phần A Lời mở đầu
Lịch sử phát triển của nhân loại đã trải qua những bước thăng trầm khác nhau song có thể nói cổ phần hoá (CPH) doanh nghiệp Nhà nước là một nấc thang tất yếu lịch sử trên con đường trở thành nước phát triển của bất cứ quốc gia nào. Chính vì vậy cổ phần hoá là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đặc biệt quan trọng đối với nước ta, một nước có nền kinh tế chậm phát triển so với thế giới. Trong công cuộc đổi mới ở nước ta, vấn đề đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đặc biệt được
38 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1468 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Doanh nghiệp nhà nước Việt Nam và thực trạng cổ phần hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
coi trọng nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Có hiểu rõ nguồn gốc và bản chất của cổ phần hoá cũng như vai trò của cổ phần hoá trong nền kinh tế thị trường chúng ta mới khắc phục được tình trạng tụt hậu về kinh tế của đất nước, nâng cao không ngừng đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghia xa hoi
Vấn đề cổ phần hoá không phải đến bây giờ mới được đề cập mà đã được Đảng đề ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Và luôn coi trọng đó là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Song chỉ mới vài năm gần đây vấn đề CPH mới được đưa lên tầm cao mới, chiều sâu mới nhằm từng bước tạo ra thế và lực mới cho đất nước. Chính vì hiểu được tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề CPH mà em đã chọn đề tài này với hy vọng phản ánh được phần nào thực tế sôi động và bức xúc của công cuộc CPH hiện nay.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Trần quang huy - giáo viên khoa quản trị kinh doanh trường Đại học Kinh tế Quốc dân để em hoàn thành tốt đề án này. Vì đây là lần đầu tiên em viết một bài đề án có tính chất quan trọng và do thời gian có hạn nên không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định, rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy giáo cùng các bạn để đề án được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
B- Nội dung
I- Các chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
1- khái niệm về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và quy định về công ty cổ phần
CPH là loại Công ty được thành lập do nhiều người bỏ vốn ra (cổ đông) tiền vốn được chia thành các cổ phần bằng nhau, người hùn vốn với tư cách là cổ đông sẽ mua được một số cổ phần đó.
Theo luật Công ty ở nước ta, Công ty cổ phần là Công ty trong đó:
- Số thành viên gọi là cổ đông mà Công ty phải có trong suốt thời gian hoạt động ít nhất là bẩy.
Vốn điều lệ của Công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu. Mỗi cổ đông có thể mua một hoặc nhiều cổ phiếu.
- Cổ phiếu được phát hành có thể ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu của sáng lập viên, của thành viên hội đồng quản trị phải là những cổ phiếu có ghi tên.
- Cổ phiếu không ghi tên được tự do chuyển nhượng. Cổ phiếu có ghi tên chỉ được chuyển nhượng nếu được sự đồng ý của hội đồng quản trị. Công ty cổ phần được tự do đặt tên. Trên bảng hiệu, hoá đơn quảng cáo, báo cáo, tài liệu, giấy tờ giao dịc khác của Công ty đều phải ghi tên Công ty kèm theo các chữ "Công ty cổ phần" và vốn điều lệ.
2. Một số quan điểm cơ bản trong quá trình tiến trình cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước
- Quan điểm thứ nhất: Việc lựa chọn những doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần phải được đặt trong chương trình tổng thể đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước và sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước.
Hiện nay chương trình này đang được soạn thảo với những quan điểm cơ bản dựa trên các Nghị quyết của Đảng ở HNTW 2 và Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng (khoá VII), các Nghị quyết của quốc hội (khoá IX), Nghị định 388/HĐBT, Nghị quyết 315/HĐBT của Chính phủ. Xét theo những yêu cầu cấu trúc lại khu vực kinh tế Nhà nước để duy trì được vai trò chủ đạo và định hướng sự phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta như đã nêu ra ở trên, có thể chia làm 3 nhóm doanh nghiệp Nhà nước với những giải pháp đổi mới khác nhau.
Nhóm thứ nhất: là các doanh nghiệp mà trong điều kiện hiện nay cần phải giữ lại hình thức doanh nghiệp Nhà nước 100% vốn. Thuộc vào nhóm này là những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực sau:
+ Các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực an ninh và quốc phòng như sản xuất vũ khí, thuốc nổ, các phương tiện thu phát sóng. Tuy nhiên, trong lĩnh vực này có rất nhiều doanh nghiệp được thành lập theo quyết định 268/HĐBT thì không nằm trong diện nêu trên và phải được xử lý theo tinh thần quyết định 315/HĐBT và quyết định 196/CôNG TY.
+ Các doanh nghiệp đóng vai trò then chốt của nền kinh tế mà Nhà nước cần phải nắm để thực hiện các chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế như các lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, ngân hàng, ngoại thương, năng lượng, dầu khí, khai khoáng.
