Mụclục
A- Lời nói đầu
I- Lý do chọn đề tài 1
II- Đối tượng nghiên cứu 1
III- Mục tiêu nghiên cứu 1
IV- Phương pháp nghiên cứu 1
B- Nội dung:
I- Nền kinh tế nhiều thành phần 2
II- Sự tồn tại của doanh nghiệp Nhà nước 5
III- Vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần 7
IV- Địa vị pháp lý của doanh nghiệp Nhà nước 7
V- Doanh nghiệp Nhà nước ở thời kỳ trước đây, hiện tại và tương lai 22
C- Kết luận
I- Cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước 46
II- Kiện toàn và tiế
62 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1461 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p tục đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước 50
III- Cổ phần đa dạng hoá sở hữu doanh nghiệp Nhà nước 58
IV- Tạo lập môi trường vĩ mô thuận lợi cho doanh nghiệp Nhà nước hoạt động 59
Tài liệu tham khảo
1- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc
2- Luật doanh nghiệp Nhà nước
3- Giáo trình luật kinh tế
4- Giáo trình LSHTKT
5- Tạp chí cộng sản
......
A- Lời nói đầu
I- Lý do chọn đề tài
Phát triển kinh tế là một yêu cầu cấp bách và trọng tâm trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế Nhà nước nắm vai trò chủ đạo. Kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế.
Chính vì vậy em chọn đề tài "Doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần"
II- Đối tượng nghiên cứu
Đề án nghiên cứu về "Doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần".
III- Mục tiêu nghiên cứu
Đề án nghiên cứu về "Doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần" làm rõ tầm quan trọng của doanh nghiệp Nhà nước, chế độ pháp lý, nững mặt còn tồn tại trong hoạt động của nó, những chính sách của Nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp này, từ đó có thể đề ra giải pháp phát triển sao cho nó giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần.
IV- Phương pháp nghiên cứu.
1- Phương pháp tổng hợp phân tích
Tổng hợp các loại tài liệu sách báo có liên quan đến đề tài nghiên cứu như: vă kiện đại hội Đảng, tạp chí cộng sản, luật doanh nghiệp Nhà nước... từ đó phân tích làm sáng tỏ nội dung của đề tài
2- Phương pháp lôgíc lịch sử
Tìm hiểu sự phát triển của doanh nghiệp Nhà nước trong lịch sử phát triển trên cơ sở đó làm sáng rõ sự phát triển của nó.
B- nội dung
I. Nền kinh tế nhiều thành phần:
ở nước ta đi lên từ sản xuất nhỏ, chủ yếu là thủ công, công nghệ lạc hậu thô sơ đi lên chủ nghĩa xã hội do vậy các thành phần kinh tế vẫn còn tồn tại nâu dài và tiếp tục phát triển. Các thành phần kinh tế vẫn còn có nhiều mặt tích cực để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Thực hiện nhất quán chiến tranh phát triển nền kinh tế thành phần, các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển nâu dài hợp tác, cạnh tranh lành mạnh. Trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, Kinh tế Nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế nhiều thành phàn bao gòm kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu thủ, kinh tế tư bản Nhà nước, Tư bản tư nhân. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh doanh đang xen hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước, kinh tế cổ phần .
Mặt khác cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tồn tại một cách khách quan, vì :
Khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xuất phát điểm về lực lượng sản xuất thấp năng xuất lao động và trình độ phát triển kinh tế rất thấp và không đều giữa các xí nghiệp, giữa các ngành, giữa các vùng... trong nền kinh tế. Trong điều kiện đó, xã hội cũ để lại không ít các thành phần kinh tế và không thể bỗng chốc có thể cải biến nhanh được. Hơn nữa, sau nhiều năm cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới, xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế mới (kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản Nhà nước ...). Các thành phần kinh tế cũ và các thành phần mới tồn tại khách quan, xoắn xuýt với nhau, cấu thành đặc điểm kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Xây dựng và phát triển kinh tế hàng hoá có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội ..., vốn là những nhiệm vụ trọng yếu của thời kỳ quá độ ở nước ta. Song trong điều kiện thu nhập quốc dân còn thấp và ngân sách Nhà nước rất hạn hẹp, nếu chỉ trồng chờ vào Nhà nước sẽ không hoặc chậm thực hiện các nhiệm vụ nói trên. Để thực hiện có hiệu quả với tốc độ nhanh các nhiệm vụ của thời kỳ quá độ, phải giải phóng mọi tiềm lực bị kìm hãm từ trước đến nay, khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, sức lao động nhất là nguồn lao động trí tuệ... Mục đích đó chỉ có thể thực hiện khi sử dụng được sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế.
- Nước ta thuộc loại nước có dân số trẻ, có nguồn lao động dồi dào, có lợi thế về chất lượng lao động được biểu hiện ở trình độ dân số biến chữ chiếm 87,7% trong dân cư, một tỷ lệ cao só với tiêu chuẩn quốc tế và so vứi nhiều nước đang phát triển, đó là mặt thuận lợi. Song số người chưa có việc làm còn nhiều thì số người chưa có việc làm được quy đổi lên đến 7,5 triệu người - tạo nên sức ép xã hội đối với kinh tế. Trong khi đó, khả năng kinh tế quốc doanh thu hút sức lao động , vì thiếu vốn, nhất là vốn ngoại tệ mạng. Trong điều kiện đó, khai thác, tận dụng tiềm năng của các thành phần kinh tế khác là một trong những cách tốt nhất để tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Cũng cần ý thức rằng, vấn đề thất nghiệp là vấn đề chung của nền kinh tế hàng hoá, chứ không phải chỉ riêng có trong xã hội tư bản. Hơn nữa, trên cơ sở nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần mà nhận thức khái niệm: có việc làm, không có hay chưa có việc làm. Từ đó sớm khắc phục những mặc cảm không đúng trước đây, cho rằng chỉ khi nào người lao động làm việc trong các xí nghiệp Nhà nước, mới gọi là có việc làm.
Rõ ràng sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần yêu cầu khách quan đối với việc tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, một yêu cầu phải kết hợp chiến lược kinh tế với chiến lược xã hội cần được coi trọng.
Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần không chỉ là một tất yếu khách quan mà còn đem lại nhiều lợi ích to lớn. Đó là vì:
- Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, có nghĩa là tồn tại nhiều hình thức quan hệ sản xuất nên phù hợp với thực trạng thấp kém và không đều của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp này, đến lượt nó, lại có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh tế trong thành phần kinh tế và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở nước ta.
- Góp phần khôi phục cơ sở kinh tế cho sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá mà trước đây, do nôn nóng, đã xoá bỏ nó mọt cách không tự giác. Sai lầm này xét về mặt thực chất là xoá bỏ đi quyền tự do kinh doanh và quyền dân chủ về kinh tế của nhân dân trong khuôn khổ pháp luật.
- Cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả sức mạng tổng hợp của các thành phần kinh tế trong nước, tạo điều kiện khai thác sức mạnh về vốn, khoa học và công nghệ mới trên thế giới.
- Tạo điều hiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ, trong đó có hình thức kinh tế tư bản Nhà nước, như nhưng "cầu nối:, trạng,"trung gian" cần thiết để đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Sự phân tích trên cho thấy sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần là tất yếu kinh tế khách quan và có nhiều lợi ích to lớn trong thời kỳ quá độ. Nó vừa phù hợp với thực tiễn về trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất ở nước ta, vừa phù hợp với lý luận của Lênin về đặc điểm kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
II- Sự tồn tại của doanh nghiệp Nhà nước:
1- Khái niệm về kinh tế Nhà nước:
Kinh tế Nhà nước là thành phần kinh tế sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xuất làm cơ sở sản xuất. Nó bào gồm các doanh nghiệp Nhà nước, các tài sản của sở hữu Nhà nước như đất đai, ngân sách các nguồn dự trữ, tài nguyên.v.v... Phần vốn các doanh nghiệp góp bào các doanh nghiệp cổ phần hay liên doanh với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác trong và ngoài nước. Kinh tế Nhà nước một thành phần kinh tế có nhiều bộ phận hợp thành trong đó, doanh nghiệp Nhà nước là bộ phận nòng cốt. Kinh tế Nhà nước không những lớn mạnh và giữ vai trò chủ đạo đối với các thành phần kinh tế khác trong cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta
2- Khái niệm- Doanh nghiệp Nhà nước:
Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động lao động hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao.
Kinh tế Nhà nước nói chung - doanh nghiệp Nhà nước nói riêng: Đã được xây dựng và phát triển ở miền Bắc đã gần 40 năm và 20 năm kể từ ngày đất nước hoàn toàn thống nhất. Từ khi ra đời cho đến nay, đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội sau này. Các doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò nòng cốt thực hiện các nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu, đã giữ vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Sản xuất và cung ứng phần lớn cho các ngành của nền kinh tế quốc dân mà một bộ phận quan trọng các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu của nhân dân.
