Doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA - Thực trạng và giải pháp

Lời cảm ơn Để hoàn thành được luận văn tốt nghiệp này tôi đã trải qua thời gian thực tập bốn tháng tại Viện Nghiên cứu Thương mại, Bộ Thương Mại. Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Viện Nghiên cứu Thương mại cùng toàn thể cán bộ của Viện đã nhiệt tình hướng dẫn và cung cấp tài liệu cho tôi. Nếu không có những tài liệu và sự tận tình chỉ bảo của các cán bộ Viện, tôi sẽ không thể hoàn thành được đợt thực tập của mình cũng như luận văn này. Tôi cũng xin cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế

doc108 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1341 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và Kinh doanh quốc tế, Đại học Kinh tế quốc dân, nơi tôi đã học tập trong thời gian bốn năm vừa qua. Trong suốt thời gian đó, tôi đã nhận được sự giảng dạy nhiệt tình cùng với những kiến thức chuyên ngành hữu ích từ họ. Nhờ đó mà tôi mới có thể hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy giáo hướng dẫn GVC. Trần Quốc Tịch đã hướng dẫn tỉ mỉ, nhiệt tình cho tôi trong quá trình thực tập và làm luận văn. Những chỉ dẫn của thầy đã giúp tôi rất nhiều trong việc hoàn thành luận văn này. Hà nội, tháng 5 năm 2003 Lời mở đầu Trong gần mười bảy năm đổi mới từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Việt Nam đã đạt được nhiều thành quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, xuất phát từ kinh nghiệm của bản thân và từ các nước trên thế giới, chúng ta đã nhận thức rõ ràng rằng: không một nước nào có thể phát triển được nếu cô lập với thế giới bên ngoài. Chính vì thế, việc hội nhập vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) (từ ngày 1/1/1996) vừa là tất yếu khách quan của xu thế thời đại, vừa là yêu cầu nội tại của nền kinh tế Việt Nam. Tham gia AFTA là bước khởi động đầu tiên và có ý nghĩa quyết định đối với quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu của nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng. Trong quá trình thực hiện CEPT, mỗi nước thành viên đều phải tiến hành những điều chỉnh và chuẩn bị cần thiết trên nhiều phương diện khác nhau để đối phó với mức độ cạnh tranh cao hơn từ các nước thành viên trong khu vực. Trong đó, các doanh nghiệp chính là đối tượng phải thực hiện các cam kết, do vậy, việc chuẩn bị của các doanh nghiệp kể cả từ phía Nhà nước và nội bộ doanh nghiệp để thích ứng với môi trường kinh doanh mở rộng, với sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp ở các nước có trình độ phát triển khác nhau là vấn đề cần được đặt ra và làm rõ. Như đã biết, những ảnh hưởng của AFTA đối với các doanh nghiệp của mỗi nước thành viên sẽ tuỳ vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước. Các nước có trình độ phát triển kinh tế cao hơn cùng với độ mở cửa của nền kinh tế cao hơn sẽ tự tin hơn các nước khác khi hình thành AFTA. Theo logic đó, Việt Nam là nước có nền kinh tế kém phát triển hơn so với nhiều nước trong khu vực và còn đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, sẽ phải đương đầu với nhiều vấn đề cần giải quyết hơn để tiến tới hoàn thành CEPT. Một trong những vấn đề đang nổi lên có tính cấp thiết hàng đầu cần giải quyết ở Việt Nam hiện nay là thuộc khu vực doanh nghiệp, không chỉ xuất phát từ yêu cầu hội nhập khu vực của quốc gia mà còn từ những vấn đề nội tại của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình đổi mới để phát triển. Hơn thế nữa, trong phạm vi doanh nghiệp, những ảnh hưởng của AFTA sẽ không chỉ có nguồn gốc từ những điều chỉnh kinh tế vĩ mô, mà còn có nguồn gốc từ năng lực cạnh tranh thực sự của doanh nghiệp, khả năng chủ động tìm kiếm đối tác và liên kết để phát triển của mỗi doanh nghiệp. Thời gian hội nhập hoàn toàn AFTA là vào 1/1/2006. Như vậy, trong bối cảnh đó, các DNVN sẽ phải phát triển ra sao để tham gia hội nhập khu vực nhanh hơn và vững chắc hơn. Từ đó, đề tài "Doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA - Thực trạng và giải pháp" được mạnh dạn nghiên cứu với mục tiêu là đánh giá sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình thực hiện CEPT từ 1996-2006, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng các cơ hội, nâng cao hiệu quả phát triển trong tiến trình hội nhập AFTA. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình thực hiện CEPT của Việt Nam và tham gia hoạt động trong môi trường tự do hoá thương mại khu vực ASEAN. Luận văn giới hạn trong phạm vi vấn đề tự do hoá thương mại hàng hoá trong ASEAN có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó tập trung chủ yếu vào đánh giá tác động khi thực hiện các cam kết CEPT đối với các doanh nghiệp. Về giới hạn thời gian, luận văn giới hạn trong giai đoạn từ khi Việt Nam ký kết Nghị định thư tham gia Hiệp định CEPT đến thời điểm tham gia hoàn toàn vào AFTA (từ 1/1/1996 đến 1/1/2006). Bố cục của Luận văn tốt nghiệp bao gồm ba chương sau: Chương I: Khái quát chung về doanh nghiệp Việt Nam với hội nhập AFTA Chương II: Thực trạng các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA Chương III: Những giải pháp nhằm phát triển các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA Tuy nhiên, do những vấn đề cần nghiên cứu khá phức tạp và chi tiết, đồng thời do hạn chế về mặt thời gian, cộng với trình độ còn hạn chế nên luận văn tốt nghiệp này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo của các thầy cô giáo, của các cán bộ trong Viện Nghiên cứu Thương mại để luận văn này được hoàn thiện hơn. S/v: Nguyễn Sỹ Hiệp Lớp: KTQT- K41 Chương I. Khái quát chung về doanh nghiệp Việt Nam với hội nhập AFTA I. Khái niệm về các loại hình doanh nghiệp Việt Nam 1. Khái niệm chung về doanh nghiệp Theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam được ban hành ngày 12/6/1999 xác định "Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh". Từ khái niệm chung này cho thấy, việc phân loại doanh nghiệp, tuỳ theo các tiêu chí khác nhau, mà người ta phân các loại doanh nghiệp khác nhau. Theo ngành kinh tế có thể chia ra doanh nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp nông nghiệp, doanh nghiệp thương mại, dịch vụ; theo tính chất hoạt động thì có hai loại hình doanh nghiệp là doanh nghiệp hoạt động công ích và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh; theo quy mô, chủ yếu là quy mô về vốn và lao động thì có các loại hình là doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ; theo hình thức sở hữu thì có doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài…Đề tài này đề cập tới cách phân loại doanh nghiệp theo hình thức sở hữu. Hình 1: Phân loại doanh nghiệp Việt Nam theo hình thức sở hữu Doanh nghiệp Việt Nam Doanh nghiệp FDI Doanh nghiệp Nhà nước Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Như vậy, doanh nghiệp ở nước ta được hiểu là các chủ thể kinh doanh có quy mô nhất định với các đặc điểm chung là: - Doanh nghiệp là các tổ chức, các đơn vị được thành lập chủ yếu để tiến hành hoạt động kinh doanh. - Doanh nghiệp là một chủ thể kinh doanh có quy mô đủ lớn (vượt quy mô của các cá thể, các hộ gia đình…). Thuật ngữ doanh nghiệp có tính quy ước để phân biệt với lao động độc lập của người lao động và hộ gia đình của họ. - Doanh nghiệp là một tổ chức sống, theo nghĩa luôn luôn vận động. Nó cũng có một chu kỳ sống riêng, kể từ lúc thực hiện một ý đồ, suy giảm hoặc tăng trưởng, các bước thăng trầm phát triển hoặc bị diệt vong. - Doanh nghiệp là nơi tổ chức thực hiện các công việc sau: Doanh nghiệp là tổ chức để tìm kiếm lợi nhuận. Doanh nghiệp là nơi tổ chức, tụ hội các con người theo luật định. Doanh nghiệp là nơi xử lý, khai thác, sử dụng các đầu vào với tư cách là các yếu tố cần có của hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp là nơi tạo ra các đầu ra để biến mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận trở thành hiện thực. Doanh nghiệp là nơi phân chia xử lý lợi nhuận (cho chủ sở hữu doanh nghiệp, cho nhà quản lý doanh nghiệp, cho những người lao động, cho chủ nợ của doanh nghiệp (nếu có, như: người cho vay vốn, cho vay tài sản…), cho Nhà nước (dưới hình thức các khoản nghĩa vụ phải nộp), cho bạn hàng (người cung ứng phần lớn các khoản đầu vào cho doanh nghiệp), cho khách hàng (nếu có, như các chi phí bảo hành sản phẩm, bồi thường ô nhiễm và huỷ hoại môi trường). Doanh nghiệp là tế bào quan trọng của nền kinh tế quốc dân được thể hiện qua vị trí, vai trò của nó đem lại cho đất nước. Điều đó được thể hiện ở các khía cạnh: - Doanh nghiệp là nơi trực tiếp tạo ra sản phẩm cho xã hội (các hàng hoá, dịch vụ và tiện nghi xã hội), đáp ứng cho nhu cầu của con người trong xã hội, phục vụ các hoạt động đối nội và đối ngoại trong phạm vi nhất định. - Doanh nghiệp góp phần giải quyết một phần các nhu cầu về việc làm cho xã hội. Đây là một vấn đề hết sức nan giải và bức thiết hiện nay cũng như sắp tới, khi mà sự phát triển của khoa học công nghệ đã từng bước xoá bỏ chỗ làm việc của những người lao động với trình độ bất cập. - Doanh nghiệp là nơi tạo ra môi trường thuận lợi cho các hoạt động khoa học, công nghệ phát triển phục vụ đời sống của con người nếu nó hoạt động có hiệu quả. Còn ngược lại, khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, nó sẽ không có chỗ để cho khoa học công nghệ len chân tới. - Doanh nghiệp là nơi phải thực hiện tốt chiến lược bảo vệ môi trường sinh thái. Nếu không ý thức đúng đắn và tuân thủ đầy đủ các luật định về môi trường sinh thái thì sẽ dẫn tới các thiệt hại to lớn về kinh tế- xã hội do môi trường bị huỷ hoại. Trong nền kinh tế thị trường, sụ tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp được quyết định bởi khả năng cạnh tranh của nó. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được thể hiện bằng khả năng bù đắp chi phí sản xuất, kinh doanh, duy trì được lợi nhuận và được đo bằng thị phần hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp trên thị trường. Như vậy, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào các yếu tố sau: Một là, các yếu tố đầu vào bao gồm: trình độ công nghệ, vốn và hiệu quả dụng vốn kinh doanh, lao động. Các yếu tố này sẽ quyết định trực tiếp đến giá thành sản phẩm, đến chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, nó cũng chính là thước đo sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Hai là, phương thức tổ chức quản lý, khả năng nắm bắt thông tin, khả năng nghiên cứu và khai thác thị trường để mở rộng thị trường cũng là nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Ba là, khả năng cạnh tranh của hàng hoá. Đây là thước đo trực tiếp về sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá được thể hiện ở số lượng, chất lượng, chủng loại, mẫu mã và giá cả của hàng hoá. Bốn là, điều kiện mua bán, thanh toán và dịch vụ sau bán hàng cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. 