+ Các doanh nghiệp thuộc về cơ sở hạ tầng có tính chất nền tảng giúp cho các ngành khác phát triển. Đó là những ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm, tỷ suất lợi nhuận thấp như đường sá, cầu cống, bến cảng, sây bay, các ngành văn hóa giáo dục, y tế, thuỷ lợi… Nói chung là những ngành không hấp dẫn và cũng chưa đủ sức đối với tư nhân.
+ Các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực cần thiết cho quốc kế dân sinh nhưng các thành phần kinh tế khác không đầu tư vì không có lãi và Nhà nước phải đứng ra tổ chức và tài trợ cho các hoạt động này.
Các doanh nghiệp Nhà nước thuộc các lĩnh vực nêu trên thực hiện các giải pháp đổi mới tổ chức và cán bộ quản lý, áp dụng kỷ luật của thị trường vào trong doanh nghiệp, thực hành trao quyền tự chủ trong việc bảo toàn vốn được giao đồng thời kiểm soát chặt chẽ theo Luật doanh nghiệp Nhà nước. Đối với các doanh nghiệp này trong một số trường hợp và trong những điều kiện nhất định có thể được Nhà nước trợ cấp hoặc bù lỗ.
Với việc ban hành Luật doanh nghiệp Nhà nước cần áp dụng một số giải pháp đối với nhóm này như sau:
- Thực hiện quy chế Hội đồng quản trị để tách biệt rõ ràng quyền sở hữu và quyền quản lý kinh doanh trong doanh nghiệp.
- Thực hiện chế độ bảo toàn và phát triển vốn được giao.
- Bỏ chế độ trích lập ba quỹ, chỉ khống chế tỷ lệ quỹ tích luỹ và quỹ dự phòng, còn phần lợi nhuận sau khi đã làm đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước thì Hội đồng quản trị và tập thể lao động doanh nghiệp quyết định mục đích và mức độ sử dụng cho khen thưởng, phúc lợi.
- áp dụng hệ thống định mức về chi phí và tiền lương, chịu sự kiểm toán thống nhất của Nhà nước.
Nhóm thứ hai: là các doanh nghiệp thuộc các ngành, các lĩnh vực xét thấy không cần thiết phải duy trì hình thức sở hữu Nhà nước thì nên thu hẹp dần bằng quá trình đa dạng hoá và cổ phần hoá để khuyến khích cạnh tranh và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này.
Có thể nêu ra một số giải pháp phù hợp áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc nhóm này:
- Cho tư nhân hoặc tập thể lao động tại doanh nghiệp thuê, nhận khoán hoặc đấu thầu kinh doanh bằng các hợp đồng quản lý, Nhà nước vẫn giữ quyền sở hữu.
- Cổ phần hoá từng phần hay toàn bộ doanh nghiệp để chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần.
- Bán toàn bộ cổ phần doanh nghiệp Nhà nước cho tập thể cán bộ quản lý và công nhân viên trong doanh nghiệp.
- Bán toàn bộ cổ phần doanh nghiệp Nhà nước cho các nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài nước.
- Thanh lý tài sản từng doanh nghiệp Nhà nước để giảm phần vốn cố định không hiệu quả.
- Phát hành cổ phiếu nhằm huy động nguồn vốn mới của tư nhân vào doanh nghiệp Nhà nước để từng bước chuyển thành công ty cổ phần.
Nhóm thứ ba: là các doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh toán, không thuộc diện Nhà nước trợ cấp như nhóm thứ nhất, và không thể tiến hành cổ phần hoá như ở nhóm thứ hai thì được xử lý theo Luật phá sản doanh nghiệp hoặc theo quyết định 315/HĐBT với bốn giải pháp: sát nhập, cho thuê, nhượng bán và giải thể. Kiên quyết không duy trì trợ cấp dưới mọi hình thức làm tăng thêm gánh nặng cho ngân sách và cho xã hội.
Như vậy, Nhà nước phải tiến hành đồng thời ba hệ thống giải pháp với ba nhóm doanh nghiệp khác nhau để đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước. Tuy vậy, nhóm doanh nghiệp thứ hai với khoảng 60- 70% tổng số doanh nghiệp Nhà nước hiện nay, chiếm vị trí hàng đầu trong các giải pháp vì khối lượng công việc to lớn và thời gian lâu dài đòi hỏi. Giải pháp cơ bản cho nhóm này chủ yếu là tiến hành cổ phần hoá để từng bước tạo ra loại hình doanh nghiệp công ty cổ phần trong cơ chế thị trường ngày càng được xác lập và củng cố.