Kinh tế Nhà nước vẫn là thành phần kinh tế đóng góp rất nhiều cho ngân sách Nhà nước, vì vậy cần phải tiếp tục phát triển doanh nghiệp Nhà nước trên tất cả các ngành, các lĩnh vực, phát triển về mọi phương diện. Doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần là yếu tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Coi nhẹ phát triển các doanh nghiệp Nhà nước thực chất là xa rời định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước đã vạch ra.
Mặt khác, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, một xã hội công bằng dân chủ văn minh thì Nhà nước phải can thiệp, tham gia vào nền kinh tế. Một cách tham gia quan trọng nhất vào thị trường là xây dựng các doanh nghiệp của mình đủ mạnh để khống chế thị trường với những ngành, lĩnh vực mà Nhà nước cho là quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là chỗ dựa để điều chỉnh các chính sách kinh tế xã hội.
Trong đường lối phát triển kinh tế được trình bầy trong dự thảo Đại hội Đảng IX đã đưa ra là: "Kinh tế Nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, nắm vững vị trí then chốt là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước điều chỉnh và điều tiết vĩ mô nền kinh tế; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nêu gương về năng suất chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật".
Trong thực tiễn nền kinh tế, chính trị xã hội một số ngành, lĩnh vực cần có Nhà nước tham gia vào. Nếu Nhà nước không tham gia vào sẽ gây ra thất bại trong thị trường và tình hình chính trị sẽ bất ổn định, an ninh quốc phòng không được giữ vững.
Doanh nghiệp Nhà nước là một đặc trưng cơ bản để phân biệt kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, Kinh tế Nhà nước tạo động lực cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển, kinh tế Nhà nước tạo điều kiện mối quan hệ hợp tác và giúp đỡ các doanh nghiệp khác phát triển, tạo điều kiện xây dựng chế độ mới.
Từ đó chúng ta thấy rằng sự tồn tại của kinh tế Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước là đòi hỏi, là yêu cầu của nền kinh tế.
III- Vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần:
Lực lượng doanh nghiệp Nhà nước hàng năm đóng góp khoảng 40% trong cơ cấu GDP của nước ta, chiếm giữ khoảng 70% vốn và tài sản cố định của nền kinh tế. Doanh nghiệp Nhà nước đang là lực lượng chủ yếu trong sản xuất công nghiệp, trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, tín dụng. Nhìn chung lực lượng doanh nghiệp Nhà nước đang là lực lượng then chốt trong các ngành kinh tế quan trọng của đất nước, cá biệt có một số ngành có vị trí độc quyền kinh doanh. Từ năm 1995 hàng năm doanh nghiệp Nhà nước đóng góp từ 26 - 28% nguồn thu thuế trong nước, nếu tính cả các khoản thu thuế và phí được thu thông qua doanh nghiệp Nhà nước thì đóng góp khoảng 60% các nguồn thu thuế và phí của ngân sách Nhà nước. Doanh nghiệp Nhà nước đang sử dụng khoảng 15% lực lượng lao động trong các ngành nghề phi nông nghiệp. Mức tăng trưởng hàng năm của doanh nghiệp Nhà nước xấp xỉ mức tăng trưởng chung của nền kinh tế cũng xấp xỉ ngoài quốc doanh trong nước. Tóm lại, nếu chỉ xét về quy mô, tài sản sự đóng góp vào GDP và tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế, nguồn thu ngân sách Nhà nước thì doanh nghiệp Nhà nước vẫn có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế nước ta.
IV- Địa vị pháp lý của doanh nghiệp Nhà nước
1- Khái niệm, đặc điểm của doanh nghiệp Nhà nước
Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động có công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao.
Doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý.
Doanh nghiệp Nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam. Định nghĩa trên cho thế doanh nghiệp Nhà nước có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, doanh nghiệp Nhà nước có tổ chức kinh tế được Nhà nước thành lập để thực hiện những mục tiêu do Nhà nước giao.
Hai là, doanh nghiệp Nhà nước do Nhà nước đầu tư vốn cho nên tài sản trong doanh nghiệp là thuộc sở hữu Nhà nước doanh nghiệp quản lý, sử dụng tài sản theo quy định của chủ sở hữu là Nhà nước.
Ba là, doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân vì có đủ các điều kiện của pháp nhân theo quy định của pháp luật
Bốn là, doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn, có nghĩa là nó tự chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số tài sản do doanh nghiệp quản lý.
2- Phân loại doanh nghiệp Nhà nước
Doanh nghiệp Nhà nước có thể được phân loại theo các tiêu chí pháp lý khác nhau.
Dựa vào quy mô và hình thức tổ chức của doanh nghiệp, có thể chia doanh nghiệp Nhà nước thành Tổng Công ty Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước độc và doanh nghiệp Nhà nước thành viên. Tổng Công ty Nhà nước là doanh nghiệp có quy mô lớn, được thành lập và hoạt động trên cơ sở liên kết của nhiều đơn vị thành viên có mối quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, cung ứng, tiêu thụ.v.v.... Tổng Công ty Nhà nước có thể có các loại đơn vị thành viên như: đơn vị hạch toán độc lập, đơn vị hạchh toán phụ thuộc, đơn vị sự nghiệp. Tổng Công ty Nhà nước được phân biệt thành Tổng Công ty 91 và Tổng Công ty 90. Doanh nghiệp Nhà nước độc lập là doanh nghiệp Nhà nước không nằm trong cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp Nhà nước độc lập còn được phân biệt thành doanh nghiệp Nhà nước độc lập có quy mô lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ. Doanh nghiệp Nhà nước thành viên là doanh nghiệp nằm trong cơ cấu của tổng Công ty Nhà nước.
Nếu dựa vào mục đích hoạt động của doanh nghiệp thì có thể phân biệt doanh nghiệp Nhà nước thành doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh tế và doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích. Doanh nghiệp và doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh là doanh nghiệp Nhà nước hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận. Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích là doanh nghiệp Nhà nước hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của Nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.
Pháp luật còn quy định tiêu chuẩn để xếp hạng doanh nghiệp Nhà nước. Theo quyết định số 185/TTg ngày 28/3/1996, doanh nghiệp Nhà nước được xếp hạng đặc biệt, bao gồm:
- Các Tổng Công ty 91
- Các Tổng Công ty 90 có vốn điều lệ từ 500 tỷ đồng trở lên.
- Các doanh nghiệp Nhà nước độc lập có các điều kiện sau đây: giữ vai trò trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân. Có vốn điều lệ từ 500 tỷ đồng trở lên, chức danh Tổng giám đốc do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm (Hiện nay có 24 doanh nghiệp Nhà nước được công nhận là doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt bao gồm: 18 Tổng Công ty 91. Liên hiệp đường sắt, 4 ngân hàng thương mại quốc doanh và Công ty thương mại dịch vụ Sài Gòn).
3- Quy chế pháp lý về thành lập và tổ chức doanh nghiệp Nhà nước
a- Thành lập:
Khác với thủ tục thành lập theo luật doanh nghiệp, việc thành lập doanh nghiệp Nhà nước phải theo trình tự sau:
* Thứ nhất đề nghị và quyết định thành lập doanh nghiệp Nhà nước.
Người đề nghị thành lập doanh nghiệp Nhà nước, theo quyết định cố 50/CP ngày 26/8/1996 của Chính phủ bao gồm: Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc chính phủ, chủ tịch UBND cấp tỉnh, Hội đồng quản trị của Tổng Công ty Nhà nước là người đề nghị thành lập doanh nghiệp theo quy định phát triển của ngành, địa phương hoặc tổng Công ty mình. Chủ tịch UBND cấp huyện là người đề nghị thành lập doanh nghiệp công ích hoạt động trên địa bàn cấp huyện. Người đề nghị thành lập doanh nghiệp Nhà nước không thể đồng thời là người quyết định thành lập doanh nghiệp Nhà nước.
Người đề nghị thành lập doanh nghiệp Nhà nước phải lập hồ sơ gửi đến người có thẩm quyền quyết định thành lập doanh nghiệp Nhà nước bao gồm:
- Tờ trình đề nghị thành lập doanh nghiệp
- Đề án thành lập doanh nghiệp
- Mức vốn điều lệ và ý kiến bằng văn bản của cơ quan tài chính về nguồn và mức vốn điều điều lệ được cấp
- Dự thảo điều lệ doanh nghiệp.
- Kiến nghị về hình thức tổ chức doanh nghiệp
- ý kiến bằng văn bản của bộ quản lý ngành đối với các ngành nghề kinh doanh đối với các ngành kinh doanh chính là giấy phép hành nghề đối với một số ngành nghề đòi hỏi phải có giấy phép quy định của pháp luật.
