Doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình hiện nay

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, kinh tế tư nhân, trong đó bộ phận quan trọng là doanh nghiệp tư nhân đã phát triển nhanh chóng và rộng khắp trong cả nước. Nhất là từ khi thực hiện Luật doanh nghiệp (năm 1999) đến nay, số lượng doanh nghiệp tư nhân đã tăng rất nhanh. Doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp phần quan trọng trong việc huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải

doc107 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1506 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách cho nhà nước… Tuy vậy, doanh nghiệp tư nhân hiện nay còn gặp nhiều hạn chế, yếu kém. Phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ tay nghề của lao động thấp, sức cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân yếu. Nhiều doanh nghiệp tư nhân gặp khó khăn về cơ chế chính sách, trong việc vay vốn, mở rộng mặt bằng sản xuất… Do đó, cần phải tạo điều kiện và giúp đỡ doanh nghiệp tư nhân phát triển. Thái Bình là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, do đó, có nhiều thuận lợi để doanh nghiệp tư nhân phát triển. Thời gian qua, doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình đã thể hiện được vai trò to lớn của nó trong việc thúc đẩy kinh tế - xã hội của địa phương: Doanh nghiệp tư nhân Thái Bình đã huy động được mọi nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh; tạo thêm việc làm; cải thiện đời sống nhân dân, đóng góp phần quan trọng cho nguồn thu nội địa của tỉnh; tạo được sự liên kết kinh tế giữa Thái Bình và các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc; thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển… Nhưng so với yêu cầu đặt ra, doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình còn gặp những hạn chế nhất định. Điều đó thể hiện trên những khía cạnh như: quy mô sản xuất của doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình còn nhỏ; công nghệ sản xuất lạc hậu, mặt bằng sản xuất chật hẹp, vốn ít; trình độ quản lý doanh nghiệp còn yếu kém, trình độ tay nghề của người lao động còn thấp; nhiều doanh nghiệp tư nhân hoạt động còn vi phạm luật pháp của nhà nước; gây ô nhiễm môi trường sinh thái… Do đó, cần phải có những giải pháp đồng bộ để khuyến khích doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình phát triển đúng hướng và thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển. Vì vậy, đề tài: "Doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình hiện nay" được lựa chọn làm luận văn cao học là nhằm góp phần đáp ứng những yêu cầu đó. 2. Tình hình nghiên cứu Cho đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về kinh tế tư nhân và doanh nghiệp tư nhân. Đáng kể nhất trong số đó là: "Con đường nào cho kinh tế tư nhân Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế?" của TS. Vũ Thị Bạch Tuyết (Tạp chí Tài chính, số tháng 4-2003). Trong công trình này, tác giả đã đánh giá thực trạng kinh tế tư nhân trong thời gian qua. Từ đó công trình nêu lên một số đề xuất nhằm tháo gỡ những vướng mắc hiện nay cho khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm những đề xuất về đổi mới cơ chế chính sách, đổi mới từ phía các cơ quan quản lý của nhà nước và đổi mới từ phía khu vực kinh tế tư nhân. "Doanh nghiệp tư nhân và khả năng giải quyết việc làm qua một cuộc điều tra" của Đào Quang Vinh (Tạp chí Lao động và xã hội, số 190, năm 2002). Trong công trình này, tác giả đã đánh giá tổng quan về khả năng giải quyết việc làm của các doanh nghiệp tư nhân. Theo tác giả thì hiện có 90% số lao động đang làm việc tại khu vực kinh tế tư nhân, 57% số lao động được ký hợp đồng dài hạn. Tác giả cũng đã có những nghiên cứu về chủ doanh nghiệp tư nhân; về đặc điểm lao động - việc làm trong doanh nghiệp tư nhân; về tiền công và xu hướng tăng lao động trong doanh nghiệp tư nhân. "Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Quảng Bình: Thực trạng và một số đề xuất về công tác quản lý" của Đoàn Xuân Triếm (Tạp chí Tài chính, tháng 6/2002). Theo đánh giá của tác giả thì doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Quảng Bình đã có bước phát triển nhanh chóng, đóng góp cho ngân sách nhiều hơn, làm ăn có hiệu quả hơn, tham gia tốt vào 4 chương trình kinh tế trọng điểm của tỉnh. Tuy vậy, theo tác giả việc khuyến khích doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn có những tồn tại, vướng mắc cần được quan tâm giải quyết như: Công tác cấp và đăng ký kinh doanh phân bổ chưa cân đối; công tác tài chính kế toán ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn nhiều bất cập; tình trạng trốn thuế còn nhiều, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động chưa được quan tâm đúng mức. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp để tăng cường công tác quản lý doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Quảng Bình có hiệu quả hơn. "Giải pháp nào để huy động có hiệu quả vốn của các doanh nghiệp tư nhân và dân cư" của thạc sĩ Trần Đức Lộc (Tạp chí Tài chính, tháng 2/2004). Trong bài viết của mình, tác giả đã đánh giá những chính sách của Đảng và Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển như: Chính sách thuế, chính sách tài chính đối với kinh tế trang trại, các doanh nghiệp vừa và nhỏ; chính sách về đất đai,… Tác giả cũng đã nêu lên những hạn chế về huy động vốn của các doanh nghiệp tư nhân và dân cư, từ đó nêu lên một số giải pháp khắc phục như: xóa bỏ phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp về quyền và nghĩa vụ về tài chính; thực hiện khuyến khích đầu tư qua ưu đãi về thuế, tạo dựng môi trường tài chính bình đẳng, ổn định… đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, xóa bỏ các thủ tục, các khoản phí bất hợp lý… "Giải thể, phá sản và tạm ngừng hoạt động của doanh nghiệp tư nhân" của Nguyễn Trí Tuệ (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2002). Công trình này đề cập đến giải thể, phá sản và tạm ngừng hoạt động của doanh nghiệp tư nhân dưới góc độ luật học, đó là cơ sở để công tác quản lý doanh nghiệp tư nhân có hiệu quả hơn. "Khu vực kinh tế tư nhân Trung Quốc: Chính sách, quá trình phát triển và những trở ngại trước mắt" của Hạ Tiểu Lâm (Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 2, năm 2002). "Một số vấn đề về xây dựng tổ chức đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp tư nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh" của Phạm Bá Nhiễu (Tạp chí Khoa học chính trị, số 4-2004). Trong công trình này, tác giả nêu lên sự cần thiết phải xây dựng các tổ chức chính trị trong doanh nghiệp tư nhân của Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả cũng đã đánh giá khái quát công tác xây dựng tổ chức đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp tư nhân. Từ đó nêu lên những vấn đề đặt ra trong xây dựng tổ chức chính trị ở các doanh nghiệp tư nhân như: vai trò của cấp ủy và bí thư cơ sở đảng ở doanh nghiệp tư nhân; vấn đề điều hành và bảo đảm hoạt động của cơ sở đảng ở doanh nghiệp tư nhân, vấn đề tạo nguồn và bồi dưỡng để phát triển đảng viên, củng cố hoặc thành lập ban chuyên trách công tác xây dựng lực lượng chính trị ngoài quốc doanh. "Tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước - sự lựa chọn cho vấn đề tài chính? Nghiên cứu trường hợp một số nước ASEAN chủ yếu (ASEAN.5)" của thạc sĩ Nguyễn Huy Hoàng (Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 3, 2002). Tác giả Nguyễn Huy Hoàng đã phân tích quá trình tư nhân hóa ở các nước ASEAN. Chỉ rõ kết quả của quá trình tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước là tăng nguồn vốn, giải quyết được tình trạng thiếu vốn trong nền kinh tế. Cuối cùng tác giả nêu lên một số kết luận và gợi ý cho quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Theo tác giả thì giải pháp tốt nhất ở Việt Nam là "nhà nước quản lý các doanh nghiệp có điều tiết và kiểm soát cộng với thực thi một môi trường cạnh tranh lành mạnh". "Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước ASEAN" của TS. Nguyễn Hồng Nhung (Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 3, 2003). Trong công trình này, tác giả đã phân tích chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ của các Chính phủ Malaixia, Singapo, Indonexia và Thái Lan. Trên cơ sở đó tác giả rút ra bốn nhận xét quan trọng trong các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước này, đó là: Hỗ trợ phải thường xuyên, toàn diện và rộng khắp thông qua kế hoạch, chương trình cụ thể; thu hút các cơ quan, các tổ chức, các bộ ngành liên quan; xác định nguyên nhân chủ yếu cần hỗ trợ và xây dựng quan hệ qua lại giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ với doanh nghiệp cỡ lớn, các công ty nước ngoài để tạo mạng lưới sản xuất quy mô quốc gia, trong đó doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò là vệ tinh. "Doanh nghiệp tư nhân đầu tiên ở Bình Thuận xuất khẩu trực tiếp trái thanh long" của Hà Thu Thủy (Tạp chí Nông thôn mới, số 80, 2002). "Môi trường tài chính và doanh nghiệp tư nhân" của Nguyễn Anh Đào (Tạp chí Chứng khoán Việt Nam, năm 2003, số 3). "Mối quan hệ giữa cơ chế tài chính và cơ chế quản lý đối với doanh nghiệp dân doanh" của Nguyễn Ngô Thị Hoài Thu (Tạp chí Thuế nhà nước, tháng 4 năm 2005, số kỳ 1). "Một số nhân tố chi phối hành vi tiêu dùng của người dân đối với sản phẩm của các doanh nghiệp tư nhân" của Lê Hương (Tạp chí Tâm lý học, 4/2005, số 4). "Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong doanh nghiệp tư nhân" của Nguyễn Công Huyên (Tạp chí Xây dựng Đảng, năm 2004, số9). "Nhìn nhận của người dân về một số vấn đề liên quan đến doanh nghiệp tư nhân và ảnh hưởng của nó đến đánh giá của họ về các chủ doanh nghiệp tư nhân" của Lê Hương (Tạp chí Tâm lý học, năm 2005, số5). "Tài chính với sự phát triển của khu vực tư nhân" của Nguyễn Thị Tâm (Tạp chí Tài chính năm 2002, số 7). "Việc thực hiện chính sách lao động trong các doanh nghiệp dân doanh ở thành phố Hồ Chí Minh" của Trần Anh Tuấn (Tạp chí Lao động và xã hội, năm 2002, số 192). "Về phát triển kinh tế dân doanh trong nông nghiệp" của Vũ Trọng Khải (Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn, năm 2002, số 6). "Về đổi mới cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh trong giai đoạn hiện nay" của Lê Tâm Minh (Tạp chí Thanh tra, năm 2003, số 8). "Để doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển đúng hướng" của Đàm Oanh (Báo Nhân dân ngày 16/3/2002, tr.2). "Định chế tài chính cho sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân: khía cạnh về lý thuyết" của Trương Quang Thông (Tạp chí Phát triển kinh tế, năm 2003, số 3). "Đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp dân doanh trên địa bàn Hà Nội" của Nguyễn Thế Quang (Tạp chí Quản lý nhà nước, năm 2004, số 10)… Ngoài ra, có một số luận văn, luận án nghiên cứu về kinh tế tư nhân ở các địa phương. Nhìn chung các công trình nói trên đã nghiên cứu về doanh nghiệp tư nhân ở những khía cạnh như: - Thực trạng doanh nghiệp tư nhân ở nước ta trong thời gian qua về: vốn, công nghệ, tạo việc làm, đóng góp vào ngân sách nhà nước… - Các cơ chế, chính sách liên quan đến quản lý doanh nghiệp tư nhân. - Công tác xây dựng các tổ chức chính trị trong các doanh nghiệp tư nhân. - Kinh nghiệm của một số nước, một số địa phương về phát triển doanh nghiệp tư nhân. Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về doanh nghiệp tư nhân ở những phạm vi khác nhau. Nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình hiện nay một cách có hệ thống dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị. Do đó, đề tài luận văn không trùng với các công trình khoa học đã được công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn * Mục đích: Luận văn phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng của doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình hiện nay. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình phát triển đúng hướng. * Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau: - Phân tích cơ sở lý luận về doanh nghiệp tư nhân. - Đánh giá thực trạng về doanh nghiệp tư nhân ở tỉnh Thái Bình. - Nêu lên một số quan điểm và giải pháp để nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình hiện nay. * Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình từ năm 1990 đến nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về kinh tế tư nhân và doanh nghiệp tư nhân. - Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử - lôgíc, thống kê, phương pháp chuyên gia… 5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Luận văn góp phần khái quát những vấn đề lý luận về doanh nghiệp tư nhân. - Đánh giá thực trạng của doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình hiện nay. - Đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình trong thời gian tới. 6. ý nghĩa của luận văn Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập ở trường chính trị tỉnh; giúp các nhà quản lý ở tỉnh tham khảo trong việc hoạch định chính sách phát triển các thành phần kinh tế của địa phương. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu với 3 chương, 7 tiết. Chương 1 Những vấn đề lý luận về doanh nghiệp tư nhân 1.1. Sự hình thành doanh nghiệp tư nhân 1.1.1. Sự hình thành doanh nghiệp tư nhân ở nước ta Doanh nghiệp tư nhân là một bộ phận quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân gắn liền với quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Do đó, sự vận động và phát triển của DNTN gắn liền với sự vận động và biến đổi của quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. ở nhiều nước, DNTN là bộ phận quan trọng nhất của nền kinh tế, giải quyết việc làm, tăng cường khả năng xuất khẩu... ở Việt Nam, sự phát triển của kinh tế tư nhân nói chung và DNTN nói riêng mới thực sự bắt đầu từ khi Đảng ta đề ra đường lối đổi mới từ Đại hội VI năm 1986. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm mà trước hết là đổi mới tư duy kinh tế. Đại hội lần này đã chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm khi chỉ đạo về bố trí cơ cấu kinh tế, không thừa nhận tồn tại nhiều thành phần kinh tế; nhanh chóng xóa bỏ kinh tế tư nhân, thành lập kinh tế xã hội chủ nghĩa một cách nóng vội, chủ quan. Điều đó đã làm triệt tiêu động lực phát triển của xã hội. Kinh tế tư nhân, trong đó có DNTN vì thế cũng không phát triển được. Bước đột phá của Đại hội VI là chấp nhận và vận dụng nền kinh tế nhiều thành phần nhằm khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế. Từ đó, Đại hội đã thừa nhận sự tồn tại khách quan của kinh tế tư nhân bao gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, tiểu thương, tư sản nhỏ. Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội VII đã khẳng định rõ sự cần thiết phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Tại Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, Đảng ta khẳng định chủ trương phát triển các thành phần kinh tế, sắp xếp, củng cố, đổi mới khu vực kinh tế quốc doanh, đổi mới kinh tế tập thể. Tập trung chỉ đạo khắc phục những cơ chế, chính sách, tâm lý xã hội đang cản trở sự phát triển của các thành phần kinh tế. Hội nghị cũng đã tập trung bàn các giải pháp phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Đề ra một số chủ trương, biện pháp lớn để đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân, cá thể, trong đó nhấn mạnh phát triển kinh tế hộ cá thể, tư nhân trong nông nghiệp là một chính sách nhất quán, lâu dài của thời kỳ quá độ. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đánh giá những thành tựu đã đạt được trong 10 năm đổi mới. Trong đó, đã nêu lên những thành tựu trong chiến lược phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đại hội tiếp tục bổ sung, hoàn thiện những chủ trương, giải pháp nhằm thúc đẩy kinh tế nhiều thành phần. Trong đó nhấn mạnh vai trò của kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân đối với sự phát triển của đất nước. Việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân là nhằm giải phóng sức sản xuất, huy động mọi nguồn lực quan trọng của xã hội để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự phát triển kinh tế tư nhân, trong đó có DNTN đã tạo động lực mạnh mẽ cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Nhằm phát huy vai trò của nhiều thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân, Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ IX nhấn mạnh: Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân [5, tr.96]. "Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài",... khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm" [5, tr.98]. Những chủ trương lớn về phát triển kinh tế tư nhân được Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX tiếp tục khẳng định: Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế [6, tr.57-58]. Cụ thể hóa những chủ trương chung của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển của kinh tế tư nhân. Đặc biệt là sự ra đời của Luật doanh nghiệp (1999) đã tạo ra những cơ chế, chính sách thuận lợi để các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có DNTN phát triển nhanh chóng và đa dạng. Và kể từ 1/7/2006, Luật doanh nghiệp (thay thế các Luật doanh nghiệp và Luật doanh nghiệp nhà nước trước đây) có hiệu lực sẽ là điều kiện thuận lợi để các loại hình doanh nghiệp phát triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 1.1.2. Quan niệm về doanh nghiệp tư nhân Có thể khẳng định những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân đã tạo ra những hành lang pháp lý rất thuận lợi để DNTN phát triển nhanh chóng, đóng góp tích cực và quan trọng vào quá trình tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo và nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, việc nhìn nhận DNTN cũng còn có những quan niệm khác nhau. Có quan điểm cho rằng, các DNTN trong nước trong đó có cả các HTX nông nghiệp và các doanh nghiệp phi nông nghiệp. Quan điểm này hiểu DNTN theo nghĩa rộng, bao quát cả khu vực HTX nông nghiệp và phi nông nghiệp. Điều này phản ánh tiềm năng to lớn của khu vực kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của DNTN khác hẳn với HTX. Trên thực tế mức đóng góp của kinh tế HTX hiện nay còn thấp hơn nhiều so với các DNTN. Do đó việc đánh giá vai trò của DNTN còn khó khăn. Quan điểm khác cho rằng, DNTN là những doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Quan điểm này xem xét DNTN bao gồm những doanh nghiệp không thuộc sở hữu vốn nhà nước. Đó là những doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Quan điểm này hiểu DNTN bao gồm các loại hình doanh nghiệp ngoài doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước. Theo Luật doanh nghiệp năm 1999 thì "DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp" (Điều 99) [1, tr.72]. Nhưng về quan hệ sở hữu và nghiên cứu dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị thì DNTN là các doanh nghiệp được thành lập trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Nếu xét theo loại hình doanh nghiệp thì KTTN ở nước ta theo luật doanh nghiệp gồm: - Công ty trách nhiệm hữu hạn (có 2 thành viên trở lên). - Công ty cổ phần. - Công ty hợp danh. - Doanh nghiệp tư nhân. Nếu xét theo nội dung kinh doanh thì DNTN kinh doanh những ngành nghề, lĩnh vực mà luật pháp không cấm, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mặc dù có hình thức sở hữu tư nhân, nhưng theo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX được ấn định là một thành phần kinh tế riêng. Do quá trình thực hiện có nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra cần điều chỉnh, bổ sung, Luật doanh nghiệp năm 2005 (có hiệu lực từ 1/7/2006), điều 141 quy định: "1 - DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. 2- DNTN không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. 3- Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân" [18, tr.162]. Như vậy, quan niệm và phát triển nhận thức về DNTN là một quá trình phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn. Theo chúng tôi, quan niệm về DNTN trong luật doanh nghiệp có hiệu lực từ 7-2006 là phù hợp với tình hình hiện nay. Tuy nhiên, đây là một vấn đề phức tạp, luôn biến đổi, trong giới hạn nhất định, quan niệm như vậy là tương đối phù hợp. Theo khái niệm trên, DNTN có những đặc trưng cơ bản sau: DNTN do một cá nhân làm chủ. Chủ doanh nghiệp có toàn quyền quyết định lựa chọn ngành nghề kinh doanh, tuyển dụng lao động; tự chủ, tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, DNTN phát huy được năng lực sáng tạo của chủ doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Chủ doanh nghiệp là người lao động chính có thể tự quản lý doanh nghiệp của mình hoặc cũng có thể thuê người khác quản lý, điều hành doanh nghiệp. Điều này là do nhận thức mới về sở hữu trong đó quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh có thể thống nhất trong một chủ thể hoặc có sự tách biệt tương đối giữa các chủ thể khác nhau. Do đó, một mặt vừa khai thác có hiệu quả của nguồn vốn vừa phát huy năng lực sáng tạo của nhiều nhà quản lý sản xuất kinh doanh, là hoàn toàn phù hợp với tình hình nước ta hiện nay khi nhiều người có trình độ quản lý giỏi nhưng không có điều kiện để tự thành lập doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp có toàn quyền quyết định quy mô, phương thức hoạt động quản lý kinh doanh cũng như sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật. Là doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn, có nghĩa là chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với DNTN, việc tách biệt giữa tài sản doanh nghiệp với tài sản của gia đình chủ doanh nghiệp là rất khó khăn. Vì vậy, khi có xảy ra những tranh chấp kinh tế hoặc phát sinh các quan hệ khác thường rất khó giải quyết. Cũng chính điều này mà DNTN không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào, điều này sẽ khó khăn khi thị trường chứng khoán phát triển, đòi hỏi một lực lượng hàng hóa giao dịch lớn thì DNTN chưa thể tham gia vào thị trường này. 1.1.3. Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp tư nhân ở nước ta Với quan điểm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển nhằm giải phóng sức sản xuất, khai thác các tiềm năng, thế mạnh, do đó việc thành lập DNTN ở nước ta hiện nay khá dễ dàng. Từ ý tưởng thành lập doanh nghiệp đến khi DNTN ra đời chỉ trong thời gian ngắn. Điều này có thể tiết kiệm được những khoản chi phí không cần thiết cho doanh nghiệp và sự ra đời của DNTN xuất phát từ thực tế cuộc sống theo nguyên tắc "ở đâu có cầu thì ở đó có cung". Vì vậy, nếu có một cơ chế chính sách phù hợp, đầy đủ, mềm dẻo từ phía cơ quan quản lý nhà nước sẽ tạo điều kiện để DNTN phát triển nhanh chóng. Đồng thời, sự hình thành DNTN một cách dễ dàng, nhanh chóng cũng cho thấy các cơ quan quản lý nhà nước không thể dùng mệnh lệnh hành chính để ngăn ngừa, cấm đoán hoặc dùng các biện pháp khác để hạn chế sự phát triển của DNTN. Tuy nhiên, nếu không quản lý tốt sẽ dẫn tới sự hình thành bừa bãi của các DNTN gây lãng phí cho nhà nước, xã hội và các mặt trái của nó như buôn bán hóa đơn, làm hàng giả, lừa đảo người lao động. Hiện nay ở nước ta các DNTN được thành lập phần nhiều là các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ, các doanh nghiệp sản xuất ít, điều đó phản ánh năng lực sản xuất còn hạn chế của khu vực này. DNTN ra đời, phát triển hoàn toàn phù hợp với quy luật khách quan trong thời kỳ quá độ lên CHXH. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, DNTN ra đời vận động và phát triển chịu sự chi phối của các quy luật của nền kinh tế thị trường. Sự quản lý, điều tiết của cơ quan quản lý nhà nước cũng phải dựa trên sự vận động khách quan của kinh tế thị trường. Nghĩa là nhà nước không can thiệp trực tiếp vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ, do đó so với doanh nghiệp quốc doanh, DNTN dễ dàng thích ứng với những biến động của thị trường. Chủ DNTN có thể ra quyết định nhanh chóng trong việc điều chỉnh các hành vi kinh tế của mình mà không phải chịu sự ràng buộc nào. Điều này sẽ làm cho DNTN dễ đạt được những mục đích đề ra trong sản xuất kinh doanh. DNTN do một cá nhân làm chủ, vì vậy việc lựa chọn hình thức, quy mô sản xuất kinh doanh cũng hết sức linh hoạt. Chủ doanh nghiệp có thể chủ động lựa chọn các yếu tố đầu vào như vốn, lao động, khoa học - công nghệ... phù hợp với năng lực của mình. Việc sử dụng các nguồn lực một cách linh hoạt sẽ giúp cho doanh nghiệp đạt được hiệu quả kinh tế tối đa. Dù có trực tiếp tham gia quản lý doanh nghiệp hay thuê người quản lý thì DNTN tìm mọi cách để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của mình. Nhất là trong việc sử dụng nguồn nhân lực với chế độ trả lương hợp lý. DNTN có thể thu hút được nguồn lao động có chất lượng. Ngược lại, đối với những lao động chất lượng kém thì chủ DNTN có toàn quyền sa thải. Những mức lương do DNTN áp dụng về cơ bản do thị trường lao động tự điều tiết trong khuôn khổ của Bộ luật lao động. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, DNTN dễ dàng lựa chọn những công nghệ sản xuất tối ưu, phù hợp với khả năng đầu tư của doanh nghiệp, vừa có khả năng tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường. Khi có sự biến động về thị trường hoặc khi có sự xuất hiện của máy móc, thiết bị mới, doanh nghiệp có thể tự điều chỉnh việc chuyển giao công nghệ sản xuất một cách nhanh chóng. Điều này sẽ làm cho doanh nghiệp dự báo được những khả năng sẽ xảy ra và kịp thời điều chỉnh chiến lược trong hoạt động sản xuất kinh doanh. ở nước ta, các DNTN hầu hết có quy mô vừa và nhỏ, sử dụng ít lao động, dây chuyền thiết bị sản xuất giản đơn. Các doanh nghiệp loại này dễ dàng tiếp cận với các nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước. Do đó, các DNTN tổ chức sản xuất thường gọn nhẹ, chủ doanh nghiệp có thể phát huy tính năng động, sáng tạo của mình một cách tốt nhất. DNTN vì thế càng dễ dàng thay đổi nhanh chóng mặt hàng và chiến lược kinh doanh của mình. Các DNTN có khả năng đáp ứng mọi biến đổi nhanh chóng, đa dạng, phong phú của thị trường. Từ đó cho thấy, hệ thống DNTN ở nước ta có tác động tích cực đến nền kinh tế, làm cho nền kinh tế thị trường trở nên năng động, có hiệu quả. Hiện nay, với quy mô chủ yếu là vừa và nhỏ, những DNTN ở nước ta có xu hướng vận động vừa cạnh tranh với nhau vừa tạo khả năng liên kết chặt chẽ với nhau. Trong quá trình đó buộc các DNTN phải tăng khả năng tích tụ và tập trung vốn. Đó là cơ sở để hình thành các DNTN lớn có khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp trong và ngoài nước đối với tác động của quá trình toàn cầu hóa. Sự phát triển mạnh mẽ của các DNTN góp phần tạo nên một môi trường kinh tế có sức cạnh tranh cao, có tác động tích cực trong việc chống lại những xu thế độc quyền trong kinh doanh, khắc phục được những yếu tố gây cản trở, trì trệ cho nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, sự phát triển của các DNTN bên cạnh các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác, nhất là những doanh nghiệp nhà nước sẽ tạo ra một sức ép buộc các doanh nghiệp phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mặt khác, khi có sự tham gia của DNTN, khách hàng có điều kiện lựa chọn hàng hóa, dịch vụ cho mình dễ dàng hơn. Bằng cách đó, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải cạnh tranh với nhau để tìm chỗ đứng trên thị trường. Vì vậy, xu thế độc quyền trong kinh doanh sẽ bị hạn chế. Những đặc điểm trên chứng tỏ DNTN có nhiều ưu thế. Chính vì vậy, Nhà nước ta chủ trương khuyến khích các DNTN phát huy ở những ngành nghề mà pháp luật không cấm là hoàn toàn đúng đắn, không những phù hợp với nhu cầu thực tiễn của nền kinh tế thị trường hiện nay mà còn đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển lực lượng sản xuất gắn liền với từng bước xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp. Mặc dù có những mặt tích cực nhưng trong quá trình phát triển, DNTN cũng bộc lộ những mặt hạn chế nhất định, đó là: - Mục tiêu chính của DNTN là theo đuổi lợi nhuận tối đa. Các chủ DNTN thường chú ý đầu tư vào những ngành có điều kiện thuận lợi, chi phí thấp và mang lại nhiều lợi nhuận. Chính vì vậy, sự phát triển của DNTN cũng chứa đựng nhiều nhân tố tiềm ẩn dẫn đến tình trạng vô chính phủ trong sản xuất kinh doanh. Các DNTN thường do mục tiêu lợi nhuận chi phối, do đó dẫn đến tình trạng kinh doanh chồng chéo, làm mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, mất cân đối giữa cung và cầu, đồng thời, gây ra lãng phí nguồn lực xã hội. - Sự phát triển của DNTN cũng chứa đựng những nhân tố gây ra tình trạng phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng trong xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, các DNTN có những điều kiện kinh tế kỹ thuật khác nhau, do đó dẫn đến tình trạng một bộ phận có khả năng về vốn, công nghệ, có năng lực quản lý kinh doanh, giảm được chi phí sản xuất thấp, giá thành sản phẩm hạ sẽ có thu nhập cao hơn. Bên cạnh đó, một bộ phận khác trong xã hội lại hạn chế về vốn, công nghệ, năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh yếu kém, cộng với những rủi ro khách quan trong nền kinh tế tác động vào sẽ gây khó khăn trong quá trình cạnh tranh với các DNTN khác. Điều đó dẫn đến khả năng phân hóa giàu nghèo là không tránh khỏi. Chính vì vậy, vai trò điều tiết của nhà nước đối với DNTN nói riêng và nền kinh tế nói chung để vừa đảm bảo những cấn đối chung, vừa đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội là cần thiết. - DNTN có thể chạy theo mục tiêu lợi nhuận tối đa mà dễ dẫn đến vi phạm pháp luật và đi ngược lại truyền thống văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc như: nạn làm hàng giả, trốn và lậu thuế, đầu cơ tích trữ, nâng giá, ép giá, gây ô nhiễm môi trường sinh thái... Những vấn đề đó sẽ gây nên sự rối loạn trong nền kinh tế, gây khó khăn cho việc ổn định kinh tế vĩ mô và làm thất thu cho ngân sách nhà nước. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, bên cạnh nhiều DNTN làm ăn chân chính, đóng góp phần quan trọng cho sự phát triển nền kinh tế thì cũng có những DNTN lợi dụng những kẽ hở của pháp luật, móc nối với những cán bộ thoái hóa của Nhà nước, thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh mờ ám, làm ăn bất chính, gây ra nạn tham ô, lãng phí trong các cơ quan quản lý nhà nước, cản trở sự phát triển của xã hội. Như vậy, phát triển DNTN một mặt phải khai thác những ưu thế của nó để huy động các nguồn lực xã hội đóng góp cho sự nghiệp c._.ông nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặt khác, phải có sự quản lý của Nhà nước để hạn chế những nhược điểm của DNTN trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, sự quản lý của Nhà nước phải được thực hiện trên cơ sở tạo ra hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đồng bộ. Đồng thời, sử dụng tổng hợp các công cụ quản lý kinh tế và thực lực kinh tế để điều tiết, quản lý DNTN. Nhà nước tạo điều kiện cho các DNTN tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình nhằm mục tiêu cơ bản là phát triển kinh tế - xã hội và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. 1.1.4. Vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế nước ta Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, các DNTN ở nước ta đã đóng góp phần tích cực và quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. DNTN đã đóng vai trò to lớn trong việc khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực: lao động, tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học công nghệ, tay nghề truyền thống... DNTN cũng góp phần to lớn trong việc tăng cường khả năng xuất khẩu, mở rộng thị trường, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Về cơ bản, vai trò của DNTN thể hiện: 1.1.4.1. Doanh nghiệp tư nhân tạo thêm việc làm, nâng cao đời sống nhân dân Giải quyết việc làm cho người lao động không chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà còn mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. ở Việt Nam, lực lượng lao động dồi dào hàng năm có thêm khoảng 1,2 - 1,4 triệu lao động. Từ năm 2000 đến 2005, cả nước đã tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động. Bên cạnh đó, số lao động khu vực nông thôn có nhiều cần chuyển sang làm việc các ngành công nghiệp, dịch vụ tăng đáng kể. Giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động mỗi năm đang là một áp lực lớn đối với nền kinh tế. Đây là nhiệm vụ của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế trong đó có vai trò tích cực của DNTN. Sự ra đời và phát triển nhanh chóng của DNTN đã thu hút một lực lượng lao động lớn của xã hội. Theo thống kê năm 2000 tổng số lao động làm việc trong các DNTN thuộc mọi thành phần kinh tế là 3.356.998 lao động. Trong đó lao động làm việc trong các DNTN là 236.253 người, chiếm 6,68%. Năm 2001 lao động làm việc tại các DNTN là 277.562 người, chiếm 7,06%. Năm 2002 số lao động làm việc trong DNTN tăng đáng kể với tổng số là 339.638 người, chiếm 7,29%. Như vậy, từ năm 2000 - 2002, các DNTN đã tạo thêm được việc làm cho 103.385 người. Điều này là do tác động của Luật doanh nghiệp đã làm cho số lượng DNTN và số lượng các văn phòng, chi nhánh của DNTN tăng lên. Mặt khác, do một số DNTN mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh nên nhu cầu về lao động của những doanh nghiệp này cũng tăng đáng kể. Đến năm 2004, số lao động việc làm trực tiếp trong các DNTN đã gần bằng tổng số lao động trong các DNNN, giải quyết khoảng 1,6 đến 2 triệu việc làm. Riêng số doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 96% tổng số doanh nghiệp ngoài nhà nước đã thu hút 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, khoảng 25-26% lực lượng lao động cả nước. Các DNTN không chỉ tạo ra công ăn việc làm mới cho người lao động mà còn góp phần làm thay đổi diện mạo nền kinh tế, nhất là thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động ở vùng nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động [19, tr.121-122]. Các DNTN còn có vai trò quan trọng trong việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động. Bộ phận lớn lao động trước khi vào làm việc tại cơ sở tư nhân là những lao động phổ thông, tay nghề thấp, chưa quen với tác phong lao động công nghiệp, còn mang nặng tư duy sản xuất tự cung, tự cấp, chưa quen với cơ chế thị trường. Chính vì vậy DNTN phải đào tạo, hướng dẫn họ. Hình thức đào tạo cũng hết sức phong phú, đa dạng. Nhiều DNTN liên kết, phối hợp với các cơ sở dạy nghề để đào tạo nghề cho người lao động "theo địa chỉ". Một số DNTN tự xây dựng các xưởng đào tạo nghề, hoặc giao cho những người có tay nghề cao kèm cặp, hướng dẫn những người có tay nghề thấp... Hình thức đào tạo như vậy vừa phù hợp với khả năng của doanh nghiệp và người lao động vừa mang lại hiệu quả thiết thực. 1.1.4.2. Các doanh nghiệp tư nhân đóng góp ngày càng lớn cho GDP của cả nước Chủ trương của Đảng về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã tạo điều kiện thuận lợi để phát huy mọi nguồn lực trong xã hội. Đặc biệt từ khi Luật doanh nghiệp (1999) ra đời (có hiệu lực năm 2000), số lượng doanh nghiệp đăng ký hoạt động kinh doanh tăng đáng kể. Trong đó có phần nhiều DNTN. Với số lượng DNTN ngày càng đông đảo đã tạo ra một khối lượng hàng hóa, dịch vụ hết sức phong phú, đóng góp đáng kể cho GDP của cả nước. Năm 1995, khu vực kinh tế tư nhân, trong đó có DNTN đã đóng góp vào GDP là 136.915 tỉ đồng. Năm 2003 đóng góp của khu vực này đạt 605.586 tỉ đồng. Tỷ lệ đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế tư nhân bao gồm cả DNTN tăng đáng kể. Năm 1995, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 59,82% vào GDP của cả nước. Số lượng tương ứng của năm 2000 là 60,47%; năm 2001 là 61,60%, năm 2002 là 61,62%. Năm 2003 chiếm 60,9%. Năm 2005, riêng khối DNTN đóng góp 37,7% GDP [19, tr.124-125]. Sự đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân trong đó có DNTN ngày càng tăng chứng tỏ môi trường đầu tư kinh doanh nước ta đã cải thiện đáng kể. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNTN trở nên có hiệu quả. Năng lực về vốn, khoa học công nghệ, trình độ quản lý của DNTN được nâng lên. Đội ngũ doanh nghiệp dần trưởng thành cả về số lượng và chất lượng, thích ứng với cơ chế thị trường và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. DNTN là lực lượng quan trọng góp phần lớn vào ngân sách nhà nước. Trong giai đoạn 1996-1998, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp khoảng 1/6 nguồn thu ngân sách nhà nước. Ngoài việc đóng góp vào ngân sách nhà nước các DNTN còn đóng góp một phần không nhỏ thông qua các tổ chức hoạt động từ thiện, giúp đỡ các gia đình chính sách, đóng góp cho các địa phương xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tôn tạo, cải tạo công trình văn hóa... 1.1.4.3. Phát triển doanh nghiệp tư nhân là điều kiện để thu hút nguồn vốn đầu tư trong xã hội Cùng với đà phát triển của nền kinh tế, môi trường đầu tư kinh doanh ngày càng thuận lợi, số lượng DNTN gia tăng, quy mô của DNTN được mở rộng thì số vốn được huy động trong các tầng lớp nhân dân càng lớn. Cùng với những nguồn vốn bằng tiền, những tài sản cố định như đất đai, nhà cửa, phương tiện, công cụ sản xuất trong dân cư cũng được huy động ngày càng nhiều cho mục đích sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt là từ khi Luật doanh nghiệp được thực thi vào năm 2000 số lượng vốn của DNTN được tăng lên đáng kể. Năm 2000 vốn đầu tư của khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh (không kể doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) là 34.593,7 tỉ đồng. Năm 2001 là 38.512,0 tỉ đồng chiếm 23,5% tổng vốn đầu tư của tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Năm 2002 số vốn đầu tư của DNTN là 52.111,8 tỉ đồng chiếm 26,5% [19, tr.115-116]. Tỷ trọng đầu tư của các DNTN trong nước cũng tăng liên tục trong thời gian gần đây và có xu hướng vượt tỷ trọng đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước. Khi Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư (có hiệu lực từ 1-7-2006) đi vào cuộc sống, dự báo nguồn vốn trong các DNTN sẽ tăng lên. Mặt khác quá trình hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam, nhất là khi Việt Nam chính thức là thành viên của WTO, thị trường trong nước và quốc tế mở rộng sẽ tạo nên động lực mạnh mẽ để các DNTN mở rộng quy mô vốn đầu tư sản xuất kinh doanh. 1.1.4.4. Doanh nghiệp tư nhân góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra sự liên kết kinh tế giữa các vùng, làm cho nền kinh tế trở nên năng động, hiệu quả Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một nội dung quan trọng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ cấu kinh tế nước ta đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, tiến bộ, phù hợp với xu thế vận động khách quan của nền kinh tế thế giới và trong nước, khai thác có hiệu quả các nguồn lực xã hội. Giai đoạn 1990 - 2000, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5%, GDP năm 2000 gấp 2 lần so với năm 1990. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH. Từ năm 1988 đến nay tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng nhanh và liên tục (năm 1988 là 21,6% GDP, năm 1995 là 28,8 năm 2003 là 40% năm 2005 là 41%). Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP năm 1988 là 46,3% năm 2003 còn 21,8% năm 2005 là 20,5%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,2% năm 2003 và 38,5% năm 2005 [7, tr.73]. Trong cơ cấu kinh tế, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm xuống, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh. Tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm, tỷ lệ lao động công nghiệp, dịch vụ lao động qua đào tạo ngày càng tăng. Năm 1990 lao động nông - lâm ngư nghiệp chiếm 73,02% tổng lao động toàn xã hội, năm 2004 còn 58% năm 2005 còn 57%. Lao động trong công nghiệp và xây dựng gần 18% và trong dịch vụ là 25% [7, tr.74]. Đã hình thành được những vùng kinh tế, khu vực kinh tế trọng điểm, có sự chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế so sánh và quan tâm hỗ trợ các vùng còn nhiều khó khăn. Ba vùng kinh tế trọng điểm đã phát triển với tốc độ cao hơn mức hàng năm của cả nước chiếm hơn 60% GDP. Các vùng kinh tế còn khó khăn đang từng bước vươn lên... Nền kinh tế chuyển từ trạng thái đóng cửa, khép kín, sang nền kinh tế mở cửa, hội nhập với thị trường quốc tế. Đồng thời có sự chuyển dịch từ trình độ công nghệ sản xuất lạc hậu, năng suất lao động thấp sang nền kinh tế ngày càng ứng dụng rộng rãi những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, năng suất lao động cao. Sản phẩm tạo ra phong phú, đa dạng, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế trên thị trường. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động có vai trò rất lớn của các DNTN. Bởi vì, DNTN có khả năng tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ làm cho tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng lên. DNTN có khả năng ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất, làm cho trình độ sản xuất của nền kinh tế được nâng cao. Điều đó càng làm cho số lượng và chất lượng sản phẩm hàng hóa trong nước có khả năng cạnh tranh với hàng ngoại nhập và mở rộng thị trường xuất khẩu. Nhiều DNTN đóng vai trò tích cực trong việc xuất khẩu hàng hóa. Một số sản phẩm hàng hóa chất lượng cao như hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm gỗ tinh chế, nông sản, thủy sản, linh kiện máy móc... đều do các DNTN sản xuất. Chính vì vậy khu vực kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nền kinh tế đóng cửa, khép kín, sang nền kinh tế mở, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là quy luật khách quan và là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển. Khi có sự tham gia của các DNTN môi trường cạnh tranh trở nên gay gắt hơn. Do đó DNTN góp phần làm cho nền kinh tế thị trường năng động hơn, hiệu quả hơn. Bởi vì quá trình cạnh tranh buộc các DNTN phải không ngừng đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao trình độ tay nghề của người lao động, đổi mới cách thức tổ chức quản lý doanh nghiệp. Đồng thời quá trình cạnh tranh đó buộc các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nhất là DNNN cũng phải không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Sự phát triển đa dạng và phong phú của các DNTN trong các ngành kinh tế tạo ra khả năng liên kết với nhau, từ đó tạo ra sự liên kết giữa các vùng kinh tế, các ngành kinh tế. Khi nền kinh tế phát triển, hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNTN đòi hỏi thị trường về tư liệu sản xuất, thị trường lao động, thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa mở rộng vượt ra khỏi phạm vi địa bàn hoạt động của mình. Các DNTN vì thế vươn ra với thị trường rộng lớn bên ngoài. Quá trình đó tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa các DNTN với nhau, giữa doanh nghiệp vùng này với doanh nghiệp vùng khác và doanh nghiệp các thành phần kinh tế khác, nhất là liên kết với các DNNN. 1.1.4.5. Doanh nghiệp tư nhân tạo ra khả năng khai thác có hiệu quả các nguồn lực, giữ gìn và phát triển các ngành nghề truyền thống của địa phương DNTN không chỉ huy động có hiệu quả nguồn vốn trong xã hội mà còn huy động các nguồn lực khác của đất nước. Trước hết khối doanh nghiệp này khai thác có hiệu quả nguồn lực đất đai, mặt nước, diện tích rừng, khoáng sản... ở các địa phương. Đây là những tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Khi Nhà nước giao cho các tổ chức cá nhân trong đó có DNTN phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh thì các nguồn lực này sẽ phát huy được tác dụng của nó. Nhờ có sự phát triển của DNTN, kinh tế trang trại trong lĩnh vực nông - lâm - thủy sản phát triển nhanh chóng, tạo ra khối lượng sản phẩm hàng hóa phong phú, phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ra thị trường thế giới. Hiện nay cả nước có hàng chục ngàn trang trại nông - lâm - thủy sản. Các trang trại này đã khai thác có hiệu quả tiềm năng đất đai, mặt nước, giải quyết việc làm cho hàng chục vạn lao động, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa lớn. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong thời gian qua đã làm cho nền nông nghiệp về cơ bản chuyển sang nền sản xuất hàng hóa, những vùng sản xuất hàng hóa được hình thành, tỷ trọng sản phẩm hàng hóa ngày càng cao, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn được tăng cường. Những kết quả đó có vai trò rất lớn của DNTN. DNTN được hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế hộ cá thể. Các hộ sản xuất kinh doanh cá thể thường gắn liền với các hoạt động sản xuất kinh doanh ngành nghề truyền thống như nghề gốm sứ, nghề thủ công mỹ nghệ, sản xuất hàng cơ khí nhỏ... Khi các DNTN hình thành, quy mô đầu tư sản xuất tăng lên, đặc biệt là sự ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất góp phần làm cho các nghề truyền thống ở địa phương ngày càng phong phú, phù hợp với xu thế phát triển sản xuất hàng hóa. Cụ thể là DNTN trong các làng nghề truyền thống có quy mô sản xuất ngày càng lớn và tăng lên đáng kể. Giải quyết nhiều việc làm cho người lao động vùng làng nghề. Sản phẩm làm ra với số lượng lớn, chất lượng cao do ứng dụng công nghệ sản xuất tiên tiến, thị trường vì thế được mở rộng. Đến nay, nhiều DNTN thuộc các làng nghề truyền thống đã xuất khẩu hàng hóa sang nhiều thị trường trong và ngoài nước, có doanh thu cao như các DNTN sản xuất đồ gốm Bát Tràng (ngoại thành Hà Nội), đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ (Bắc Ninh)..., có doanh thu ngoại tệ hàng triệu đôla mỗi năm. Nhờ đó, DNTN không chỉ giữ gìn các ngành nghề truyền thống mà còn có vai trò tích cực trong việc mở rộng những ngành nghề theo hướng sản xuất hàng hóa lớn. 1.2. Xu hướng vận động của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh nghiệm về phát triển doanh nghiệp tư nhân 1.2.1. Xu hướng vận động của doanh nghiệp tư nhân Phát triển DNTN là vấn đề chiến lược trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế. Xu hướng phát triển DNTN nói riêng và kinh tế tư nhân nói chung nằm trong đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Đó là đặc điểm cơ bản, bao trùm và xuyên suốt của thời kỳ quá độ. Xu hướng phát triển các DNTN ở nước ta hiện nay phải đồng thời đảm bảo hai tiêu chuẩn cơ bản. Một là, tạo điều kiện khai thác, sử