- Quan điểm thứ hai. Việc lựa chọn các doanh nghiệp để tiến hành cổ phần hoá thuộc thẩm quyền và chức năng của Nhà nước với tư cách là người sở hữu chứ không tuỳ thuộc vào ý kiến của giám đốc và tập thể lao động trong doanh nghiệp. Nguyên tắc này được nêu ra để làm cơ sở cho các cơ quan chủ quản của Nhà nước phân loại các doanh nghiệp do mình quản lý để thực hiện cổ phần hoá. Về cơ bản, có thể sắp xếp các doanh nghiệp thành 3 loại:
a) Loại doanh nghiệp không chuyển thành công ty cổ phần vì ở những ngành , những lĩnh vực Nhà nước cần có sự kiểm soát và độc quyền như đã nêu trong quan điểm thứ nhất.
b) Loại doanh nghiệp có thể chuyển thành công ty cổ phần nhưng trong vài năm tới các điều kiện chủ quan và khách quan chưa thuận lợi. Chẳng hạn những doanh nghiệp quy mô quá lớn, lợi nhuận chưa đủ hấp dẫn để có thể bán được cổ phiếu hoặc những doanh nghiệp đang là nguồn thu ngân sách chủ yếu của Nhà nước.
c) Loại doanh nghiệp ưu tiên chuyển thành công ty cổ phần. Loại này được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên trong vòng một vài năm tới. Về đại thể, trong giai đoạn đầu của thử nghiệm, các doanh nghiệp được tiến hành cổ phần hoá cần phải thoả mãn một số yêu cầu sau:
- Trước hết, nên thực hiện ở những doanh nghiệp có quy mô vừa phải, vì phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta có quy mô vừa và nhỏ. Nếu làm ở những doanh nghiệp có quy mô nhỏ thì chi phí để làm thí điểm quá tốn kém so với khả năng thu hồi vốn, nếu làm ở những doanh nghiệp quy mô lớn thì không rút ra được những bài học có tính phổ biến cho việc tiếp tục triển khai chương trình vì những doanh nghiệp lớn thường sống trong môi trường độc quyền được Nhà nước bảo hộ hơn là trong môi trường cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp khác.
Theo cách phân loại trên, vốn pháp định được ban hành cùng với Nghị định 222/HĐBT ngày 23-7-1991 để cụ thể hoá một số điều quy định trong Luật công ty thì doanh nghiệp quy mô lớn có số vốn pháp định tối thiểu: 1000- 1500 triệu đồng, quy mô vừa: 500- 1000 triệu đồng, quy mô nhỏ: 50- 500 triệu đồng. Như vậy, việc lựa chọn các doanh nghiệp làm thí điểm cổ phần hoá nên lấy các doanh nghiệp có quy mô vốn pháp định từ 500 triệu trở lên là thích hợp.
- Các doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi hay tuy trước mắt gặp khó khăn nhưng có triển vọng về thị trường và lợi nhuận. Yêu cầu này là cần thiết để thực hiện thành công các mục tiêu đặt ra trong chương trình thí điểm, vì nếu lựa chọn các doanh nghiệp có thành tích hoạt động kinh doanh thua lỗ thì không thể bán được cổ phiếu, vì vậy không thực hiện được sự đa dạng hoá sở hữu và thu hút các nguồn vốn trong xã hội. Tỷ suất lợi nhuận bình quân ở các doanh nghiệp này phải có mức đủ sức hấp dẫn cho người đầu tư chấp nhận rủi ro. Thường mức này phải cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng và trong điều kiện lạm phát được duy trì ở mức dưới 10%.
- Quan điểm thứ ba: Dựa trên bảng cân đối tài sản và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần xác định các mục tiêu chủ yếu và cụ thể đối với từng doanh nghiệp được lựa chọn cổ phần hoá. Dựa trên ba mục tiêu được nêu ra ở trên có thể xác định từng loại doanh nghiệp cụ thể sau đây:
- Thứ nhất. Nếu nhằm mục đích thu hồi vốn để đầu tư vào lĩnh vực khác thì điều kiện doanh lợi ít được chú ý hơn là bảng cân đối tài sản. Thực chất cổ phần hoá loại doanh nghiệp này là Nhà nước không hướng vào mục tiêu huy động vốn để tiếp tục kinh doanh mà là bán doanh nghiệp với tình trạng pháp lý đầy đủ để nhiều tư nhân muốn kinh doanh hùn vốn "mua lại pháp nhân" để hoạt động. Nói chung, cách này phù hợp đối với những người mua tư nhân vì họ không thể mua một doanh nghiệp chưa đầy đủ về mặt pháp lý. Đây là một hướng chuyển các doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần tư nhân.