- Bản thuyết trình về các giải pháp bảo vệ môi trường
- ý kiến bằng văn bản của UBND cấp tỉnh về quyền sử dụng đất
Sau khi nhận hồ sơ, người có thẩm quyền quyết định thành lập doanh nghiệp phải lập hội đồng thẩm định để xem xét hồ sơ đề nghị thành lập doanh nghiệp quy định của pháp luật.
Căn cứ vào ý kiến của hội đồng thẩm định người có quyền quyết định thành lập doanh nghiệp Nhà nước - Thủ tướng chính phủ, Bộ trưởng được Thủ tướng uỷ quyền, Bộ trưởng quản lý ngành, chủ tịch UBND cấp tỉnh theo quy định của pháp luật và quyết định thành lập doanh nghiệp.
* Thứ hai, đăng ký kinh doanh: Trong thời gian 60 ngày kể từ ngày có quyết định thành lập, doanh nghiệp phải tiến hành đăng ký kinh doanh tại phòng đăng ký kinh doanh tại sở kế hoạch đầu tư cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Hồ sơ đăng ký kinh doanh bao gồm:
- Quyết định thành lập
- Điều lệ doanh nghiệp
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng trụ sở chính của doanh nghiệp
- Quyết định bổ nhiệm chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị, tổng giám đốc hoặc giám đốc doanh nghiệp. Kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân và được tiến hành hoạt động kinh doanh.
* Thứ ba, công khai hoá doanh nghiệp: Cũng như việc thành lập các doanh nghiệp nói chung, việc bố cáo với công chúng về sự ra đời của doanh nghiệp Nhà nước là một bước trong thủ tục thành lập doanh nghiệp.
Pháp luật quy định trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải đăng báo hàng ngày của Trung ương và địa phương trong 3 số liên tiếp về những nội dung chính sau:
- Tên, trụ sở chính của doanh nghiệp, Họ và tên của chủ tịch các thành viên hội đồng quản trị (nếu có), tổng giám đốc hoặc giám đốc.
- Tên cơ quan ra quyết định thành lập và ngày ra quyết định thành lập doanh nghiệp. Ngày và số đăng ký kinh doanh
- Mức vốn điều lệ
- Số tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, số ĐT Telex, Fax.
- Lĩnh vực ngành nghề kinh doanh hoặc hoạt động
- Thời điểm bắt đầu hoạt động kinh doanh và thời hạn hoạt động
b Tổ chức lại doanh nghiệp Nhà nước
Trong quá trình tồn tại và phát triển của doanh nghiệp Nhà nước do, nhiều nguyên nhân khác nhau, một số doanh nghiệp đã tỏ ra hoạt động kém hiêu quả, thậm chí thua lỗ kéo dài, không còn thể hiện được vai trò chỉ đạo trong nền kinh tế quốc dân, trước tình hình đó, cùng với quy chế về thành lập doanh nghiệp Nhà nước, pháp luật đã quy định các biện pháp tổ chức lại doanh nghiệp Nhà nước nhằm đảm bảo vai trò của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Theo tinh thần của pháp luật hiện hành việc tổ chức lại doanh nghiệp Nhà nước bao gồm các biện pháp sau:
- Sáp nhận doanh nghiệp Nhà nước
- Chia tách doanh nghiệp Nhà nước
- Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
- Giao bán, khoán kinh doanh cho thuê doanh nghiệp Nhà nước
Sáp nhập doanh nghiệp Nhà nước vào một doanh nghiệp Nhà nước khác áp dụng trong trường hợp trên cùng một địa bàn có nhiều doanh nghiệp cùng loại mà thực tế nhu cầu của thị trường không cần thiết nhiều doanh nghiệp như vậy, trong trường hợp đó thì sáp nhập những doanh nghiệp yếu kém vào những doanh nghiệp cùng loại, Việc sáp nhập doanh nghiệp do người có thẩm quyền thành lập doanh nghiệp quyết định. Sau khi sáp nhập, các doanh nghiệp bị sáp nhập phải xoá tên còn doanh nghiệp tiếp nhận sáp nhập giữ nguyên tư cách pháp nhân nhưng phaỉ đăng ký kinh doanh bổ sung về vốn điều lệ mới và sự thay đổi ngành nghề.
Chia tách doanh nghiệp Nhà nước áp dụng đối với các doanh nghiệp là tổng Công ty mà sự hình thành không phải xuất phát từ nhu cầu khách quan mà là sự liên kết một cách rời rạc do mệnh lệnh chính bắt buộc dẫn đến hoạt động của Tổng Công ty cũng như các đơn vị thành viên kém hiệu quả. Có thể tách một số hoặc toàn bộ các đơn vị thành viên ra khỏi Tổng Công ty để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đó hoạt động có hiệu quả hơn. Việc chia tách doanh nghiệp Nhà nước phải do người có thẩm quyền quyết định thành lập quyết định. Nếu việc chia tách doanh nghiệp dẫn đến thay đổi mục tiêu, ngành nghề kinh doanh, vốn điều lệ thì doanh nghiệp phải làm thủ tục đăng ký lại hoặc đăng ký kinh doanh bổ sung.
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần, nhằm huy động vốn của xã hội vào việc đầu tư đổi mới công nghệ, thay đổi phương thức quản lý, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, góp phần tăng trưởng kinh tế: cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước được tiến hành theo các hình thức sau đây:
- Giữ nguyên giá trị thuộc vốn hiện có của doanh nghiệp phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn nhằm phát triển doanh nghiệp.
- Bán một phần thuộc vốn hiện có tại doanh nghiệp
- Tách một bộ phận của doanh nghiệp đủ đăng ký để cổ phần hoá
- Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành Công ty cổ phần
Các doanh nghiệp Nhà nước sau khi báo cáo cổ phần hoá hoạt động theo luật doanh nghiệp
Giao bán, khoán kinh doanh cho thuê doanh nghiệp Nhà nước là biện pháp tiếp tục sắp xếp lại và đổi mới những doanh nghiệp Nhà nước có quy mô nhỏ, kinh doanh thua lỗ, kém hiệu quả kéo dài không cần duy trì sở hữu Nhà nước nhằm tạo điều kiện cơ cấu lại doanh nghiệp Nhà nước, nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh mà doanh nghiệp Nhà nước bảo đảm lợi ích của Nhà nước cũng như của người lao động.
Giao doanh nghiệp Nhà nước là việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước và tài sản của Nhà nước tại doanh nghiệp thành sở hữu tập thể của người lao động có điều kiện .
Bán doanh nghiệp Nhà nước là việc chuyển đổi sở hữu có thu tiền toàn bộ tài sản của doanh nghiệp Nhà nước đang sở hữu tập thể cá nhân hoặc pháp nhân khác.
Khoán kinh doanh là phương thức quản lý doanh nghiệp Nhà nước mà bên nhận khoán được giao quyền quản lý doanh nghiệp Nhà nước có nghĩa vụ thực hiện một số chỉ tiêu bảo đảm các điều kiện và được hưởng các quyền lợi theo hợp đồng khoán
Cho thuê doanh nghiệp Nhà nước là hình thức chuyển giao cho người nhận thuê quyền sử dụng tài sản và lao động trong doanh nghiệp theo các điều kiện ghi trong hợp đồng thuê.
4- Cơ cấu tổ chức quản lý doanh nghiệp
a. Mô hình doanh nghiệp Nhà nước có HĐQT: Mô hình này áp dụng đối với Tổng Công ty Nhà nước và các doanh nghiệp Nhà nước độc lập có quy mô lớn.
HĐQT là cơ quan quản lý cao nhất của doanh nghiệp Nhà nước thực hiện chức năng quản lý hoạt động của doanh nghiệp, chịu trách nhiệm trước Chính phủ hoặc cơ quan quản lý Nhà nước được Chính phủ uỷ quyền về sự phát triển của doanh nghiệp theo mục tiêu Nhà nước giao.
HĐQT gồm chủ tịch, tổng giám đốc hoặc giám đốc và mọt số thành viên khác. Số lượng thành viên của HĐQT do Chính phủ quy định căn cứ quy mô và loại hình doanh nghiệp, thành viên HĐQT có thể chuyên trách hoặc kiêm nhiệm. Chủ tịch và các thành viên HĐQT do người đề nghị lập doanh nghiệp trình thủ tướng Chính phủ hoặc người được thủ tướng Chính phủ uỷ quyền quyết định bổ nhiệm và miễn nhiệm. Nhiệm kỳ của HĐQT không kiêm tổng giám đốc hoặc giám đốc.
Thành viên HĐQT có tiêu chuẩn và điều kiện sau:
- Là công dân Việt Nam, thường trú tại Việt Nam
- Có sức khoẻ, có phẩm chất đạo đức, trung thực, liêm khiết, có ý thức chấp hành pháp luật
- Có trình độ, có năng lực kinh doanh và tổ chức quản lý kinh doanh
- Không đồng thời đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo trong bộ máy Nhà nước.
