung ấy.
(1) Trích Bài giảng về Lý thuyết phát triển của GS.TS Đặng Cảnh Khanh
Ngoài ra, trong nghiên cứu của mình, tác giả xem yếu tố văn hoá, truyền thống dân tộc là một động lực quan trọng thúc đẩy các doanh nhân nữ phát triển. Cụ thể là việc phát huy sức mạnh truyền thống vẻ vang của người phụ nữ Việt Nam về tinh thần chịu thương, chịu khó, tương thân tương ái, siêng học, tinh thần tự tôn dân tộc…đó chính là những nền tảng quan trọng của các nữ doanh nhân Việt Nam trong quá trình phát triển.
3. Hệ khái niệm có liên quan đến đề tài nghiên cứu
1. Khái niệm doanh nhân
Doanh nhân được hiểu là những người chủ chốt trong việc quản trị, điều hành một doanh nghiệp. Đó có thể là những người đại diện cho các cổ đông, cho các chủ sở hữu (thành viên Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị...) hoặc trực tiếp điều hành các doanh nghiệp (thành viên ban Giám đốc).
Hiểu theo nghĩa rộng thì doanh nhân là những người có vị trí trong một doanh nghiệp và làm công việc quản trị trong doanh nghiệp.
(1) Vũ Quang Hà, Xã hội học đại cương, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2001.
(2),(3),(4) Bài giảng Môn Kinh tế lao động – TS. Lê Ngọc Hùng
Doanh nhân còn là những người có được những: (1) năng khiếu đặc biệt về kinh doanh, (2) kỹ năng đặc biệt về kinh doanh và (3) các kinh nghiệm phong phú để ứng dụng trong kinh doanh. Doanh nhân phải là người có năng lực quản lý, quản trị hơn hẳn những người khác.
Doanh nhân được xem là một nghề như nhiều nghề khác trong xã hội.Vai trò chính của doanh nhân là xây dựng các doanh nghiệp, vận hành, phát triển chúng để làm ra hàng hoá, dịch vụ cho xã hội, giải quyết công ăn việc làm cho người dân. Doanh nhân phải làm ra lợi nhuận và biết đóng góp cho xã hội. (1)
* Tìm hiểu về nữ doanh nhân, nam doanh nhân và doanh nghiệp nữ
(1) Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: www.wikipedia.com
Chủ doanh nghiệp là các doanh nhân trên thương trường và được ví như những “đấu sỹ”, thương trường như là “vũ đài”, nếu không có đấu sỹ, chắc chắn sẽ không có vũ đài, qua đó cho thấy vị trí, vai trò của các chủ doanh nghiệp quan trọng và quyết định như thế nào đến sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Theo đó chúng ta có thể hiểu, nữ doanh nhân là nói đến người phụ nữ làm kinh doanh trên cương vị là người chủ doanh nghiệp và nam doanh nhân là nói đến người nam giới làm kinh doanh trên cương vị là người chủ doanh nghiệp. Họ có vai trò là những người quản lý, điều hành doanh nghiệp, chịu trách nhiệm đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
Trong khuôn khổ của luận văn, đề tài còn sử dụng khái niệm doanh nghiệp nữ để nói đến các doanh nghiệp do nữ giới làm giám đốc, là người điều hành, quản lý doanh nghiệp. (1)
2. Khái niệm doanh nghiệp
Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân, quy tụ các phương tiện tài chính, vật chất và con người nhằm thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng, tiêu thụ sản phẩm hoặc dịch vụ, trên cơ sở tối đa hoá lợi ích của người tiêu dùng, thông qua đó tối đa hoá lợi ích của chủ sở hữu, đồng thời kết hợp một cách hợp lý các mục tiêu xã hội.
- Doanh nghiệp là một đơn vị tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân: Tư cách pháp nhân của một doanh nghiệp là điều kiện cơ bản quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, nó do nhà nước khẳng định và xác định. Việc khẳng định tư cách pháp nhân của doanh nghiệp với tư cách là một thực thể kinh tế, một mặt nó được nhà nước bảo hộ với các hoạt động sản xuất kinh doanh, mặt khác, nó phải có trách nhiệm với người tiêu dùng, nghĩa vụ đóng góp với nhà nước, trách nhiệm đối với xã hội. Đòi hỏi doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ tài chính trong việc thanh toán những khoản công nợ khi phá sản hay giải thể.
- Doanh nghiệp là một tổ chức sống trong một thể sống (nền kinh tế quốc dân) gắn liền với địa phương nơi nó tồn tại.
- Doanh nghiệp là một tổ chức sống vì lẽ nó có quá trình hình thành từ một ý trí và bản lĩnh của người sáng lập (tư nhân, tập thể hay nhà nước); quá trình phát triển thậm trí có khi tiêu vong, phá sản hoặc bị doanh nghiệp khác thôn tính. Vì vậy cuộc sống của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào chất lượng quản lý của người tạo ra nó.
(1) Báo cáo phát triển Việt Nam 2006, Ngân hàng thế giới, Hà Nội
(2) Bài giảng môn Quản trị kinh doanh, Giáo trình lưu hành nội bộ, trường Đại học Cần Thơ
- Doanh nghiệp ra đời và tồn tại luôn gắn liền với một vị trí của một địa phương nhất định, sự phát triển cũng như suy giảm của nó ảnh hưởng đến địa phương đó. (2)
3. Khái niệm quản lý
Một cách tổng quát nhất, quản lý được xem là quá trình “ tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định”, đó là sự kết hợp giữa tri thức và lao động trên phương diện điều hành. Dưới góc độ chính trị: quản lý được hiểu là hành chính, là cai trị; nhưng dưới góc độ xã hội: quản lý là điều hành, điều khiển, chỉ huy. Dù dưới góc độ nào đi chăng nữa thì quản lý vẫn phải dựa vào những cơ sở, nguyên tắc đã được định sẵn và nhằm đạt được hiệu quả của việc quản lý, tức là mục đích của quản lý.
Tóm lại, quản lý là sự điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng cho hệ thống hay quá trình ấy vận động theo đúng ý muốn của người quản lý nhằm đạt được mục đích đã đặt ra từ trước. Là một yếu tố thiết yếu quan trọng, quản lý không thể thiếu được trong đời sống xã hội. Xã hội càng phát triển cao thì vai trò của quản lý càng lớn và nội dung càng phức tạp. Từ đó quản lý thể hiện các đặc điểm sau:
- Quản lý là sự tác động có mục đích đã được đề ra theo đúng ý chí của chủ thể quản lý đối với các đối tượng chịu sự quản lý. “Đúng ý chí của người quản lý” cũng đồng nghĩa với việc trả lời câu hỏi tại sao phải quản lý và quản lý để làm gì.
- Quản lý là sự đòi hỏi tất yếu khi có hoạt động chung của con người. C. Mác coi quản lý xã hội là chức năng đặc biệt sinh ra từ tính chất xã hội hoá lao động.
- Quản lý trong thời kỳ nào, xã hội nào thì phản ánh bản chất của thời kỳ đó, xã hội đó.
- Quản lý muốn thực hiện được phải dựa trên cơ sở tổ chức và quyền uy. Quyền uy là thể thống nhất của quyền lực và uy tín. Quyền lực là công cụ để quản lý bao gồm hệ thống pháp luật và hệ thống kỷ luật nhà nước được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phân cấp quản lý rành mạch. Uy tín thể hiện ở kiến thức chuyên môn vững chắc, có năng lực điều hành cùng với phẩm chất đạo đức cách mạng và bản lĩnh chính trị vững vàng, đảm bảo cả 2 yếu tố tài và đức. Uy tín luôn gắn liền với việc biết đổi mới, biết tổ chức và điều hành, thực hiện “liêm, chính, chí công, vô tư”. Nói một cách ngắn gọn, có quyền uy thì mới đảm bảo sự phục tùng của cá nhân đối với tổ chức. Quyền uy là phương tiện quan trọng để chủ thể quản lý điều khiển, chỉ đạo cũng như bắt buộc đối với đối tượng quản lý trong việc thực hiện các mệnh lệnh, yêu cầu mà chủ thể quản lý đề ra.(1)
4. Khái niệm lãnh đạo
Lãnh đạo là sự cố gắng tác động vào người khác để đảm bảo đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Đó là quá trình thu hút, lôi cuốn, động viên, thuyết phục, hướng dẫn thúc đẩy các thành viên trong tổ chức làm việc đáp ứng theo yêu cầu công việc. Chức năng lãnh đạo bao hàm các công ty chỉ huy, phối hợp và điều hành, biểu hiện mối quan hệ giữa chủ thể quản trị và đối tượng quản trị, giữa người ra mệnh lệnh và người thực hiện mệnh lệnh.