- Thứ hai. Nếu nhằm mục tiêu huy động vốn để Nhà nước tiếp tục kinh doanh thì điều kiện về doanh lợi và nhất là điều kiện kinh doanh cần được nhấn mạnh hơn. Như vậy sẽ có những trường hợp sau đây:
+ Doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường bảng cân đối tài sản thực dương. Việc phát hành thêm cổ phiếu sẽ tạo cơ hội mở rộng sản xuất kinh doanh.
+ Doanh nghiệp bị thâm hụt nặng cán cân thanh toán tài chính nhưng chưa đến mức phát mại, tuy nhiên sản phẩm đã có thị trường ổn định và có khả năng mở rộng ở trong và ngoài nước. Việc cổ phần hoá sẽ góp phần huy động thêm vốn hoặc chuyển nợ thành vốn góp để khai thác thế mạnh về thị trường.
+ Doanh nghiệp mới xây dựng trong vài năm lại đây có công nghệ và trang thiết bị tương đối hiện đại, nhưng thiếu vốn lưu động, bộ máy quản lý yếu kém, kinh doanh kém hiệu quả thì nên tiến hành cổ phần hoá để thay đổi hình thức tổ chức và nhân sự cũng như huy động thêm vốn lưu động cho hoạt động của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp đã có những hợp đồng lớn với nước ngoài, có những quan hệ bạn hàng chặt chẽ với thị trường nước ngoài, đang thiếu vốn để tăng thêm quy mô sản xuất hoặc để đối tác. Việc cổ phần hoá sẽ tạo thêm điều kiện thuận lợi để liên kết, liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài về công nghệ, quản lý kinh doanh và khai thác thị trường.
- Doanh nghiệp có mức lợi nhuận cao, nếu đầu tư thêm công nghệ mới sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch. Việc cổ phần hoá sẽ tạo điều kiện tận dụng các lợi thế này.
Như vậy, dựa vào những điều kiện cụ thể của từng loại doanh nghiệp nêu trên thì tiến hành cổ phần hoá là để chuyển sang một mô hình doanh nghiệp huy động, quản lý và sử dụng vốn đạt hiệu quả cao.
- Thứ ba, nếu nhằm mục tiêu hữu sản hoá công nhân, tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp thì Nhà nước cần chú ý đến điều kiện mức thu nhập của công nhân có khả năng mua cổ phần dưới dạng trả góp cũng như tỷ trọng "vốn tự có" trong tổng số vốn pháp định của doanh nghiệp. Về vấn đề này, Nhà nước đã có chỉ thị 84-TTg của Thủ tướng chính phủ cụ thể hoá thêm về các biện pháp nhằm đẩy mnạh chương trình thí điểm cổ phần hoá, trong đó hỗ trợ cho cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp vay để mua cổ phiếu với điều kiện ưu đãi như: vay không phải trả lãi thời gian 5 năm với mức bình quân không quá 3 triệu đồng và mức cao nhất 5 triệu đồng/người tuỳ theo mức lương và thâm niên công tác. Để giải quyết khó khăn ban đầu về tài chính đối với cán bộ công nhân trong doanh nghiệp, Nhà nước đã cho hép doanh nghiệp có thể dùng số dư quỹ phúc lợi và khen thưởng chia cho cán bộ công nhân viên để mua cổ phiếu. Ngoài ra, Nhà nước cũng nên dùng một phần nguồn "vốn tự có" để trợ giúp thêm với phương châm không lấy lãi và thời gian hoàn trả lâu dài.
- Quan điểm thứ tư. Mọi tài sản của doanh nghiệp đều thuộc sở hữu Nhà nước, trừ quỹ phúc lợi xã hội của tập thể là phần tiền lương không chia để lại cho mọi cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp cùng hưởng. Phần "vốn tự có" của các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay thực chất là phần lợi nhuận và quỹ khấu hao được Nhà nước cho phép giữ lại để tái sản xuất mở rộng, nên đương nhiên là thuộc về Nhà nước và trở thành vốn cổ phần của Nhà nước trong công ty cổ phần sẽ được hình thành. Điều này là hợp lý khi xét về mặt pháp lý trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khi tất cả các khoản có và nợ cuả doanh nghiệp đều thuộc về Nhà nước. Không thể quy kết các khoản nợ của doanh nghiệp cho tập thể. Vì vậy, lẽ đương nhiên khi tiến hành lập bảng cân đối tài sản trong doanh nghiệp, xác lập giá trị tải sản còn lại để cổ phần hoá thì cũng không thể đưa "vốn tự có" ra ngoài bảng cân đối vì nó là của tập thể. Xác định quan điểm này để bảo đảm việc chốngl ại sự phân tán tài sản của Nhà nước và phân phối không công bằng trong quá trình chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần.