- Những người đã là thành viên HĐQT, Tổng giám đốc, giám đốc doanh nghiệp đã bị tuyên bố phá sản thì phải tuân thủ quy định tại điều 50 luật phá sản doanh nghiệp.
Chủ tịch HĐQT, tổng giám đốc hoặc giám đốc không được thành lập hoặc giữ chức danh quản lý điều hành doanh nghiệp tư nhân Công ty TNHH, Công ty cổ phần là không được có các quan hệ hợp đồng kinh tế với các doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH, Công ty cổ phần do vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con giữ chức vụ điều hành.
Vợ hoặc chồng, bố mẹ, con, anh, chị em ruột của những người giữ các chức danh trên không được giữ chức danh kế toán trưởng thủ quỹ tại cùng doanh nghiệp và doanh nghiệp thành viên (nếu có).
Chế độ làm việc của HĐQT
- HĐQT làm việc theo chế độ tập thể, họp thường kỳ hàng quý để xem xét và quyết định những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình. HĐQT có thuể họp bất thường để giải quyết những vấn đề cấp bách của doanh nghiệpdo chủ tịch hội đồng quản trị hay tổng giám đốc hoặc giám đốc hoặc trên 50% tổng số thành viên HĐQT đề nghị.
- Chủ tịch hoặc thành viên HĐQT được chủ tịch uỷ quyền triệu tập và duy trì cuộc họp.
- Các cuộc họp của HĐQT được coi là hợp lệ khi có ít nhất 2/3 tổng số thành viên có mặt, nghị quyết, quyết định của HĐQT có hiệu lực khi có trên 50% tổng số thành viên HĐQT biểu quyết tán thành, thành viên HĐQT có quyền bảo lưu ý kiến của mình.
- Nội dung, kết luận của các cuộc họp của HĐQT phải được ghi thành văn bản; nghị quyết quyết định của HĐQT có tính bắt buộc thi hành đối với doanh nghiệp
- Chi phí hoạt động của HĐQT, kể cả tiền lương và phụ cấp, được tránh vào quản lý phí của doanh nghiệp. Tổng giám đốc hoặc giám đốc bảo đảm các điều kiện và những phương tiện cần thiết cho HĐQT làm việc.
Các thành viên chuyên trách của HĐQT được xếp lương cơ bản theo ngành bậc viên chức Nhà nước, hưởng lương theo chế độ phân phối tiền lương trong doanh nghiệp Nhà nước cho cổ phần quy định và tiền thưởng tương ứng với hiệu quả hoạt động doanh nghiệp. Các thành viên kiêm nhiệm của HĐQT hưởng phụ cấp trách nhiệm theo quy định của Chính phủ và được tiền thưởng tương ứng với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
- Các thành viên HĐQT phải cùng chịu trách nhiệm trước người ra quyết định bổ nhiệm và pháp luật về các quyết định của HĐQT, trường hợp vi phạm điều lệ doanh nghiệp, quyết định vượt thẩm quyền lạm dụng chức quyền, gây thiệt hại cho doanh nghiệp và Nhà nước thì phải chịu trách nhiệm và bồi thường vật chất đối với các thiệt hại do mình gây ra theo quy định của pháp luật.
Ban kiểm soát là tổ chức do HĐQT thành lập với nhiệm vụ giúp HĐQT kiểm tra, giám sát hoạt động điều hành của Tổng giám đốc hoặc giám đốc, bộ máy doanh nghiệp và các đơn vị thành viên trong hoạt động tài chính hoạt động tài chính, chấp hành điều lệ doanh nghiệp, chấp hành nghị quyết, quyết định của HĐQT, chấp hành pháp luật. Ban kiểm soát chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐQT.
Tổng giám đốc do thủ tướng Chính phủ hoặc người được thủ tướng Chính phủ uỷ quyền quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của HĐQT
Tổng giám đốc hoặc giám đốc là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, là người có quyền điều hành cao cấp trong doanh nghiệp, chịu trách nhiệm và trước pháp luật về việc điều hành hoạt động của doanh nghiệp
Bộ máy giúp việc bao gồm phó tổng giám đốc hoặc phó giám đốc, kế toán trưởng, văn phòng và các phòng, ban chuyên môn, nghiệp vụ của doanh nghiệp. Phó tổng giám đốc hoặc phó giám đốc giúp Tổng giám đốc hoặc giám đốc điều hành doanh nghiệp theo phân công và uỷ quyền của Tổng giám đốc của Tổng giám đốc hoặc giám đốc. Kế toán trưởng giúp Tổng giám đốc hoặc giám đốc chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kế toán, thống kê của doanh nghiệp và các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định mà pháp luật văn phòng và phòng ban chuyên môn nghiệp vụ có chức năng, tham mưu, giúp việc HĐQT, Tổng giám đốc hoặc giám đốc trong việc điều hành quản lý các công việc trong doanh nghiệp
Tổng giám đốc hoặc giám đốc doanh nghiệp có nhiệm vụ quyền hạn sau:
Cùng chủ tịch HĐQT ký nhận vốn, đất đai tài nguyên và các nguồn lực khác để quản lý sử dụng theo mục tiêu, nhiệm vụ Nhà nước giao cho doanh nghiệp; giao các nguồn lực đã nhận của Nhà nước cho các đơn vị thành viên.
- Sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn theo phương án đã được HĐQT phên duyệt.
- Xây dựng chiến lược phát triển kế hoạch dài hạn và hàng năm của doanh nghiệp dự án đầu tư, phương án liên doanh, đề án tổ chức quản lý của doanh nghiệp quy hoạch đào tạo lao động, phương án phối hợp kinh doanh của các đơn vị thành viên thành HĐQT.
- Xây dựng để trình HĐQT phê duyệt các định mức kinh tế kỹ thuật, tiêu chuẩn sản phẩm, đơn giá tiền lương phù hợp với ccá quy định của Nhà nước.
- Đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật phó tổng giám đốc hoặc phó giám đốc, kế toán trưởng doanh nghiệp và giám đốc các đơn vị thành viên.
- Quyết định giá mua, giá bán sản phẩm và dịch vụ phù hợp với những quy định của Nhà nước.
- Kiểm tra các đơn vị thành viên thực hiện định mức, tiêu chuẩn, đơn giá quy định trong nội bộ doanh nghiệp.
- Quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật phó giám đốc, kế toán trưởng các đơn vị thành viên theo đề nghị của giám đốc đơn vị thành viên và cục trưởng ban phó ban hoặc trưởng phòng, phó trưởng phòng chuyên môn, nghiệp vụ và các chức vụ tương đương của doanh nghiệp.
- Tổ chức điều hành hoạt động của doanh nghiệp nhằm thực hiện các nghị quyết và quyết định của HĐQT.
- Báo cáo trước HĐQT và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
- Chịu sự kiểm tra, giám sát của HĐQT, Ban kiểm soát. Các cơ q._.uan quản lý Nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo quy định của luật này. Trong trường hợp ý kiến của tổng giám đốc hoặc giám đốc khác với nghị quyết và quyết định của HĐQT, tổng giám đốc hoặc giám đốc có quyền bảo lưu ý kiến và kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xử lý, trong thời gian chưa có quyết định xử lý của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xử lý vẫn phải chấp hành nghị quyết, quyết định của HĐQT.
- Được áp dụng các biện pháp cần thiết trong trường hợp khẩn cấp và phải báo cáo ngay HĐQT và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
b. Mô hình doanh nghiệp Nhà nước không có HĐQT, mô hình này áp dụng đối với các doanh nghiệp Nhà nước không phải là tổng Công ty hoặc doanh nghiệp độc lập có quy mô lớn. Cơ cấu tổ chức quản lý theo mô hình này bao gồm giám đóc và bộ máy giúp việc giám đốc là người có quyền điều hành cao nhất trong doanh nghiệp là đại diện cho pháp luật của doanh nghiệp, chịu trách nhiệm trước người bổ nhiệm mình và trước pháp luật về điều hành hoạt động của doanh nghiệp thành viên HĐQT, giám đốc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy chế tại 38.6.38.6 và các nhiệm vụ sau:
- Nhận vốn, đất đai, tài nguyên và các nguồn lực khác do Nhà nước giao để quản lý, sử dụng theo mục tiêu nhiệm vụ Nhà nước giao cho doanh nghiệp, bảo toàn và phát triển vốn.
- Xây dựng chiến lược phát triển, kinh tế dài hạn và hàng năm của doanh nghiệp, phương án đầu tư, liên doanh, đề án tổ chức quản lý của doanh nghiệp trình cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền.
- Tổ chức điều hành hoạt động của doanh nghiệp
- Ban hành các định mức kinh tế kỹ thuật, tiêu chuẩn sản phẩm, đơn giá tiền lương phù hợp với quy định của Nhà nước.
- Trình người quyết định thành lập doanh nghiệp bổ nhiệm miễn nhiệm khen thưởng, kỷ luật phó giám đốc, kế toán trưởng.