dụng có hiệu quả các tiềm năng kinh tế, các nguồn lực xã hội, giải phóng và tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển; tạo ra động lực để đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế. Hai là, đảm bảo tính định hướng XHCN. Nghĩa là các DNTN vẫn được tạo điều kiện thuận lợi để phát triển với nhiều hình thức phù hợp. Tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước nhằm khai thác những mặt tích cực, ngăn ngừa và hạn chế những tiêu cực. Từng bước xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động. Thực hiện nhiều hình thức phân phối phù hợp và công bằng xã hội ngay trong quá trình phát triển. ở nước ta hiện nay, xu hướng phát triển các DNTN đang có chiều hướng thuận lợi thể hiện ở các chỉ tiêu cơ bản sau đây: số lượng doanh nghiệp tăng với tốc độ lớn hơn so với các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế khác; tốc độ đầu tư của kinh tế tư nhân cao hơn so với các doanh nghiệp khác; lao động trong các DNTN tăng nhanh và chiếm tỷ lệ cao trong xã hội; tỷ lệ tăng trưởng sản xuất công nghiệp và hàng hóa xuất khẩu của các doanh nghiệp tăng nhanh... các loại hình DNTN phát triển rộng khắp trong cả nước, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, mở rộng thị trường, thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế. Xu hướng phát triển của DNTN ở nước ta hiện nay một mặt phải được xem như là nền tảng của phát triển kinh tế thị trường. Bất kỳ một nền kinh tế nào hoạt động theo cơ chế thị trường đều phải thừa nhận và khuyến khích mô hình tổ chức DNTN. Ngược lại, mô hình tổ chức DNTN tự nó ứng xử theo cơ chế thị trường và có sức sống mãnh liệt trong môi trường của cơ chế thị trường. Các DNTN khi tham gia vào bất kỳ lĩnh vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ nào cũng là cơ sở của cơ chế thị trường, ở đó có sự cạnh tranh của những người bán và người mua. Đó chính là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Và sự phát triển DNTN đến mức độ nào, tính định hướng XHCN của khối doanh nghiệp tư nhân được thể hiện ra sao? Các DNTN nước ta hoạt động theo hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước, thể hiện ý chí của nhân dân, vì lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân. Thông qua đó, nhà nước XHCN có thể hướng sự phát triển của DNTN vào những ngành, những địa bàn đáp ứng nhu cầu của nhân dân, tăng cường tính XHCN trong quá trình phát triển của đất nước. Thông qua chính sách vĩ mô, Nhà nước có thể điều tiết và sử dụng lao động, điều tiết phân phối thu nhập trong các DNTN nhằm đảm bảo mục tiêu định hướng XHCN. Với những chủ trương, chính sách và cơ sở luật pháp về phát triển kinh tế tư nhân và DNTN, căn cứ thực trạng phát triển DNTN nước ta những năm qua mà cụ thể là căn cứ vào tình hình đăng ký kinh doanh và hoạt động của các doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp 1999 và luật doanh nghiệp năm 2005. Trên cơ sở xem xét đặc điểm hoạt động, xu hướng tâm lý, trình độ tổ chức kinh doanh, xu hướng cải cách hành chính và phương thức quản lý của nhà nước cũng như tính đến những yêu cầu, cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Có thể dự báo xu hướng phát triển của DNTN nói chung và ở Thái Bình nói riêng dưới những khía cạnh sau. Một là, các DNTN trong các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh, dịch vụ sẽ ngày càng phát triển cả về số lượng và quy mô. Theo đó hiệu quả sản xuất - kinh doanh ngày càng cao và ổn định. Thực hiện ngày càng tốt hơn các quy định hệ thống luật pháp mà trước hết là luật doanh nghiệp, chuẩn hóa các quy định quốc gia để chủ động hội nhập quốc tế. Hai là, các DNTN ngày càng mở rộng địa bàn đầu tư và quan hệ sản xuất - kinh doanh trong và ngoài nước. ở Thái Bình sẽ có thêm nhiều DNTN từ các tỉnh, thành phố khác đến đầu tư tạo ra sự phát triển năng động hơn. Ba là, các lĩnh vực kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng đa dạng phong phú: xuất hiện nhiều ngành nghề sản xuất, kinh doanh mới cả trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Những ngành dịch vụ cao sẽ từng bước phát triển (dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm...). Các DNTN sẽ phát triển mạnh hơn trong các lĩnh vực mà nhà nước khuyến khích, tỉnh ưu tiên như: xã hội hóa giáo dục, y tế, vệ sinh môi trường... Đặc biệt ở Thái Bình, với đặc điểm là các DNTN phát triển mạnh trong lĩnh vực sản xuất, số nhiều là các doanh nghiệp nông nghiệp, xu hướng sẽ phát triển mạnh dưới tác động cạnh tranh và sức ép hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó, khả năng liên kết giữa sản xuất nông nghiệp với chế biến, tiêu thụ ngày càng gia tăng ở mức độ tập trung, công nghiệp hóa cao. Bốn là, sự phát triển của DNTN cả số lượng, quy mô và chất lượng đòi hỏi lực lượng lao động có chất lượng ngày càng cao. Thị trường lao động ngày càng hoàn thiện đòi hỏi các doanh nghiệp phải đảm bảo các tiêu chuẩn phù hợp theo luật lao động. Năm là, các loại hình doanh nghiệp được lựa chọn hình thức ngày càng phù hợp, hướng trong những năm tới là các công ty cổ phần, công ty TNHH... cùng với sự phát triển của những loại hình doanh nghiệp khác, khả năng liên kết dưới nhiều hình thức phát triển. Bên cạnh đó, trước sức ép của cạnh tranh thì nguy cơ phá sản, giải thể, chia tách, sáp nhập, mua bán, chuyển nhượng các DNTN càng diễn ra sôi động. Tóm lại, dự báo về xu hướng phát triển của kinh tế tư nhân nói chung và DNTN trong đó có DNTN Thái Bình trên đây là cơ sở khoa học khách quan để xem xét, đánh giá thực trạng DNTN ở Thái Bình thời gian qua. Đồng thời là căn cứ để đề xuất giải pháp thiết thực, phù hợp phát triển DNTN Thái Bình, góp phần vào thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XVII về phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra. 1.2.2. Kinh nghiệm về phát triển doanh nghiệp tư nhân của Trung Quốc và thành phố Đà Nẵng 1.2.2.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc Là một quốc gia thực hiện cải cách mở cửa và phát triển kinh tế thị trường từ năm 1979 sau hơn 20 năm có nhiều biến động, chính sách đối với khu vực kinh tế tư nhân mà trực tiếp là phát triển DNTN của Trung Quốc có nhiều dấu mốc đáng ghi nhận. Thành tựu được khẳng định là sự phát triển và đóng góp to lớn của DNTN Trung Quốc đã trở thành lực lượng quan trọng thúc đẩy thành công của công cuộc cải cách, góp phần tích cực trong xây dựng CNXH mang đặc sắc Trung Quốc. Bước vào thời kỳ cải cách từ 1979-1988, các DNTN lúc ấy chỉ được coi như một bộ phận bổ sung, hỗ trợ cho kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân nói chung và các DNTN chưa có quy định theo hệ thống pháp luật một cách rõ rệt và chưa thực sự phát triển. Những thay đổi quan trọng nhất đối với kinh tế tư nhân ở Trung Quốc được bắt đầu từ những năm 1990. Đại hội lần thứ XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1993 đã xác định chuyển biến và nhận thức đối với kinh tế tư nhân cùng với thừa nhận nền kinh tế thị trường. Theo đó, các DNNN từng bước được tư nhân hóa. Các DNTN được chia thành 3 loại, tương ứng với mỗi loại hình DNTN có các chế tài riêng bao gồm DNTN một chủ; các công ty hợp danh và công ty TNHH... từ đây các DNTN có điều kiện phát triển mạnh. Đại hội lần thứ XV năm 1999 của Đảng Cộng sản Trung Quốc và những sửa đổi trong Hiến pháp mới chính thức thừa nhận: "Kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể là những phần quan trọng trong nền kinh tế thị trường XHCN ở Trung Quốc". Từ sự thay đổi nhận thức đến hành động thực tiễn khu vực kinh tế tư nhân mà trực tiếp là các DNTN ở Trung Quốc đã có bước phát triển đáng kể. Năm 1991, DNTN chỉ chiếm 17% tổng sản lượng khu vực kinh tế tư nhân đến năm 1997 con số đó đã tăng lên 47%. Thời kỳ từ 1991-2002 hơn 80% DNNN được tư nhân hóa. Tốc độ tăng trưởng hàng năm của các DNTN là 38,1% tương ứng tốc độ tăng sản lượng là 59,4% và lao động là 34,4%. Riêng năm 2002 đã có 1,76 triệu DNTN đăng ký với 24,1 triệu lao động [25, tr.75]. Từ thực tiễn tạo lập bước phát triển vượt bậc của các DNTN ở Trung Quốc những năm qua có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho quá trình phát triển DNTN ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Thái Bình nói riêng. Một là, cần có sự đổi mới trong nhận thức và quan điểm đối với kinh tế tư nhân và DNTN. Để khuyến khích và tạo điều kiện phát triển các DNTN không nên dùng khái niệm và các tiêu chí để phân định kinh tế tư bản tư nhân; mà chỉ sử dụng khái niệm kinh tế tư nhân trong một phạm vi nhất định. Các DNTN bao gồm các hộ kinh doanh công thương nghiệp; công ty hợp danh; công ty TNHH và công ty cổ phần kinh doanh trong các ngành nghề bao gồm cả nông - lâm - ngư nghiệp, HTX, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Khuyến khích, tạo điều kiện cho người dân phát triển DNTN dưới nhiều hình thức mà luật pháp không cấm, làm giàu hợp pháp. Coi doanh nhân là người bỏ vốn ra đầu tư, tạo việc làm và mang lại thu nhập cho người lao động. Bản thân họ cũng phải chịu những rủi ro trong kinh doanh, thậm chí thua lỗ phải coi đó là hành động tích cực, dũng cảm. Không kỳ thị, khi phát triển DNTN sẽ chấp nhận một bộ phận dân cư giàu lên trước sau đó lôi kéo cả xã hội cùng giàu lên đó là xu hướng tích cực. Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục và mở cửa thị trường cho các DNTN phát triển. Thông qua nhiều hình thức, thường xuyên liên tục tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức và hiểu biết vị trí, vai trò, tầm quan trọng phát triển DNTN trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường mang đặc sắc Trung Quốc. Khẳng định những giá trị đáng ghi nhận đối với đội ngũ doanh nhân. Đồng thời có sự điều chỉnh kịp thời về những thể chế và văn bản pháp luật. Thể hiện sự quan tâm thường xuyên và ưu đãi của Nhà nước đối với việc phát triển DNTN trong những thời kỳ nhất định một cách phù hợp. Các chính sách để phát triển DNTN theo hướng mở cửa, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất. Đồng thời, thực hiện sự đối xử bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, không phân biệt DNNN hay DNTN trong mọi lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực nhạy cảm như tài chính, tiền tệ... Ba là, phát huy vai trò của các tổ chức hỗ trợ phát triển DNTN trên phạm vi quốc gia, đến các tỉnh, thành phố và các quận huyện hình thành mạng lưới các tổ chức hỗ trợ phát triển DNTN với nhiều hình thức: - Hỗ trợ về vốn thông qua hệ thống ngân hàng với nhiều chi nhánh. - Hỗ trợ thông tin thông qua tuần báo và tạp chí, bản tin... - Cung cấp một kênh thông tin chính thức giao tiếp trực tiếp với Chính phủ. - Hỗ trợ tư vấn dịch vụ pháp lý, thông tin công nghệ. - Hỗ trợ về khoa học - công nghệ và kinh nghiệm của chủ doanh nghiệp trong và ngoài nước thành đạt. Tóm lại, Việt Nam và Trung Quốc đang thực hiện đường lối đổi mới phát triển kinh tế thị trường có nhiều điểm tương đồng. Kinh nghiệm về phát triển DNTN của Trung Quốc là những bài học bổ ích để tham khảo vận dụng phát triển DNTN ở nước ta nói chung và Thái Bình nói riêng. 