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận vấn đề này có tính lịch sử và đặc thù trong cơ chế quản lý các doanh nghiệp trước đây của Nhà nước. Cơ chế trích lập "ba quỹ" hết sức đặc thù của Việt Nam là nguồn gốc hình thành "vốn tự có" của doanh nghiệp. Và có không ít doanh nghiệp đã huy động vốn đầu tư vào sản xuất bổ sung lấy từ quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi, mà lẽ ra người lao động trong doanh nghiệp được quyền sử dụng hết. Vì vậy, khi tiến hành cổ phần hoá đối với từng doanh nghiệp cụ thể, cần xem xét kỹ lưỡng để tránh sự đánh động những doanh nghiệp làm ăn tốt do có đầu tư thêm nhiều với những doanh nghiệp chỉ dựa vào đầu tư của Nhà nước. Cách xử lý về nguồn vốn này có rất nhiều ý kiến với nhiều phương án khác nhau. Cách khả thi nhất có lẽ Nhà nước nên dành một số "cổ phần sáng lập" lấy từ nguồn vốn này, vận dụng theo điều 30 khoản 3 của Luật công ty, để tập thể lao động của doanh nghiệp được hưởng chung cổ tức và không chia bình quân cho mọi người. Số cổ phần này không chuyển nhượng và về lâu dài có thể thuộc về phần phúc lợi của công ty cổ phần sau này (36, 31).
- Quan điểm thứ năm. Việc xác định giá trị của doanh nghiệp Nhà nước để cổ phần hoá phải chú ý đến cả hai yếu tố cấu thành: giá trị hữu hình và giá trị vô hình. Trong yếu tố giá trị hữu hình về cơ bản có hai bộ phận giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp và giá trị đất đai mà doanh nghiệp đang sử dụng làm mặt bằng sản xuất kinh doanh. Trong yếu tố giá trị vô hình như uy tín và nhãn hiệu sản phẩm của doanh nghiệp, ưu thế về thị trường và khả năng cạnh tranh, các điều kiện về địa điểm, quảng cáo, bạn hàng… tựu chung lại, đều biểu thị ở khả năng sinh lợi hay tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp.
Như vậy, xem xét đầy đủ hai yếu tố cấu thành này của giá trị doanh nghiệp để có sự kết hợp hai phương pháp xác định giá trị của doanh nghiệp.
- Phương pháp tính giá trị doanh nghiệp dựa trên cơ sở hệ thống kế toán hiện hành (theo số liệu kiểm kê 1-1-1990 hoặc theo văn bản giao vốn cho các doanh nghiệp). Phương pháp này là cách khả thi để có được một hình dung về đại lượng giá trị tài sản hữu hình của doanh nghiệp.
- Phương pháp tính giá trị doanh nghiệp dựa trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận bình quân. Đây là phương pháp cần thiết để bổ sung thêm phần giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp.
Trên thực tế sự kết hợp của hai phương pháp tính giá trị nêu trên hết sức linh hoạt, tuỳ thuộc vào những điều kiện thực tế và quan hệ cung cầu cụ thể đối với từng doanh nghiệp. Về cơ bản, các phương pháp và công thức để tính giá trị doanh nghiệp đã được nêu trong Đề án ban hành kèm theo Quyết định 202- HĐBT và được cụ thể hoá đầy đủ, chi tiết trong các tài liệu hướng dẫn của Bộ tài chính và một số sách, báo đã công bố (70).
Do điều kiện đặc thù của nước ta chưa có thị trường chứng khoán, nên công việc này cần tranh thủ sự trợ giúp của các công ty kiểm toán, các tổ chức tài chính quốc tế. Và điều quan trọng hơn là cần thành lập một cơ quan chuyên trách về vấn đề này để theo dõi, hướng dẫn, điều chỉnh và rút kinh nghiệm trong quá trình làm thí điểm cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước ở giai đoạn này. Công việc xác định giá trị của doanh nghiệp là một vấn đề khó khăn và phức tạp. Tuy nhiên, cũng không nên quá câu nệ vào trở ngại này mà làm chậm trễ quá trình chuyển đổi các doanh nghiệp Nhà nước sang các hình thức công ty cổ phần để thích ứng kịp với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường mở cửa ở nước ta.
- Quan điểm thứ sáu. Phương pháp bán cổ phiếu ở những doanh nghiệp được chọn cổ phần hoá cần thực hiện công khai, rõ ràng, thủ tục đơn giản, dễ hiểu đối với mọi người. Về cơ bản có thể vận dụng một hoặc kết hợp ba phương pháp cổ phần hoá sau:
+ Bán cho các đối tượng xác định trước, áp dụng cho các doanh nghiệp có bộ máy quản lý yếu kém. Các đối tượng được lựa chọn thường đóng vai trò những cổ đông chủ lực để tạo lập cơ sở cho việc tiếp tục cổ phần hoá rộng rãi sau này. Vì vậy, thường là những người có vốn, có trình độ kỹ thuật hoặc có kinh nghiệm về quản lý. áp dụng phương pháp này, thường thích hợp cho loại doanh nghiệp Nhà nước sẽ được chuyển thành công ty cổ phần tư nhân.