2. Khái niệm về doanh nghiệp Nhà nước Trong điều 1 Luật Doanh nghiệp Nhà nước, khái niệm DNNN được định nghĩa như sau: "Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. Doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp Nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam". Nếu phân loại theo cấp quản lý, DNNN có hai loại: DNNN Trung ương và DNNN địa phương. Hình 2: Phân loại DNNN theo cấp quản lý Doanh nghiệp Nhà nước DNNN Trung ương DNNN địa phương Đây là định nghĩa phản ánh đầy đủ bản chất pháp lý của DNNN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, từ đó có thể thấy DNNN có những đặc điểm cơ bản sau: - DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước thành lập. Biểu hiện ở chỗ, tất cả các DNNN đều do cơ quan nhà nước có thẩm quyền trực tiếp ký quyết định thành lập trong trường hợp thấy sự thành lập là cần thiết. Các loại hình doanh nghiệp khác ra đời theo sự lựa chọn của chủ sở hữu, sau khi thành lập mới đăng ký kinh doanh với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. - Tài sản của doanh nghiệp là một phần tài sản của Nhà nước. DNNN do Nhà nước đầu tư vốn nên nó thuộc sở hữu Nhà nước, vì thế, chủ thể kinh doanh này không có quyền sở hữu đối với tài sản mà chỉ là người quản lý và kinh doanh trên cơ sở sở hữu của Nhà nước. Tuy nhiên, Nhà nước trao cho doanh nghiệp một số quyền nhất định đối với tài sản đó và doanh nghiệp có nghĩa vụ bảo toàn, phát triển nguồn vốn, tài sản được giao. - DNNN là đối tượng quản lý trực tiếp của Nhà nước. DNNN là cơ sở kinh tế của Nhà nước, vì vậy Nhà nước phải quản lý thông qua các thiết chế và bằng những cơ chế nhất định. Nhà nước giao quyền quản lý cho các cơ quan chức năng có thẩm quyền để quản lý DNNN với tư cách là chủ sở hữu, đồng thời Nhà nước sử dụng các biện pháp bổ nhiệm, kiểm tra, giám sát về tổ chức cũng như hoạt động của doanh nghiệp. - DNNN là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân thể hiện ở chỗ nó tự hạch toán kinh doanh, lấy thu bù chi, đảm bảo có lãi. Tài sản của doanh nghiệp sau khi thành lập là tài sản riêng của doanh nghiệp (là sở hữu của Nhà nước nhưng có sự tách biệt với các tài sản khác), doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm độc lập về số tài sản này và cũng chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn, tài sản doanh nghiệp quản lý. DNNN là một tổ chức có quyền nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật, do đó có thể trở thành nguyên đơn hoặc bị đơn trong quan hệ tố tụng. Điều này thể hiện rõ tính tự chủ và đảm bảo sự chủ động cho DNNN trong hoạt động sản xuất - kinh doanh. - DNNN có thể là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh hoặc doanh nghiệp hoạt động công ích, song chúng đều thực hiện mục tiêu mà Nhà nước giao. Để thực hiện chức năng kinh tế cũng như thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước thành lập hai loại DNNN: loại hoạt động kinh doanh và loại hoạt động công ích. Cả hai loại doanh nghiệp đều thực hiện nhiệm vụ do Nhà nước giao: doanh nghiệp kinh doanh thì phải kinh doanh có hiệu quả, tăng thêm của cải cho đất nước; doanh nghiệp hoạt động công ích thì phải thực hiện tôt các nhiệm vụ phục vụ mục tiêu kinh tế - xã hội. 3. Khái niệm về doanh nghiệp ngoài quốc doanh Theo Luật Doanh nghiệp 1999, doanh nghiệp ngoài quốc doanh là những doanh nghiệp dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Hiện nay có nhiều hình thức kinh doanh ngoài quốc doanh, tuy nhiên trong phạm vi đề tài này chỉ tập trung hướng vào nghiên cứu các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần. Đây là các loại hình DNNQD phổ biến trong hoạt động kinh doanh ở nước ta. Doanh nghiệp tư nhân là đơn vị kinh doanh có mức vốn không thấp hơn vốn pháp định, do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp (Điều 2, Luật Doanh nghiệp tư nhân, ngày 21/12/1990). Doanh nghiệp tư nhân Công ty cổ phần Công ty trách nhiệm hữu hạn Doanh nghiệp ngoài quốc doanh Hình 3: Phân loại doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo loại hình pháp lý Khác với doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu rủi ro tương ứng với phần vốn góp, chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Trong đó: Công ty trách nhiệm hữu hạn là công ty trong đó phần vốn góp của tất cả các thành viên phải được đóng góp đủ ngay khi thành lập công ty. Các phần vốn góp được ghi rõ trong điều lệ công ty. Công ty không được phép phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào (Điều 25, Luật Công ty, ngày 21/12/1990). Công ty cổ phần là công ty trong đó số thành viên gọi là cổ đông mà công ty phải có trong suốt thời gian hoạt động ít nhất là 7. Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu, mỗi cổ đông có thể mua 1 hoặc nhiều cổ phiếu (Điều 30, Luật Công ty, ngày 21/12/1990). Các mô hình hợp tác xã, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nếu hiểu theo nghĩa rộng cũng thuộc phạm vi khu vực kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, theo các khái niệm chính trị pháp luật đã trở nên thông dụng ở Việt Nam, hai nhóm doanh nghiệp này được xếp vào thành phần kinh tế tập thể hoặc kinh tế tư bản tư nhân có yếu tố nước ngoài. Hiến pháp 1992 và Bộ luật dân sự năm 1995 đều phân biệt sở hữu tập thể và sở hữu tư bản tư nhân, do vậy theo một nghĩa hẹp, khái niệm DNNQD được sử dụng trong đề tài này chỉ bao gồm các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế cá thể hoặc kinh tế tư bản tư nhân, mà không bao gồm các hợp tác xã và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 4. Khái niệm về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Theo định nghĩa trong Luật đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000, "Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là những loại hình doanh nghiệp có vốn của Bên nước ngoài và có sự trực tiếp quản lý của Bên nước ngoài. Doanh nghiệp này hoạt động theo luật pháp của nước CHXHCN Việt Nam và để tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm thu được lợi ích cho tất cả các Bên". Doanh nghiệp FDI là một phạm trù chỉ tất cả các loại hình doanh nghiệp có vốn của Bên nước ngoài ở nước tiếp nhận đầu tư. Tuy doanh nghiệp FDI bao hàm nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau nhưng chúng đều có các đặc trưng cơ bản sau đây: DNFDI là những tổ chức kinh doanh quốc tế và là những pháp nhân của nước sở tại Trong các doanh nghiệp này có sự quản lý trực tiếp của nước ngoài. Quyền quản lý của các Bên phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn. DNFDI hoạt động theo luật pháp nước sở tại, các hiệp định và các điều ước quốc tế. Doanh nghiệp là nơi gặp gỡ và cọ xát giữa các nền văn hoá khác nhau. Quá trình thành lập và vận hành doanh nghiệp luôn có sự cộng đồng trách nhiệm của các Bên, đại diện cho lợi ích của các quốc gia khác nhau. Nếu căn cứ vào tỷ trọng vốn góp của Bên nước ngoài vào vốn pháp định, doanh nghiệp FDI được chia làm hai loại cơ bản: doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Doanh nghiệp FDI Doanh nghiệp liên doanh Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài Hình 4: Phân loại doanh nghiệp FDI theo tỷ trọng vốn góp của Bên nước ngoài vào vốn pháp định Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài (gọi tắt là DNLD) là một tổ chức kinh doanh quốc tế của các bên tham gia có quốc tịch khác nhau trên cơ sở cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng quản lý và cùng phân phối kết quả kinh doanh, nhằm thực hiện các cam kết trong hợp đồng liên doanh là điều lệ DNLD phù hợp với khuôn khổ luật pháp của nước sở tại. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam. Hiện nay, luật pháp Việt Nam chỉ thừa nhận loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn FDI. II. Giới thiệu chung về hội nhập AFTA 1. Khu vực mậu dịch tự do Khu vực mậu dịch tự do là một hình thức liên kết kinh tế mà các thành viên cùng nhau thoả thuận thống nhất một số vấn đề nhằm mục đích tự do hoá trong buôn bán về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó. Các thoả thuận đó là: Giảm hoặc xoá bỏ hàng rào thuế quan và các biện pháp hạn chế số lượng đối với một phần các loại sản phẩm và dịch vụ khi buôn bán với nhau. Các hình thức liên kết kinh tế khu vực Giảm thuế quan trong nhóm Loại bỏ thuế quan trong nhóm Thuế chung với ngoài nhóm Dịch chuyển tự do lao động và vốn trong nhóm Chính sách kinh tế và đồng tiền chung H.định T.mại ưu đãi K.vực T.mại tự do L.minh thuế quan Thị trường chung Liên minh kinh tế Tiến tới tạo lập một thị trường thống nhất về hàng hoá và dịch vụ. Mỗi thành viên trong khối vẫn có quyền độc lập tự chủ trong quan hệ buôn bán với các quốc gia ngoài khối, tức là mỗi thành viên có thể có chính sách ngoại thương riêng đối với các quốc gia ngoài khối ( các quốc gia ngoài liên minh). Tác động tạo lập mậu dịch Khi thực hiện FTA giữa một nhóm nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại quốc tế giữa các nước thành viên trong nhóm được mở rộng và phát triển. Nói một cách khác, FTA đã tạo lập quan hệ mậu dịch mới giữa các nước thành viên, mở rộng hơn nữa khả năng xuất nhập khẩu hàng hoá của các nước trong khu vực với các nước, các khu vực khác trên thế giới. Cũng trong điều kiện này mà tiềm năng kinh tế của các nước thành viên được khai thác một cách có hiệu quả. Chính việc tạo lập mậu dịch đã góp phần làm tăng thêm phúc lợi thông qua việc thay thế các ngành, trước hết là ngành công nghệ của nước chủ nhà có chi phí cao (lãng phí nguồn lực) bằng những quốc gia nhận được sự ưu đãi. Cũng trong điều kiện này, lợi ích của người tiêu dùng cũng được tăng lên nhờ hàng hoá của các nước thành viên đưa vào nước chủ nhà luôn nhận được ưu đãi. Sự phân tích ở trên có thể được minh hoạ qua ví dụ dưới đây: Quốc gia Chí phí sản xuất trung bình Chí phí khi A đánh thuế NK 100% Chi phí sau khi A liên kết với B A 5 5 5 B 4 8 4 C 3 6 6 Nhìn vào bảng trên, ta có thể dễ dàng thấy rằng các nhà sản xuất sản phẩm x sẽ chuyển từ nước A sang nước B để sản xuất chứ không phải là sang nước C. Lợi ích ròng khi xét tổng hợp đối với cả hai quốc gia A và B do tạo lập mậu dịch mang lại gồm: Phúc lợi do kết quả của việc di chuyển sản xuất từ các nhà sản xuất có hiệu quả thấp hơn ở quốc gia A sang các nhà sản xuất có hiệu quả cao hơn ở quốc gia B. Lợi ích tiêu dùng tăng thêm do giá giảm xuống làm cho người dân ở quốc gia A có thể mua một khối lượng hàng hoá x lớn hơn với mức chi phí thấp hơn (ở ví dụ trên giả định là bằng 4 thay vì 5 như trước). Như vậy, một khu vực mậu dịch tự do sẽ đưa đến việc tạo lập mậu dịch và từ đó mang lại những lợi ích cho người sản xuất và người tiêu dùng trong các quốc gia trong khu vực. Tác động chuyển hướng mậu dịch Bên cạnh đó, khi hình thành khu vực mậu dịch tự do cũng diễn ra sự chuyển hướng mậu dịch vì khi đó các điều kiện buôn bán giữa các nước thành viên trong khu vực sẽ trở nên thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn trước. Ngay cả trong trường hợp một nước nào đó trong liên kết tiến hành nhập khẩu những sản phẩm của các quốc gia ngoài liên kết với giá thấp hơn, nhưng nay lại được thay thế bằng việc nhập khẩu những sản phẩm cùng loại của các quốc gia trong liên kết mà giá cả lại cao hơn ( do được hưởng chính sách ưu đãi thuế quan). Chính những ưu đãi này giữa các nước thành viên trong liên kết đã đưa đến sự chuyển hướng mậu dịch nói trên ( tức là thay thế những người cung cấp những sản phẩm cùng loại có chi phí thấp hơn nhưng không được hưởng các chính sách ưu đãi bằng những người cung cấp những sản phẩm với chi phí cao hơn (kém hiệu quả) nhưng được hưởng ưu đãi của khối). Có thể tham khảo ví dụ sau: Quốc gia Chi phí sản xuất trung bình Chi phí khi A đánh thuế NK 50% Chi phí sau khi A liên kết với B A 5 5 5 B 4 6 4 C 3 4,5 4,5 Việc nhập khẩu mặt hàng x của nước A sẽ chuyển từ nước C sang nước B. Cần phải nhận thấy rằng, việc chuyển hướng mậu dịch chỉ đưa lại lợi ích cục bộ cho các quốc gia trong nội bộ liên minh. Còn xét tổng thể trên phạm vi toàn thế giới thì nó sẽ làm giảm phúc lợi chung của thế giới nếu như nó đưa tới xu hướng khuyến khích các ngành sản xuất kém hiệu quả. Ngoài ra, khu vực mậu dịch tự do còn có thể đưa lại một số hiệu quả phúc lợi khác như: Tiết kiệm được các chi phí về mặt quản lý hành