- Lãnh đạo là một chức năng cơ bản của quản trị, tất cả các chức năng quản trị sẽ không hoàn thành tốt nếu các nhà quản trị không hiểu được các yếu tố con người trong các hoạt động của họ và không biết lãnh đạo con người để đạt được các kết quả như mong muốn.
- Lãnh đạo là quá trình tác động và quan tâm đến con người.
- Lãnh đạo là quá trình tác động đến con người sao cho họ cố gắng một cách tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu để đạt được các mục tiêu của tổ chức. Người lãnh đạo không đứng đằng sau để thúc đẩy hay thúc dục, họ đặt mình lên trước, động viên mọi người hoàn thành các mục tiêu đã đề ra, bất kể một người quản lý lập kế hoạch, tổ chức và kiểm tra kết quả có tốt đến đâu, người đó vẫn phải hỗ trợ những hoạt động đó bằng cách đưa ra những chỉ dẫn cho mọi người, thông tin đầy đủ và lãnh đạo tốt. Việc lãnh đạo phải dựa trên sự hiểu biết về động cơ của con người là gì và điều gì làm cho họ thoả mãn khi họ góp sức vào việc hoàn thành các mục tiêu của tổ chức.(2)
(1) (2) Bài giảng môn Quản trị kinh doanh, Giáo trình lưu hành nội bộ, trường Đại học Cần Thơ
5. Khái niệm kinh doanh
Kinh doanh là hoạt động của cá nhân hoặc tổ chức nhằm đạt mục đính đạt lợi nhuận qua các một loạt các hoạt động kinh doanh như: Quản trị, tiếp thị, tài chính, kế toán, sản xuất...Kinh doanh là một trong những hoạt động phong phú nhất của loài người. Hoạt động kinh doanh thường được thông qua các thể chế kinh doanh như: công ty, tập đoàn, doanh nghiệp tư nhân... nhưng cũng có thể là hoạt động tự thân của các cá nhân. Để đánh giá các hoạt động kinh doanh, người ta có nhiều chỉ tiêu khác nhau như: doanh thu, lợi nhuận, tăng trưởng...(1)
6. Khái niệm Định kiến giới
Là suy nghĩ mà mọi người có về những gì mà phụ nữ và nam giới có khả năng và loại hoạt động mà họ có thể làm.(2)
7. Khái niệm Bình Đẳng giới
Bình đẳng giới là sự bình đẳng về pháp luật, về cơ hội (bao gồm cả sự bình đẳng trong thù lao cho công việc và việc tiếp cận đến các nguồn vốn) và bình đẳng về tiếng nói (khả năng tác động và đóng góp cho quá trình phát triển).
Bình đẳng giới còn được hiểu là tình hình lý tưởng trong đó phụ nữ và nam giới được hưởng vị trí như nhau, họ có các cơ hội bình đẳng được phát triển đầy đủ tiềm năng của họ nhằm cống hiến cho sự phát triển của Quốc gia và được hưởng lợi từ các kết quả đó. (3)
(1) Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: www.wikipedia.com
(2),(3) UBQG vì sự tiến bộ của phụ nữ - 1995
Chương 2: Kết quả nghiên cứu
1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu.
Hà Nội là một trong những trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội lớn của cả nước. Với diện tích 920,97 km², dân số là 3.145.300 người, mật độ dân số vào khoảng 3347 người/km.(1)
Tổng thu ngân sách hàng năm luôn tăng. Mặc dù chỉ chiếm 3,8% về dân số và khoảng 0,3% diện tích lãnh thổ, nhưng Hà Nội đóng góp 8,4% vào Tổng thu nhập quốc dân (GDP) của cả nước, 8,3% giá trị kim ngạch xuất khẩu, 8,2% giá trị sản xuất công nghiệp, 9,6% tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng, 10,2% vốn đầu tư xã hội, 14,1% vốn đầu tư nước ngoài đăng ký và 14,9% thu ngân sách nhà nước.
Diện mạo của Hà Nội đang thay đổi. Các công trình xây dựng làm Hà Nội trở nên khang trang. Đầu tư tăng cho xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị, mở rộng các tuyến đường, nút giao thông quan trọng, triển khai xây mới các cầu qua sông Hồng và chuẩn bị đầu tư các tuyến đường sắt đô thị. Mức sống của người dân được cải thiện, GDP bình quân đầu người Hà Nội khoảng 18,2 triệu đồng/năm (2004). Những năm qua, Hà Nội dẫn đầu cả nước về chỉ số phát triển con người, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống mức thấp nhất (hiện còn dưới 1%) và cũng hoàn thành xóa hộ nghèo diện chính sách, thực hiện xóa phòng học cấp 4, phổ cập trung học cơ sở, chính sách khuyến học, khuyến tài được coi trọng.(2)
(1).Theo số liệu thống kê năm 2005.
(2). Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: www.wikipedia.com.
2.
(1). Số liệu thống kê của Sở Kế hoạch và đầu tư Hà Nội.
(1). Theo Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội thành phố Hà Nội 2007
Hà Nội là một môi trường đầu tư hấp dẫn. Sau khi Luật Đầu tư Nước ngoài ở Việt Nam được ban hành vào tháng 12 năm 1987 cùng với việc áp dụng hàng loạt các chính sách khuyến khích của một nền kinh tế mở, 42 quốc gia lãnh thổ và hàng trăm các tập đoàn, Công ty nước ngoài đã vào Hà Nội để tìm kiếm cơ hội đầu tư và kinh doanh tại thị trường này, một thị trường mà các chuyên gia nước ngoài đánh giá là còn nhiều tiềm năng có thể khai thác. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài đã góp phần quan trọng trong việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế của Hà Nội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhanh chóng hình thành cơ cấu kinh tế: thương mại - công nghiệp - nông nghiệp. Để tiếp nhận và sử dụng hiệu quả nguồn vốn xúc tiến đầu tư trực tiếp của nước ngoài, Hà Nội đã tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn có đầy đủ tiềm năng và các điều kiện thuận lợi như: Một thành phố tập trung nguồn nhân lực, trí tuệ dồi dào chiếm trên 62% số cán bộ khoa học và quản lý có trình độ trên đại học, giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ của cả nước hiện đang sống và làm việc tại Hà Nội. Người dân Hà Nội có trình độ dân trí và tay nghề khá cao, có khả năng tiếp nhận nhanh chóng các công nghệ hiện đại cũng như trình độ quản lý tiên tiến. Giá nhân công lao động ở Hà Nội hợp lý. Tiềm năng thị trường Hà Nội lớn, vùng ảnh hưởng thị trường Hà nội đến các tỉnh, thành phố phía Bắc cũng như thị trường Nam Trung Quốc, Lào có nhiều triển vọng. Nguồn cung cấp điện năng, cung cấp nước sạch cho các doanh nghiệp thuận lợi và ổn định. Thủ tục hành chính về xem xét duyệt cấp giấy phép đầu tư cho các dự án (nhất là các dự án công nghiệp) được tiến hành đơn giản, thuận lợi, nhanh chóng. Các chi phí như: dịch vụ xã hội, thuê bất động sản, nhà đất, điện, nước thấp hơn so với một số đô thị thương mại khác ở Việt Nam (đặc biệt là giá thuê đất giảm khoảng 25% so với trước đây). Các chính sách thuế được hưởng chế độ ưu đãi, đặc biệt các dự án công nghiệp và các dự án đặc biệt khuyến khích và khuyến khích đầu tư. Để trở thành một thủ đô văn minh hiện đại, chính quyền Hà Nội đã có định hướng tăng qui hoạch phát triển kinh tế-xã hội của thủ đô giai đoạn 2001-2010, phát huy tối đa các tiềm năng nội lực và khai thác triệt để các nguồn vốn bên ngoài như FDI, ODA... nhằm thực hiện việc tăng trưởng các chỉ tiêu kinh tế cơ bản của thành phố từ 1,5 đến 2,5 lần vào năm 2010.(1)
* Tình hình kinh tế xã hội của Hà Nội năm 2007
(1). Số liệu thống kê của Sở Kế hoạch và đầu tư Hà Nội.