+ Bán rộng rãi cho mọi đối tượng, áp dụng cho các doanh nghiệp có thành tích kinh doanh khả quan, mức độ lợi nhuận bảo đảm. Đối với những doanh nghiệp này, mức giá cổ phiếu cần phải được nghiên cứu cụ thể theo quan hệ cung cầu của thị trường những người mua tiềm năng.
+ Bán cho nội bộ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, áp dụng cho các doanh nghiệp quy mô nhỏ và họ có khả năng mua đại bộ phận cổ phiếu của doanh nghiệp.
Việc bán cổ phiếu có thể được bán trực tiếp tại trụ sở chính và các chi nhánh của doanh nghiệp hoặc uỷ thác cho các ngân hàng, các công ty tài chính làm đại lý.
- Quan điểm thứ bảy. Để thực hiện thành công chương trình cổ phần hoá. Nhà nước không chỉ chú ý đến thu hồi vốn mà cần phải biết chấp nhận một khoản phí tổn nhất định. Đó là những khoản phí tổn cần thiết mà ở nước nào cũng có như những chi phí bảo hiểm, trợ cấp cho người lao động bị mất việc làm và tìm kiếm nghề mới, những chi phí do bán giá thấp nhằm ưu đãi những tầng lớp dân cư nhất định theo những mục tiêu chính trị, xã hội của Chính phủ, những chi phí cho bộ máy thực hiện và các cơ quan môi giới, tư vấn, quảng cáo. ngoài ra, với điều kiện đặc thù ở nước ta cần có thêm những phí tổn khác như vì hiệu quả và lợi ích lâu dài của việc chuyển đổi mô hình kinh doanh có thể chấp nhận bán các doanh nghiệp thấp hơn giá thị trường chút ít để khuyến khích mọi người, mọi thành phần tham gia, hoặc vì các mục tiêu đa dạng hoá sở hữu và tạo điều kiện cho người lao động làm chủ doanh nghiệp. Nhà nước có thể chấp nhận những chi phí về trợ cấp, cho vay với những điều kiện ưu đãi đặc biệt, bán giá thấp cho một số tầng lớp nhân dân và cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Thực tiễn của việc làm thí điểm cho thấy khoản phí tổn này là cần thiết cho sự nghiệp cổ phần hoá để mưu cầu lợi ích cơ bản và lâu dài hơn là lợi ích trước mắt của việc thu hồi vốn đối với Nhà nước.
- Quan điểm thứ tám. Theo tinh thần Quyết định 202- HĐBT thì các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá đương nhiên sẽ hoạt động trong khuôn khổ luật công ty (có hiệu lực từ ngày 15-4-1991) cả về hình thức tổ chức quản lý lẫn hoạt động tài chính. Vì vậy, cần phải có điều lệ và quy chế hoạt động tuân thủ theo các quy định của Luật công ty. Một vấn đề đặt ra: ai sẽ là người thay mặt cho sở hữu Nhà nước trong các công ty này? Vì theo những quy định bổ sung của Luật công ty thì viên chức Nhà nước không được làm sáng lập viên hoặc quản trị viên trong công ty . Điều này đòi hỏi cùng với việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần, Nhà nước phải gấp rút xây dựng một đội ngũ các nhà sáng lập viên độc lập không phụ thuộc hàng ngũ công chức ỏ các Bộ chủ quản và địa phương để thay mặt Nhà nước quản lý các nguồn vốn trong các công ty cổ phần có sự tham gia của Nhà nước. Xét về mặt tổ chức, đội ngũ này sẽ thuộc một cơ quan của Nhà nước hoạt động như một công ty tài chính quốc gia, chuyên trách quản lý và thực hiện các hoạt động đầu tư thông qua hình thức các công ty cổ phần nhằm bảo toàn và phát triển sở hữu Nhà nước theo các yêu cầu điều tiết định hướng nền kinh tế. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần xây dựng đội ngũ các nhà quản trị kinh doanh đủ năng lực hoạt động trong điều kiện mới, không phân biệt thuộc khu vực Nhà nước hay tư nhân. Trong nhiều trường hợp, có thể thuê các nhà quản trị kinh doanh nước ngoài để học tập kinh nghiệm và kiến thức cũng như kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu của các doanh nghiệp Việt Nam.
- Quan điểm thứ chín. Các doanh nghiệp được lựa chọn để cổ phần hoá cần phải có sự giải quyết rõ ràng, dứt điểm các vấn đề tồn đọng về tài chính và lao động trước khi chuyển sang công ty cổ phần.