- Báo cáo cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
-Chịu sự kiểm tra, giám sát của tổ chức giám sát do Chính phủ quy định và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo luật này. Bộ máy giúp việc gồm phó giám đốc, kế toán trưởng, văn phòng các phòng chuyên môn nghiệp vụ như ở trên
5- Quản lý Nhà nước và thực hiện quyền sở hữu đối với doanh nghiệp Nhà nước.
Cũng như doanh nghiệp khác, doanh nghiệp Nhà nước chịu sự quản lý Nhà nước đối với việc thành lập, tổ chức hoạt động và các vấn đề khác. Mặt khác doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp của Nhà nước, thuộc sở hữu Nhà nước do đó với tư cách là chủ sở hữu, Nhà nước thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp
Việc quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước do Chính phủ thống nhất thực hiện và những nội dung sau:
- Ban hành chính sách, cơ chế quản lý đối với từng doanh nghiệp Nhà nước
- Quyết định các biện pháp bảo hộ và hỗ trợcác doanh nghiệp quan trọng trong nền kinh tế quốc dân
- Tổ chức xây dựng quy hoạch và chiến lượng phát triển doanh nghiệp Nhà nước
- Tổ chức xây dựng quy hoạch và đào tạo cán bộ quản lý cán bộ điều hành trong doanh nghiệp Nhà nước
- Tổ chức kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật chủ trương, chính sách chế độ Nhà nước tại các doanh nghiệp
Quyền chủ sở hữu Nhà nước đối với các doanh nghiệp Nhà nước cho Chính phủ người đại diện CSH Nhà nước thống nhất thực hiện các nội dung chủ yếu sau:
- Quyết định thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể đối với doanh nghiệp Nhà nước.
- Quyết định mục tiêu nhiệm vụ chiến lược và định hướng kế hoạch phát triển kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước.
- Ban hành điều lệ mẫu của doanh nghiệp Nhà nước, phê chuẩn điều lệ tổng Công ty Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước quan trọng.
- Quyết định cấp vốn đầu tư ban đầu và đầu tư bổ sung, giao vốn cho doanh nghiệp, kiểm tra, giám sát việc khấu hao, chế độ sử dụng lợi nhuận, phê chuẩn phương án chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, cầm cố những thiết bị nhà xưởng quan trọng, phê duyệt phương án huy động vốn, góp vốn vào doanh nghiệp khác. Tổ chức thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với phần vốn đầu tư của Nhà nước vào các doanh nghiệp.
- Quyết định áp dụng mô hình quản lý đối với các loại hình doanh nghiệp Nhà nước, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng kỷ luật các chức danh quản lý chủ chốt của doanh nghiệp.
- Quy định các tiêu chuẩn, định mức, quyết định tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp của các thành viên HĐQT, tổng giám đốc hoặc giám đốc doanh nghiệp.
Tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực hiện mục tiêu nhiệm vụ, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Chính phủ phân cấp hoặc uỷ quyền cho các bộ UBND cấp tỉnh thực hiện một số quyền của CSH Nhà nước đối với doanh nghiệp.
Quyền CSH Nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước còn được thể hiện trong việc quản lý cổ phần chi phối và cổ phần đặc biệt của Nhà nước cũng như việc quản lý vốn góp của Nhà nước ở các doanh nghiệp khác.
Cổ phần chi phối của Nhà nước là loại cổ phần sau:
- Cổ phần của Nhà nước chiếm trên 50% tổng số cổ phần của doanh nghiệp.
- Cổ phần của Nhà nước ít nhất gấp 2 lần cổ phần của cổ đông lớn nhất khác trong doanh nghiệp
Cổ phần đặc biệt của Nhà nước là cổ phần của Nhà nước trong một số doanh nghiệp mà Nhà nước không có cổ phần chi phối, nhưng có quyền quyết định một số vấn đề quan trọng của doanh nghiệp theo thoả thuận trong điều lệ doanh nghiệp
Quy chế về quản lý phần vốn góp của doanh nghiệp Nhà nước vào doanh nghiệp khác,quản lý cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt quy định ( điều 49 - 54 luật DNNN)
6- Giải thể và phá sản doanh nghiệp Nhà nước
Giải thể doanh nghiệp Nhà nước là thủ tục pháp lý nhằm chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp và xoá tên doanh nghiệp trong số ĐKKD.
Doanh nghiệp Nhà nước bị xem xét là giải thể trong các trường hợp sau:
- Hết thời hạn hoạt động ghi trong quyết định thành lập mà doanh nghiệp không xin gia hạn.
- Doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài nhưng chưa lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn
- Doanh nghiệp không thể thực hiện các nhiệm vụ do Nhà nước quy định sau khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết.
- Việc tiếp tục duy trì doanh nghiệp là không cần thiết, việc giải thể doanh nghiệp Nhà nước do người đã ra quyết định thành lập doanh nghiệp Nhà nước quyết định. Đó là TTCP, Bộ trưởng quản lý ngành chủ tịch UBND cấp tỉnh được hoặc TTCP uỷ quyền đối với các tổng Công ty Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước độc lập có quy mô lớn; Bộ trưởng quản lý ngành hoặc chủ tịch UBND cấp tỉnh đối với các doanh nghiệp Nhà nước khác.
Người quyết định giải thể doanh nghiệp Nhà nước phải lập hội đồng thuế. Hội đồng giải thể là cơ quan tham mưu cho người quyết định giải thể doanh nghiệp Nhà nước và tổ chức thực hiện quyết định giải thể, thành phần và quy chế làm việc của hội đồng thể thể của doanh nghiệp Nhà nước do Chính phủ quy định.
V- Doanh nghiệp Nhà nước ở thời kỳ trước đây, hiện tại và tương lai
1- Những đặc trưng cơ bản của việc hình thành và phát triển của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta
Hệ thống doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta được hình thành ở Miền Bắc từ năm 1954 và ở Việt Nam trở sau 1975, dựa trên 3 bộ phận chủ yếu sau:
- Một là, do quốc hữu hoá các doanh nghiệp của chính quyền cũ
- Hai là, do Nhà nước ta xây dựng từ nguồn vốn của ngân sách hoặc vốn nợ và viện trợ của các nước, các tổ chức quốc tế - Đặc biệt các nước XHCN cũ.
Ba là, do việc cải tạo các xí nghiệp của các nước tư bản trong nước khi tiến hành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các giai cấp tư sản.
Do hình thái từ nhiều nguồn khác nhau như vậy, nên hệ thống doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta có đặ trưng lĩnh vực khác biệt do với các nước trong khu vực và trên thế giới, đó là:
Các doanh nghiệp Nhà nước được xây dựng trên cơ sở những quan điểm rất khác nhau, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, cơ cấu kinh tế tự lực tự cường, phát triển kinh tế đã phương và xây dựng huyện... Mặc dù có nhiều thiếu sót mà HĐ 6 đã phê phán, doanh nghiệp Nhà nước đã có đóng góp lịch sử to lớn và đang chiếm vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
a- Quy mô các doanh nghiệp phần lớn là nhỏ bé, cơ cấu phân tán điều này được thể hiện trên các phương diện sau:
* Về số lượng lao động
Trên 2/3 tổng số doanh nghiệp Nhà nước có sổ lao động dưới 200 người chỉ có khoảng 4% doanh nghiệp có sổ lao động trên 1000 người. Những doanh nghiệp có hàng trục ngàn công nhân viên với xuất hiện trong ngành khai khoáng. Do quy mô lao động trong phần lớn các doanh nghiệp thuộc diện nhỏ bé, nếu dẫu có hàng chục ngàn đơn vị 13 lao động trong toàn khu vực doanh nghiệp Nhà nước để chiếm tỷ trọng khá nhỏ trong tổng số lao động xã hội chưa đến 6%. Riêng lao động trong công nghiệp Nhà nước, mới chiếm khoảng 2% lao động xã hội
* Về mức độ tích tụ vốn xét mức độ tích tụ vốn. Doanh nghiệp Nhà nước còn nhiều hạn chế, phần lớn có mức vốn quá thấp có thể thấy được thông qua biểu sau:
Mức độ tích tụ (30.3.93)
Công ty
Tổng doanh nghiệp Nhà nước
Doanh nghiệp Nhà nước Trung ương
Doanh nghiệp Nhà nước ĐP
Số lượng
Cơ cấu
Số lượng
Cơ cấu
Số lượng
Cơ cấu
Tổng DNNN
8750
100
1655
100
7095
100
Vốn < 1 tỷ
4285
49
241
14,6
4044
57
1 < 5 tỷ
2865
32,7
570
34,4
22.95
32,3
5 < 25
1199
13.7
561
33,9
638
9.0
25: 100
187
3,3
195
11,8
9,2
1,3
> 100
114
1,3
88
5,3
26
0,4
Như vậy gần một nửa doanh nghiệp Nhà nước chỉ có vốn 5 tỷ đồng, cả nước chỉ có 401 doanh nghiệp có số vốn trên 20 tỷ. Số doanh nghiệp lớn với số vốn trên 100 tỷ chiếm chỉ hơn 1% số doanh nghiệp.