Năm 2007 là năm thứ hai thực hiện kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2006 - 2010, kinh tế xã hội Hà Nội đạt được kết quả khả quan với hầu hết các chỉ tiêu kinh tế xã hội đều hoàn thành và vượt kế hoạch năm 2007. So với năm trước, dự kiến GDP tăng 12,07%, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 21,4%, tổng mức bán hàng hoá và doanh thu dịch vụ tăng 21,9% (trong đó bán lẻ tăng 22,9%), kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn tăng 22%, vốn đầu tư xã hội tăng 20,7%, thu ngân sách trên địa bàn tăng 19,2%, xây dựng mới 1,56 triệu m2 nhà ở. Các mặt văn hoá xã hội, trật tự an toàn xã hội vẫn được duy trì ổn định, đời sống nhân dân tiếp tục được chăm lo cải thiện.
Đến nay, Hà Nội có quan hệ đối ngoại với trên 60 nước, và quan hệ thương mại với 160 quốc gia và vùng lãnh thổ. Thị trường xuất khẩu được mở rộng và chuyển dịch linh hoạt, trong đó, khu vực thị trường châu Âu và châu á được xác định là khu vực thị trường trọng điểm trong chiến lược xuất khẩu của Hà Nội. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn 4,280 tỷ USD, tăng 20% so với năm 2006.
Năm 2007, Hà Nội đã thu hút được 290 dự án và tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD, trong đó có nhiều dự án quy mô lớn. Thành phố cũng đã triển khai xây dựng đề án phát triển thị trường tài chính, làm cơ sở đẩy mạnh thu hút đầu tư, phát triển lĩnh vực dịch vụ cao, chất lượng cao của thành phố. Đáng chú ý, chỉ số năng lực cạnh tranh của Hà Nội đã tăng 13 bậc so với năm 2006 và đứng thứ 27 trong số 64 tỉnh, thành.
Trong năm 2007, Hà Nội đã đưa hoạt động kinh tế đi vào chiều sâu, tập trung vào mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ngành công nghiệp tiếp tục đà tăng trưởng với giá trị sản xuất công nghiệp tăng ở tất cả các khu vực và thành phần kinh tế và tăng 17% so với năm trước. Hà Nội đã bước đầu triển khai tích cực chương trình hỗ trợ phát triển nhóm sản phẩm công nghiệp chủ lực thuộc các ngành thiết bị điện- điện tử- công nghệ thông tin liên lạc, cơ khí, chế biến thực phẩm đồ uống, dệt may cao cấp, hóa dược… Tổng mức hàng hoá và dịch vụ bán ra tăng 20,1%, thị trường nội địa ổn định. Các trung tâm thương mại, siêu thị tiếp tục duy trì mức tăng trưởng. Hoạt động dịch vụ diễn ra sôi động, nhiều ngành, lĩnh vực đã gặt hái nhiều thắng lợi. Thành phố đã đón trên 1,2 triệu khách du lịch.
Các hoạt động tín dụng, ngân hàng tăng trưởng khá với tốc độ tăng vốn huy động và cho vay cao. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã phát huy được vai trò là kênh thu hút vốn đầu tư của thành phố. Giá trị tăng thêm của dịch vụ tài chính ngân hàng cũng ở mức kỷ lục: hơn 20%; thu ngân sách khoảng 45.709 tỷ đồng. (1)
(1).Theo báo cáo của Cục Thống kê Hà Nội , 2007.
2. Tìm hiểu về 3 trường hợp doanh nghiệp được nghiên cứu
Trước hết, chúng ta tìm hiều cụ thể về 3 trường hợp doanh nghiệp do nữ giới làm giám đốc: Công ty Cổ phần thiết bị trường học Linh Anh do chị Nguyễn Kim L là giám đốc điều hành; Công ty Cổ phần thiết bị giáo dục và đồ chơi Hà Thành do chị Vũ Thị Ngọc L là giám đốc điều hành và Công ty Cổ phần Thương mại Hà My do chị Vũ Kim S là giám đốc điều hành. Qua nghiên cứu cụ thể về 3 trường hợp trên sẽ giúp tác giả thu nhận được những quan điểm, đánh giá của những nữ chủ doanh nghiệp đối với môi trường kinh doanh nói chung. Đồng thời xem xét những thuận lợi, khó khăn, những cơ hội, thách thức mà họ gặp phải trong môi trường kinh doanh, trong gia đình cũng như trong cuộc sống, để từ đó chỉ ra xu hướng phát triển của họ trong tương lai.
1. Công ty Cổ phần thiết bị giáo dục và đồ chơi Hà Thành ở địa chỉ: Số 102 – A7 – Ngõ 52 Đường Doãn Kế Thiện - Đồng Xa – Cầu Giấy – Hà Nội. Giám đốc điều hành: Chị Vũ Thị Ngọc L. Công ty chuyên sản xuất và kinh doanh đồ chơi cho trẻ em, thiết bị giáo dục, thiết bị Y tế. Thành lập từ năm 2005, ban đầu doanh nghiệp chỉ có khoảng 30 lao động, đến nay đã có trên 100 lao động. Là người điều hành trực tiếp doanh nghiệp, chị L đã cố gắng cân bằng giữa công việc gia đình và công việc kinh doanh để vừa làm tròn vai trò của một người vợ, người mẹ, vừa làm tốt vị trí của một người chủ doanh nghiệp.
Cũng như nhiều doanh nghiệp khác khi mới thành lập, công ty thiếu vốn và khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường. Với vốn tự có ban đầu chưa đủ, chị đã vay thêm bạn bè và họ hàng để có được nguồn vốn đăng ký là 2 tỷ đồng. Khi doanh nghiệp ra đời, cũng là thời điểm có nhiều sản phẩm cùng loại đã có trên thị trường. Có nhiều doanh nghiệp mạnh hoạt động rất hiệu quả và chiếm được thị phần lớn. Do đó việc tìm kiếm thị trường ba._.(ADB), Phân tích tình hình bình đẳng giới ở Việt Nam, 2005.
25. Nguyền Khắc Viện, Từ điển xã hội học, NXB. Thế giới, Hà Nội, 1994.
26. Nguyễn Minh Phong (chủ biên), Phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội 2004.
27. Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, ban hành ngày 27/4/2007.
28. Nguyễn Thị Hoà (chủ biên), Giới, việc làm và đời sống gia đình, Nxb Khoa học xã hội, 2007.
29. Phòng Thương mại công nghiệp Việt Nam, Số liệu các doanh nghiệp đã đăng ký năm 2006, tháng 8/2007.
30. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (đồng chủ biên), Xã hội học đại cương, NXB. Giáo dục, Hà Nội, 1999.
31. Phạm Văn Quyết và Nguyễn Quý Thanh, Phương pháp nghiên cứu xã hội học, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001.
32. Quốc Anh, “Doanh nhân nữ trước vận hội và thách thức mới”, tạp chí điện tử Vnexpress.
33. Tony Bilton và các tác giả khác, Nhập môn Xã hội học, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997.
34. Trần Thị Minh Đức, Tâm lý học xã hội, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
35. Trung tâm Hỗ trợ kỹ thuật Doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hà Nội, Kết quả khảo sát doanh nghiệp năm 2005 tại 30 tỉnh, thành phố phía bắc, 2005.
36. Trịnh Vĩnh Hội, Vai trò của Giám đốc doanh nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam, Nxb Văn hoá thông tin, 2006.
37. Trương Cường (chủ biên), WTO kinh doanh và tự vệ, Nxb Hà Nội, 2006.
38. Tổng cục Thống kê, Thông cáo báo chí số liệu thống kê KT - XH năm 2006.
39. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2006.