Các vấn đề tài chính có thể gồm:
+ Các tài sản đang chờ thanh lý. Cần phải cố gắng giải quyết nhanh theo các quy định của Thông tư 34 TC/CN ngày 31/7/1990 của Bộ tài chính. Nếu xử lý không kịp thì phải để riêng để Bộ chủ quản và cơ quan tài chính tiếp tục xử lý.
+ Các tài sản mất mát, thiếu hụt, cần phải truy cứu trách nhiệm rõ ràng và kết luận dứt khoát về cách giải quyết.
+ Các khoản nợ phải đòi, phải trả. Cần phải xử lý các khoản này theo hướng dẫn của Ban thanh toán nợ Trung ương (giai đoạn 2). Nếu chưa xong thì phải báo cáo đầy đủ để Bộ chủ quản và cơ quan tài chính có biện pháp cụ thể để xử lý trước khi tiến hành cổ phần hoá.
+ Các nguồn vốn liên doanh, liên kết. Cần phải được thống kê và báo cáo đầy đủ để Bộ chủ quản và cơ quan tài chính xử lý. Hoặc là chuyển thành vốn góp trong công ty cổ phần, hoặc là sẽ chuyển thành phần nợ để Nhà nước chịu trách nhiệm thanh toán sau. Đối với các liên doanh với nước ngoài cũng có thể giải quyết theo hướng này.
+ Các vấn đề về lao động thì đã có sự hướng dẫn trong Thông tư 09/LĐTBXH-TT ngày 27/7/1992 của Bộ Lao động thương binh và xã hội. Về cơ bản cần phải giải quyết tốt các v ấn đề về chính sách và chế độ cho những người lao động nghỉ hưu, mất sức, thôi việc, tuyển dụng lại, tìm việc mới, các chế độ bảo hiểm xã hội. Trong quá trình xử lý nếu có vấn đề gì vượt khỏi thẩm quyền của doanh nghiệp thì báo cáo lên Bộ chủ quản giải quyết.
3. các kinh nghiệm cổ phần hoá ở các nước
3.1- Kinh nghiệm CPH ở Liên Xô (cũ)
Thường "chương trình đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải cách kinh tế của Chính phủ liên bang Nga", những nhiệm vụ cơ bản của việc tư nhân hoá cần phải thực hiện trong vòng 3 - 4 năm. Hiện nay các vấn đề về tổ chức, lập pháp, thể chế liên quan đến tư nhân hoá đã được hoàn thành. Thời gian tiếp theo, tư nhân hoá sẽ được thực hiện theo "luật về tư nhân hoá các xí nghiệp quốc doanh và công cộng", đồng thời Liên bang Nga cũng tiến hành hoàn thiện các văn bản dưới luật, cũng như hoàn thiện thêm bản thân luật tư nhân hoá này.
Có phần giống như Ba Lan, liên bang Nga tiến hành tư nhân hoá theo 2 hướng đó là tư nhân hoá "nhỏ": Tư nhân háo ngành thương nghiệp và dịch vụ, các xí nghiệp công nghiệp lớn và những xí nghiệp quốc doanh lớn thuộc các ngành khác.
Hiện nay Liên bang Nga đang bắt đầu tiến hành 2 hướng này với tên gọi là giai đoạn tư nhân hoá hàng loạt. Nhiệm vụ của giai đoạn này là tạo ra một khu vực tư nhân theo tiến trình sau: đến cuối 1993 sẽ chuyển sang khu vực tư nhân trên 30% toàn bộ giá trị tài sản sản xuất của đất nước, đến cuối năm 1994 thêm 20% nữa, và đến cuối năm 1995 phải đạt được 60%. Trong số đó 80 - 85% là chuyển cho không (sử dụng phiếu tư nhân hoá và các ưu đãi cho tập thể lao động).
Năm 1992 thực hiện bước 1 là CPH các xí nghiệp lớn. Các cổ phiếu của chúng hoặc do Nhà nước nắm hoặc do tập thể lao động nắm. Với việc CPH này sẽ này sinh một xu hướng ngược lại, xu hướng đã hình thành trước đây. Đó là xu hướng giảm cơ cấu độc quyền, thiết lập các xí nghiệp nhỏ và vừa.. để thực hiện có hiệu quả tư nhân hoá "nhỏ" người ta dự kiến cho phép thuê thâu mặt bằng và đất canh tác của các xí nghiệp được tư nhân hoá, mở rộng khả năng cấp tín dụng bằng cách đánh thuế bất động sản, tăng kích thích để mua các xí nggiệp cho thuê thầu, không cho phép các cơ quan quản lý tài sản tư nhân hoá có quyền thu nhập nào khác ngoài một phần trích từ thu nhập do bán tài sản, chuyển phần lớn tiền thu được do tư nhân hoá cho ngân sách địa phương.