Mức trang bị vốn cho 1 lao động của doanh nghiệp Nhà nước là 31.160.000 trong đó của doanh nghiệp Nhà nước 6B thương mại là 110.330.000 còn Nhà nước 12.620.000
b- Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu: từ một số ít doanh nghiệp Nhà nước được đầu tư vốn, phần lớn doanh nghiệp Nhà nước đã được thành lập khá lâu, có trình độ kinh tế thấp, công nghiệp lạc hậu. Theo báo cáo điều tra của bộ khoa học kỹ thuật- môi truờng cho thấy trình độ công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam kém các nước khác từ 3 đến 4 thế hệ (30 đến 40 năm) có doanh nghiệp còn sử dụng công nghệ từ những năm 30 - 40. Nhiều thiết bị sau 14 - 15 năm mới được thay đổi trong khi ở các nước khác là 5 năm. Theo số liệu thống kê, trong công nghệ có gần 26% thiết bị do Liên Xô cung cấp, 24% của các nước Đông Âu gần 20% của các nước ASEAN trên 18% là của các nước khác còn lại là tự chế.
Với cơ cấu đầu tư kỹ thuật, như trên ta thấy tránh đồng vộ của các doanh nghiệp thấp, chỉ mới các 28% doanh nghiệp Nhà nước có trang thiết bị tương đối hoàn chỉnh, đồng bộ. Mức sử dụng thay thiết bị chỉ đạt 50% công suất, do điều kiện kỹ thuật như vật và khả năng cung cấp tài chính của Nhà nước cho doanh nghiệp Nhà nước giảm nên tình trạng máy móc thết bị cũng yếu kém. Trên 50% TSLĐ của doanh nghiệp Nhà nước đã hao mòn quá 1/2 chỉ có 26% TSLĐ hao mòn dưới 30%.
Với những gì đã nêu trên, nhiều doanh nghiệp khó có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và ngay cả với hãng nước ngoài trên thị trường nội
địa vì hao phí vật chất quá lớn.
Có báo cáo còn cho thấy chỉ có khoảng 15% sản phẩm của ta đạt chất lượng xuất khẩu 70% có thể tiêu thụ trong nội địa. số sản phẩm không tiêu thụ được đã chiếm 10% tổng số lưu động của các doanh nghiệp, làm cho sự khan hiếm về vốn cũng trở lên trầm trọng và gay gắt hơn.
c- Việc phân bổ về ngành và vùng còn bất hợp lý
Hệ thống doanh nghiệp Nhà nước của chúng ta chủ yếu được bố trí ở các thành phố lớn, nhiều vùng của đất nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lao động dồi dào song dường như các doanh nghiệp không có; Miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng Sông Cửu Long...
Phân bổ doanh nghiệp Nhà nước theo ngành như sau:
Ngành
Số doanh nghiệp
Tỷ trọng %
Công nghiệp
2271
39,7
Nông nghiệp
661
10,1
Lâm nghiệp
423
6,5
XD
1034
15,8
GTVT
236
3,6
Bưu điện
3
0,1
Thương nghiệp DV
1774
27,1
Ngành khác
142
2,2
Các ngành có nhiều vốn nhất là
Năng lượng
15039 tỷ
GTVT
4654
Công nghiệp nhẹ
3757
nông nghiệp và CNThực phẩm
3491
Thương mại
3433
Xây dựng
2157
Mức trang bị vốn cho 1 lao động không hợp lý
Thương nghiệp dịch vụ
35,3T/người
GTVT
34,5
Công nghiệp
30,6
Trong khi đó
Xây dựng
8,2
Lâm nghiệp
8,1
Nông nghiệp
13,9
2- Doanh nghiệp Nhà nước ở thời kỳ trước đây (KHHTT)
Vì nhận thức rằng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chỉ có 2 thành phần TKQD và tập thể, trong đó doanh nghiệp đóng vai trò chủ đạo nên Nhà nước ta đã giành sự ưu tiên đặc biệt cho việc phát triển hệ thống doanh nghiệp Nhà nước. Nhờ đó hệ thống doanh nghiệp Nhà nước phát triển hết sức nhanh chóng các doanh nghiệp Nhà nước có mặt ở khắc mọi ngành mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, có doanh nghiệp Nhà nước ở Trung ương, địa phương theo thống kê đến 1989 cả nước có 12094 doanh nghiệp Nhà nước các loại với trên 90% tổng số lao động kinh tế, cán bộ khoa học, quản lý được đào tạo có hệ thống của cả nước.
Hệ thống doanh nghiệp Nhà nước đã đóng vai trò chủ yếu trong việc sản xuất và cung cấp cho xã hội các lực lượng sản xuất, hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng cá nhân và xã hội
Điện phát ra chiếm 100%
Thép 100%
Máy cắt gọt kim loại 100%
Máy bơm nước 100%
Xi măng 100%
BCVT thông 100%
Vận tải đưởng sắt
Thuốc tân dược 100%
Giấy 100%
Bia chai 100%
Thuốc lá 100%
Hệ thống doanh nghiệp Nhà nước đóng vai trò chủ yếu trong việc đóng góp cho ngân sách Nhà nước.
Năm 1989 tổng số thuế Nhà nước thu được là 3128 tỷ trong đó thuế thực thi công nghiệp thương nghiệp 308 tỷ, thuế XNK 383 tỷ, riêng thuế thu từ KTQD đạt 2019 tỷ chiếm 64% có thuế nước trong thời kỳ này doanh nghiệp Nhà nước đã đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân
3- Doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Khi chuyển sang nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp Nhà nước không còn được bao cấp như trước nữa, mặt khác lại bị các thành phần kinh tế cạnh tranh lĩnh vực mạnh mẽ, do vậy hàng loạt doanh nghiệp Nhà nước không trụ nổi buộc phải phá sản hoặc giải thể.
Số lượng doanh nghiệp Nhà nước giảm nhiều kể từ năm 1990 - 1993
Thời gian
Số doanh nghiệp Nhà nước TT
Tỷ trọnh so với 1989 (%)
21 - 12 - 1989
12084
100
01 - 01 - 1992
9190
77
31.12.1992
8750
72
01.06.1993
7060
58.4
Trong tổng số 7060 doanh nghiệp Nhà nước đang hoạt động (01.08.93) cũng có tới 375 doanh nghiệp không có khả năng tồn tại cần phải tiếp tục xử lý.
Tuy nhiên, cần phải thấy rằng trên thực tế việc sắp xếp lại chỉ được tiến hành ở các doanh nghiệp Nhà nước của địa phương còn doanh nghiệp Nhà nước Trung ương vẫn tăng lên 16% và việc sắp xếp lại diễn ra không đáng kể
Mặc dù các doanh nghiệp Nhà nước từ năm 89 - 93 đã giảm gần 1 nửa song có sự đổi mới về tổ chức quản lý, về kỹ thuật và công nghệ của các doanh nghiệp Nhà nước còn lạc hậu nên sản xuất của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước vẫn tăng các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ yếu trong nhiều ngành kinh tế đặc biệt là trong những ngành quan trọng đòi hỏi đầu tư lớn, công nghệ, kỹ thuật cao và ngành sản xuất và cung ứng loại hàng hoá và dịch vụ công cộng. Đồng thời hệ thống doanh nghiệp Nhà nước vẫn là thành phần kinh tế đóng góp nhiều nhất cho ngân sách Nhà nước
1990
1991
1992
1- Tốc độ phát triển kinh tế (GDP) của nền kinh tế
5,32
6,0
8,3
2- Tỷ trọng kinh tế quốc doanh
34,0
36
40
3- Tỷ lệ đóng góp của quản trị kinh doanh trong ngân sách Nhà nước
65
69
73
Tuy có những đổi mới quan trọng, có những bước tiến đáng kể trên nhiều lĩnh vực, Nhưng hiện tại hệ thống doanh nghiệp Nhà nước có những tồn tại hết sức lớn, đó là:
Số lượng nhiều và phân tác: đến thời điểm 1/6/19939 còn 7060 doanh nghiệp Nhà nước nếu là 576 doanh nghiệp. Không còn hoạt động thì doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn 6544 đơn vị trong đó 4573 doanh nghiệp do địa phương quản lý và 1971 doanh nghiệp do Trung ương quản lý, trong đó doanh nghiệp do địa phương quản lý trải khắp 53/53 tỉnh thành phối, Nơi ít nhất là Trà Vinh 19 doanh nghiệp nhiều thành phố Hồ Chí Minh 458 doanh nghiệp. Số doanh nghiệp trung ương thuộc 37 bộ và các cơ quan trung ương, nhiều nhất là bộ Nông nghiệp mà doanh nghiệp thuộc phân 352 doanh nghiệp. Có nhiều cơ quan trung ương không cần thiết phải thành lập doanh nghiệp nhưng cũng có từ 1 đến vài chục doanh nghiệp như Ban Việt Kiều trung ương, UB dân tộc miền núi Trung tâm khoa học và công nghệ quốc gia.