40. Tổng cục thống kê, “Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2001, 2002, 2003”.
41. Thảo luận của các đại biểu Quốc hội về Dự án Luật Bình đẳng giới Trong phiên họp Quốc hội (Khoá XI) ngày 2/6/2006, dưới sự chủ trì của Phó Chủ tịch QH Nguyễn Phúc Thanh.
42. Trịnh Thị Hoa Mai, Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình hội nhập, Nxb Thế giới, 2005.
43. Vũ Quang Hà, Xã hội học đại cương, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2001.
44. Vũ Quang Hà, Các lý thuyết Xã Hội Học, tập 1, 2, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2001.
45. Vũ Hào Quang, Xã hội học Quản lý, Nxb Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2001
46. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1981, Tr 20
Phụ lục
i. Nội dung thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu
1. Các vấn đề được đưa ra trong thảo luận nhóm
Những thuận lợi và khó khăn ban đầu khi thành lập doanh nghiệp.
Những thuận lợi và khó khăn khi doanh nghiệp đã đi vào hoạt động.
Các nguồn vốn tiếp cận.
Đối tượng cần hỏi ý kiến khi cần ra quyết định kinh doanh.
Việc tham gia các câu lạc bộ, các tổ chức xã hội.
Cân bằng giữa việc gia đình và việc kinh doanh.
Triển vọng phát triển của doanh nghiệp.
Quan điểm về sự khác nhau giữa nam giới và nữ giới trong công việc kinh doanh.
2. Các vấn đề đưa ra trong phỏng vấn sâu
Khó khăn và thuận lợi trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp .
Việc tham gia các câu lạc bộ, tổ chức xã hội.
Việc chăm sóc con cái và làm các công việc gia đình.
Những đối tượng hỗ trợ trong việc quản lý và điều hành doanh nghiệp.
Khó khăn và thuận lợi của nữ giới so với nam giới khi làm kinh doanh.
Nhu cầu hỗ trợ từ phía Nhà nước, các tổ chức khác.
Nhận định về sự khác nhau giữa doanh nhân nữ ở Hà Nội và các thành phố khác.
II. Danh sách các cá nhân tham gia vào phỏng vấn sâu
TT
Tên
Đặc điểm
1
Vũ Kim S
Nữ, Kinh doanh - Giám đốc, 33 tuổi, có 1 con
2
Vũ Thị Ngọc L
Nữ, Kinh doanh - Giám đốc , 38 tuổi, có 1 con
3
Nguyễn Kim L
Nữ, Kinh doanh - Giám đốc, 38 tuổi, có 2 con
4
Ngô Thị Y
Nữ, Kinh doanh - Giám đốc, 42 tuổi, có 2 con
5
Lê Hoai T
Nữ, Kinh doanh - Giám đốc, 33 tuổi, có 1 con
6
Phạm Hồng H
Nữ, Kinh doanh - Phó giám đốc, 31 tuổi, độc thân
7
Nguyễn Thị V
Nữ, Kinh doanh - Phó Giám đốc, 41 tuổi, có 2 con
8
Bùi Thu H
Nữ, Kinh doanh - Giám đốc, 44 tuổi, có 2 con
9
Nguyễn Thị Việt H
Nữ, Kinh doanh - Giám đốc, 35 tuổi, có 1 con
10
Nguyễn Thị T
Nữ, Kinh doanh – Giám đốc, 48 tuổi, có 2 con
11
Lê Văn T
Nam, Kinh doanh - Giám đốc, 55 tuổi, có 2 con
12
Nguyễn Tuấn A
Nam, Kinh doanh - Giám đốc , 45 tuổi, có 1 con
13
Nguyễn Quang Q
Nam, Kinh doanh - Giám đốc, 51 tuổi, có 2 con
14
Nguyễn Văn H
Nam, Hoạ sỹ tự do, 46 tuổi, có 2 con
15
Trần Văn T
Nam, Viên chức nhà nước - Giáo viên, 37 tuổi, có 1 con
III. Danh sách các cá nhân tham gia vào thảo luận
nhóm tập trung
1
Ngô Thị Y
Nữ, Kinh doanh - Giám đốc, 35 tuổi, độc thân
2
Nguyễn Lệ T
Nữ, Kinh doanh - Chủ cửa hàng, 41 tuổi, có 3 con
3
Lê Thị H
Nữ, Kinh doanh - Chủ cửa hàng, 37 tuổi, có 1 con
4
Vũ Quỳnh H
Nữ, Kinh doanh - Giám đốc bộ phận, 39 tuổi, có 2 con
5
Đặng Thị L
Nữ, Kinh doanh - Giám đốc bộ phận, 41 tuổi, có 1 con
6
Trần Thu Ly
Nữ, Kinh doanh - Phó Giám đốc, 29 tuổi, độc thân
7
Trần Phương A
Nữ, Kinh doanh - Phó giám đốc, 45 tuổi, có 1 con
8
Trần Phương L
Nữ, Kinh doanh - Giám đốc, 38 tuổi, có 2 con
9
Đoan Mạnh T
Nam, Kinh doanh - Giám đốc, 33 tuổi, độc thân
10
Nguyễn Quang A
Nam, Kinh doanh - Phó giám đốc, 33 tuổi, độc thân
11
Phạm Đức M
Nam, Kinh doanh - Phó giám đốc, 42 tuổi, có 2 con
12
Trấn Tuấn A
Nam, Viên chức nhà nước – Trưởng phòng, 42 tuổi, có 1 con
13
Nguyễn Văn Đ
Nam, Viên chức nhà nước – Chuyên viên, 37 tuổi, có 2 con
14
Hoàng Ngọc T
Nam, Kinh doanh - Phó Giám đốc, 38 tuổi, có 2 con
15
Nguyễn Thị H
Nữ, Kinh doanh - Giám đốc, 32 tuổi, có 1 con
16
Phạm Phương L
Nữ, Kinh doanh - Giám đốc, 41 tuổi, có 2 con
IV. Trích Một số phỏng vấn sâu
Phỏng vấn sâu số 1
(Biên bản phỏng vấn doanh nhân nữ)
Tên: Trần Phương A
Tuổi: 45
Thời gian phỏng vấn: 10h30 – 11h30, ngày 22/10/2007
(1) Chị có khó khăn gì khi mới thành lập doanh nghiệp?
Vốn, ban đầu thiếu vốn, hai vợ chồng xoay sở mãi mới đủ vốn. Rồi đến tìm thị trường, đối tác...cũng vất vả nhưng có sự hỗ trợ của ông xã nên cũng khắc phục được. Đến khi doanh nghiệp đi vào hoạt động thì vốn vẫn là khó khăn của doanh nghiệp, hàng tháng, hàng năm nguồn vốn xoay vòng của doanh nghiệp chưa giúp khắc phục tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Lấy nguyên vật liệu, trả lương người lao động và đủ mọi khoản tiền khác...Thi thoảng cũng đi vay bạn bè.
(2) Sao chị không vay ngân hàng?
Chúng tôi cũng nghĩ đến vay ngân hàng, nhưng lại phải thế chấp, nhà cửa của ông bà nên cũng ngại hỏi, thực lòng nếu vay người thân được thì tốt hơn.
(3) Chị có thường gặp gỡ bạn hàng, đối tác của mình như thế nào?
Thường chúng tôi gặp gỡ ở văn phòng hoặc một quán nước. Tôi ít đi một mình, thường có một cậu nữa đi cùng. Vì dù sao cũng là phụ nữ nhiều lúc cũng ngại, vì chưa hiểu về bạn hàng của mình như thế nào.
(4) Các hợp đồng làm ăn của doanh nghiệp trước khi ký, chị có tìm hiểu hay tham khảo ý kiến của ai?
Thực chất tôi là chủ nên quyền quyết định là ở tôi, đôi lúc có bàn với anh em trong công ty. Trong các cuộc gặp gỡ tôi cũng có tìm hiểu đối tác rất kỹ. Nên các quyết định đưa ra cũng cân nhắc và rất chắc chắn.
(5) Chị có nghĩ đó là điểm mạnh của nữ giới so với nam giới?
Cũng có thể, vì nhiều nam giới thiếu cẩn trọng, họ nóng vội. Nếu có một trợ lý tốt thì còn đỡ, tôi biết một người bạn, vì tính nóng nảy mà đôi lúc anh hay có những phán quyết sai lầm.