Quá trình CPH phần lớn các xí nghiệp lớn của Liên bang Nga được tiến hành vào tháng 7 đến tháng 10 năm 1992. Các xí nghiệp này sẽ được cải tạo thành xí nghiệp cổ phần mở. Cổ phiếu của các xí nghiệp này được bán rộng rãi để thu lại phiếu tư nhân hoá đã phát cho nhân dân.
ở cấp xí nghiệp, để thực hiện CPH, ban giám đốc cùng với tập thể công nhân sẽ soạn thảo ra một kế hoạch tư nhân hoá, phương án phân chia quyền lợi cho người lao động, cách thức và tiến trình bán cổ phiếu, có thể bán đấu giá cổ phiếu khống chế hoặc các nhóm cổ phiếu khác.
ở cấp Nhà nước, chương trình tư nhân hoá có nêu một số phương án phân chia quyền lợi cho người lao động như sau:
- Người lao động được chia 25% cổ phiếu ưu đãi không mất tiền mà có quyền mua 10% cỏ phiếu, có quyền biểu quyết với giá giảm 30% so với danh nghĩa. lãnh đạo xí nghiệp có thể mua theo tiêu chuẩn đến 5% tổng số cổ phiếu có quyền biểu quyết.
- Công nhân có thể mua 51% cổ phiếu có quyền biểu quyết theo những điều kiện do Nhà nước quy định.
- Công nhân có quyền mua 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết giảm giá 30%, và một nhóm công nhân có quyền mua 20% cổ phiếu có quyền biẻu quyết theo những điều kiện đặc biệt, không giảm giá, nếu họ chịu trách nhiệm không để cho xí nghiệp phá sản và thực hiện đúng kế hoạch tư nhân hoá. Phương án này chỉ áp dụng những xí nghiệp có quy mô trung bình không phải CPH bắt buộc.
Việc phát huy không hay bán theo những điều kiện ưu đãi một phần cổ phiếu của xí nghiệp cho các thành viên tập thể lao động theo những phương án mà họ lựa chọn sẽ được thực hiện ngay trong tiến trình biến xí nghiệp thanh Công ty cổ phần. ở các xí nghiệp sẽ thành một hội đồng giám sát bao gồm đại diện của ban giám đốc, tập thể lao động, cơ quan tư nhân hoá và chính quyền địa phương. Hội đồng giám sát tiến trình tư nhân hoá theo kế hoạch đã định ở xí nghiệp, kể cả việc thực hiện những ưu đãi đối với công nhân viên.
Vừa qua liên bang Nga không kể tuổi tác, địa vị xã hội, mức trhu nhập.v.v... điều được phát phiếu tư nhân hoá như nhau. Với phiếu này họ có quyền đổi lấy cổ phiếu của xí nghiệp tư nhân hoá với giá trị nhất định (do Liên Xô tối cao quyết định). Dự định đến năm 1993 - 1994 sẽ phát bổ sung một đợt mới phiếu tư nhân hoá.
Phiếu tư nhân hoá có thể được sử dụng theo những cách sau:
1- Đổi trực tiếp giấy cổ phiếu của xí nghiệp công nhân của các xí nghiệp có thể đổi lấy cổ phiếu với những điều kiện ưu đãi, cũng như được tham gia giá các cuọc bán đấu giá đặc biệt để mua cổ phiếu như mọi công dân khác ngoài xí nghiệp.
2- Đổi lấy cổ phần của các quỹ đầu tư tư nhân hoặc quốc doanh. Các quỹ đầu tư sẽ thu phiếu tư nhân hoá và và dùng chúng để mua cổ phần của các xí nghiệp. Như vậy mỗi quỹ đầu tư sẽ có nhiều cổ phần trong nhiều xí nghiệp khác nhau. Họ sẽ dùng lãi cổ phần thu được từ các xí ngiệp để trả lãi cho những người mua cổ phiếu của mình.
3- Cách thứ ba là bán phiếu tư nhân hoá để lấy tiền.
Để tránh mất giá hoặc thiếu lòng tin vào phiếu tư nhân hoá, Nhà nước quy định rằng tổng số cổ phiếu phát hành trên thị trường sẽ nhiều hơn phiếu tư nhân hoá phát cho nhân dân (nghĩa là tạo chênh lệch cung vượt cầu để phiếu tư nhân hoá không bị mất giá: các xí nghiệp cần tư nhân hoá phải bán trên 35% cổ phiếu của mình để lấy phiếu tư nhân hoá. Đồng thời Nhà nước lập ra các cơ quan tài chính đặc biệt để tư vấn cho tư nhân xử dụng phiếu có hiệu quả. Nhà nước cũng bảo đảm mọi mặt về thông tin để nhân dân có._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35540.doc