chính do loại bỏ các công việc kiểm tra, giám sát tại các cửa khẩu, biên giới, đơn giản hoá các thủ tục hải quan giữa các nước thành viên. Thúc đẩy xuất nhập khẩu góp phần tăng hiệu quả sản xuất của từng quốc gia và tạo lập thị trường tương đối ổn định giữa các quốc gia thành viên, cải thiện điều kiện thương mại giữa khu vực với phần còn lại của thê giới. Khu vực sẽ có điều kiện và cơ hội nhiều hơn trong việc đàm phán thương mại quốc tế với các khối, các quốc gia thuộc phần còn lại của thế giới. Lợi ích do việc thúc đẩy và nâng cao khả năng cạnh tranh trên qui mô quốc tế, khả năng đạt được hiệu quả kinh tế theo qui mô tối ưu cho từng ngành sản xuất, kinh doanh, mở rộng đầu tư nước ngoài kể cả với những nước ngoài khối. Để đạt được một liên kết ưu việt cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chuyên môn hoá ( chuyên môn hoá phải gắn liền với đa dạng hoá). Các quốc gia phải tiến hành cạnh tranh với nhau và do đó sẽ đưa lại kết quả tốt hơn trường hợp các quốc gia chỉ nhằm vào việc bổ sung kinh tế cho nhau. Và các liên kết được hình thành nhằm tạo lập mậu dịch sẽ tốt hơn, có lợi hơn là chuyển hướng mậu dịch từ các nước không phải là thành viên sang các nước thành viên. 2. Giới thiệu chung về AFTA 2.1. Quá trình hình thành Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) được thành lập ngày 8/8/1967. Trong quá trình hơn 30 năm hình thành và phát triển, ASEAN ngày nay đã hội tụ đủ 10 quốc gia trong khu vực Đông Nam á từ 5 quốc gia sáng lập ban đầu. Về hợp tác kinh tế, Hiệp hội đề ra 3 nguyên tắc là: Hướng ra bên ngoài Cùng có lợi Linh hoạt đối với sự tham gia của các nước thành viên trong các chương trình, dự án hợp tác Đồng thời, Hiệp hội cũng xác định các lĩnh vực hợp tác kinh tế cụ thể là thương mại - Hiệp định về khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); công nghiệp - Hiệp định về chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO); Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA); Hiệp định khung về e-ASEAN; Hợp tác trong lĩnh vực năng lượng; nông lâm ngư nghiệp; các ngành dịch vụ như ngân hàng, giao thông vận tải, bưu điện, du lịch... Trong đó, AFTA được xem là lĩnh vực hợp tác trọng tâm của các nước ASEAN. Hai cột mốc đáng ghi nhận trong hợp tác thương mại trong ASEAN là vào năm 1977 với quyết định thực hiện Hiệp định ưu đãi thuế quan (PTA) và vào 28/1/1992 với quyết định thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Mục tiêu của AFTA là: Tăng cường thương mại nội bộ Khu vực hấp dẫn đầu tư nước ngoài Tăng khả năng cạnh tranh của khu vực trước các nước và khu vực trên thế giới 2.2. Các qui định chung Khu vực mậu dịch tự do AFTA được hình thành thông qua các yếu tố sau đây: Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) Thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hàng hoá giữa các nước thành viên Công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng hoá của nhau Xoá bỏ những qui định hạn chế đối với ngoại thương Hoạt động tư vấn kinh tế vĩ mô Để thực hiện CEPT, các lĩnh vực có liên quan cần giải quyết, như: Hiệp định ASEAN về hợp tác hải quan, trong đó thống nhất mẫu khai báo CEPT chung, thiết lập "hành lang xanh", xây dựng danh mục biểu thuế hài hoà chung ASEAN (AHTN); Hiệp định khung về các thoả thuận thừa nhận lẫn nhau (MRAs) nhằm loại bỏ hàng rào kỹ thuật đối với thương mại hàng hoá... 2.3. Về thuế quan 2.3.1. Các sản phẩm đưa vào chương trình CEPT Chương trình này sẽ áp dụng đối với mọi sản phẩm chế tạo, kể cả các sản phẩm cơ bản và nông sản. 2.3.2. Cơ cấu danh mục sản phẩm theo Chương trình CEPT Danh mục sản phẩm theo Chương trình CEPT bao gồm: Danh mục các sản phẩm giảm thuế (IL): Các sản phẩm thuộc danh mục này được cắt giảm thuế quan với lịch trình giảm nhanh và giảm bình thường. Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (TEL). Do tình trạng nhiều quốc gia thành viên gặp nhiều khó khăn trong việc hoạch định chính sách thương mại nên Chương trình CEPT cho phép các nước thành viên đưa ra một số mặt hàng tạm thời chưa thực hiện tiến trình giảm thuế theo kế hoạch CEPT. Các sản phẩm này sẽ không được hưởng nhượng bộ từ các nước thành viên. Tuy nhiên, danh mục này chỉ có tính tạm thời và sau một thời gian nhất định (5 năm) các quốc gia phải đưa toàn bộ các sản phẩm này vào danh mục giảm thuế. Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL): Danh mục này bao gồm những sản phẩm không tham gia chương trình CEPT vì có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, cuộc sống sức khoẻ con người, động thực vật, việc bảo tồn các giá trị văn hoá nghệ thuật lịch sử, khảo cổ. Danh mục nhạy cảm của hàng nông sản chưa chế biến (SEL): Các sản phẩm của danh mục này sẽ được đối xử theo các qui định của Hiệp định về hàng nông sản cuả WTO. Các cam kết giảm thuế các sản phẩm trong danh mục nhạy cảm của các nước ASEAN sẽ thấp hơn so với WTO tại Vòng đàm phán Urugoay. 2.4. Lịch trình thực hiện Thời gian để đạt mức thuế từ 0 - 5% là 10 năm ( đến năm 2003 đối với các thành viên cũ và 2006 với Việt Nam, Lào, Myanmar, 2010 với Campuchia) kể từ năm 1994. Quá trình này được chia làm 2 giai đoạn: quá trình cắt giảm thuế bình thường và quá trình cắt giảm thuế nhanh. - Đối với các hàng hoá thực hiện cắt giảm thuế bình thường thì nếu các mặt hàng có mức thuế suất trên 20% sẽ tiến hành cắt giảm xuống dưới 20% vào ngày 1/1/1998, và sau đó sẽ tiếp tục giảm xuống còn 0 - 5% vào 1/1/2003; nếu các mặt hàng đã có mức thuế suất dưới mức 20% thì sẽ tiến hành cắt giảm còn 0 - 5% vào 1/1/2000. - Đối với các mặt hàng trong danh mục loại trừ tạm thời sẽ được chuyển sang danh mục cắt giảm thuế trong vòng 5 năm từ 1/1/1996 đến 1/1/2000, mỗi năm chuyển 20% số sản phẩm trong danh mục tạm thời. - Đối với hàng nông sản chưa qua chế biến trong Danh mục cắt giảm thuế ngay được chuyển vào chương trình giảm thuế nhanh hoặc chương trình cắt giảm thuế bình thường vào 1/1/1996 và sẽ được giảm thuế xuống còn 0 - 5% vào 1/1/2003. Các sản phẩm trong danh mục tạm thời của hàng nông sản chưa chế biến sẽ được chuyển sang danh mục giảm thuế trong 5 năm từ 1/1/1998 đến 1/1/2003, mỗi năm chuyển 20%. Các sản phẩm trong danh mục nhạy cảm sẽ được xem xét riêng và không phụ thuộc vào thời hạn 1/1/2003 và mức thuế quan cuối cùng 0 - 5%. 3. Những đặc trưng chủ yếu của các nền kinh tế trong AFTA Thứ nhất, ASEAN là khu vực thị trường rộng lớn cả về không gian và qui mô dân số: tổng diện tích 4.464 ngàn Km2, chiếm 14,15% diện tích châu á, tổng dân số năm 2000 là 526 triệu người. Thứ hai, ASEAN là khu vực phát triển kinh tế năng động với nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao trong suốt thời kỳ dài - gần 2 thập kỷ. Tuy nhiên, có sự chênh lệch khá lớn về GDP bình quân đầu người giữa các nước ASEAN-6 và các nước ASEAN-6 với các nước mới vào. Thứ ba, ASEAN là khu vực đang thực hiện công nghiệp hoá với tỷ lệ công nghiệp chế biến trong GDP ngày càng gia tăng. Nhìn chung, các nước ASEAN-6 đều có tỷ lệ sản phẩm chế biến trong GDP từ trên 20% trở lên, thấp nhất là Philipin cũng đạt 24,5%, trong khi các nước mới vào đều có tỷ lệ dưới 20%, cao nhất là Việt Nam cũng chỉ có 17,69%. Thứ tư, ASEAN là khu vực phát triển năng động, có mức hội nhập lớn đối với nền kinh tế thế giới trên cả hai lĩnh vực hoạt động thương mại và đâù tư quốc tế. Về thương mại: hầu hết các nền kinh tế ASEAN đều có chỉ số giữa tổng kim ngạch xuất và nhập khẩu so với GDP đều ở mức độ cao. Theo số liệu năm 1999, Singapore có chỉ số cao nhất với 265,61%, tiếp đến là Malaysia 190,22% và các nước Thái Lan, Philipin, Việt Nam trong khoảng 80 - 100%, Indonesia với 51,55%. Bảng 1: Đầu tư t._.rực tiếp nước ngoài vào ASEAN Đơn vị: triệu USD Năm Nước 1998 1999 2000 Năm Nước 1998 1999 2000 Singapo 6.316 7.197 6.390 Myanma 314 253 240 Malaysia 2.700 3.532 5.542 Campuchia 121 135 153 Thái Lan 5.143 3.562 2.448 Lào 46 79 72 Việt Nam 2.254 1.991 2.081 Brunây -20 -38 -19 Philippin 1.752 737 1.489 Indonêsia -356 -2.745 1.489 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Về đầu tư quốc tế: trong thập kỷ 80 và 90, trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính khu vực, ASEAN là khu vực có mức gia tăng FDI lớn so với nhiều nước đang phát triển khác trên thế giới, chủ yếu của các công đa quốc gia do có lợi thế về nguồn lao động rẻ, dồi dào, môi trường thương mại tự do ở mỗi nước. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế khu vực, luồng FDI vào ASEAN đã giảm sút mạnh ở hầu hết các nước. Thứ năm, năng lực cạnh tranh của hầu hết các nền kinh tế trong ASEAN còn ở mức độ trung bình và thấp, nhưng đang được cải thiện dần. Bảng 2: Xếp hạng chỉ số phát triển các nước ASEAN và Trung Quốc (HDI: Chỉ số phát triển con người của 174 nước; HPI: Chỉ số nghèo khổ con người của 85 nước) Chỉ tiêu Nước Tỷ lệ người biết chữ (%) Tỷ lệ người đi học(%) GDP/đầu người (1998, PPP,$US) Xếp hạng GDP/đầu người Xếp hạng HDI Xếp hạng HPI Singapo 91,8 73 24.210 8 24 _ Malaysia 86,4 65 8.137 51 61 18 Thái Lan 95,0 61 5.456 71 76 29 Philiippin 94,8 83 3.555 94 77 22 Indonesia 85,7 65 2.651 113 109 46 Việt Nam 92,9 63 1.689 132 108 47 Myanma 84,1 56 1.199 150 125 53 Campuchia 65,0 61 1.257 137 136 _ Lào 46,1 57 1.734 131 140 _ Trung Quốc 82,8 72 3.105 106 99 30 Nguồn: UNDP. Human Development Report 2000 Nhìn chung, sự hình thành khu vực thương mại tự do, một mặt về hình thức liên kết là nỗ lực chung của các thành viên nhằm đạt đến sự phát triển thương mại tự do bên trong khu vực. Mặt khác, xuất phát từ những đặc trưng của các nền kinh tế nên ngay trong động lực hình thành AFTA đã không đơn thuần là khu vực mậu dịch tự do bên trong mà đã mang tính hướng ngoại. Hơn nữa trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và tự do hoá thương mại đang diễn ra mạnh mẽ, ASEAN đã có ý tưởng và động thái gắn khu vực ASEAN với các nước Đông Bắc á, châu Âu, châu á - TBD, đặt sự vận động của AFTA trong tiến trình chung của GATT, WTO, APEC. III. Những tác động chủ yếu khi triển khai AFTA đối với các nước thành viên ASEAN Phần đánh giá định lượng tác động của hội nhập kinh tế thế giới tới nền kinh tế của quốc gia có thể sử dụng kết quả từ mô hình "Thương mại toàn cầu" (GTAP) do một số thành viên Đại học Griffith (úc) thực hiện. Đây là mô hình được xây dựng và phát triển tại Đại học Purdue (bang New Jersey, Hoa Kỳ) từ năm 1993. Mô hình này có những điểm mạnh cơ bản là: - Về cơ sở lý thuyết, đây là mô hình cân bằng tổng quan, nó là công cụ rất hiệu nghiệm để phân tích tác động của các thay đổi về chính sách (đặc biệt là chính sách tự do hoá thương mại) đối với nền kinh tế. Khi phân tích, nền kinh tế mỗi nước được chia thành các ngành khác nhau nên nó có thể đánh giá được tác động không những đối với toàn bộ nền kinh tế mà còn đối với từng ngành cụ thể. - Cơ sở dữ liệu gần đây nhất của mô hình được thu thập năm 1998 bao gồm Việt Nam và hầu hết các nước thành viên ASEAN và APEC. Do đó nó cho phép phân tích ảnh hưởng sự hội nhập của Việt Nam vào 2 tổ chức này. - Đây là mô hình toàn cầu nên nó cho phép phân tích tác động qua lại giữa các nền kinh tế với nhau trong bối cảnh toàn cầu. - Mô hình phân nhóm thành 16 nhóm nước và 11 nhóm ngành sản xuất chính. Việt Nam hiện nay có thể thực hiện hội nhập kinh tế thế giới theo từng cấp độ là từ đơn phương đến tiểu khu vực (AFTA), đến khu vực rộng lớn hơn, đến toàn cầu. Do vậy, có thể mô hình hoá quá trình hội nhập của Việt Nam qua 4 kịch bản như sau: Kịch bản 1 (đơn phương): Việt Nam đơn phương cắt giảm 50% thuế nhập khẩu hiện có đối với tất cả các mặt hàng. Kịch bản 2 (AFTA): Tất