1.2.2.2. Kinh nghiệm của thành phố Đà Nẵng Từ ngày trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương (năm 1997) cùng với xu thế đẩy mạnh phát triển các ngành, lĩnh vực và các thành phần kinh tế, lãnh đạo thành phố Đà Nẵng đã thống nhất ý chí, quyết tâm hành động xây dựng Đà Nẵng trở thành thành phố đứng thứ 3 trong cả nước. Một trong những chính sách và quyết sách quan trọng là thực hiện những biện pháp và giải pháp thiết thực, cụ thể để đẩy mạnh phát triển khối DNTN. Nhờ có những chủ trương đúng đắn, kinh tế tư nhân ở Đà Nẵng đóng góp trong GDP tăng từ 25,8% (1997) lên gần 32% năm 2002 và đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 10,6% năm. Riêng đối với các DNTN vốn đăng ký tăng từ 71 tỷ đồng năm 1997 lên gần 700 tỷ đồng 2002 tăng gần 10 lần. Đến năm 2002, khu vực tư nhân đã đóng góp vào ngân sách 14,22% tổng thu thuế nội địa của Đà Nẵng. Đặc biệt sự phát triển của DNTN đã góp phần thu hút 90.000 lao động với thu nhập bình quân khoảng 700.000đ/người/tháng, góp phần vào ổn định và phát triển kinh tế - xã hội thành phố [25, tr.88]. Những kinh nghiệm có thể rút ra đối với phát triển DNTN ở Đà Nẵng thời gian qua là: Thứ nhất, phải xây dựng được quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống DNTN một cách cụ thể, rõ ràng. Hàng năm, các đơn vị trực thuộc thành phố xác định các chỉ tiêu như số lượng các DNTN, lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, khả năng thu hút lao động và các chỉ tiêu giao nộp ngân sách. Chiến lược phát triển DNTN phải dựa trên căn cứ những dự báo khoa học, khách quan về các điều kiện và nguồn lực phát triển (vốn, tài nguyên, sức lao động...) cũng như khả năng có thể thực hiện. Thứ hai, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho phát triển hệ thống DNTN trong ngành nghề, lĩnh vực mà luật pháp không cấm như: - Thực hiện đối xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Công khai hóa các ưu đãi của Chính phủ. Tạo cơ hội và khả năng thuận lợi cho các DNTN tiếp cận các nguồn vốn và các kênh huy động vốn. - Hỗ trợ mặt bằng sản xuất - kinh doanh với các chính sách cụ thể thiết thực. Với các dự án phát triển DNTN có hiệu quả, nếu có nhu cầu về mặt bằng sản xuất - kinh doanh được ưu đãi theo nhiều hình thức có thể lựa chọn: Giải quyết theo quy hoạch chung; cho đấu thầu hoặc chuyển quyền sử dụng đất; được miễn giảm tiền sử dụng, tiền thuê đất theo quy định như các thành phần kinh tế khác... Thứ ba, thành phố hỗ trợ các DNTN phát triển tập trung vào các lĩnh vực sau: Về khoa học - công nghệ, hỗ trợ một phần kinh phí từ ngân sách thành phố cho các đề tài nghiên cứu khoa học - công nghệ ứng dụng và các DNTN không có khả năng thực hiện. Đặc biệt là xây dựng quy trình quản lý chất lượng theo các tiêu chuẩn cam kết. Về lao động, hỗ trợ đào tạo nghề với nhiều hình thức, đối tượng và trình độ chuyên môn khác nhau: bồi dưỡng cán bộ quản lý doanh nghiệp; đào tạo và đào tạo lại các loại bậc thợ, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn; đặc biệt đào tạo lao động để phát triển các ngành nghề truyền thống, các làng nghề vốn là thế mạnh của khối DNTN Đà Nẵng. Về tài chính, thường xuyên công khai các chế độ và chính sách tài chính đối với DNTN. Đồng thời, tháo gỡ kịp thời những vướng mắc về tài chính như xác định mức thuế các loại phù hợp. Tạo điều kiện thuận lợi để DNTN tiếp cận các kênh tài chính. Ưu đãi Chính phủ và của thành phố về: hỗ trợ lãi suất, hỗ trợ xuất khẩu, hỗ trợ phát triển thị trường... đặc biệt ưu đãi đối với những lĩnh vực vốn là thế mạnh của địa phương, ngành nghề thu hút nhiều lao động và sử dụng nguyên vật liệu tại địa phương. Quản lý nhà nước đối với DNTN là việc làm thường xuyên nhưng đúng quy trình, quản lý theo hướng hướng dẫn, khuyến khích hoạt động phát triển và chấp hành đúng pháp luật. Tránh việc áp đặt, kỳ thị đối với doanh nghiệp. Tháo gỡ kịp thời những vướng mắc, không lảng tránh trách nhiệm khi gặp những vấn đề khó khăn. Tóm lại, kinh nghiệm về phát triển DNTN của Trung Quốc và thành phố Đà Nẵng được trình bày trên là bài học bổ ích cho định hướng phát triển DNTN nước ta nói chung và tỉnh Thái Bình nói riêng. Chương 2 Thực trạng phát triển doanh nghiệp tư n._.i tạo mọi điều kiện thuận lợi để các DNTN tiếp cận được với các nguồn vốn vay, nhất là từ phía các Ngân hàng ở địa phương. Theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XVII đã xác định là: “Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng các hoạt động ngân hàng, mở rộng các dịch vụ ngân hàng mới. Các tổ chức tín dụng tích cực huy động vốn, chủ động cùng với doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ cá thể tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh cho vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh” [36, tr.19]. Tạo điều kiện thuận lợi cho các DNTN tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng tại các ngân hàng thương mại tín dụng ưu đãi, các tổ chức thuê mua tài chính. Các cơ quan tài chính, ngân hàng, kế hoạch và đầu tư và quỹ hỗ trợ phát triển phối hợp hướng dẫn và hỗ trợ cho các doanh nghiệp có khả năng xây dựng được những kế hoạch kinh doanh có tính khả thi để thuyết phục các ngân hàng cho vay vốn, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp cùng góp vốn để hình thành quỹ tài chính tự giúp nhau. Điều này sẽ góp phần tạo ra sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp. Hiện nay, các loại hình doanh nghiệp khác nhau hoạt động theo các chính sách, luật lệ khác nhau. Dễ nhận thấy nhất là trong lĩnh vực vay vốn và phân bổ nguồn vốn vay thương mại. Chủ yếu lượng vốn cho vay của các ngân hàng thương mại quốc doanh (chiếm đến 70% tổng lượng vốn cho vay trong nước ta) là dành cho các doanh nghiệp nhà nước. Các ngân hàng nước ngoài thì chủ yếu cung cấp các dịch vụ hỗ trợ tài chính cho các công ty đa quốc gia, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Vì lẽ đó, nguồn tài chính cho khu vực kinh tế tư nhân nói chung cũng như các DNTN nói riêng chỉ có được từ các ngân hàng cổ phần (chỉ chiếm khoảng 12% tổng lượng vốn cho vay). Nếu như các ngân hàng quốc doanh thay đổi về nhận thức, dành nhiều ưu đãi hơn cho các DNTN thì cơ cấu nguồn vốn của đất nước sẽ hợp lý hơn, việc sử dụng nguồn vốn cũng hiệu quả hơn nhiều vì nó được rót vào những DNTN có tiềm năng phát triển nhanh. Xây dựng quy chế bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp, tiến tới thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng theo các quy định của Chính phủ (Nghị định 90/2001/NĐ-CP) để giúp đỡ DNTN có điều kiện vay các nguồn vốn kịp thời phục vụ SXKD. Trên thực tế, việc bảo lãnh tín dụng cũng chưa thực sự giải quyết được khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp. Nhiều DNTN muốn vay vốn nhưng các quy định về thế chấp cầm cố đã tạo ra rào cản khó vượt qua cho họ. Với xuất phát điểm nguồn vốn ít, năng lực tài chính còn hạn chế, các doanh nghiệp này không thể có đủ các tài sản hoặc không có đủ giấy tờ hợp pháp của tài sản để thế chấp. Một giải pháp thay thế đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới và đang được nghiên cứu áp dụng tại Việt Nam, đó là thay vì đòi hỏi thế chấp, các doanh nghiệp phải có khả năng trả nợ thông qua việc lựa chọn và theo dõi họ thường xuyên. Trung tâm thông tin tín dụng tư nhân được xây dựng như một định chế để tăng cường tiếp cận tài chính và làm vai trò trung gian trong việc cung cấp các thông tin cho các tổ chức cho vay. Xây dựng văn bản hướng dẫn về việc thực hiện chế độ báo cáo tài chính, kế toán và thực hiện công khai tài chính doanh nghiệp hàng năm để nhằm nâng cao tính minh bạch trong quản lý tài chính của doanh nghiệp. Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Thái Bình phối hợp với các cơ quan có liên quan và các ngân hàng thương mại xây dựng đề án tín dụng theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng thương mại và đáp ứng nhu cầu vay vốn để đầu tư phát triển SXKD cho các Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có DNTN. Mục tiêu trong năm 2006 hoàn thành và có thể áp dụng cho các năm sau đó. Tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong nước và nước ngoài. Đa dạng hóa các hình thức thu hút vốn đầu tư, chú trọng các dự án sản xuất hàng xuất khẩu, công nghệ chế biến, thu hút nhiều lao động và các dự án có trình độ công nghệ cao. Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các dự án hoạt động hiệu quả, khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng quy mô đầu tư, đổi mới công nghệ. Hình thành một số hoạt động dịch vụ mới và nâng cấp hoạt động dịch vụ hiện có nhằm thu hút nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài như: trung tâm xúc tiến đầu tư, tư vấn đầu tư, nâng cấp mạng viễn thông quốc tế và các hoạt động ngân hàng, hải quan để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. 3.2.1.7. Phát triển thị trường, xúc tiến thương mại và đầu tư, phổ biến thông tin kỹ thuật, công nghệ tới các doanh nghiệp cũng như nâng cao năng lực của các doanh nghiệp này Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại; đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường và đối tác nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trong nước và nước ngoài, tập trung vào các ngành, lĩnh vực có tiềm năng thế mạnh của tỉnh như: nông-lâm-thủy sản, sản xuất vật liệu xây dựng,… và những ngành công nghệ cao. Đổi mới mạnh mẽ về nội dung và phương thức vận dụng, xúc tiến đầu tư theo ngành, lĩnh vực và địa bàn. Xây dựng quỹ xúc tiến đầu tư, tăng cường hoạt động thông tin, quảng bá, phát hành các ấn phẩm giới thiệu về hình ảnh của tỉnh, các chính sách phát triển kinh tế xã hội và thu hút đầu tư của địa phương trên các phương tiện thông tin đại chúng và qua mạng Internet. Tích cực hỗ trợ tìm kiếm thị trường tiêu thụ mới cho doanh nghiệp đồng thời phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại, buôn bán hàng quốc cấm và kinh doanh trái phéáp, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, bình ổn thị trường xã hội, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, thông thoáng giữa các vùng miền trong tỉnh, hội nhập với thị trường ngoài tỉnh và quốc tế. Tăng cường thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các tổ chức, xúc tiến thương mại trong nước và ngoài nước để khai thác, kết nối quan hệ đối tác và mở rộng hoạt động quảng cáo, tiếp thị, hội trợ, triển lãm hàng hóa. Tổ chức mạng lưới thông tin thương mại điện tử và đầu tư. Điều này sẽ giúp cho các DNTN nhanh chóng tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, quảng bá thương hiệu của mình. Hoàn thiện hệ thống thông tin, thống kê về doanh nghiệp, theo quy mô từng loại hình doanh nghiệp, theo lĩnh vực ngành nghề kinh doanh và theo địa bàn để tạo điều kiện cho việc hoạch định chính sách phù hợp với quy mô của doanh nghiệp và tình hình kinh tế địa phương. Cập nhật thông tin các doanh nghiệp để biên soạn và ban hành ấn phẩm thông tin về doanh nghiệp. Khuyến khích hỗ trợ các DNTN áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến của quốc tế và khu vực, đăng ký bản quyền sở hữu công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa và xây dựng thương hiệu hàng hóa, tạo điều kiện để doanh nghiệp nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hóa trong tỉnh, với thị trường trong nước, khu vực và quốc tế…Cụ thể, tỉnh cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp xây dựng thương hiệu thông qua việc tăng cường các hoạt động quảng bá giới thiệu sản phẩm, tham gia các hội chợ triển lãm trong nước và quốc tế, mở rộng liên kết với các vùng kinh tế trọng điểm. Thực hiện tốt các cơ chế chính sách, khuyến khích ưu đãi hoạt động khoa học - công nghệ trong các DNTN theo các quy định của Luật khoa học - công nghệ và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Xây dựng các trang Web để một mặt là nơi quảng cáo, tiếp cận thị trường thế giới cho các DNTN, mặt khác là diễn đàn cho các DNTN lẫn nhà nước trao đổi, học hỏi và hỗ trợ lẫn nhau. Thực hiện các chương trình hỗ trợ DNTN nâng cao năng suất chất lượng để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn 2006-2010 nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá thông qua hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp như: - Chương trình hỗ trợ DNTN áp dụng hệ thống quản lý chất lượng quốc tế (ISO 9000, HACCP…) chương trình hỗ trợ doanh nghiệp tiết kiệm năng lượng, chương trình đầu tư đổi mới công nghệ. - Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp tham gia hội nhập kinh tế quốc tế như: Hỗ trợ DNTN tham gia thiết kế, đăng ký, bảo hộ và khai thác quyền sở hữu công nghiệp; chương trình phát triển thương mại điện tử; chương trình triển khai hiệp định hàng rào kỹ thuật trong thương mại… - Địa phương cần trích một phần kinh phí từ ngân sách hàng năm để hỗ trợ cho DNTN trong hoạt động phát triển thị trường, xúc tiến thương mại và áp dụng khoa học - công nghệ trong sản xuất cũng như áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế. Đây là những phần hỗ trợ cần thiết để nâng cao khả năng cạnh tranh cảủau DNTN trong quá trình hội nhập. 3.2.1.8. Khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân tham gia liên kết, liên doanh với nhau và hỗ trợ phát triển các hiệp hội doanh nghiệp Hiệp hội các doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Thông qua tổ chức này, các DNTN có thể liên kết với nhau, hỗ trợ nhau về vốn, kỹ thuật trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Hiệp hội là nơi bảo vệ lợi ích chính đáng cho các doanh nghiệp khi có các tranh chấp kinh tế. Hiệp hội còn là đầu mối giữa các doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước. Do đó có thể nói hiệp hội làm tăng sức mạnh tổng hợp của các DNTN, phát huy được tiềm năng, thế mạnh của các DNTN. Hiện nay, Hiệp hội các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được hình thành và phát huy tác dụng trong phạm vi toàn tỉnh. Chính vì vậy cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp hoạt động theo địa bàn, ngành nghề và tham gia xây dựng các hội và hiệp hội, đồng thời đổi mới phương thức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các hội, hiệp hội. Hướng các tổ chức này tham gia vào việc tạo ra sức mạnh cộng đồng doanh nghiệp trong phát triển thị trường, chủ động tham gia bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp trong quá trình cạnh tranh và hội nhập. Hội và các hiệp hội cần hoạt động theo hướng là nơi hỗ trợ, làm đầu mối, cầu nối cho các hội viên liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp và nguồn cung cấp nguyên liệu, giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng, là nơi để trao đổi kinh nghiệm và tìm kiếm cơ hội kinh doanh, hỗ trợ nhau trong phát triển sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Cụ thể, trong lĩnh vực xuất khẩu, một lĩnh vực được coi là thế mạnh của các doanh nghiệp trong tỉnh thì vai trò của hội và hiệp hội trong việc hỗ trợ tìm kiếm thị trường là rất quan trọng. Tuy các DNTN đã được phép tham gia vào các hoạt động xuất nhập khẩu nhưng do hạn chế về mặt quy mô nên họ thường gặp rất nhiều cản trở trong lĩnh vực này. Các hạn ngạch xuất khẩu được phân bổ trực tiếp cho một số doanh nghiệp hoặc thông qua đấu thầu (khoảng 25-30% khối lượng hạn ngạch xuất khẩu). Các DNTN chỉ có thể tham gia thông qua đấu thầu. Tuy nhiên, cơ hội thắng thầu hầu như không có nếu như trước đó năng lực kinh doanh của các doanh nghiệp này không được mở rộng thông qua các hình thức hỗ trợ. ở nhiều nước, để hỗ trợ cho các DNTN, chính phủ đã can thiệp trực tiếp vào thị trường nhằm đảm bảo thị trường tiêu thụ cho các doanh nghiệp này được ổn định thông qua biện pháp mở ra các điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp tiếp cận các khoản chi tiêu và đầu tư của Chính phủ, các DNTN vừa và nhỏ được ký hợp đồng trực tiếp với Chính phủ. Trong khi đó, tại nước ta, những gói thầu chủ yếu thuộc về các doanh nghiệp quốc doanh hoặc có quy mô lớn. Vì vậy việc ra đời các hiệp hội trực tiếp tạo mối liên kết giữa các doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp nhỏ theo mô hình vệ tinh, hoặc giữa các doanh nghiệp nhỏ với nhau nhằm tạo được sức mạnh tổng hợp trong quá trình cạnh tranh với các doanh nghiệp quốc doanh, các DNTN lớn ở các tỉnh khác trong cả nước. 3.2.1.9. Thực hiện đầu tư và trợ giúp có trọng điểm để thu hút đầu tư và tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp tư nhân ở một số ngành hàng mà tỉnh có lợi thế so với địa phương khác Tập trung thực hiện tốt “5 trọng tâm kinh tế” mà Nghị quyết Đại hội Tỉnh Đảng bộ lần thứ XVII đề ra. Trong đó cần chú ý phát triển một số khu công nghiệp tập trung dọc theo các tuyến đường giao thông chính như An Hoà, Gia Lễ, Đồng Tu, Thanh Nê… và các cụm công nghiệp trên địa bàn huyện và các huyện như Phú Sơn - Hưng Hà, Quỳnh Côi - Quỳnh Phụ, Trà Bôi - Thái Thuỵ, Tam Quang - Vũ Thư, Nam Thịnh - Tiền Hải, Vũ Quý - Kiến Xương… Sự phát triển các khu công nghiệp này sẽ có tác dụng thu hút các DNTN ở Thái Bình có điều kiện thuận lợi trong đầu tư SXKD. “Đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và chuyển nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá” [36, tr. 21]. Mục đích là tạo ra nguồn nguyên liệu chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của các DNTN hoạt động trong lĩnh vực chế biến nông - lâm - thủy sản. Xây dựng và nâng cấp một số tuyến giao thông quan trọng nối các trung tâm kinh tế với các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề… Xây dựng và nâng cấp hệ thống truyền tải điện, bưu chính viễn thông… Tạo điều kiện thuận lợi cho các DNTN đầu tư vào các khu công nghiệp, làng nghề, khu du lịch… với chi phí ban đầu thấp nhất. Khuyến khích và ưu tiên các DNTN đầu tư vào các ngành nghề mà tỉnh có thế mạnh như chế biến nông - lâm - thủy sản, phát triển du lịch, sản xuất vật liệu xây dựng… Quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi cho DNTN phát triển các ngành nghề sản xuất có giá trị cao như chế biến thực phẩm, hàng tiêu dùng, nông sản để xuất khẩu, các ngành nghề truyền thống, phát triển làng nghề và kinh tế trang trại, giảIi quyết việc làm cho nhiều lao động và những doanh nghiệp du nhập được nghề mới về tỉnh đem lại hiệu quả kinh tế cao. 3.2.2. Về phía doanh nghiệp Trong cơ chế thị trường, mỗi doanh nghiệp là một chủ thể kinh tế độc lập, họ tự chủ kinh doanh các ngành nghề pháp luật không cấm, tự chịu trách nhiệm về các quyết định của mình. Do đó các doanh nghiệp cần biết phát huy tính tự chủ năng lực vốn có, đi tắt đón đầu ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ và trình độ quản lý tiến tiến. Các doanh nghiệp cần xác định bên cạnh sự hỗộ trợ của Nhà nước và của địa phương thì vấn đề quan trọng nhất đối với sự tồn tại của mỗi doanh nghiệp đó chính là mỗi doanh nghiệp phải tự biết phát huy nội lực tiềm năng sẵn có của mình kết hợp với khai thác các nguồn lực xã hội. Muốn vậy mỗi doanh nghiệp cần: - Xây dựng kế hoạch và chiến lược kinh doanh cho phù hợp với điều kiện thực tế của doanh nghiệp và nhu cầu của thị trường. Việc lập kế hoạch phải mang tính đồng bộ và lâu dài, bao gồm các chiến lược dài hạn, trung và ngắn hạn dựa trên những dự báo mang tính khoa học, xây dựng kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn, từng mặt hàng, từng khách hàng cụ thể. Tích cực khai thác các nguồn thông tin và kiến thức cần thiết phục vụ cho hoạt động SXKD, nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. - Thường xuyên quan tâm đến việc đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng để nâng cao trình độ của người quản lý và người lao động. Chú trọng áp dụng phương thức quản lý tiên tiến và nâng cao tính minh bạch trong quản trị nội bộ doanh nghiệp. Có kế hoạch tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực cho phù hợp với tình hình phát triển của doanh nghiệp và yêu cầu của thị trường. Các DNTN có thể liên kết với nhau và liên kết với các cơ sở đào tạo để đào tạo nghề theo yêu cầu đặt ra của từng doanh nghiệp. Trong quá trình này cần có sự hỗ trợ của chính quyền địa phương. Nhưng nếu doanh nghiệp chủ động sẽ có tác dụng tích cực trong việc giảm thiểu chi phí, đào tạo đúng địa chỉ, đúng ngành nghề mà doanh nghiệp cần sử dụng. - Chủ động liên kết, liên doanh giữa các DNTN, giữa các doanh nghiệp với các hội, hiệp hội và các tổ chức có liên quan để cùng nhau khắc phục khó khăn, vượt qua thử thách, khai thác tốt năng lực của từng doanh nghiệp và sức mạnh của sự hợp tác phát triển trong nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện và khuyến khích tích tụ và tập trung vốn cũng như nội bộ hoá các giao dịch kinh doanh giữa các doanh nghiệp. - Chú trọng hình thành một số DNTN mạnh trong một số lĩnh vực để tham gia các dự án có quy mô lớn, đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật cao như các doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực chế biến, xuất khẩu nông - lâm - hải sản. - Chủ động áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất. Đặc biệt là ứng dụng công nghệ sinh học trong nuôi trồng và chế biến nông- lâm - hải sản, những mặt hàng vốn là thế mạnh của tỉnh. Doanh nghiệp có thể học hỏi và tiếp thu các thành tựu này thông qua các tổ chức khuyến nông, các viện nghiên cứu và các trường đại học. Thu hút các lao động có kỹ năng chuyên môn từ các sinh viên khá giỏi tốt nghiệp tại các trường đại học đào tạo về các lĩnh vực này. Đồng thời mời các chuyên gia (các giáo sư, tiến sĩ giỏi) từ các viện và các trường đại học tham gia tư vấn và có thể đặt hàng nghiên cứu triển khai các dự án. - Nâng cao hiểu biết về quản lý pháp luật và ý thức chấp hành kỷ luật, xây dựng văn hoá, đạo đức kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam, kinh doanh trung thực, đúng pháp luật, có ý thức trách nhiệm với khách hàng nhằm phát triển bền vững, có hiệu quả và không ngừng tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. - Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý doanh nghiệp, phục vụ tốt và đạt hiệu quả cao cho chiến lược SXKD đã đề ra. Việc hoàn thiện bộ máy quản lý nhằm tạo ra một tổ chức năng động, hiệu quả, thích nghi với môi trường kinh doanh, tạo ra cơ chế nhịp nhàng, đồng bộ trong hoạt động, phát huy cao độ tính chủ động, sáng tạo của mỗi cá nhân. - Tìm kiếm các nguồn hỗ trợ về khoa học công nghệ, về tài chính thông qua các tổ chức trong nước và các tổ chức phi chính phủ nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Hiện nay, tại Việt Nam có rất nhiều tổ chức hoạt động với mục đích hỗ trợ và giúp đỡ các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ. Hỗ trợ về tài chính có Quỹ Hỗ trợ phát triển, Quỹ phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEDF), chương trình tài trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của JBIC, quỹ Doanh nghiệp Mêkông, chương trình Phát triển Dự án Mêkông (MPDF). Hỗ trợ các dịch vụ phát triển kinh doanh có chương trình Phát triển dự án Mêkông (MPDF), hỗ trợ của GTZ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ của SwissContact. Hỗ trợ xuất khẩu có chương trình phát triển khu vực tư nhân (PSD) của DANIDA, tổ chức xúc tiến thương mại của Nhật (JETRO), chương trình xúc tiến nhập khẩu của Thụy Sĩ (SIPPO), trung tâm xúc tiến nhập khẩu từ các nước đang phát triển. Hỗ trợ về kỹ thuật một cách trực tiếp có Tổ chức cung cấp dịch vụ cố vấn hải ngoại của Vương quốc Anh (BESO), tổ chức dịch vụ chuyên gia cao cấp (SES) của Đức. Các tổ chức này đã và đang nỗ lực hỗ trợ cho các DNTN tại Việt Nam. Việc tranh thủ các sự giúp đỡ này là quyền lợi và lợi ích của các DNTN. Mỗi tổ chức có những yêu cầu nhất định về đối tượng được hưởng các ưu đãi nhưng phần lớn đều là các cơ hội đối với các doanh nghiệp. Cụ thể, trong lĩnh vực hỗ trợ về tài chính, nếu như