(6) Chị có tham khảo hay tâm sự với ông xã về công việc kinh doanh của mình?
Chồng tôi cũng làm kinh doanh nên hỗ trợ nhau cũng nhiều, tôi tham khảo ý của anh ấy hàng ngày mỗi khi về nhà. Bí nhất là lúc thiếu vốn, tôi lại tìm đến anh ấy.
(7) Thế còn việc chăm sóc con cái?
Có lẽ tôi chăm con là chính, cùng làm kinh doanh nên ông xã tôi cũng rất bận, đàn ông nên hay la cà, có khi khuya mới về. Tôi phải đón con và nấu cơm cho gia đình. Bố mẹ tôi nhiều khi phàn nàn, vì cả 2 vợ chồng đều đi suốt, các ông bà sót cháu mà.
(8) Chị có tham gia vào các câu lạc bộ nữ doanh nhân, hay hội doanh nghiệp của thành phố?
Tôi cũng có tham gia vào câu lạc bộ nữ doanh nhân của Hà Nội, tuy nhiên sinh hoạt cũng không đều. Tham gia vào câu lạc bộ có nhiều cái lợi lắm, được gặp gỡ nhiều doanh nhân, trao đổi thông tin, tiếp cận các hỗ trợ của chính phủ và các tổ chức cũng dễ hơn.
(9) Chị thấy có sự khác nhau nào giữa doanh nhân nữ ở Hà Nội so với thành phố Hồ Chí Minh?
Doanh nhân nữ ở Thành phố Hồ Chí Minh họ năng động hơn, khả năng tiếp cận thị trường của họ cũng rất hơn. Môi trường kinh doanh trong đó thì khắc nghiệt nhưng cũng rất dễ phát triển. Các doanh nghiệp nữ ở Hà Nội phần đông là các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, nhưng doanh nghiệp nữ ở Hà Nội rất biết gắn kết và hỗ trợ nhau. Một vài năm nay có nhiều chị rất giỏi, kinh doanh phát triển không chỉ trong nước mà còn tạo thương hiệu ở nước ngoài.
(10) Triển vọng của doanh nghiệp mình như thế nào?
Tôi rất mong có nhiều cơ hội hơn nữa cho doanh nghiệp, mở rộng thị trường, phát triển thương hiệu. Tôi sẽ cố gắng tham gia nhiều hơn vào các câu lạc bộ, hiệp hội doanh nghiệp để tìm bạn hàng, cơ hội học tập nâng cao trình độ.
Phỏng vấn sâu số 5
(Biên bản phỏng vấn doanh nhân nữ)
Tên: Nguyễn Thị Việt H
Tuổi: 35
Thời gian phỏng vấn: 19h30 – 21h30, ngày 02/12/2007
(1) Trong việc quản lý nhân viên, chị có gặp khó khăn gì không?
Công ty tôi lao động cũng không nhiều, giám sát lao động sản xuất tôi có một nam giới đảm nhiệm, hàng ngày làm việc nhiều với các nhân viên nữ nên cũng thuận lợi. Mặc dù còn trẻ nhưng tôi cũng luôn cố gắng thể hiện mình là một người lãnh đạo. Thực ra phải làm cho nhân viên nể phục thì mới dễ quản lý. Ngoài những lúc nghiêm, tôi cũng rất thoải mái, nên nhân viên làm việc rất có trách nhiệm.
(2) Ông xã có ý kiến gì với việc kinh doanh của chị?
Chồng tôi làm nhà nước, ông ấy cũng không muốn cho tôi làm kinh doanh đâu, nhưng thấy tôi làm cùng mấy người bạn nên cũng yên tâm hơn. Thi thoảng ông ấy có hỏi thăm, thường tôi hỏi ý kiến anh ấy nhiều hơn. Nhiều khi căng thẳng công việc tôi cũng không giám nói vì sợ anh ấy lo. Hàng ngày anh ấy cũng phải đưa đón con đi học nên tôi cũng rất cảm thông. Có lẽ là anh ấy cũng suy nghĩ về tôi như vậy.
(3) Không có chuyện tranh cãi giữa 2 người sao?
Nhà nào thì cũng phải có tranh cãi cả, vợ chồng mà. Chúng tôi tranh cãi nhau cũng thường về chuyện con cái thôi.
(4) Doanh nghiệp những năm nay hoạt động thế nào?
Nhìn chung là tốt, thị trường ổn định, có nhiều điều kiện thuận lợi hơn để phát triển.
(5) Chị có ý định phát triển doanh nghiệp lớn hơn?
Mong muốn nhiều lắm, tôi muốn có thị trường lớn hơn. Nhưng lại lo bận quá không chăm được cho gia đình, bọn trẻ nó lớn hơn càng phải quan tâm nhiều hơn không giờ nhiều tệ nạn lắm.
(6) Chị có nghĩ rằng quan niệm xã hội ngày nay còn khắc nghiệt với những phụ nữ làm kinh doanh?
Cái này thì tôi thấy ít hơn, phụ nữ và nam giới ngày càng bình đẳng rồi. Nhiều phụ nữ giỏi chẳng kém gì nam giới. Họ cũng có những thuận lợi riêng, nhưng khó khăn cũng không ít, nhất là thời buổi hiện nay. Kiến thức về công nghệ thông tin, ngoại ngữ là hạn chế của nhiều nữ doanh nhân hiện nay.
(7) Theo chị doanh nhân nữ ở Hà Nội và các thành phố khác có những điểm riêng nào?
Hà Nội thuận lợi hơn, cơ hội cũng nhiều, ví dụ như về vốn, mở rộng thị trường. Tuy nhiên khó khăn về việc địa điểm để đặt trụ sở, nếu không thực sự nổi bật và năng động thì khó mà phát triển được.(...)
Phỏng vấn sâu số 7
(Biên bản phỏng vấn doanh nhân nữ)
Tên: Ngô Thị Y
Tuổi: 35
Thời gian phỏng vấn: 19h30 – 21h30, ngày 27/01/2007
(1) Chị có thể cho biết tình hình hoạt động kinh doanh hiện nay của doanh nghiệp?
Nhìn chung là cũng thuận lợi, do mấy năm nay chúng tôi cũng ổn định thị trường, các nguồn nguyên vật liệu cũng được cung cấp kịp thời, mọi người đều làm việc hăng say có trách nhiệm nên thành quả cũng cao.
(2) Thế có khó khăn nào mà chị cảm thấy lo lắng nhất?
Nói là lo lắng nhất thì cũng không hẳn, có lẽ phải nói là quan tâm nhất thì đúng hơn. Chắc là thị trường, quan tâm của tôi và mọi người là muốn mở rộng thị trưởng, phát triển sâu rộng trong cả nước, nước ngoài nữa thì cũng tốt.
(3) Muốn vậy chị cũng phải đặt ra những chiến lược cụ thể nào rồi chứ?
Chiến lược thì tôi và các thành viên trong hội đồng quản trị đều đã xây dựng, quan trọng là vốn và nâng cao năng lực đội ngũ nhân viên.
(4) Chị có thể cho biết cụ thể nhân viên ở đây?
Tất nhiên là những người làm kế toán, công nhân sản xuất. Sản phẩm có chất lượng thì mới đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Nếu mình muốn mở rộng doanh nghiệp, thì phải có những lao động tốt. Trong thị trường ngày nay, yếu kém là nguyên nhân kìm hãm sự phát triển.
(5) Vốn không đáng lo sao?
Biết điều đó nên chúng tôi cũng chuẩn bị kỹ, lợi nhuận hàng thàng, quý cũng khá, chúng tôi cũng sử dụng nguồn vốn cho tái sản xuất cũng tốt nên chuyện vay nợ cũng ít. Nếu cần nguồn vốn lớn, chắc sẽ vay ngân hàng.
(6) Chị có cho rằng, các doanh nghiệp nữ sẽ khó tiếp cận các nguồn vốn hơn nam giới?
Nữ giới cẩn trọng hơn, họ ít vay ngân hàng vì nhiều thủ tục, phải thế chấp nữa, nên thường mượn gia đình. Hơn nữa đa phần doanh nhân nữ cũng là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, việc tiếp cận tín dụng còn hạn chế. Năng lực một số doanh nhân nữ còn hạn chế, nên chưa biết cách thức tiếp cận tín dụng. Họ vay bạn bè, người thân là chính.