cả các nước tham gia AFTA bao gồm cả Việt Nam cắt giảm 50% thuế nhập khẩu hiện có đối với tất cả các mặt hàng. Kịch bản 3 (APEC): Tất cả các nước APEC bao gồm cả Việt Nam cắt giảm 50% thuế nhập khẩu hiện có đối với tất cả các mặt hàng. Kịch bản 4 (toàn cầu): Tất cả các nền kinh tế trên thế giới cắt giảm 50% thuế nhập khẩu hiện có đối với tất cả các mặt hàng. 1. Tác động đến các nền kinh tế ASEAN Sau khi sử dụng mô hình GTAP để đánh giá tác động của tự do hoá thương mại tới các quốc gia trên thế giới trong cả 4 kịch bản, nhóm nghiên cứu Đại học Griffith đã có kết quả đánh giá được thể hiện như bảng sau (bảng 3 chỉ nêu ra các nước ASEAN trong số 16 nhóm nước được nghiên cứu). Bảng 3: Tác động của tự do hoá thương mại đối với các nền kinh tế ASEAN Đơn vị: % tăng (+), giảm (-) GDP Nền kinh tế Kịch bản 1 Kịch bản 2 Kịch bản 3 Kịch bản 4 Việt Nam 2,9 1,6 3,2 4,0 Indonesia 0,2 2,3 2,3 4,7 Malaysia 0,0 0,4 0,5 1,0 Philippines 0,0 0,7 0,1 0,8 Singapore 0,0 0,1 -0,8 -0,7 Thái Lan 0,0 0,6 3,2 3,0 Nguồn: Đại học Griffith Trong kịch bản 2, những lợi ích của tự do hoá thương mại trong khuôn khổ AFTA là không lớn đối với kinh tế các nước ASEAN và cũng rất nhỏ bé đối với kinh tế thế giới. Điều đó cho thấy nhiều nước ASEAN còn có lợi thế so sánh giống nhau ở nhiều lĩnh vực nên sẽ cạnh tranh gay gắt với nhau khi hội nhập. Bên cạnh những đánh giá của mô hình GTAP, chúng ta còn có thể thấy được một số tác động như: - Tác động đến thương mại: sẽ tạo ra khả năng mở rộng trao đổi thương mại nội bộ một ngành công nghiệp hơn là thương mại giữa các ngành - Tác động đến môi trường đầu tư: tính hấp dẫn đầu tư của khu vực ASEAN không chỉ là nguồn lao động rẻ mà còn là có một thị trường tiêu thụ rộng lớn hơn. - Tác động lên cơ cấu sản xuất công nghiệp: cơ cấu công nghiệp của mỗi nước sẽ phải thay đổi theo hướng có khả năng cạnh tranh và xuất khẩu được trên cơ sở khai thác triệt để lợi thế so sánh của mỗi nước thành viên. - Tác động đến môi trường cạnh tranh: AFTA sẽ tác động mạnh hơn đến các nước và các ngành có mức độ bảo hộ cao so với trước khi thực hiện AFTA. Việc phải chấp nhận cạnh tranh trong môi trường tự do hoá thương mại khu vực, trong khi các ngành công nghiệp non trẻ vẫn cần phải bảo hộ đang là vấn đề chủ yếu của các nước có trình độ phát triển thấp trong ASEAN. 2. Tác động đến nền kinh tế Việt Nam Nhóm nghiên cứu đồng thời cũng đưa ra được một số đánh giá các tác động tới nền kinh tế Việt Nam, được thể hiện như sau (bảng 4 và bảng 5). Bảng 4: Tác động chung đối với nền kinh tế Việt Nam Thông số vĩ mô Mức tăng, giảm Kịch bản 1 (đơn phương) Kịch bản 2 (AFTA) Kịch bản 3 (APEC) Kịch bản 4 (toàn cầu) Xuất khẩu % 1,7 0,4 1,8 3,3 Nhập nhẩu % 8,5 2,7 7,8 9,9 Cán cân thương mại triệu USD -578 -198 -518 -577 GDP % 2,9 1,6 3,2 4,0 Nguồn: Đại học Griffith Có thể đưa ra một số đánh giá chính như sau: ở kịch bản 1, 3, 4 xuất và nhập khẩu đều tăng do hàng rào thuế quan được cắt giảm. So sánh theo thứ tự lần lượt các kịch bản 1, 3, 4 thì càng về sau kinh tế Việt Nam càng tốt hơn bởi vì GDP tăng nhanh hơn, chênh lệch xuất - nhập khẩu giảm dần. Do đó có thể đưa ra khẳng định là nếu khuôn khổ tự do hoá thương mại được mở rộng hơn nữa thì lợi ích mà Việt Nam giành được càng lớn hơn. Hội nhập trong khuôn khổ AFTA lại không tuân theo quy luật trên. Kịch bản 2 cho thấy tác dụng tăng trưởng đối với kinh tế Việt Nam là kém nên Việt Nam sẽ không được lợi nhiều trong quá trình này (mặc dù có làm cho cán cân thương mại ít chênh lệch). Kết quả này có thể giải thích là: Việt Nam và một số nước ASEAN khác (như Thái Lan, Indonesia, Philippines,…) có khá nhiều ngành sản xuất có lợi thế so sánh tương tự nhau như: nông sản, thuỷ sản, may mặc và giày dép… Đồng thời, các nước này vẫn cần nhập khẩu hàng hoá kỹ thuật cao từ các nước ngoài khối như Nhật Bản, EU, Mỹ…Do vậy, khi hội nhập thì các nước này phải cạnh tranh với nhau nhiều hơn là bổ sung cho nhau trong các lĩnh vực đó. Bảng 5: Tác động của tự do hoá thương mại tới các ngành sản xuất của Việt Nam Đơn vị: % tăng (+), giảm (-) GDP Tên ngành Kịch bản 1 Kịch bản 2 Kịch bản 3 Kịch bản 4 Nông nghiệp -2,8 0,2 -2,6 -3,3 Thực phẩm -17,3 -10,2 -18,6 -23,2 Khai khoáng -0,3 0,1 -0,1 -0,3 Dệt 2,6 -2,7 3,6 6,4 May 21,7 -1,4 20,0 28,0 Các ngành CN khác -7,8 -2,6 -6,5 -7,4 Hoá chất -5,7 -3,3 -5,0 -5,1 Kim loại -10,2 -1,5 -9,0 -11,0 Thiết bị vận tải -39,9 -9,3 -36,4 -42,1 Máy móc thiết bị 0,2 0,1 0,1 -0,5 Dịch vụ 2,4 1,2 2,4 2,5 Nguồn: Đại học Griffith Có thể thấy rằng, kịch bản 2 khi Việt Nam tham gia AFTA có nhiều điểm khác so với xu hướng chung của 3 kịch bản còn lại. Trong khi những ngành hàng được coi là thế mạnh của Việt Nam là dệt, may khi tham gia AFTA bị giảm sút, khác với sự gia tăng rất mạnh ở 3 kịch bản còn lại. Điều này được giải thích vì sự cạnh tranh quyết liệt của sản phẩm của các nước trong khu vực như Thái Lan, Indonesia, Philippines vốn có nhiều ưu thế hơn. Ngành dịch vụ khi tham gia AFTA cũng gia tăng ít hơn hẳn so với 3 kịch bản còn lại, nguyên nhân cũng là do phải cạnh tranh với ngành dịch vụ cùng cơ cấu và phát triển hơn của các nước trong khu vực. Các ngành còn lại, khi tham gia AFTA thì chịu ảnh hưởng ít hơn so với các kịch bản khác bởi vì khả năng cạnh tranh của các nước trong khu vực không mạnh mẽ bằng của các nước khác ngoài khu vực do có cùng trình độ phát triển không cao. Tóm lại, mô hình này đã chỉ rõ những hạn chế của tự do hoá thương mại trong khuôn khổ AFTA và đề xuất chỉ nên coi đây là giai đoạn tập dượt của các nền kinh tế còn kém phát triển trước khi tham gia vào tự do hoá thương mại trên phạm vi toàn thế giới. Đối với Việt Nam, dù hội nhập ở cấp độ nào cũng manh lại lợi ích cho nước ta nên cần có chuẩn bị tốt hơn nữa để chủ động tham gia vào quá trình này. Kết quả phân tích từ mô hình cho thấy khi đó cơ cấu kinh tế trong nước sẽ có sự chuyển dịch lớn và nhiều ngành sẽ gặp phải tình thế rất khó khăn. Sự tác động này có thể sẽ gây tác động lớn về mặt tâm lý, xã hội khiến Nhà nước phải chuẩn bị trước và có phương án khắc phục để giữ ổn định môi trường chính trị- xã hội… Mặt khác, mô hình cũng đã chỉ ra một số nước quanh ta có lợi thế cạnh tranh giống nước ta (Thái Lan, Indonesia…). Đây sẽ là các đối thủ cạnh tranh chủ yếu mà nước ta phải chấp nhận và chuẩn bị ứng phó khi thực hiện hội nhập kinh tế vào khu vực và thế giới. IV. Tình hình thực hiện CEPT của các nước ASEAN 1. Tình hình thực hiện CEPT của khu vực Trong những năm vừa qua, các nước ASEAN đã có những quyết định điều chỉnh nhằm đẩy nhanh tiến trình thực hiện CEPT, như: - Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội đã thông qua "Chương trình Hà Nội" tháng 12/1998 không chỉ khẳng định sự nhất trí của các nước thành viên quyết tâm đẩy nhanh tiến trình AFTA, mà còn đưa ra các hành động cụ thể. - Tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN không chính thức tổ chức tại Phuket (Thái Lan) họp vào ngày 8/3/1999, các Bộ trưởng kinh tế ASEAN-6 đã nhất trí về phương hướng khẩn trương thực hiện giảm thuế theo khung thuế quan ưu đãi hiệu lực chung (CEPT), với thoả thuận sẽ giảm thuế tất cả các loại hàng hoá xuống mức 0-5% vào năm 2000 và giảm xuống 0% vào năm 2001. Bảng 6: Số lượng sản phẩm cắt giảm thuế quan vào năm 2002 và những ngành công nghiệp có khả năng cạnh tranh nhất của các nước thành viên ASEAN Nước Số sản phẩm cắt giảm thuế quan Tỷ lệ phần trăm Ngành công nghiệp 0-5% >5% Tổng 0-5% >5% có khả năng cạnh tranh nhất Brunây 6.260 16 6.276 99,75 0,25 Xăng dầu Inđônêxia 7.147 66 7.213 99,08 0,92 Thực phẩm, dệt, thiết bị điện tử, xăng dầu Malayxia 9.177 922 10.039 90,80 9,20 Điện tử, thiết bị điện Philippin 5.362 209 5.571 96,25 3,75 Điện tử, thiết bị điện Xingapo 5.859 _ 5.859 100,0 _ Điện tử, thiết bị điện, xăng dầu Thái Lan 8.632 472 9.104 94,80 5,20 Thực phẩm, thiết bị điện, điện tử, ôtô Tổng 6 nước ASEAN 42.337 1.685 44.062 96,20 3,80 Cămpuchia 238 2.877 3.115 7,64 92,36 Chế biến nông sản, may mặc, gỗ Lào 1.297 801 2.098 61,82 38,18 Chế biến nông sản, may mặc, các sản phẩm gỗ Mianma 2.848 732 3.580 79,55 20,45 Chế biến nông sản, gỗ Việt Nam 3.566 1.939 5.505 64,78 35,22 Chế biến nông sản, may mặc, xe máy Tổng số của 4 thành viên mới 7.949 6.349 14.298 55,60 44,40 Tổng số của ASEAN 50.326 8.034 58.360 86,2 13,8 Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn số 116 (12/02) - Tại Hội nghị Hội đồng AFTA lần thứ 9 tháng 4/1996, các nước đã nhất trí thời hạn để đưa các hàng hóa trong danh mục SEL vào thực hiện theo CEPT là ngày 1/1/2010. Sau đó, tại Hội nghị AEM-31 tháng 9/1999 đã chính thức ký Nghị định thư về các sản phẩm nhạy cảm và nhạy cảm cao để cụ thể hoá lộ trình cắt giảm thuế quan theo CEPT. Ngoài các kế hoạch rút ngắn lộ trình giảm thuế, các nước ASEAN còn thoả thuận về việc tự do hoá thương mại hàng hoá dịch vụ và thoả thuận tăng cường hợp tác với các bạn hàng đối thoại như Mỹ, Nhật, và EU trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại và các lĩnh vực khác. Lộ trình thực hiện AFTA cũng đang được hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi bằng việc đẩy nhanh sự hợp tác trong lĩnh vực giao thông xuyên ASEAN, phát triển cơ sở hạ tầng trong đó bao gồm những tuyến đường liên quốc gia và viễn thông. ASEAN cũng hình thành sự hợp tác trong lĩnh vực công nghiệp với Hiệp định về chương trình hợp tác công nghiệp (AICO) nhằm khuyến khích sự liên kết sản xuất giữa các doanh nghiệp của các nước ASEAN và nâng cao khả năng cạnh tranh của các "công ty ASEAN". Cùng với những hành động đó, các sáng kiến mới nhằm góp phần thúc đẩy tiến trình hình thành AFTA và nâng cao hiệu quả của AFTA đối với các nước thành viên cũng được đề xuất và áp dụng ngày càng nhiều hơn. Chẳng hạn, tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế các nước ASEAN tổ chức tại Hà Nội vào 9/2001, Việt Nam đã đưa ra sáng kiến về thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước ASEAN-6 và các nước mới vào. Tuy nhiên, tiến trình triển khai thực hiện AFTA không phải không gặp những cản trở. Trong khi việc triển khai cần phải được đẩy nhanh để phù hợp với quá trình tự do hoá thương mại toàn cầu diễn ra rất nhanh chóng trong những năm gần đây thì lại xuất hiện một số khó khăn đối với các nước trong khu vực về vấn đề thực hiện lộ trình, như: - Có những khó khăn riêng ở mỗi nước trong việc đảm bảo sản xuất khi triển khai AFTA, nên đã nảy sinh một số trường hợp trì hoãn thực hiện cục bộ. Chẳng han, đối với Thái Lan là xuất khẩu dầu cọ, Philipin là các sản phẩm cá, Malaysia là sản xuất ôtô... - Không có hướng dẫn kĩ thuật rõ ràng, chi tiết cho các nước khi triển khai thực hiện AFTA. - Chưa có cơ quan xử lý tranh chấp giữa các nước khi thực hiện AFTA như của EU hay WTO. - Để hưởng các ưu đãi theo Hiệp đinh CEPT, các doanh nghiệp cần phải có năng lực vươn ra thị trường các nước trong khu vực. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thuần tuý ASEAN phần lớn lại chưa đủ tầm, mà thông thường chỉ là các công ty đa quốc gia đang hoạt động tại thị trường ASEAN. - Các chương trình cắt giảm thuế quan chưa được phổ biến rộng rãi đến khu vực kinh tế tư nhân. 2. Tình hình thực hiện CEPT của Việt Nam 2.1. Về cắt giảm thuế quan Năm 1996 là năm đầu tiên Việt Nam thực hiện cắt giảm thuế theo chương trình CEPT. Tại Nghị định 91/CP ngày 18/12/1995 của Chính phủ, 875 dòng thuế đã được đưa vào danh mục cắt giảm theo CEPT của Việt Nam. Năm 1997, tại Nghị định 82/CP ngày 13/12/1996 của Chính phủ, Việt Nam đã đưa 1.496 dòng thuế vào thực hiện CEPT, trong đó 621 dòng thuế mới bổ sung cho danh mục năm 1996. Năm 1998, tại Nghị định số 15/1998/NĐ-CP ngày 12/3/1998 của Chính phủ, Việt Nam đã công bố danh mục CEPT năm 1998 gồm 1.633 dòng thuế, trong đó có 1.496 dòng thuế được đưa vào từ năm 1997 và 137 dòng thuế mới. Năm 1999, danh mục hàng hoá của Việt Nam thực hiện CEPT năm 1999 được ban hành kèm theo Nghị định số 14/1999/NĐ-CP ngày 23/3/1999 của Chính phủ. Danh mục CEPT năm 1999 gồm 3.582 dòng thuế, tăng 1.949 dòng thuế so với danh mục CEPT năm 1998. Năm 2000, danh mục hàng hoá của Việt Nam thực hiện CEPT được ban hành kèm theo Nghị định số 9/2000/NĐ-CP ngày 21/3/2000, Việt Nam đã đưa thêm hơn 600 dòng thuế vào danh mục cắt giảm thuế, nâng tổng số dòng thuế trong danh mục cắt giảm thuế nhập khẩu theo CEPT lên 4200 trong tổng số 6.140 dòng thuế sẽ đưa vào thực hiện cắt giảm thuế theo CEPT. Năm 2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/2001/NĐ-CP về Danh mục hàng hoá và thuế suất của Việt Nam để thực hiện CEPT. Theo Nghị định, Việt Nam sẽ chuyển 713 dòng thuế từ TEL sang IL, nâng tổng số dòng thuế trong IL lên 4986 dòng. Trong số dòng thuế có mức thuế suất từ 0% đến 5% là 3228 dòng, chiếm khoảng 65%; số dòng thuế có mức thuế suất trên 5% đến 20% là 1750 dòng, chiếm khoảng 35% số dòng thuế trong IL. Năm 2002, danh mục hàng hoá của Việt Nam thực hiện CEPT được ban hành kèm theo Nghị định số 21/2002/NĐ-CP, ngày 28/2/2002. Việt Nam đã đưa thêm 1368 dòng thuế vào danh mục cắt giảm thuế, nâng tổng số dòng thuế trong danh mục cắt giảm thuế nhập khẩu theo CEPT lên 5568 trong tổng số 6140 dòng thuế sẽ đưa vào thực hiện cắt giảm theo CEPT. Bảng 7: Lịch trình giảm thuế của Việt Nam và đề xuất của ASEAN Năm 2003 2004 2005 2006 Theo lịch trình 01-06 0-5%: 65% 0-5%: 67% 0-5%: 68% 0-5%: 100% 0%: 32% Đề xuất thay đổi của ASEAN 0-5%: 80% _ 0-5%: 100% với một số linh hoạt 0%: 60% Nguồn: Nghị định 21/2002/NĐ-CP Như vậy, trong năm nay (2003) sẽ còn khoảng 572 dòng thuế tiếp tục được đưa vào danh mục cắt giảm thuế nhập khẩu. Chính phủ cũng đã thông qua lịch trình cắt giảm thuế tổng thể cho 6140 dòng thuế trong giai đoạn 2001- 2006 với nguyên tắc chính là toàn bộ thuế suất của 6140 dòng thuế phải giảm xuống mức thuế suất 0-5% vào 1/1/2006. 2.2. Về dỡ bỏ hàng rào phi quan thuế Theo CEPT, các mặt hàng đưa vào chương trình giảm thuế đã xuống dưới 20% và được hưởng ưu đãi thì phải bỏ ngay các qui định về hạn chế số lượng (QRs) và bỏ dần các biện pháp phi quan thuế khác trong 5 năm sau đó, nhưng không muộn hơn năm 2006. Do đó, cùng với tiến trình cắt giảm thuế, các cơ quan chức năng Việt Nam cũng đang tiến hành nghiên cứu các biện pháp loại bỏ các hàng rào phi quan thuế: hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu, đầu mối nhập khẩu…thay thế bằng các công cụ bảo hộ mới, phù hợp với thông lệ quốc tế, đưa ra lộ trình bãi bỏ giấy phép cụ thể cho từng mặt hàng đối với 15 mặt hàng nhập khẩu hiện còn quản lý bằng hạn ngạch. Ngoài ra, Việt Nam cũng đã quan tâm đến việc thực hiện một số yêu cầu kỹ thuật, như điều hoà thống nhất danh mục biểu thuế, điều hoà thống nhất hệ thống giá tính thuế quan, điều hoà thống nhất các tiêu chuẩn sản phẩm và phát triển hệ thống tiêu chuẩn được công nhận chung giữa các nước thành viên. Chương II. Thực trạng các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA I. Những chuyển biến về kinh tế và thương mại Việt Nam trong giai đoạn thực hiện CEPT Việc Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN (ngày 28/7/1995) là mốc quan trọng ghi nhận sự thành công trong công cuộc đổi mới phát triển kinh tế nói chung và trong lĩnh vực mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế với khu vực nói riêng. Chính điều đó đã mở ra cho đất nước những cơ hội phát triển mới cả về chính trị, ngoại giao và đặc biệt là về phương diện phát triển kinh tế. - Tăng trưởng GDP: từ khi gia nhập ASEAN đến khi khủng hoảng tài chính tiền tế châu á xảy ra, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt bình quân 8,74%/năm (1996-1997), cao hơn so với nhịp độ tăng bình quân 8,20%/năm trong giai đoạn 1991-1995. Tuy nhiên, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của khu vực, nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân chỉ còn 5,7%/năm trong các năm 1998-2000, sau đó phục hồi dần với 6,8%/năm và 7%/năm trong hai năm 2001 và 2002. Điều đó, một mặt, phản ánh nền kinh tế Việt Nam đã có sự hội nhập với các nền kinh tế trong ASEAN, nhưng mặt khác cho thấy, mức độ hội nhập đó chưa đạt đến qui mô lớn và chưa thật sâu sắc. - Tình hình xuất, nhập khẩu: tỷ trọng về xuất, nhập khẩu của Việt Nam với các nước ASEAN trong tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu chung của Việt Nam có xu hướng giảm nhẹ (xem bảng 8). Tuy nhiên, kim ngạch nhập khẩu và xuất khẩu của Việt Nam với các nước ASEAN lại gia tăng, cụ thể là từ năm 1995 đến năm 2002, kim ngạch nhập khẩu tăng hơn 2 lần, kim ngạch xuất khẩu tăng 2,22 lần. Điều đó có nghĩa là, sự gia tăng ngoại thương của Việt Nam với bên ngoài ASEAN trong thập kỷ 90 nhanh hơn sự gia tăng ngoại thương của Việt Nam với nội bộ ASEAN. Bảng 8: Quan hệ ngoại thương Việt Nam - ASEAN Năm Việt Nam NK (triệu USD) Việt Nam XK (triệu USD) Tỷ trọng NK từ ASEAN trong tổng NK (%) Tỷ trọng XK vào ASEAN trong tổng XK (%) 1995 2.378 1.112 29 20,4 1996 2.788 1.364 25 18,8 1997 3.166 1.911 27,3 20,8 1998 3.749 2.372 32,6 25,3 1999 3.288 2.463 28,3 21,3 2000 4.519 2.612 28,8 18,0 2001 4.222 2.548 26,1 16,0 2002 4.765 2.475 24,8 15,5 Nguồn: Trung tâm thông tin thương mại, Bộ Thương Mại + Theo các đối tác thương mại: trong khu vực ASEAN, Singapore là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu sang Singapore năm 2001 đạt 1043,7 triệu USD chiếm 31,6% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN, tiếp đến là Philipine (17,1%), Malaysia (14,7%), Thái Lan (12,1%)… Chỉ số tương tự với kim ngạch nhập khẩu, từ Singapore là lớn nhất, chiếm 61,3%, tiếp theo là Thái Lan (18,1%), Malaysia (8,6%), Indonesia (7,7%)… + Theo sản phẩm xuất, nhập khẩu: Các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường các nước ASEAN chủ yếu là các sản phẩm nông sản và nguyên liệu, chiếm tới 95,64% (năm 1998) và 70,2% (năm 2000), trong đó riêng gạo và dầu thô có tỷ lệ tương ứng là 78,17% và 56,33%. Các mặt hàng nhập khẩu từ các nước ASEAN của Việt Nam chủ yếu là hàng tư liệu sản xuất. Theo số liệu năm 2000, riêng xăng dầu chiếm tới 55,14%, tiếp đến là hàng máy móc thiết bị phụ tùng chiếm 14,58%, linh kiện điện tử & vi tính chiếm 9,22%, xe máy CKD& IKD chiếm 8,33%... Như vậy, theo danh mục sản phẩm thực hiện cắt giảm thuế quan theo CEPT thì các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam (nông sản, thuỷ hải sản, hàng thủ công và dầu thô) hầu như không được hưởng các ưu đãi theo CEPT hoặc chỉ ở mức cắt giảm rất ít, trong khi đó, nhập khẩu của Việt Nam từ các nước ASEAN chủ yếu là các sản phẩm thuộc danh mục cắt giảm thuế quan. - Đầu tư nước ngoài từ ASEAN: Tổng vốn đầu tư đăng ký tương ứng với số dự án tại thời điểm 1996 là 5,6 tỷ USD - chiếm trên 20,81% tổng số vốn FDI vào Việt Nam và năm 2002 là 9,873 tỷ USD (xem bảng dưới), chiếm trên 21,81% tổng số vốn FDI vào Việt Nam. Qui mô đầu tư bình quân một dự án của ASEAN đầu tư vào Việt Nam là gần 19 triệu USD/dự án, lớn hơn 1,4 lần so với mức bình quân chung 13,5 triệu USD/dự án của các dự án FDI vào Việt Nam. Hầu hết các dự án đầu tư từ ASEAN tập trung vào các ngành công nghiệp chế biến, lắp ráp, khai thác, khách sạn, dịch vụ tài chính và xây dựng cơ sở hạ tầng. Bảng 9: Vốn FDI của các nước ASEAN tại Việt Nam từ 1998 đến 2002 Nước Số dự án Tổng vốn ĐT (triệu USD) Vốn FDI đã TH (triệu USD) % trong tổng vốn FDI đã TH Singapore 263 7.242 2.599 12,7 Thái Lan 110 1.168 539 2,6 Malaysia 117 1.149 1.114 5,6 Philippines 19 184 78 0,4 Indonesia 7 119 108 0,6 Lào 4 11 3 - Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Môi trường kinh doanh trong nước: Theo một cuộc điều tra về cảm nhận môi trường kinh doanh năm 2002 của Báo Diễn đàn Doanh nghiệp (có 124 công ty tham gia, đánh giá theo 17 lĩnh vực,với thang điểm như sau: 4 = rất tốt, 3 = tốt, 2 = khá tốt, 1 = kém), kết quả như sau: về tổng thể môi trường kinh doanh của Việt Nam là khá tốt và có chiều hướng tiến bộ với 2,2 điểm năm 2001 và 2,4 điểm năm 2002. Trong đó Việt Nam đạt từ 2,8 trở lên trong 4 lĩnh vực: ổn định chính trị, vị trí địa lý, lạm phát và quản lý tỷ giá. Bên kia thang điểm là những lĩnh vực còn yếu như bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, hiệu quả của các dịch vụ hành chính, cơ sở hạ tầng, khung pháp lý và pháp luật. Nhìn chung, Việt Nam tham gia AFTA trong bối cảnh khá thuận lợi khi nền kinh tế đang ở trong giai đoạn tăng trưởng nhanh; mặc dù cũng phải gánh chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, nhưng ở mức độ không lớn; khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam khi tham gia AFTA đã được cải thiện đáng kể, tương đương với Indonesia (năm 1998)- một trong những thành viên của ASEAN5. Tất cả những điều đó đã góp phần thúc đẩy Việt Nam nỗ lực hơn trong việc triển khai thực hiện CEPT để hình thành AFTA. II. Thực trạng phát triển của Doanh nghiệp Việt Nam Theo xu hướng đổi mới và mở cửa nền kinh tế nước ta trong hơn một thập kỷ qua, cùng với tình hình cải thiện môi trường kinh doanh ngày càng thuận lợi hơn cho hoạt động của các doanh nghiệp là sự phát triển chung của các doanh nghiệp Việt Nam cả về số lượng và chất lượng hoạt động trong cơ chế thị trường. Bảng 10: Tổng số doanh nghiệp hoạt động sản xuất năm 2001 Toàn quốc Khu vực 100% vốn Nhà nước Khu vực ngoài quốc doanh Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài Tổng số Chia ra Tổng số Chia ra DNNN trung ương DNNN địa phương 100% vốn nước ngoài Liên doanh Số doanh nghiệp 39762 5531 1877 3654 32702 1529 858 671 Nguồn: Điều tra toàn bộ DNVN năm 2001, TCTK Từ bảng số liệu ta thấy, xét về mặt số lượng, DNNQD chiếm tới hơn 82%, kế tiếp là DNNN với gần 14%, cuối cùng là DNFDI với 4%, trong đó loại hình 100% vốn nước ngoài ngày càng gia tăng về số lượng, trở thành loại hình đầu tư ưa chuộng của các nhà đầu tư ngoại quốc. Tuy số lượng DNNN chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ trong toàn bộ các doanh nghiệp, nhưng tỷ trọng của khu vực này trong GDP chung của cả nước vẫn khá lớn, và được duy trì khá ổn định. Bên cạnh đó, tỷ trọng của khu vực DNNQD trong GDP chung lại có xu hướng giảm. Ngược lại, khu vực DNFDI có sự gia tăng nhanh tỷ trọng trong GDP chung của cả nước. Bảng 11: Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế Đơn vị: % Năm Thành phần 1996 1997 1998 1999 2000 2001 -Tổng số 100 100 100 100 100 100 -KV Nhà nước 39,93 40,48 40,00 38,74 38,98 38,63 -KV ngoài QD 52,68 50,45 49,97 49,02 47,77 46,25 -KV có vốn FDI 7,39 9,07 10,03 12,24 13,25 15,12 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nếu xem tỷ trọng chiếm giữ của mỗi khu vực kinh tế trong GDP chung của cả nước như là chỉ tiêu phản ánh tổng quát về kết quả hoạt động của mỗi khu vực doanh nghiệp thì vị trí của các khu vực kinh tế trong những năm vừa qua đang có sự thay đổi khá rõ nét. Trong đó, vị trí của khu vực kinh tế Nhà nước và đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh đều đang có xu hướng thấp dần, trong khi khu vực có vốn FDI lại đang có vị trí tăng dần (từ hơn 7% năm 1996 lên hơn 15% năm 2001). Đối với khu vực ngoài quốc doanh, mặc dù có sự gia tăng khá nhanh về số lượng các doanh nghiệp trong những năm vừa qua, nhưng chính sự manh mún, nhỏ bé và sự thiếu liên kết là những hạn chế làm giảm vị trí của khu vực này trong