Các doanh nghiệp còn phân tán ở khắp các ngành nghề sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Trong đó nhiều ngành không nhất thiết phải có quốc doanh hoặc không cần tập trung nhiều doanh nghiệp như vậy ví dụ:
CN:
- Sản xuất vật liệu xây dựng 358 doanh nghiệp
- Gỗ lâm sản 139 doanh nghiệp
- LTTP 403 doanh nghiệp
Nông lâm nghiệp
Trồng trọt 291 doanh nghiệp
Chăn nuôi 192 doanh nghiệp
Trồng rừng 257 doanh nghiệp
* Kỹ thuật và công nghệ lạc hậu:
Mặc dù trong những năm qua, kỹ thuật và công nghiệp sản xuất của các nhà doanh nghiệp đã được đổi mới khá nhiều. Tuy nhiên so với Nhà nước trong khu vực và trên thế giới kỹ thuật và công nghệ của nước ta vẫn phụ thuộc vào lạc hậu, trình độ trang bị cho người lao động còn thấp theo báo cáo của tổng cục thống kê vốn trang bị cho một bình quân của doanh nghiệp Nhà nước mới đạt 245 thuộc đồng. Trong đó ngành trang bị cho là khu nghiệp dịch vụ đạt 35,5 (Tđ) giao thông vận tải 34,5 (Tđ) thấp nhất là lâm nghiệp 8,1 và xây dựng 8,2.
Điều đáng quan tâm là nhiều doanh nghiệp tiến hành đổi mới kỹ thuật và công nghiệp phát triển nhưng do những lý do lại đi nhập các loại kỹ thuật và công nghệ lạc hậu đã bị thế giới thải. Theo báo cáo của bộ công nghiệp thì thời gian qua có 70% các doanh nghiệp của bộ đã nhập về cac loại thiết bị và công nghệ lôi thôi.
* Hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp:
Chuển sang cơ chế mới, các doanh nghiệp Nhà nước đều có người cố gắng duy trì và phát triển sản xuất, gìn giữ đội ngũ lao động bằng cách cải tiến kỹ thuật mở rộng mặt hàng kinh doanh, không ít doanh nghiệp đã có tiến bộ đáng kể. đó là những lỗ lực rất đầy triển vọng xong hiệu quả kinh tế đối với Nhà nước chưa có bước tiến tương xứng.
Tuy sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước mấy năm nay bắt đầu được phục hồi và phát triển nhưng hiệu quả lại có xu hướng giảm. Tỷ xuất lợi nhuận bình quân năm 1992 tính trên vốn sử dụng là 4,8%/năm và tính trên doanh thu trên tháng là 3%.
Đó là tỷ suất lợi nhuận quá thấp so với tỷ lệ lạm phát và lãi suất ngân hàng.
Hầu hết các ngành sản xuất vật chất sử dụng vốn với hiệu quả thấp.
Ngành công nghiệp chiếp 36% tổng số vốn sử dụng và trên 50% tổng số vốn ngân sách cấp của khu vực doanh nghiệp Nhà nước nhưng tỷ suất lợi nhuận trên 1 đồnh vốn chỉ đạt 4,6% năm trong tổng kim ngạch xuất khẩu các thành phần phẩm chỉ chiếm 6,8% là thiết thực và nông sản 18,5 nguyen liệu và dầu thô
Ngành giao thông vận tải, đạt 4,2% ngành nông nghiệp đạt 2,3% các ngành dịch vụ có điều kiện quay vòng vốn nhanh song tỷ suất lợi nhuận không cao. Ngành thương nghiệp dịchh vụ 7,4 trong đó nội thương 6,0%, ngoại thương 6,4%, thương nghiệp tổng hợp 9,4%, du lịch 17,2% dịch vụ 15,8%.
Trong tổng số 6544 doanh nghiệp còn hoạt động chủ có 12,8% trong các doanh nghiệp sản xuất vật chất có tỷ suất lợi nhuận từ 15% năm trở lên và 4,3% trong các ngành dịch vụ có tỷ suất lợi nhuận từ 20% năm trở lên
7,6DN có tỷ suất lợi nhuận từ 8 - 15 % năm 47,6% có tỷ xuất lợi nhuận dưới 8% năm không có kỹ năng hoàn trả nợ vay vốn.
Đáng lưu ý là gần 11,6% sản xuất kinh doanh thua lỗ và 12% không có loại nhuận tức là 1/4 doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh không có lãi và năm1992 còn bị thua lỗ 451 tỷ đồng trong số này có 1142 doanh nghiệp đã thành lập lại theo nghị định 388 cổ phần. Theo ban thanh toán công nợ, hiện còn 3000 tỷ đồng vốn tín dụng của các doanh nghiệp Nhà nước đã giải thế, không đòi được về ngân sách phải gánh chịu.
Nếu tính cả giá trị tài nguyên, đất đai nhà xưởng được sử dụng mà hiện nay chưa tính hoặc chưa đủ mức hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp nữa.
Nhiều nguyên nhân làm cho hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước thấp song trong đó có một nguyên nhân hết sức quan trọng là tiêu hao vật chất quá cao.
Năm 1990
Năm 1991
Năm 1992
- Tiêu hao vật chất trong tổng sản phẩm xã hội toàn nền kinh tế
48,68
49,55
51,69
- Doanh nghiệp Nhà nước
60,06
60,86
61,34
Ngoài doanh nghiệp Nhà nước
43,07
42,97
44,81
* Sự đóng góp của doanh nghiệp Nhà nước cho ngân sách chưa tương xứng với phần đầu tư của Nhà nước cho nó, cũng như với tiền lực của doanh nghiệp Nhà nước
Doanh nghiệp Nhà nước sử dụng phần lớn trang thiết bị hiện đại của nền kinh tế quốc dân, hầu hết cán bộ được đào tạo được vay 80% tổng số vốn tín dụng và đã vay nước ngoài không kể trong đó nguồn thu trong nước như sau:
Năm 1990
Năm 1991
Năm 1992
- Nộp thuế
18,23
37,86
26,28
- Bán dầu thô
17,58
19,26
26,92
- Khấu hao cơ bản
4,01
2,36
10,33
Như + KHCB
22,24
40,22
36,61
Thuế + dầu thô + KHCB
39,82
39,48
57,53
Đóng góp cho ngân sách Nhà nước của doanh nghiệp gồm thuế bán dầu thô và KHCB. Thoạt nhìn ta thấy tỷ lệ khá cao nhưng nếu từ phần thuế tài nguyên và dầu thô ra chỉ thuế và KHCB băm 1999 các doanh nghiệp chỉ nội có 36,61% và nếu tính phần KHCB nửa thu phần nộp thuế của doanh nghiệp Nhà nước còn 26,28%. Con số này nếu so với tỷ lệ tổng sản phẩm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế là 41,61% thì không phải là cao.
Nếu trong thuế ta trừ đi phần thuế tiêu thụ đặc biệt thu thông qua doanh nghiệp Nhà nước chứ không phải doanh nghiệp Nhà nước gánh chịu mà do người tiêu dùng trả trừ phần của doanh nghiệp Nhà nước thực tế nộp ngân sách còn nhỏ nữa.
Nếu chúng ta lấy phần đóng góp của doanh nghiệp Nhà nước cho ngân sách Nhà nước trở đi phần ngân sách đã đầu tư trở lại cho doanh nghiệp Nhà nước thì tỷ lệ còn thấp hơn nhiều nữa.
* Tình trạng mất và thất thoát lớn đang diễn ra hết sức nghiêm trọng.
Tổng vốn kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp Nhà nước năm 1992 so với năm 1991 tăng 15,66% nếu tính tỷ lệ phạm phát năm 1992 là 17,6% thì vốn của doanh nghiệp đã giảm đi một cách tương đối so với năm1991
Trong tổng số vốn mà doanh nghiệp Nhà nước có được tính đến 31.12.92 còn bao gồm 1 phần vốn vay tín dụng trong năm 92. Nếu trừ đi số vốn tín dụng này thì số vốn của các doanh nghiệp chỉ còn bằng 91,43% so với 91. Theo điều tra ngày 1.6.1993 của tổng cục thống kê khả năng bảo toàn vốn và phát triển vốn không thực hiện được số tăng thấp hơn tỷ lệ trượt giá.