(7) Theo chị đó có phải là đặc điểm chung của doanh nhân nữ?
Doanh nhân nghiệp do nữ giới làm chủ phần nhiều là xuất phát từ các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, cửa hàng, cửa hiệu. Kinh nghiệm kinh doanh thiếu, kiến thức về thị trường chưa sâu...khi bước vào môi trường kinh doanh khốc liệt như hiện nay có lẽ hết sức khó khăn.
(8) Doanh nhân nữ có cần tham gia vào các lớp đào tạo nâng cao kỹ năng kinh doanh?
Tôi biết ngày nay có rất nhiều chương trình hỗ trợ cho phụ nữ làm kinh doanh, tuy không phổ biến nhưng không phải ít. Có lẽ ai tham gia vào các câu lạc bộ, hay hội doanh nghiệp thì sẽ có cơ hội tiếp cận nhiều hơn. Nhiều chị em chỉ biết cặm cụi làm mà không nghĩ đến việc nâng cao trình độ.
(9) Đó có phải do họ lười hay là họ thấy không cần?
Chính xác là họ thiếu thời gian, hai nữa là do công việc cũng diễn ra đều đều, có chị thấy hài lòng với hiện tại, ít có tham vọng phát triển hơn nên chẳng nghĩ đến việc tham gia câu lạc bộ, hiệp hội gì cả?
(10) Còn việc gia đình thì sao?
Con tôi còn nhỏ, việc chăm sóc là cần thiết, hiện vẫn chưa gửi trẻ nhờ bà ở nhà coi, cho nên cũng yên tâm phần nào. Hàng ngày thì cũng chỉ có buổi tối được gặp con, nên dành thời gian cho nó.
(11) Ông xã không phản ứng gì sao?
Trong công việc gia đình, chồng tôi cũng không thấy phản ứng gì với tôi cả.. Biết tôi vất vả với việc kinh doanh nên không ca thán, cũng không hỏi nhiều, đa phần tôi tâm sự. Chuyện chăm sóc con cả 2 cùng làm nên không tị nạnh gì hết. Thông cảm là điều mà tôi thấy ở ông xã nhà tôi.
(12) Theo gì đặc điểm khác của doanh nhân nữ ở Hà Nội với các thành phố khác?
Thật ra cũng giống nhau cả thôi, những điều kiện thuận lợi của đất nước, thì không Hà Nội mà các địa phương khác đều nhận được. Tuy nhiên so với một số địa phương thì Hà Nội là thủ đô nên cũng có một vài điểm thuận lợi riêng?
(13) Chị có thể cho biết cụ thể?
Hà Nội thì được tiếp cận thị trường nước ngoài dễ hơn, các nguồn vốn cũng thuận tiện hơn. Đặc biệt với điều kiện kinh tế – xã hội của HN những năm gần đây phát triển mạnh tạo nhiều điều kiện cho doanh nhân nữ cùng phát triển.
(14) Thế so với thành phố Hồ Chí Minh chị thấy sao?
So với thành phố Hồ Chí Minh tôi thấy nữ doanh nhân ở HN có điểm mạnh riêng, mặc dù trong kia người ta năng động hơn, có nhiều doanh nghiệp lớn. Cơ hội tham gia thị trường quốc tế cũng lớn.
(15) Chị có định mở thêm một vài chi nhánh ở một số thành phố lớn để doanh nghiệp hoạt động thuận lợi hơn?
Cái đó chúng tôi chưa nghĩ đến, doanh nghiệp vẫn còn nhỏ, trước mắt muốn ổn định thị trường cũ đã. Nếu có điều kiện thì cũng có thể làm điều đó(...)
Phỏng vấn sâu số 4
(Biên bản phỏng vấn chồng một doanh nhân nữ)
Tên: Trần Tuấn A
Tuổi: 42
Thời gian phỏng vấn: 19h30 – 21h30, ngày 27/01/2008
(1) Công việc chính của anh là gì?
Tôi làm trong một cơ quan nhà nước, hàng ngày chỉ tiếp cận với sổ sách, giấy tờ, nhìn chung công việc không đến nỗi vất.
(2) Trước khi chị nhà làm kinh doanh có tham khảo ý kiến của anh?
Trước khi mở công ty riêng, vợ tôi làm cho một công ty nhà nước, cũng làm kinh doanh nên tôi thấy cũng quen rồi, khi quyết định tách riêng, cô ấy cũng có hỏi ý kiến tôi. Ban đầu tôi không đồng ý, vì phụ nữ làm trong công ty nhà nước sẽ đỡ vất hơn. Nhưng vì cố ấy cùng một số người bạn cùng thành lập công ty nên tôi cũng không ngăn cản.
(3) Vậy anh có giúp chị khi mới thành lập công ty?
Công ty của vợ tôi là công ty cổ phần, nền vốn cũng được huy động từ nhiều cổ đông, có lẽ 2 vợ chồng cùng cố gắng lo về mặt tài chính thôi. Còn về quan hệ, các thủ tục giấy tờ là cô ấy tự lo.
(4) Ban đầu mới thành lập anh thấy chị có những khó khăn gì không?
Có lẽ là cũng nhiều đấy, tuy nhiên cố ấy cũng cố gắng và vượt qua, đến nay cũng đã đi vào ổn định.
(5) Điều gì anh lo cho chị nhất?
Lo nhất hả, có lẽ là sức khỏe, cô ấy đi tỉnh suốt, nhà lại con nhỏ nên cũng không có thời gian gần con, có bà và bác trông con hộ, nên cả 2 vợ chồng dành thời gian cho công việc cũng đỡ lo hơn. Nhưng dù sao, tôi cũng thấy thương.
(6) Anh không lo là chị nhà làm kinh doanh mà lại hay đi tỉnh thì sẽ có cơ hội gặp gỡ nhiều nam giới sao?
Nói là không lo thì không phải, nhưng công việc mà, có nhiều phụ nữ cũng như vậy, cứ ngồi nhà mà lo thì chả làm được gì, vợ chồng tin nhau là chính mà.
(7) Anh nghĩ vào về vấn đề hạn chế của người phụ nữ khi làm kinh doanh?
Họ cũng có cai lợi riêng so với nam giới chúng tôi, nhưng hạn chế cũng nhiều. Giả sử như lúc nãy bạn nói, đi gặp gỡ những đối tác là nam giới có thể phải nhậu nhẹt, làm việc trên bàn nhậu, có lẽ khó khăn cho phụ nữ hơn. Vợ tôi lại hay đi tỉnh, các tỉnh miền núi thì khoản này khỏi phải nói rồi, nhưng các vị ấy cũng có cái cớ là phụ nữ để mà từ chối.
(8) Anh đánh giá thế nào về doanh nhân nữ ngày nay?
Họ bản lĩnh, vợ tôi là một ví dụ đó, nhiều khi đi suốt toàn các tỉnh miền núi xa tít mà tắp, tôi còn cảm thấy lười, nhưng các cô ấy đi liên tục. Cũng là vì công việc cả thôi, tìm kiếm thị trường, hợp đồng, giao hàng...nói chung họ cũng kiên trì.
(9) Tôi nghĩ là điều đó thì ai làm kinh doanh mà chẳng như vậy?
Tất nhiên là vậy, song thử nghĩ coi sức của phụ nữ cũng có hạn, tôi là đàn ông mà còn thấy mệt nữa là họ.
(10) Anh ủng hộ phụ nữ làm kinh doanh chứ?
Tôi đã ủng hộ rồi đó, vợ tôi cũng thấy vui khi làm kinh doanh nên tôi biết tâm lý và không phàn nàn gì hơn. Vợ tôi năng động lắm, ngay cả trong suy nghĩ cố ấy cũng muốn được thử thách cọ sát nhiều thì mới có kinh nghiệm. Ngày nay nhiều phụ nữ như vậy lắm, nhất là lớp trẻ, cho nên kinh doanh không ngoại trừ ai.
(11) Nhiều người nói phụ nữ thiếu khẳ năng kinh doanh hơn nam giới?