việc tạo ra gía trị sản phẩm chung trong nền kinh tế nước ta. Cơ cấu tham gia thương mại của Việt Nam cũng thay đổi đáng kể trong vòng 5 năm qua. Quá trình thay đổi này ghi nhận sự phát triển nhanh chóng của khu vực tư nhân và cũng như thay đổi về vai trò chi phối của khu vực quốc doanh trong nền kinh tế. Vào năm 1997, các DNNN chiếm gần hai phần ba giá trị xuất khẩu ( không kể dầu thô), nhưng vào thời điểm cuối quý 1 năm 2002, DNNN chỉ còn chiếm khoảng một phần ba giá trị xuất khẩu. Khu vực ngoài quốc doanh chỉ chiếm 12% giá trị xuất khẩu năm 1997, đã tăng tỷ trọng của mình lên 30% sau 5 năm. Thay đổi trong kinh doanh nhập khẩu còn diễn ra mạnh hơn. Theo số liệu của 3 tháng đầu năm 2002, các DNNQD chiếm gần 24% tổng kim ngạch nhập khẩu so với mức khoảng 5% vào năm 1997. Trong cùng thời gian này, tỷ trọng nhập khẩu của DNNN đã giảm từ 70% xuống còn 43%. Ngoài hai thành phần trên, khu vực các DNFDI cũng tăng đáng kể tỷ trọng nhập khẩu của mình, từ mức một phần tư lên khoảng một phần ba tổng giá trị nhập khẩu của Việt Nam. Bảng 12: Thay đổi về tham gia thương mại Đơn vị tính: % Chỉ tiêu Năm 1997 1998 1999 2000 2001 Q1/02 1. Tỷ trọng trong giá trị xuất khẩu (không kể dầu thô) Tổng số 100 100 100 100 100 100 DNNN 65 62 55 49 44 35 DNNQD 12 12 18 21 25 30 DNFDI 23 24 27 30 31 35 2. Tỷ trọng trong giá trị nhập khẩu Tổng số 100 100 100 100 100 100 DNNN 70 70 56 57 50 43 DNNQD 5 7 14 16 19 24 DNFDI 25 23 29 28 31 33 Nguồn: Báo cáo của VCCI năm 2002 Chúng ta có thể thấy rằng khu vực DNNQD tuy tham gia vào thương mại ngày một nhiều, nhưng mức độ đóng góp vào GDP chung ngày một giảm. Điều này một lần nữa cho thấy DNNQD mang nặng kinh doanh thương nghiệp kiếm lời nhiều hơn là sản xuất ra của cải vật chất. Trên đây là một số nét sơ lược về tình hình phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam trong vài năm gần đây. Tuy nhiên, sự phát triển của mỗi khu vực doanh nghiệp theo thành phần kinh tế khác nhau cũng có những nét khác biệt. 1. Thực trạng phát triển DNNN 1.1. Những thành tựu đã đạt được Sắp xếp và đổi mới quản lý DNNN được xem là khâu đột phá trong chủ trương đổi mới về kinh tế của nước ta từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Trong hơn một thập kỷ qua, việc thực hiện chủ trương sắp xếp lại DNNN đã diễn ra liên tục thông qua hàng loạt các Quyết định, Nghị định của Chính phủ. Đến nay, hệ thống DNNN đã được sắp xếp và củng cố một bước cơ bản, như: Từ năm 1991 đến năm 2001, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện 3 đợt sắp xếp các DNNN và số DNNN đã giảm được 55%, từ 12.300 doanh nghiệp còn 5531 doanh nghiệp. Trong đó, sáp nhập khoảng 3.300 doanh nghiệp và giải thể khoảng hơn 3.400 doanh nghiệp. Số DNNN giải thể hầu hết là các doanh nghiệp do địa phương trực tiếp quản lý và phần lớn là các doanh nghiệp cấp huyện (qui mô quá nhỏ bé, không có khả năng tồn tại trong cơ chế thị trường). Về cơ bản, hiện nay không còn các DNNN cấp huyện mà chỉ còn DNNN do UBND cấp tỉnh và do các Bộ, ngành ở trung ương trực tiếp quản lý. Trong tổng số DNNN hiện nay có 66,06% số DNNN do các địa phương trực tiếp quản lý và xấp xỉ 44% số DNNN do các Bộ, ngành trung ương quản lý. Đồng thời, theo báo cáo của Ban chỉ đạo về cải cách và phát triển do._.ức sở hữu hay thành lập công ty cổ phần hoặc kiên quyết giải thể, tránh gây tổn hại cho nền kinh tế. - Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đầy đủ và có hiệu quả để hỗ trợ giải quyết số lao động dôi dư trong các DNNN. - Tách biệt các DNNN hoạt động kinh doanh và công ích, nhằm thực hiện các chính sách quản lý khác nhau đối với hai loại hình doanh nghiệp này. - Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế đối với DNNN. Cơ quan quản lý nhà nước không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc quản lý điều hành sản xuất kinh doanh là nhiệm vụ của doanh nghiệp. - Tập trung các nguồn lực, đầu tư một cách có hiệu quả vào những ngành (lĩnh vực) trọng điểm, có lợi thế so sánh, ngành kỹ thuật mũi nhọn có lợi thế cho quốc kế dân sinh và có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trong các nguồn lực cần chú trọng nguồn vốn cho các DNNN. - Đẩy nhanh việc thực hiện đề án sắp xếp lại các DNNN cho phù hợp với công cuộc đổi mới nền kinh tế, vận động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện vững chắc việc cổ phần hoá một bộ phận DNNN, đa dạng hoá các hình thức sở hữu và cải tổ, hợp nhất, sáp nhập vào các doanh nghiệp khác, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp và giảm thâm hụt ngân sách Nhà nước. Tập trung vào những lĩnh vực then chốt, đòi hỏi hàm lượng vốn và kỹ thuật - công nghệ cao có tính chất dẫn dắt, mở đường cho nền kinh tế phát triển. Lành mạnh hoá tài chính DNNN, tăng cường công tác kiểm toán. - Nâng cao nhận thức của các DNNN thấy được quá trình hội nhập khu vực và quốc tế là tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế phát triển, là cơ hội lớn tạo điều kiện thuận lợi cho các Tổng công ty và các doanh nghiệp thâm nhập thị trường quốc tế, tiếp cận dần các tập đoàn kinh doanh lớn và từ đó học hỏi, tiếp thu kỹ năng quản lý, tiếp thị, vốn, thị trường, công nghệ nước ngoài. 2.4.2. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - Cải thiện quan niệm chung về khu vực tư nhân bằng các hình thức, như khuyến khích các nhà kinh doanh trẻ tài năng, phản ánh kịp thời các doanh nghiệp tư nhân kinh doanh thành đạt, tăng cường quan hệ giữa các doanh nghiệp tư nhân và các cơ quan quản lý Nhà nước... Chính phủ cũng cần có những giải pháp mạnh để giải quyết tình trạng nhũng nhiễu, gây khó dễ cho doanh nghiệp ở địa phương. - Xây dựng khung pháp lý, cần chú trọng đến: (1) Tiếp tục đánh giá mức độ thuận lợi, khó khăn của Luật Đầu tư trong nước, Luật doanh nghiệp mới đối với các doanh nghiệp để cải thiện và tạo điều kiện thuận lợi hơn; (2) Tạo môi trường thuận lợi đê khu vực doanh nghiệp này có thể phát triển liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài, trước hết là với các nhà đầu tư trong khu vực ASEAN đê được hưởng ưu đãi ngay theo Hiệp định về hợp tác đầu tư; (3) Mở rộng phạm vi tham gia, nhưng ở mức độ hạn chế của khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh vào các lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng. - Xây dựng cơ chế cho giao dịch tư nhân về quyền sử dụng đất để làm tài sản thế chấp khi tiếp cận với vốn và tín dụng. Ngoài ra, Nhà nước cũng cho phép doanh nghiệp được thế chấp bằng chính công trình, tín chấp cho các phương án sản xuất và đầu tư mở rộng có tiềm năng. - Hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp qua hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần; hỗ trợ đào tạo kiến thức tài chính cho doanh nghiệp. - Giải quyết vấn đề thiếu thông tin về những nguồn vốn tín dụng cho doanh nghiệp cũng như hỗ trợ kỹ thuật cho ngân hàng để nâng cao chất lượng dịch vụ cho khách hàng doanh nghiệp. - Nhà nước cần tạo điều kiện hỗ trợ mặt bằng sản xuất kinh doanh cho các DNNQD như: đơn giản hoá thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất, giúp đỡ thành lập các khu công nghiệp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các cụm công nghiệp làng nghề… - Nhà nước nên cho phép các DNNQD được sản xuất kinh doanh những ngành nghề mà luật pháp không cấm, thể hiện đúng tinh thần của Luật Doanh nghiệp. Tiến hành đơn giản hoá thủ tục hướng dẫn cách xác nhận vốn pháp định và hướng dẫn cấp chứng chỉ hành nghề. - Rà soát và điều chỉnh một số chính sách thuế áp dụng cho khu vực tư nhân còn chưa hợp lý, như giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp đạt mức xuất khẩu cao nhằm khuyến khích khu vực này đẩy mạnh xuất khẩu. - Giảm bớt thủ tục phiền hà, tốn kém để các DNNQD có thể tiếp cận được với những chính sách ưu đãi của Nhà nước ban hành. 2.4.3. Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - Nhà nước cần tập trung tháo gỡ các vướng mắc cho các dự án đang triển khai và các dự án đang tạm dừng triển khai. - Cần thống nhất quan điểm xử lý đối với trường hợp các dự án mở rộng đầu tư, sáp nhập, chuyển đổi hình thức đầu tư… - Cần có định hướng thu hút vốn FDI đi đôi với thu hút công nghệ để chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng tiến bộ hơn. Trước mắt cần tạo ra động lực thực sự để công nghiệp hoá nông thôn, để từ đó tạo ra nguyên liệu tại chỗ cho những mặt hàng xuất khẩu phải sử dụng nhiều nguyên liệu nhập khẩu (dệt may, da giày…). Đây là một quá trình đòi hỏi không chỉ vốn, kỹ thuật mà cả thời gian. - Sớm có chính sách kết hợp việc lợi dụng lợi thế so sánh của Việt Nam như lao động rẻ, thông minh, tài nguyên dồi dào…và việc tạo dựng môi trường kinh doanh cởi mở để thu hút dòng vốn FDI đang ngày càng sa sút ở nước ta. Đặc biệt là phải đơn giản hoá hơn nữa thủ tục cấp giấy phép đầu tư, tăng cường chính sách một cửa, một dấu. Đẩy nhanh việc xoá bỏ cơ chế hai giá trong quảng cáo, điện và vé máy bay. Bên cạnh đó là một chính sách thuế xuất nhập khẩu minh bạch và ổn định. - Nghiên cứu và đưa vào áp dụng thêm nhiều hình thức đầu tư mới linh hoạt hơn để tăng cường thu hút vốn nước ngoài như: cho phép các nhà đầu tư nước ngoài thành lập công ty cổ phần, được phép mua cổ phần với tỷ lệ nhất định (khoảng 40%) của các công ty trong nước niêm yết trên thị trường chứng khoán, tiến hành niêm yết các công ty có vốn nước ngoài trên thị trường chứng khoán để thu hút thêm vốn. - Khuyến khích các nhà đầu tư liên doanh với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ trong nước bằng các chính sách cụ thể. Điều này vừa tạo ra mô hình đầu tư mới vừa tạo ra khả năng tự chống đỡ cho các doanh nghiệp trong nước cải thiện được hiệu quả kinh doanh với chi phí thấp nhất. - Hiện nay, việc khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài chỉ dừng ở mức góp vốn trên 5 triệu USD vào vốn pháp định trong liên doanh, đây là mức đầu tư ở quy mô lớn. Nhà nước nên có chính sách khuyến khích tương tự với các nhà đầu tư ở quy mô nhỏ hơn vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam vốn kinh doanh có hiệu quả cao, có tỷ lệ xuất khẩu lớn và chiếm phần lớn trong tổng số các doanh nghiệp trong nước. - Nhà nước cần thành lập mô hình khu chế xuất nông sản và có những khuyến khích mạnh hơn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư cao các khu chế biến nông sản xuất khẩu như các khu chế xuất rau quả, khu chế xuất cà phê, khu chế xuất nông sản tổng hợp. 3. Các giải pháp từ phía doanh nghiệp 3.1. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Một doanh nghiệp muốn đạt được hiệu quả hoạt động không chỉ dựa vào ưu thế về công nghệ mà phải dựa vào ưu thế tổng hợp hơn. Bởi vì, thiết bị hiện đại có hiệu quả chủ yếu trên góc độ kỹ thuật, nhưng để có hiệu quả hơn trên góc độ kinh tế thì cần phải có kỹ năng trong việc tìm kiếm phương thức quản lý hoạt động mới và tốt hơn. Xuất phát từ thực trạng hoạt động của DNVN hiện nay, để đạt được ưu thế tổng hợp, các doanh nghiệp cần phải chú trọng đến các khía cạnh sau: - Khai thác có hiệu quả hơn các lợi thế so sánh quốc gia trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm tạo ra các sản phẩm thoả mãn tốt nhu cầu trong nước và quốc tế cả về chất lượng và giá cả. - Chú trọng đến khâu nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, hiện đại hoá khâu thiết kế sản phẩm, gia tăng giá trị sử dụng của sản phẩm dựa vào đổi mới thiết kế chứ không phụ thuộc vào công nghệ sản xuất, đặc biệt đối với các lĩnh vực sản xuất như dệt may, giầy dép, đồ chơi điện tử... - Tìm kiếm các nguồn nhập khẩu các yếu tố đầu vào trung gian để sản xuất sản phẩm có chi phí thấp nhất hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm. - Nghiên cứu và triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng hiện đại trong hoạt động của doanh nghiệp. - Thông qua các cơ quan Chính phủ và các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp để tìm kiếm thông tin hoặc liên kết thực hiện những nghiên cứu về thị trường, tiếp thị và phân phối sản phẩm. - Chú trọng đến việc nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống phân phối, kể cả dịch vụ phục vụ trước, trong và sau khi bán hàng phù hợp với đặc điểm văn hoá, tiêu dùng ở những thị trường tiêu thụ khác nhau. - Chú trọng đến những sáng kiến cải tiến của người lao động ở các khâu khác nhau trong hoạt động của doanh nghiệp. - Lựa chọn các khâu quan trọng trong dây truyền sản xuất có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng và giá thành sản phẩm để hiện đại hoá sớm. - Xây dựng năng lực nắm bắt và phản ứng nhanh của doanh nghiệp trước những thay đổi của đối thủ cạnh tranh trên thị trường. 