chương trình hỗ trợ của JBIC sẽ cho vay tối đa 65% tổng chi phí dự án, các ngân hàng tham gia góp 20% và doanh nghiệp tự bỏ 15% và áp dụng đối với các DNTN có ít hơn 300 nhân viên và vốn điều lệ không quá 10 tỷ đồng thì Quỹ Doanh nghiệp Mêkông lại chỉ đầu tư vào các doanh nghiệp tại Việt Nam, Lào và Campuchia, quỹ đầu tư trực tiếp với tư cách góp vốn chứ không cho vay và nhắm đến các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu tiềm năng, Chương trình phát triển dự án Mekong thì lại không cung cấp tài chính mà giúp đỡ các DNTN trong việc làm các thủ tục để có thể xin vay từ các tổ chức tài chính. Kết luận Sau 20 năm thực hiện đường lối đối mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, kinh tế tư nhân trong đó bộ phận quan trọng nhất là DNTN ở nước ta nói chung và tỉnh Thái Bình nói riêng đã có bước phát triển nhanh chóng, đóng góp ngày càng nhiều cho sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Đảng và nhà nước ta chủ chương "Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa" [6, tr 57]. Quan điểm đó của Đảng cùng với những chính sách cụ thể của nhà nước sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho DNTN ở Thái Bình phát triển nhanh và đóng góp thiết thực cho quá trình CNH, HĐH tỉnh nhà. DNTN có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. DNTN là lực lượng to lớn góp phần giải quyết việc làm, nâng cao đời sống nhân dân, đóng góp ngày càng lớn cho GDP, thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư trong xã hội, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra sự liên kết kinh tế chặt chẽ giữa các vùng, làm cho nền kinh tế trở nên năng động, hiệu quả; giữ gìn và phát triển ngành nghề truyền thống ... Trong điều kiện hiện nay, doanh nghiệp tư nhân ở Thái Bình vận động và phát triển theo xu hướng tăng nhanh về số lượng và quy mô các DNTN trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ, phát triển đa dạng, lực lượng lao động trong các DNTN có chất lượng ngày càng cao, nhiều loại hình doanh nghiệp ra đời và phát triển ... Thái Bình là địa phương hội đủ nhiều điều kiện về tự nhiên, kinh tế, xã hội thuận lợi cho các DNTN phát triển. Thời gian qua DNTN ở Thái Bình đã đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của địa phương, huy động được mọi nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, đóng góp ngày càng nhiều hơn cho ngân sách nhà nước, góp phần ổn định chính trị - xã hội. DNTN ở Thái Bình là nhân tố quan trọng tạo nên những kết quả toàn diện trong sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời kỳ đổi mới. Tuy vậy, DNTN ở Thái Bình hiện nay còn gặp một số hạn chế, yếu kém. Đó là: nguồn vốn đầu tư của các DNTN còn thấp, sản xuất mang tính chất khép kín, khả năng liên kết còn yếu, quản trị doanh nghiệp thiếu chuyên nghiệp, mặt bằng phục vụ sản xuất kinh doanh còn khó khăn, trình độ khoa học công nghệ lạc hậu, cơ chế chính sách còn bộc lộ nhiều bất cập, thiếu đồng bộ. Nhiều DNTN chưa nhận thức rõ mức độ ảnh hưởng của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến hoạt động của doanh nghiệp, trình độ tay nghề của người lao động, trình độ quản lý doanh nghiệp còn nhiều hạn chế... Để DNTN ở Thái Bình hiện nay phát triển đúng hướng và mang lại hiệu quả kinh tế cao, cần phải có những giải pháp đồng bộ, xuất phát từ chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước và phù hợp với điều kiện của địa phương. Trước hết cần phải nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền và nhân dân về vai trò, vị trí của DNTN; hoàn thiện khung khổ pháp lý, đẩy mạnh cải cách hành chính; tăng cường và nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước đối với DNTN. Trong đó cần thực hiện tốt một số giải pháp cụ thể như: đảm bảo mặt bằng sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp tư nhân; phát triển nguồn nhân lực; tạo điều kiện thuận lợi để các DNTN tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng; phát triển thị trường, xúc tiến thương mại và đầu tư, phổ biến thông tin kỹ thuật, công nghệ cho các DNTN; khuyến khích các DNTN tham gia liên kết, liên doanh với nhau; thực hiện đầu tư và trợ giúp có trọng điểm từ phía chính quyền. Đồng thời các DNTN tự mình phải trở thành chủ thể năng động, sáng tạo, nhạy bén với cơ chế thị trường và kịp thời thích ứng với quá trình hội nhập quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức tài chính trong và ngoài nước để tìm kiếm nguồn hỗ trợ về khoa học - công nghệ, về tài chính và đào tạo nguồn nhân lực nhằm phục vụ mục tiêu phát triển doanh nghiệp. Có thể khẳng định rằng, với những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, nhà nước và các cấp chính quyền địa phương, trong thời gian tới DNTN ở Thái Bình sẽ có bước phát triển nhanh chóng hơn, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn, đóng góp ngày càng nhiều hơn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Thái Bình trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Danh mục tài liệu tham khảo Bộ Tài chính (2004),Luật doanh nghiệp và hệ thống các văn bản hướng dẫn thực hiện, Nxb Tài chính, Hà Nội. Cục Thống kê Thái Bình (2005), Niên giám thống kê tỉnh Thái Bình. Cục thuế tỉnh Thái Bình (2003), Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2002, phương hướng, biện pháp thực hiện nhiệm vụ năm 2003. Cục thuế tỉnh Thái Bình (2005), Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2005 và 5 năm 2001-2005, nhiệm vụ, biện pháp năm 2006 và giai đoạn 2006-2010. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 5 (khóa IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam , Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Anh Đào (2003), "Môi trường tài chính và doanh nghiệp tư nhân", Tạp chí Chứng khoán Việt Nam, (3). Hoàng Văn Hoa (2005), "Một số ý kiến về phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam năm 2005", Tạp chí Kinh tế và phát triển, (93), tr.3. Nguyễn Huy Hoàng (2002), "Tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước - sự lựa chọn cho vấn đề tài chính? Nghiên cứu trường hợp một số nước ASEAN chủ yếu (ASEAN.5)", Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, (3). Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2001), Kinh tế tư nhân và quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân nước ta hiện nay, Tổng quan khoa học đề tài cấp bộ. Nguyễn Công Huyên (2004), "Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ trong doanh nghiệp tư nhân", Tạp chí Xây dựng Đảng, (9). Lê Hương (2005), "Nhìn nhận của người dân về một số vấn đề liên quan đến doanh nghiệp tư nhân và ảnh hưởng của nó đến đánh giá của họ về các chủ doanh nghiệp tư nhân", Tạp chí Tâm lý học, (5). Vũ Trọng Khải (2002), "Về phát triển kinh tế dân doanh trong nông nghiệp", Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn, (6). Hạ Tiểu Lâm (2002), "Khu vực kinh tế tư nhân Trung Quốc: Chính sách, quá trình phát triển và những trở ngại trước mắt", Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, (2). Trần Đức Lộc (2004), "Giải pháp nào để huy động có hiệu quả vốn của các doanh nghiệp tư nhân và dân cư", Tạp chí Tài chính, (2). Luật doanh nghiệp năm 2005 (2005), Nxb Thống kê. Trịnh Thị Hoa Mai (2005), Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình hội nhập, Nxb Thế giới. Lê Tâm Minh (2003), "Về đổi mới cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh trong giai đoạn hiện nay", Tạp chí Thanh tra, (8). Lưu Văn Nghiêm (2005), "Một số định hướng phát triển kinh tế ở tỉnh Thái Bình trước tiến trình hội nhập", Tạp chí Kinh tế và phát triển, (101), tr.31. Phạm Bá Nhiễu (2004), "Một số vấn đề về xây dựng tổ chức đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp tư nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh", Tạp chí Khoa học chính trị, (4). Nguyễn Hồng Nhung (2003), "Vai trò của Chính phủ trong việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước ASEAN", Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, (3). Đàm Oanh (16/3/2002), "Để doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển đúng hướng", Báo Nhân dân, tr.2. Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa, Nguyễn Văn áng (đồng chủ biên) (2004), Kinh tế - xã hội nhân văn trong phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Thế Quang (2004), "Đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp dân doanh trên địa bàn Hà Nội", Tạp chí Quản lý nhà nước, (10). Nguyễn Thị Tâm (2002), "Tài chính với sự phát triển của khu vực tư nhân", Tạp chí Tài chính, (7). Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình (3/2006), Báo cáo về xây dựng chuyên mục "vai trò lãnh, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Bình trong việc phát triển kinh tế - xã hội và hướng tới hội nhập kinh tế quốc tế". Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình (2004), Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 về tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình (2005), Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của tỉnh Thái Bình (2001-2005). Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình (2005), Báo cáo tổng hợp tình hình doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Bình (Báo cáo số 256/KH-ĐKKD ngày 16/5/2005). Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình (4/2006), Số liệu điều tra các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh ở Thái Bình. Phạm Quý Thọ (2005), "Vai trò của kinh tế tư nhân đối với phát triển kinh tế thị trường lao động ở Việt Nam", Tạp chí Kinh tế và phát triển, (94), tr.5. Hà Thu Thủy (2002), "Doanh nghiệp tư nhân đầu tiên ở Bình Thuận xuất khẩu trực tiếp trái thanh long", Tạp chí Nông thôn mới, (80). Tỉnh ủy Thái Bình (2002), Đề án về tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân (số 30 ĐA/TU ngày 24/5/2002). Tỉnh uỷ Thái Bình (2005), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII nhiệm kỳ 2005-2010. Trương Quang Thông (2003), "Định chế tài chính cho sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ khu vực tư nhân: khía cạnh về lý thuyết", Tạp chí Phát triển kinh tế, (3). Nguyễn Ngô Thị Hoài Thu (2005), "Mối quan hệ giữa cơ chế tài chính và cơ chế quản lý đối với doanh nghiệp dân doanh", Tạp chí Thuế nhà nước, (1), Vũ Thị Bạch Tuyết (2003), "Con đường nào cho kinh tế tư nhân Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế", Tạp chí Tài chính, (4). Đoàn Xuân Triếm (2002), "Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Quảng Bình: Thực trạng và một số đề xuất về công tác quản lý", Tạp chí Tài chính, (6). Lê Khắc Triết (2005), Đổi mới và phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam thực trạng và giải pháp, Nxb Lao động, Hà Nội. Trần Anh Tuấn (2002), "Việc thực hiện chính sách lao động trong các doanh nghiệp dân doanh ở thành phố Hồ Chí Minh", Tạp chí Lao động và xã hội, (192). Nguyễn Trí Tuệ (2002), "Giải thể, phá sản và tạm ngừng hoạt động của doanh nghiệp tư nhân", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (10). Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (1998), Đánh giá tổng kết Luật công ty và kiến nghị những định hướng sửa đổi chủ yếu. Đào Quang Vinh (2002), "Doanh nghiệp tư nhân và khả năng giải quyết việc làm qua một cuộc điều tra", Tạp chí Lao động và xã hội, (190). Hồ Văn Vĩnh (chủ biên) (2003), Kinh tế tư nhân và quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. www.Chinhphu.vn www.Mekong Capital.com www.mof.gov.vn www.mpi.gov.vn www.thaibinh.gov.vn www. Tuoitre.com.vn www.VCCI.com.vn www. Vnep.org.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2599.doc
Tài liệu liên quan