Tôi quan điểm rằng, phụ nữ ít cơ hội học hành hơn thôi, vì phải sinh con, chăm sóc con. Nhưng ngày nay tôi thấy nhiều người giỏi thật, các bạn gái trẻ học về kinh doanh cũng nhiều họ năng động ngay từ khi còn mới là sinh viên, bản lĩnh và kinh nghiệm, cùng kiến thức có lẽ hộ sẽ thành công.
(12) Vậy học hành là yếu tố quyết định thành công của phụ nữ làm kinh doanh?
Không hẳn như vậy, vì nhiều phụ nữ đâu có học gì cao quá đâu, họ phát triển các ngành nghề truyền thống của gia đình và đã thành công. Quan trọng là bản lĩnh và cũng liều nữa. Về học vấn sẽ là yếu tố quan trọng đề giúp họ có cách nhìn, cách làm đúng, khoa học, nhất là thời đại ngày nay, kiến thức về kinh doanh quốc tế, ngoại ngữ cần thiết chứ, có như vậy mới phát triển mạnh được.
(13) Anh có thấy chị nhà tham gia vào một tổ chức xã hội hay câu lạc bộ doanh nghiệp nào không?
Cái này thì tôi không rõ lắm, mà hình như là không thì phải vì không thấy tâm sự gì.
(14) Anh nghĩ thế nào khi các chị tham gia vào các câu lạc bộ của doanh nhân, doanh nhân nữ?
Tôi biết các hiệp hội doanh nhân, tham gia vào đó cũng được lợi nhiều như quen biết, nhận được sự hỗ trợ lẫn nhau, của nhà nước. Còn cứ hoàn động riêng lẻ thì khó ai biết dến.
Phỏng vấn sâu số 9
(Biên bản phỏng vấn nam doanh nhân)
Tên: Nguyễn Tuấn A
Tuổi: 45
Thời gian phỏng vấn: 19h30 – 21h30, ngày 20/02/2008
Doanh nghiệp của ông đã hoạt động được bao nhiêu năm ?
Cũng được trên 10 năm rồi
(2) Khó khăn của doanh nghiệp ban đầu mới thành lập?
Khó khăn cũng nhiều, nhưng đặc biệt là vốn, tìm kiếm thị trường, nguyên vật liệu... Tôi cũng đã cố gắng để khắc phục những khó khăn và nhận được sự giúp đỡ của bạn bè và người thân.
(3) Theo ông khó khăn ban đầu của doanh nghiệp do nam giới làm giám đốc với doanh nghiệp do nữ giới làm giám đốc có gì khác nhau?
Theo tôi cũng không có sự khác biệt nào mấy, tuy nhiên nam giới thì khả năng vượt qua khó khăn có lẽ là cao hơn, phụ nữ còn bị phụ thuộc nhiều, có khi đi vay tiền người ta không tin tưởng vào sự thành công nên chắc chắn là sẽ khó hơn.
(4) Vậy ông có cho rằng, sự khác nhau đó khiến doanh nghiệp của nam giới sẽ dễ thành công hơn doanh nghiệp nữ?
Điều này thì cũng không hẳn đâu, tôi thấy có nhiều doanh nghiệp nữ thành công lắm. Bản thân tôi cũng nhận thấy mình thua kém một số doanh nghiệp nữ mà tôi biết. Họ cũng năng động và mạnh mẽ lắm?
(5) ông có thể cho biết mạnh mẽ ở đây có nghĩa là sao?
Doanh nhân nữ hiện nay cũng rất quyết đoán, vượt qua những khó khăn để đưa doanh nghiệp phát triển. Nhiều khi họ còn kiên nhẫn hơn nam giới chúng tôi.
(6) Theo ông điểm hạn chế nào của nữ giới so với nam giới khi điều hành, quản lý doanh nghiệp?
Nữ giới thì nhiều khi còn nặng về tình cảm, hạn chế trong một số mặt quan hệ xã giao, ví dụ như là nhậu nhẹt, đi vui chơi với đối tác. Điểm này thì nam giới chúng tôi thuận lợi hơn, mà trong làm ăn thì những vấn đề này rất khó tránh.
Thế hạn chế của nam giới là gì?
Đối với nam giới nhiều khi là quá nóng tính, vội vã, có khi thiếu sự cẩn trọng. Trong vài trườnghợp có khi một chút mềm mại, nhẫn nại của người phụ nữ sẽ dẫn đến thành công, còn nam giới chúng tôi thì khó nhẫn nại lắm.
(8) Vậy theo ông, xu hướng phát triển của các doanh nghiệp nữ trong tương lai sẽ như thế nào?
Tôi nghĩ trong tương lai doanh nhân nữ sẽ phát triển rất tốt, hiện nay đã có nhiều doanh nghiệp nữ xuất hiện và có những thành công nhất định. Doanh nhân nữ cũng nhận được nhiều sự hỗ trợ hơn từ phía Nhà nước. Môi trường kinh doanh cũng tạo nhiềuđiều kiện hơn cho các doanh nhân nữ.
(9) ông có cho rằng, những khó khăn hiện nay của các doanh nhân nữ là gì?
Khó khăn của doanh nhân nữ hiện nay theo tôi biết thường là về kỹ năng quản lý tài chính, khả năng tiếp cận vốn?
(10) Tại sao lại là vốn?
Bởi trong gia đình, nam giới vẫn luôn là người quản lý tiền bạc. Việc sử dụng nguồn vốn gia đình để làm kinh doanh ở nam giới sẽ có thuận tiện hơn. Ngay cả khi phải thế chấp tài sản gia đình thì phụ nữ cũng có phần khó khăn hơn. Vay bạn bè người thân thì đôi lúc ít có sự tin tưởng vào sự thành công nên có khi khó vay hơn nam giới.
(11) Doanh nghiệp của ông làm ăn như thế nào?
Nhìn chung là tốt hơn mọi năm, tuy nhiên tôi cũng chưa thấy hài lòng vào doanh thu của doanh nghiệp, thị trường vẫn còn bó hẹp.
(12) ông có cảm nhận thế nào khi làm việc với các đối tác là nữ giới?
Cũng thấy thoải mái, mặc dù trong một số trường hợp với nữ giới thì phải tế nhị hơn, không thoải mái và cứng nhắc như nam giới được. Ngay cả cách giao tiếp cũng có sự khác nhau hơn.
(13) ông nhận thấy thái độ của xã hội hiện nay về người phụ nữ làm kinh doanh như thế nào?
Bình đẳng, không còn sức ép như ngày trước. Phụ nữ được thoả mái làm ăn buôn bán hơn. Có điều họ có thành công hay không thì phụ thuộc vào chính họ thôi.
Thảo Luận nhóm 1
(trích)
Thời gian: Từ 20h – 21h30, ngày 23/01/2008
Địa điểm: Cầu Giấy, Hà Nội
Thành viên: 6 người (gồm: 4 doanh nhân nữ, 1 nam doanh nhân và tác giả)
(1) Khó khăn ban đầu khi thành lập doanh nghiệp
Chị Nguyễn Thị V: Khó khăn thì rất nhiều, như về vốn, ban đầu thiếu vốn nên phải hỏi vay bạn bè, người thân trong gia đình. Khó tìm chỗ để đặt trụ sở, tìm đối tác ban đầu…Dần thì cũng khắc phục được và từng bước kiện toàn cơ cấu tổ chức, ổn định thị trường…Nhiều lúc nản, nhưng đâm lao thì phải theo lao, đành cố gắng thôi.
Chị Nguyễn Thị T: Cũng giống mọi người ở đây, cũng vẫn những khó khăn về vốn, thuê nhà đặt trụ sở, xưởng sản xuất…May mắn cũng nhận được hỗ trợ của gia đình nên dần khắc phục những khó khăn.
(2) Tiếp cận các nguồn vốn.
Chị Trần Phương L: Tôi tự huy động vốn của người thân trong gia đình. Cũng sử dụng các vốn của doanh nghiệp, nhưng không nhiều, vẫn phải vay nhiều. Tôi thì không thích vay ngân hàng, các thủ tục rườm rà, thường nhờ qua bạn bè tìm nguồn để vay.