3.2. Tập trung xây dựng chiến lược doanh nghiệp để phát triển hữu hiệu nhất trong dài hạn Việc xây dựng chiến lược doanh nghiệp sẽ tuỳ thuộc vào từng doanh nghiệp cụ thể. Do đó, trong phần này không thể đưa ra những giải pháp cụ thể mà chỉ là những vấn đề chung nhất đối với hoàn cảnh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Khi xây dựng chiến lược, doanh nghiệp cần chú trọng các vấn đề sau: Một là, lựa chọn hướng để xây dựng chiến lược + Hướng chiến lược doanh nghiệp nhằm tạo ra ưu thế về chi phí và giá trị cho khách hàng. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam hoạt động dựa trên cơ sở mức lương thấp, nhưng sử dụng các phương pháp không hiệu quả. Các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu thường lệ thuộc nhiều vào đối tác nước ngoài về mẫu mã thiết kế, linh kiện, qui trình công nghệ, các kênh phân phối và tiếp thị. Đó không phải là hướng chiến lược phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hướng đến mục tiêu lợi nhuận. Vì các doanh nghiệp dường như vẫn chỉ quen với chức năng sản xuất và chưa chú trọng đến khách hàng và tạo ra chất lượng để đạt được ưu thế về giá trị cho khách hàng. Điều quan trọng của hướng chiến lược này là doanh nghiệp phải đặt ra mục tiêu cạnh tranh bằng việc chuyển hoá lợi thế về giá lao động rẻ hay tài nguyên dồi dào để cung cấp những sản phẩm có ưu thế về chi phí và giá trị cho khách hàng. + Hướng chiến lược nhằm tạo ra ưu thế về giá trị sử dụng của sản phẩm. Trên thực tế, hầu hết các DNVN còn rất non kém trong khâu nghiên cứu, thiết kế sản phẩm mới và đổi mới công nghệ nhằm tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao hay có sự khác biệt với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Do đó, điều quan trọng của hướng chiến lược này là doanh nghiệp phải cố gắng để đầu tư cải tiến kỹ thuật, công nghệ và nâng cao năng lực nghiên cứu thiết kế sản phẩm mới. + Hướng chiến lược nhằm tạo ra ưu thế về tiếp thị và tổ chức tiêu thụ. Nếu không kiểm soát được các kênh phân phối và tiếp cận trực tiếp với khách hàng, các doanh nghiệp sẽ khó nắm bắt được các xu hướng thị trường và giành được lợi nhuận tốt nhất khi phải thông qua các trung gian buôn bán. Vì vậy, điều quan trọng của chiến lược này là các DNVN, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất khẩu là làm thế nào để tạo dựng được thương hiệu của riêng mình. Hai là, quyết định để lựa chọn hướng chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, công việc này không hẳn là phải theo nhận định chủ quan của doanh nghiệp mà phải dựa trên cơ sở đánh giá các khả năng bên trong và bên ngoài, doanh nghiệp cần chú trọng đến các vấn đề, như: + Phân tích lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong tương quan với các doanh nghiệp cùng ngành, đối tác cạnh tranh. + Nghiên cứu, dự báo tình hình và sự cạnh tranh trên thị trường trong nước, khu vực và thế giới trong bối cảnh Việt Nam hội nhập vào các tổ chức quốc tế và khu vực như AFTA, APEC, WTO. 3.3. Đổi mới và hiện đại hoá công nghệ với chi phí thấp Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay có trình độ công nghệ lạc hậu khoảng từ 15-20 năm so với mức trung bình của thế giới. Giải pháp ở đây là các doanh nghiệp phải nỗ lực của mình để hiện đại hoá với chi phí thấp nhất, theo các hướng: - Nhập các thiết bị nước ngoài, học tập nguyên tác thiết kế, tự thiết kế lại, cải tiến cho phù hợp với điều kiện sản xuất và chế tạo tại Việt Nam. Những chi tiết Việt Nam chưa đủ sức chế tạo thì nhập khẩu của nước ngoài. - Mua thiết bị có công nghệ tương đối hiện đại, nhưng mức tự động hoá còn thấp, sau đó tự nâng cấp trình độ tự động hoá bằng thiết kế của người Việt Nam, sử dụng linh kiện cả ở trong và ngoài nước sản xuất. - Đối với các công nghệ hoặc thiết bị khó nhập khẩu hoặc nhập khẩu quá đắt, các doanh nghiệp cần hợp tác với các cơ quan nghiên cứu khoa học, kỹ thuật của Nhà nước cùng đầu tư nghiên cứu để thiết kế và chế tạo. - Các doanh nghiệp cần khai thác các thông tin qua mạng để tham khảo các hướng công nghệ mới và tìm kiếm sự trợ giúp kỹ thuật từ bên ngoài doanh nghiệp. - Đầu tư nghiên cứu, đổi mới công nghệ và thiết bị theo hướng tập trung ở một vài khâu then chốt có ảnh hưởng quyết định nhất. - Tận dụng khả năng đóng góp của các chuyên gia kỹ thuật, công nghệ người Việt Nam ở nước ngoài. - Doanh nghiệp cần có định hướng bồi dưỡng, đào tạo tài năng trẻ và gửi đi đào tạo ở các nước phát triển bằng nguồn tài chính của doanh nghiệp. - Dựa vào sự hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước, các trường đại học, viện nghiên cứu để hiện đại hoá công nghệ của mình. - Tìm kiếm cơ hội liên doanh với các công ty nước ngoài có khả năng công nghệ hiện đại. - Doanh nghiệp cần coi việc hiện đại hoá là một quá trình tích tụ phát triển từ thấp đến cao, trong đó xác định mức công nghệ mà doanh nghiệp cần có để tạo ra được các sản phẩm có ưu thế cạnh tranh tổng hợp. Từ đó, lựa chon công nghệ để hiện đại hoá dần dần từng bước. 3.4. Nâng cao chất lượng lao động và quản lý lao động trong doanh nghiệp Cho đến nay, lao động có trình độ giáo dục cao và giá rẻ vẫn được xem là lợi thế so sánh lớn của Việt Nam so với nhiều nước đang phát triển khác trên thế giới nói chung và so với một số nước trong khu vực ASEAN nói riêng. Tuy nhiên, để khai thác được lợi thế này, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải có các chính sách thực tế hơn trong việc quản lý lực lượng lao động của mình, như: - Tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp bằng các chính sách như: sẵn sàng đầu tư cho các hoạt động đào tạo đội ngũ lao động của doanh nghiệp; đảm bảo công ăn việc làm ổn định, lâu dài cho người lao động kể cả khi có những biến động làm giảm nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp; xây dựng chế độ tiền lương và thưởng theo hướng khuyến khích người lao động có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp. - Đa dạng hoá các kỹ năng cho người lao động và đảm bảo khả năng thích ứng của người lao động với các khâu hoạt động của doanh nghiệp khi cần có sự điều chỉnh lao động trong nội bộ doanh nghiệp. Biện pháp này sẽ giúp các doanh nghiệp có thể dễ điều chỉnh lao động khi có những biến động làm ảnh hưởng đến cơ cấu lao động của doanh nghiệp, giảm được chi phí phát sinh do tuyển dụng hay thuyên chuyển lao động từ ngoài doanh nghiệp, nâng cao được tinh thần tập thể của người lao động nhờ sự hiểu biết đó của họ. - Nghiên cứu áp dụng chế độ đề bạt và nâng lương cho người lao động có tác dụng khuyến khích họ đóng góp nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển của doanh nghiệp. - Tổ chức tốt các hoạt động đào tạo lao động tại chỗ, qua đó nâng cao khả năng thích ứng của lao động với tính chuyên biệt về công nghệ của doanh nghiệp, đồng thời giảm được khâu tuyển dụng và thử tay nghề của lao động từ nơi khác đến. - Nâng cao vai trò của tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp trong việc tìm hiểu, đáp ứng nguyện vọng của người lao động, cũng như phát huy được khả năng sáng tạo của người lao động. 3.5. Một số giải pháp cho từng loại hình doanh nghiệp Xuất phát từ đặc điểm và tình hình phát triển của từng loại hình, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp riêng cho từng loại hình doanh nghiệp. 3.5.1. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước - Chú trọng xây dựng, đào tạo, bố trí nguồn nhân lực giỏi về sản xuất kinh doanh, vững vàng bản lĩnh chính trị. Cần có chương trình đào tạo tổng thể xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lý giỏi, năng động, công nhân tay nghề cao đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Đồng thời cần có chính sách đãi ngộ phù hợp và thích đáng với chất lượng, trình độ lãnh đạo của cán bộ, công nhân viên có thành tích và có chính sách ràng buộc chặt chẽ giữa lợi ích và trách nhiệm tạo lực đẩy thôi thúc họ phấn đấu đi lên. Xử lý kịp thời nghiêm minh với những cán bộ quản lý làm thất thoát tài sản của doanh nghiệp. - Nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, không chỉ đơn thuần về mặt kinh tế, mà trên tất cả các khía cạn khác như: khả năng tiếp cận thị trường, khả năng hoạt động kinh doanh quốc tế, khả năng tiếp thị, quản lý, tìm kiếm bạn hàng, các chính sách đào tạo, nghiên cứu mở rộng thị trường. - Đẩy mạnh quan hệ cạnh tranh và hợp tác, các DNNN cần nâng cao sức cạnh tranh của mình bằng cách tăng lợi nhuận và giảm giá thành sản phẩm, muốn vậy các Tổng công ty và các doanh nghiệp cần xây dựng cho mình chiến lược cạnh tranh thích hợp với môi trường kinh doanh quốc tế, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của mình. Chú trọng đến vấn đề tạo dựng một thương hiệu uy tín cho riêng mình, coi đó là một vũ khí để cạnh tranh. - Chú trọng đầu tư một cách thoả đáng, có hiệu quả cho công tác nghiên cứu và phát triển. Có tầm nhìn chiến lược lâu dài, nhận thức "đi tắt" và "đón đầu" trước xu thế phát triển của thời đại, đáp ứng được sự thay đổi của thị trường khu vực và thế giới. 3.5.2. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - Các doanh nghiệp phải xây dựng chiến lược phát triển dài hạn của mình, dựa trên tôn chỉ, mục đích của doanh nghiệp, khả năng phát triển của doanh nghiệp, khả năng của thị trường, các chính sách pháp luật…Chỉ có chiến lược phát triển bền vững, các doanh nghiệp mới có thể trụ vững trong cuộc cạnh tranh. - Các doanh nghiệp cần tiến hành tuyển các giám đốc được đào tạo bài bản, có trình độ chuyên môn vững chắc. Một người giám đốc cần có: tố chất kinh doanh và năng lực quản lý. Các giám đốc của các doanh nghiệp này cần phải tự đào tạo thường xuyên để có những kiến thức kinh doanh, pháp luật cập nhật nhất. - Các doanh nghiệp cần bồi dưỡng khả năng kinh doanh quốc tế của các cán bộ quản lý, nâng cao khả năng làm việc và giao dịch quốc tế, tăng cường hiểu biết các tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế. - Các doanh nghiệp cần nhận thức vai trò to lớn của các hiệp hội chuyên ngành, các câu lạc bộ… trong việc giao lưu, xúc tiến thương mại, trao đổi thông tin và hỗ trợ phát triển chuyên môn. Ngoài ra, tham gia các hiệp hội cũng đảm bảo cho các doanh nghiệp có tiếng nói có trọng lượng khi tham gia đàm phán hay tố tụng. 3.5.3. Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - Các doanh nghiệp FDI cần tích cực tìm kiếm nguồn nguyên vật liệu trong nước để hạ giá thành sản phẩm bằng cách tìm kiếm các đối tác trong nước thích hợp rồi chuyển giao công nghệ cho họ để trở thành nhà cung cấp nguyên vật liệu với giá rẻ, chất lượng tốt. Đối với các doanh nghiệp lắp ráp thì nên chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp trong nước để sản xuất cung cấp phụ tùng, thay thế phần nào hàng nhập khẩu. - Các doanh nghiệp FDI, đặc biệt là các doanh nghiệp có cơ cấu hàng xuất khẩu cao nên chú trọng đến việc đưa công nghệ hiện đại vào Việt Nam bởi xét về lâu dài, sản phẩm của họ sản xuất ra sẽ có chất lượng cao hơn, năng suất hơn và cũng được hưởng nhiều ưu đãi từ phía Chính phủ hơn. Kết luận Trong thập kỷ 90, xu hướng tự do hoá thương mại và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ. Các nền kinh tế quốc gia và khu vực trên thế giới đã và đang ngày càng tích cực tham gia vào xu thế này. Trong bối cảnh đó, đối với nền kinh tế nước ta, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế". Trên cơ sở đó, đề tài này được nghiên cứu với hy vọng góp phần nhỏ bé nhằm thúc đẩy quá trình phát triển của các DNVN trong tiến trình hội nhập AFTA. Trong đó, một số vấn đề cần lưu tâm là: - Cùng với những thành tựu phát triển kinh tế, thương mại đạt được trong thập kỷ vừa qua, các DNVN cũng được phát triển mạnh mẽ hơn cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, trong giai đoạn vừa qua, sức phát triển của mỗi khu vực doanh nghiệp theo thành phần kinh tế khác nhau đạt được cũng khác nhau. Điều đó không chỉ phản ánh khả năng thực tế và triển vọng phát triển khác nhau của mỗi khu vực doanh nghiệp trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, mà còn phán ánh những vấn đề tồn tại trong quá trình phát triển của mỗi khu vực doanh nghiệp này, nhất là về qui mô phát triển của khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh và về vấn đề cải cách khu vực DNNN. - Sự phát triển của các DNVN trong giai đoạn vừa qua đã được hỗ trợ thông qua việc cải thiện môi trường kinh doanh trên cơ sở đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước từ đầu những năm 90 theo hướng mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, mức độ cải thiện chung về môi trường kinh doanh đối với các DNVN hiện nay vẫn chưa thực sự thuận lợi cho sự phát triển của các khu vực doanh nghiệp và cần được tiếp tục cải thiện trên các phương diện như chính sách tín dụng, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu công nghiệp, cải cách hành chính... - Tiến trình thực hiện cắt giảm thuế quan theo CEPT trong những năm vừa qua, đối với các DNVN, chưa gây nên những tác động lớn do: (1) Mức độ thực hiện cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ các hàng rào phi thuế còn thấp; (2) Các mặt hàng XK của Việt Nam sang các nước ASEAN chủ yếu là hàng nông sản nguyên liệu mà các nước thành viên khác đưa vào nhóm SL hay TEL; (3) Các mặt hàng NK của Việt Nam từ các nước ASEAN chủ yếu là vật tư, nguyên liệu, linh kiện cho sản xuất trong nước được hưởng mức thuế NK thấp; (4) Tăng trưởng thương mại của Việt Nam với các nước ASEAN chậm hơn so với ngoài khu vực. Điều đó đang đặt các DNVN vào tình thế khó khăn hơn khi mà trong những năm tới mức độ cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ các hàng rào phi thuế của Việt Nam được thực hiện ở mức độ cao hơn theo lộ trình đã cam kết. Trong đó, thách thức lớn nhất đặt ra là khả năng cạnh tranh yếu của các DNVN, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp đang sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường trong nước trước các đối thủ là doanh nghiệp của các nước ASEAN-6. - Trong lộ trình thực hiện CEPT, khả năng đẩy nhanh tiến trình thực hiện CEPT của Việt Nam trong những năm tới không nhiều do những vấn đề cần giải quyết ở phạm vi của nền kinh tế và phạm vi khu vực doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế là khá lớn. Để nâng cao hiệu quả tham gia vào AFTA đối với các DNVN, Nhà nước cần tập trung giải quyết các vấn đề cơ bản: i) Thực hiện CEPT trên cơ sở xử lý nhanh những vấn đề của nền kinh tế chuyển đổi; ii) Tạo điều kiện hỗ trợ và nâng cao lợi thế so sánh quốc gia; iii) Hỗ trợ cho các doanh nghiệp tăng cường khả năng khai thác các nguồn lực bên ngoài để phát triển; iv) Thực hiện tiến trình AFTA kết hợp với đẩy nhanh tự do hoá thương mại ở phạm vi rộng lớn hơn. Đồng thời, các DNVN cũng phải tập trung giải quyết những vấn đề như: nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp; nâng cao chất lượng xây dựng chiến lược doanh nghiệp; đổi mới và hiện đại hoá công nghệ với chi phí thấp; nâng cao chất lượng lao động và quản lý lao động. Tài liệu tham khảo 1. Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế, ĐH Kinh tế quốc dân: Giáo trình Kinh tế quốc tế, NXB Lao động- xã hội, 2002 2. Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế, ĐH Kinh tế quốc dân: Chính sách kinh tế đối ngoại, lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế, NXB Thống kê, 1998 3. Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế, ĐH Kinh tế quốc dân: Giáo trình Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn FDI, tập 1, NXB Thống kê, 2002 4. Bộ Ngoại giao, Vụ ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN), NXB Chính trị Quốc gia, 1998 5. Bộ Thương Mại, Viện Nghiên cứu thương mại: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế. Báo cáo tổng hợp, 2002 6. Bộ Thương mại, Viện Nghiên cứu thương mại: Doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình thực hiện AFTA và khả năng đẩy nhanh thực hiện các cam kết. Đề tài NCKH, 2002 7. Ban Vật giá Chính phủ: Những giải pháp phát huy có hiệu quả lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong tiến trình hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới. Đề tài NCKH, 2000 8. Tổng cục Thống Kê: Điều tra toàn bộ doanh nghiệp Việt Nam năm 2001, NXB Thống Kê, 2002 9. TS . Đinh Văn Phượng, Hoàng Bích Loan: Thực trạng về sức cạnh tranh của doanh nghiệp (chủ yếu DNNN) - Những vấn đề đặt ra. Kỷ yếu khoa học, Học viện chính trị quốc gia HCM, 2001 10. TS . Trần Đình Thiên: Lộ trình AFTA và những vấn đề đặt ra. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 269, 10/2000 11. Th.s. Nguyễn Như Hà: Thương mại Việt Nam trong lộ trình AFTA. Tạp chí Kinh tế châu á- TBD, số 3(32), 6/2001 12. Th.s. Nguyễn Như Hà: Cạnh tranh của Việt Nam trong quá trình hội nhập AFTA. Tạp chí Kinh tế châu á - TBD, số 3 (38), 6/2002 13. TS . Hoa Hữu Lân: Bài toán đặt ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam tham gia AFTA. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, 1/2001 14. Đoàn Nhật Dũng: Nâng cao khả năng cạnh tranh - vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp Việt Nam tham gia AFTA. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 281, 10/2001 15. TS . Lê Khoa: Nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Tạp chí Phát triển kinh tế, số 138, 4/2002 16. TS . Đan Đức Hiệp: Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Tạp chí Kinh tế và phát triển, 7/2002 17. Nguyễn Thị Hoài Lê: Để doanh nghiệp Việt Nam tăng khả năng cạnh tranh và hội nhập thành công. Tạp chí Tài chính, 7/2001 18. Phan Văn Hiến: ảnh hưởng của quá trình hội nhập kinh tế đối với các hoạt động FDI. Tạp chí Tài chính, 4/2001 19. Tấn Đức: Kinh tế tư nhân - Còn nhiều cản trở. Tạp chí Thời báo Kinh tế Sài Gòn, ngày 31/1/2002 20. Kim Luân: Thu hút vốn nước ngoài giảm mạnh. Tạp chí Thời báo Kinh tế Sài Gòn, ngày 4/7/2002 21. Nguyễn Thường Lạng: Cần có thêm các tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư nước ngoài. Tạp chí Thời báo Kinh tế Sài Gòn, ngày 17/1/2002 22. Luật gia Nguyễn Ngọc Minh: Hỏi đáp về Luật DNNN, Hỏi đáp về Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty, Hỏi đáp về Luật Doanh nghiệp, NXB Tổng hợp Đồng Nai 23. Diễn đàn doanh nghiệp (VCCI): Nhóm tư vấn các nhà tài trợ năm 2002. Báo cáo tổng hợp, ngày 9/12/2002 24.VCCI: Điểm lại - Báo cáo cập nhật về cải cách kinh tế của Việt Nam: Những tiến bộ đã đạt được và hỗ trợ của nhà tài trợ. Báo cáo tổng hợp, 2002 25. World Bank: The Free Trade Area - In case of ASEAN. Sách tham khảo, 11/2001 26. Một số bài tham khảo được rút ra từ các báo: Đầu tư, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Thương mại, Thời báo Kinh tế Việt Nam, Lao động,… Mục lục Danh mục từ viết tắt Tiếng Anh: ASEAN: (Association of South East Asian Nations) - Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á FTA: (Free Trade Area) - Khu vực mậu dịch tự do AFTA: (the ASEAN Free Trade Area) - Khu vực mậu dịch tự do ASEAN CEPT: (the Common Effective Preferential Tariff) - Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung IL: (the Inclusion List) - Danh mục cắt giảm thuế quan ngay TEL: (the Temporary Exclusion List) - Danh mục loại trừ tạm thời SEL: (the Sensitive List) - Danh mục nhạy cảm GEL: (the General Exceptions List) - Danh mục loại trừ hoàn toàn AIA: (the ASEAN Investment Area) - Khu vực đầu tư ASEAN AICO: (the ASEAN Industrial Cooperation) - Hợp tác công nghiệp ASEAN WTO: (World Trade Organization) - Tổ chức thương mại thế giới APEC: (Asian Pacific Economic Cooperation) - Diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương Tiếng Việt: DNNN - Doanh nghiệp Nhà nước DNNQD - Doanh nghiệp ngoài quốc doanh DNFDI - Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài DNVN - Doanh nghiệp Việt Nam XNK - Xuất nhập khẩu Danh mục bảng biểu Hình 1: Phân loại doanh nghiệp Việt Nam theo hình thức sở hữu 1 Hình 2: Phân loại DNNN theo cấp quản lý 4 Hình 3: Phân loại DNNQD theo loại hình pháp lý 6 Hình 4: Phân loại DNFDI theo tỷ trọng vốn góp của Bên nước ngoài vào vốn pháp định 8 Bảng 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN 17 Bảng 2: Xếp hạng chỉ số phát triển các nước ASEAN và Trung Quốc 17 Bảng 3: Tác động của tự do hoá thương mại đối với các nền kinh tế ASEAN19 Bảng 4: Tác động chung đối với nền kinh tế Việt Nam 20 Bảng 5: Tác động của tự do hoá thương mại tới các ngành sản xuất của Việt Nam 21 Bảng 6: Số lượng sản phẩm cắt giảm thuế quan vào năm 2002 và những ngành công nghiệp có khả năng cạnh tranh nhất của các nước thành viên ASEAN 23 Bảng 7: Lịch trình giảm thuế của Việt Nam và đề xuất của ASEAN 26 Bảng 8: Quan hệ ngoại thương Việt Nam - ASEAN 29 Bảng 9: Vốn FDI của các nước ASEAN tại Việt Nam từ 1998 đến 2002 30 Bảng 10: Tổng số doanh nghiệp hoạt động sản xuất năm 2001 31 Bảng 11: Cơ cấu GDP theo thành phần kinh tế 32 Bảng 12: Thay đổi về tham gia thương mại 33 Biểu đồ 1: Cơ cấu DNNN được cổ phần hoá theo qui mô vốn 35 Bảng 13: Cơ cấu số doanh nghiệp theo qui mô vốn thời điểm 31/12/2000 35 Bảng 14: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện của các doanh nghiệp năm 2001 37 Bảng 15: Số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lãi, lỗ năm 2001 38 Biểu đồ 2: Cơ cấu nguồn vốn của các DNNN năm 2001 39 Biểu đồ 3: Số lượng DNNQD đăng ký mới giai đoạn 1991 - 2001 43 Bảng 16: Tỷ lệ tăng trưởng tổng sản lượng công nghiệp giai đoạn 1998-2002 42 Bảng 17: Cơ cấu các doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo lĩnh vực hoạt động44 Biểu đồ 4: Vốn đăng ký bình quân DNNQD hàng năm giai đoạn 1991 - 2001 45 Biểu đồ 5: Các DNNQD mới đăng ký theo vùng 46 Biểu đồ 6: Lượng vốn FDI từ năm 1991 - 2002 50 Bảng 18: So sánh chi phí liên quan đến đầu tư ở một số thành phố của châu á tháng 7/2002 59 Bảng 19: Hệ số lợi thế so sánh giữa các nước ASEAN 60 Bảng 20: Giá một số sản phẩm công nghiệp sản xuất trong nước so với giá nhập khẩu 59 Bảng 21: So sánh giá FOB gạo cùng phẩm cấp giữa Việt Nam và Thái Lan 61 Bảng 22: Kỳ vọng khả năng cạnh tranh của Việt Nam trong khu vực 66 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQT1000.doc
Tài liệu liên quan