Nếu tránh sự giảm giá của đồng vốn do lạm phát thì tổng số vốn của doanh nghiệp Nhà nước thật sự mất đi là 22,26%
* Việc quản lý đối với hệ thống doanh nghiệp Nhà nước còn quá yếu ở tầm vĩ mô, thiếu quy hoạh, hướng dẫn và trợ giúp đắc lực, nhiều chính sách còn gò bó không thích hợp và thay đổi đột ngột, thủ tục phiền hà, cách giải quyết tuỳ tiện chưa tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp Nhà nước. Việc đào tạo, bồi dưỡng cho giám đốc bỏ đội ngũ quản lý về kinh tế thị trường, về các chính sách mới hầu như bị lãng quên và không có cơ quan nào đúng ra tổ chức, điều hoà phối hợp, việc phân công phân nhiệm giữa bộ quản lý ngành và bộ tài chính không đủ rõ ràng và cụ thể.
Đặc biệt nghiêm trọng là tình hình buông lỏng quản lý tài chính của Nhà nước mất vai trò thực sự là người chủ sở hữu.
- Đất đai, TP, nhà xưởng và một phần trang thiết bị không được hạch toán, hạch toán không đủ.
- Việc chuyển giao vốn, liên doanh, liên kết vay nợ trong nước và ngoài nước diễn ra khá tuỳ tiện
- Không có chế độ giám sát giá hợp đồng, quản lý phi lợi nhuận bình quân, chưa có chế độ kiểm toán, báo cáo tài chính công khai.
- Động lực để doanh nghiệp Nhà nước đóng góp cho Nhà nước thấp hoặc không có, động lực vật chất theo chất độ cho giám đốc thấp. Hiện nay ở các doanh nghiệp Nhà nước còn tồn tại ít nhất 2 sổ sách chế độ chứng từ, biên lai hach toán, thống kê có tính hình thức và đối phó, thu nhập của người lao động và giám đốc kiểm soát được và không báo cáo trung thực quản lý phí, chi phí đi nước ngoài, trong nước, tiếp dân quà cáp quá cao so với thu thu nhập người lao động và hiệu quả. Nhiều giám đốc tham gia vào những hoạt động kinh doanh ngoài sự kiểm soát của doanh nghiệp, ngày càng phát hiện được nhiều sự lạm dụng, chiếm đoạt tài sản làm giầu cá nhân, buôn lậu, kinh doanh bất hợp pháp của doanh nghiệp.
4- Những nguyên nhân
a- Tình trạng kém hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước hậu quả tất yếu của những khuyết điểm trong việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, công nghiệp hoá của những sai lầm trầm trọng trong bố trí cơ cấu kinh tế và áp dụng cơ chế quản lý kinh tế nhằm phát triển nền kinh tế tập trung, hiện vật, bao cấp, khép kín và hướng nội thay thế nhập khẩu.
Trong hơn 40 năm qua, ở nước ta phát triển kinh tế quốc doanh đã được xem là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội và các doanh nghiệp Nhà nước đã được coi là cơ sở kỹ thuật của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Vì đồng nhất xã hội chủ nghĩa với công hữu và kinh tế quốc doanh, lẫn lộn gữa mục tiêu và phương tiện nên chúng ta đã phát triển tràn lan các doanh nghiệp Nhà nước và sự đóng góp của chúng đã không tương xứng với sự đầu tư của Nhà nước.
Trong một thời gian dài, chúng ta đã mắc sai lầm định giải 1 bài toán quốc doanh trên nền tảng của hệ lý luận cũ, không hiện thực, chủ quan và duy ý chí về mô hình chủ nghĩa xã hội, mô hình phát triển và quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa theo quan điểm truyền thống, không thể tạo ra sự chuyển biến căn bản về năng suất, chất lượng và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước nếu hệ quan điểm nước này vẫn làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho những chính sách và chế độ quản lý doanh nghiệp Nhà nước.
b- Chúng ta chậm và không cương quyết trong việc cải cách chế độ sở hữu trong doanh nghiệp Nhà nước
Về mặt pháp, lý tài sản, tiền vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước thuộc sở hữu toàn dân nhưng trên thực tế tính chất toàn dân của sở hữu trong doanh nghiệp Nhà nước bị hao mòn 1 cách nghiêm trọng. Do các hình thức cụ thể của sở hữu toàn dân về mặt kinh tế không được xác định nên hầu hết những người lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước thờ ơ và xa cách vốn sở hữu toàn dân. Quan điểm sở hữu toàn dân là không phải của ai cả đã bén rễ ngày càng sâu sắc trong suy nghĩ và hành động của họ.
Tình trạng không có ai là chủ sở hữu đích thực là nguyên nhân của sự tham nhũng của những nguyên nhân của sự tham nhũng của những người có chức có quyền và sự lãnh đạo thiếu trách nhiệm, thiếu kỷ cương, kỷ luật của người lao động là sự sút kém về năng suất chất lượng và hiệu quả, không trung thực trong công tác kế toán, thống kê, thiếu minh bạch trong phân phối thu nhập... trong doanh nghiệp Nhà nước
c- Thiếu mô hình tổ chức và quản lý doanh nghiệp Nhà nước hữu hiệu theo những yêu cầu của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Mô hình tổ chức của các xí nghiệp, liên hiệp các xí nghiệp, tổng Công ty mà chúng ta đã áp dụng từ hơn bốn thập niên qua là con đẻ của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, hiện vật, bao cấp và được nền kinh tế này nuôi dưỡng. Nó đã không đáp ứng với những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường và đã bộc nộ rõ những khuyết tật của nó.
- Nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải xác định về xác nhận rõ quyền sở hữu tài sản, tiền vốn trong doanh nghiệp nhưng ở tất cả các mô hình tổ chức và quản lý doanh nghiệp Nhà nước kể trên sở hữu đã trở thành vô chủ.
- Trong nền kinh tế thị trường người có quyền quyết định mọi vấn đề chiến lược phát triển của doanh nghiệp Nhà nước là chủ sở hữu Nhà nước chứ không phải người lao động và đại diện công nhân viên chức của doanh nghiệp.
- Người lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước chỉ là người "làm công ăn lương" cho Nhà nước. Không thể trao cho người lao động và đại hội công nhân viên chức trong doanh nghiệp Nhà nước những quyết định của chủ sở hữu. Muốn trở thành một chủ sở hữu đích thực người lao động phải bỏ tiền mua cổ phần.
Đã có một thời gian chúng ta có sai lầm là trao cho người lao động và đại hội công nhân viên chức nhưng thẩm quyền của người chủ sở hữu là Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường giám đốc doanh nghiệp Nhà nước là người làm thuê cho chủ sở hữu là Nhà nước. Nhưng trong các doanh nghiệp của ta, Giám đốc vừa có chức năng là giám đốc chủ vừa có chức năng là giám đốc điều hành. Hơn thế nữa, họ là một quan chức hành chính hơn là nhà kinh doanh thực thụ. Rất nhiều giám đốc doanh nghiệp Nhà nước không có kiến thức và không am hiểu nghề giám đốc bởi lẽ họ chưa bao giờ được đào tạo một cách có hệ thống. Việc trao cho giám đốc nhiều quyền lực trong đó đặc biệt là quyền lực của chủ sở hữu trong lúc không có cơ chế kiểm tra, giám sát hữu hiệu những hoạt động đã có một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng lãng phí, tham nhũng nghiêm trọng tài sản tiền vốn của Nhà nước
d- Không đồng thời tiến hành của cách hành chính, tạo ra bộ máy và thể chế của Nhà nước pháp quyền nhằm tạo môi trường hành chính và luật pháp thuận lợi của cách doanh nghiệp Nhà nước.
5- Doanh nghiệp Nhà nước trong tương lai: trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và trong nền kinh tế thị trường ở đầu thập niên 90 chúng ta thấy rằng doanh nghiệp Nhà nước còn rất nhiều những tổn tại của sự phát triển của nó, vì vậy chúng ta phải đổi mới doanh nghiệp Nhà nước
Để có quan điểm và các giải pháp hợp lý đối với doanh nghiệp Nhà nước cần nhận thức rõ bối cảnh hướng tới quá trình đổi mới và doanh nghiệp Nhà nước đó là:
Nước ta phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chưa được bao lâu do đó các thành phần kinh tế chưa chiếm lĩnh và giữ đúng vai trò của mình. Do đó việc đối với doanh nghiệp Nhà nước cũng có nghĩa là xác định tương quan hợp lý giữa doanh nghiệp Nhà nước và các thành phần kinh tế khác sao cho mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội lớn nhất cho đất nước.
Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nói chung còn nhỏ lẻ, đang ở giai đoạn ban đầu của sự phát triển, chưa phát huy được tiềm năng để trở thành đối tượng và đối tác của doanh nghiệp Nhà nước.
Doanh nghiệp Nhà nước chi kém hiệu quả, song do yếu tố lịch sử để lại nó đang buộc phải đóng vai trò lớn trong nền kinh tế quốc dân. Thực tiễn lao động đòi hỏi phải đổi mới doanh nghiệp Nhà nước căn bản nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội. Đó là một mâu thuẫn lớn song bắt buộc phải._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33771.doc