Chị Bùi Thu H: Tôi thì có vay ngân hàng nhưng không nhiều, không thường xuyên, bí quá mới đi vay…là công ty cổ phần nên tôi thường huy động vốn từ các cổ đông.
Anh: Nguyễn Quang A: Tôi thường đi vay ngân hàng, cầm sổ đỏ của ông bà nội để đi vay ngân hàng. Thi thoảng thì vay bạn bè, nhưng không được dài nên nguồn này tôi ít tiếp cận. Mấy năm nay, làm ăn cũng tốt nên ít phải đi vay hơn.
Chị Vũ Thị L: Tôi chưa từng vay ngân hàng, toàn là vay của anh chị em trong gia đình, ông xã cũng hỗ trợ một phần. Mỗi người làm một công ty riêng nên hỗ trợ nhau về vốn.
(3) Khó khăn gì về mặt quản lý, điều hành doanh nghiệp
Chị Nguyễn Thị T: Khó khăn thì nhiều, tôi không học về kinh tế nên những kiến thức về tài chính là tôi tự mày mò, hỏi mọi người, nên cũng có lúc khó khăn, Mặc dù đã có bộ phận kế toán tài chính riêng, nhưng là quản lý mà nắm không chắc thì sẽ gây khó khăn cho việc kinh doanh. Theo tôi yếu tố này hết sức cần thiết trong kinh doanh.
Chị Vũ Quỳnh H: Tôi quản lý con người còn kém, nhiều khi ông xã phải tư vấn cho tôi nhiều lắm, ông ấy không làm kinh tế, nhưng có cái nhìn tương đối tốt. Sắp xếp nhân viên không hợp lý, nhiều khi không nhìn thấy sự lộn xộn trong công việc của mọi người. Điểm yếu đó tôi cũng đang cố gắng khắc phục.
Anh Nguyễn Quang A: Về quản lý đó là vấn đề mà bây giờ tôi vẫn gặp khó khăn. Tính tôi nóng, cầu toàn nhưng thiếu kiên nhẫn, cứ không được việc là tôi quát. Nhiều người bảo là tôi cứ như thế thì nhân viên sợ chứ không phục. Có những chuyện cần phải tế nhị, mềm mỏng thì tôi không làm được. Có lẽ đó là đặc điểm chung của nam giới.
Chị Nguyễn Thị V: Tôi thấy mình vẫn còn mông lung nhiều thứ lắm, ví dụ như về tài chính, thuế, các thủ tục thanh toán quốc tế. Thậm trí khi mà thị trường chứng khoán ồ ạt như hiện nay, nhưng tôi vẫn không biết nhiều về nó, nên cũng có tham gia đâu.
(4) Việc tham gia câu lạc bộ ndoanh nhân,t hiệp hội doanh.
Chị Nguyễn Thị V: Khó khăn của tôi là không có thời gian, nhiều khi không có thời gian cho gia đình, nên cũng không muốn tham gia vào một tổ chức nào, mặc dù cũng có nhiều người đến vận động. Người ta cũng tư vấn cho mình thấy nhiều cái lợi, nhưng khổ nỗi khan hiếp thời gian qúa, tự vận động quen.
Chị Bùi Thu H: Tôi cũng không tham gia vào một tổ chức nào hết, cũng biết một số câu lạc bộ, hiệp hội của thành phố, nhưng bận quá, cứ nghĩ đến việc tham gia thì phải dành thời gian cho nó lại thấy lười. Hơn nữa doanh nghiệp hoạt động cũng ổn định nên chưa cần thiết làm…
(5) Thời gian dành cho gia đình.
Chị Trần Phương L: Con tôi đứa học lớp 2, đứa học lớp 5, hàng ngày tôi đều đưa con đi học rồi mới qua công ty, chiều thường về muộn nền lúc ông xã đón, lúc ông bà...Thực sự tôi gặp con tôi hàng ngày cũng không nhiều lắm. Tối về nhà thì chúng cũng học bài, rồi đi ngủ, chỉ có buổi sáng là cho chúc nó ăn, rồi đưa đi học có lẽ là khoảng thời gian tôi quan tâm đến chúng nhiều nhất. Tất nhiên là do công việc thôi, nhiều khi gặp gỡ khách hàng, thậm trí đi tỉnh xa, tôi lo lắng cho các con lắm, nhưng công việc mà, mình không đích thân đi thì không được.
Chị Nguyễn Thị T: Tôi cũng vậy thôi, tuy nhiên tôi vẫn tranh thủ được thời gian cho các con. Buổi chiều cũng về đủ thời gian lo cơm nước, dặn dò, chỉ bảo chúng nó học. Tuy nhiên cũng có lúc bận thì việc này lại do ông xã làm.
Chị Vũ Quỳnh H: Buổi sáng phải đưa con đi học, chiều về đón con, nói chung 2 vợ chồng cũng phân chia đựơc thời gian đón đưa con nên cũng ít lo hơn. Thỉnh thoảng đi xa lại nhờ ông bà, ông xã. Theo tôi bất kỳ người phụ nữ nào cũng không tránh được vấn đề này. Quan trọng là mình sắp xếp thời gian ra sao. Nhiều gia đình bố mẹ mải lo làm ăn mà bỏ bê con cái, những đứa lớn thì hư hỏng, đứa nhỏ thì không được chăm sóc đầy đủ.
Anh Nguyễn Quang A: Nam giới chúng tôi không vất vả như mấy chị, chuyện con cái vợ tôi lo rồi. Thi thoảng ngày nghỉ thì đưa cả nhà đi chơi thôi. Nhiều khi đi cả tuần cũng ít khi phải lo gia đình, gọi điện hỏi thăm thôi. Vợ tôi làm công ty ngoài, thời gian cũng nhiều nên tôi yên tâm về chuyện nhà cửa.
(6) Mong muốn hỗ trợ từ phía Nhà nước hay các tổ chức, cá nhân cho việc kinh doanh.
Chị Bùi Thu H: Mong muốn thì có nhiều lắm, nhưng trước mắt hy vọng các chính sách của Nhà nước trong giai đoạn hội nhập này tạo nhiều điều kiện cho doanh nhân nữ phát triển. Ví dụ như việc tiếp cận tín dụng, đất đai. Các chương trình hỗ trợ về xúc tiến thương mại, giới thiệu sản phẩm...
Chị Nguyễn Thị T: Chắc cũng giống mọi người tôi mong được sự hỗ trợ trong việc tiếp cận các nguồn vốn, mở rộng thị trường, tiếp cận với các đối tác nước ngoài. Trước mắt mong nhận được những hỗ trợ về kỹ năng kinh doanh, quản lý (...)
(7) Thuận lợi và khó khăn của nam giới và nữ giớì khi làm kinh doanh
Chị Vũ Thị L: Thực tế thì không nhiều lắm, mỗi giới có điểm mạnh yếu riêng. Nam thì cứng cỏi, quyết đoán, liều hơn. Nữ giới có lợi là cẩn thận, khéo léo. Cái khó của nữ giới trong kinh doanh đôi khi là thiếu liều lĩnh, một vài trường hợp còn e ngại, có những cuộc gặp gỡ không phải phụ nữ nào cũng giám gặp. Chị có thể nói cụ thể? Chẳng hạn như bạn hàng hẹn gặp gỡ, bàn bạc ở một số địa điểm nghỉ mát. Là nữ giới nhiều khi ngại đi, còn gia đình nữa, nói chung không tiện. Mà giao cho cấp dưới đi thì không được. Mỗi giới cũng có cách thức khác nhau để làm kinh doanh mà.
Chị Bùi Thu H: Nam giới thì ít phải lo việc gia đình hơn, có điều kiện học hành, gặp đối tác, bạn hàng, đi xa cũng dễ dàng. Nữ giới thì hạn chế ở mấy khâu nhậu nhẹt, phải chăm sóc gia đình cho nên cũng có nhiều cái bất lợi.
Anh Nguyễn Quang A: Như các chị đã nói, nam giới chúng tôi thì có thể nhậu nhẹt, ngồi thâu đêm. Gọi cái có thể ra bàn nhậu ngay. Các chị thì lại khác, nhiều nhi công việc giải quyết trong bữa ăn, thậm chí là lôi nhau đi hát karaoke rồi bàn chuyện./.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33468.doc