Doanh nghiệp công ích trên địa bàn Hà Nội

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quá trình phát triển kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, trong đó hệ thống doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là bộ phận chủ yếu. DNNN giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, đi đầu trong ứng dụng khoa học - công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội… DNNN nói chung và DNNN hoạt động vì mục tiêu công ích (gọi tắt là doanh nghiệp công ích) hoạt động theo các chính sách xã hội của n

doc127 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3286 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Doanh nghiệp công ích trên địa bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hà nước phục vụ cho lợi ích trực tiếp của toàn xã hội hay lợi ích công cộng như: cung ứng hàng hóa công cộng (HHCC) theo kế hoạch hay đơn đặt hàng của nhà nước như các hàng hóa về quốc phòng, an ninh, y tế công cộng và văn hóa... Mặc dù nhóm hàng hóa công cộng được coi là hàng hóa đặc biệt này chiếm tỷ trọng không lớn trong nền kinh tế nhưng nhà nước phải có những nguyên tắc quản lý riêng do vai trò quan trọng và tính đặc thù của nó đối với nền kinh tế. Những năm qua của thời kỳ đổi mới, quá trình sắp xếp, tổ chức lại doanh nghiệp công ích (DNCI) cho phù hợp với yêu cầu phát triển của KTTT nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, DNCI đã có những đóng góp đáng kể: kết cấu hạ tầng được cải thiện, góp phần đảm bảo những cân đối lớn trong nền kinh tế ổn định và phát triển, giảm thiểu mức đầu tư từ ngân sách nhà nước. Ngày nay cùng với quá trình phát triển chung của đất nước, việc tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và mức độ đô thị hóa ngày càng nhanh chóng của thành phố Hà Nội đang đặt ra rất nhiều nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết. Trong đó, nhiệm vụ quan trọng phải tập trung nhiều hơn cho đầu tư phát triển, nâng cấp, cải tạo, đồng bộ và hiện đại hóa các công trình hạ tầng giao thông công chính. Cung cấp kịp thời với chất lượng ngày càng tốt hơn các dịch vụ, tiện ích công cộng cho mọi người. DNNN mà đặc biệt là DNCI, trong quá trình chuyển sang KTTT đang phát sinh nhiều bất cập như tình trạng đầu tư lớn nhưng kết quả kinh tế - xã hội không được như mong muốn. Nhiều vấn đề về cơ chế, chính sách đặt ra gây lúng túng trong công tác tổ chức quản lý. Thậm chí DNCI còn bị đánh giá là khu vực kém hiệu quả nhất hiện nay. Một số công trình trọng điểm triển khai chưa đạt yêu cầu so với tiến độ đặt ra. Những công trình về dân sinh như cấp thoát nước, chiếu sáng, cải tạo và nâng cấp hạ tầng kỹ thuật… triển khai còn chậm. Nhiều khu vực của thành phố thiếu nước sạch sinh hoạt, rác tồn đọng ở các ngõ xóm, phế thải xây dựng còn chưa được thu dọn kịp thời, đường phố còn bụi, vệ sinh nơi công cộng chưa đảm bảo. Công tác xử lý và phối hợp xử lý các vi phạm chưa đạt yêu cầu, lãng phí điện, nước công cộng vẫn ở mức cao, dịch vụ vui chơi giải trí chưa phát triển tương xứng với vị thế của Thủ đô. Hà Nội là Thủ đô của cả nước, các DNCI chiếm một số lượng lớn, có vai trò, vị trí trọng yếu trong việc cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích (SP, DVCI) với giá ưu đãi (thấp hơn giá thành, ổn định trong thời gian dài) như: giao thông đô thị; cung cấp nước sạch; đảm bảo tiêu thoát nước mưa, nước thải; thu gom chế biến rác thải và chất thải công nghiệp, y tế; chiếu sáng công cộng; phát triển hệ thống các vườn hoa, cây xanh, công viên, giải phân cách… Kết quả hoạt động của hệ thống DNCI đóng góp to lớn vào việc bình ổn giá cả thị trường, đảm bảo công bằng xã hội, người dân thực sự được hưởng lợi từ các SP, DVCI và tạo ra diện mạo mới cho bộ mặt của Thủ đô. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH trước yêu cầu phát triển nhanh, vững chắc đặt ra đối với DNCI những nhiệm vụ cấp bách. Yêu cầu ấy đòi hỏi phải đổi mới cách nhìn nhận, đánh giá và có những giải pháp, chính sách cả vĩ mô, vi mô đối với các DNCI nói chung và DNCI của Thủ đô Hà Nội nói riêng. Vì vậy vấn đề: "Doanh nghiệp công ích trên địa bàn Hà Nội" được chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn nhằm có cách nhìn khách quan, khoa học đối với DNCI nói chung, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động DNCI trên địa bàn Thủ đô Hà Nội. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu về DNCI như: "Thực trạng và những biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước ở doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích" của tác giả Nguyễn Trung Kiên. Đề tài đề cập đến những vấn đề lý luận chung về quản lý nhà nước; phân tích thực trạng quản lý nhà nước DNCI trong 2 năm (1999 - 2000). Đồng thời đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước DNCI. "Những giải pháp cơ bản nhằm đổi mới công tác quản lý các doanh nghiệp hoạt động công ích ngành Giao thông công chính Hà Nội" của tác giả Hoàng Kim Hồng. Đề tài phân tích thực trạng hoạt động của các DNCI ngành Giao thông công chính Hà Nội, chỉ ra những ưu điểm, những thế mạnh cần phát huy và những tồn tại, hạn chế trong hoạt động thực tiễn cần được điều chỉnh hoặc đổi mới phương thức hoạt động; nhằm phát huy năng lực tiềm tàng của các doanh nghiệp và xã hội để các hoạt động trong lĩnh vực này có hiệu quả cao. "Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác kế hoạch đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích - Cụm cảng Hàng không miền Bắc" của tác giả Nguyễn Hữu Vinh. Đề tài phân tích công tác kế hoạch, tổng kết thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh thời kỳ 1998 - 2002; phân tích đánh giá tình hình quản lý điều hành kế hoạch và đề ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của DNCI - Cụm cảng Hàng không miền Bắc. "Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích ngành Văn hóa thông tin" của tác giả Nguyễn Danh Ngà. Đề tài đề cập đến đổi mới cơ chế hoạt động của DNCI ngành văn hóa thông tin dưới giác độ nghiên cứu của môn học Kinh tế phát triển. Ngoài ra còn một số bài đăng trên các báo, tạp chí chuyên ngành về DNCI. Tuy nhiên các công trình trên chủ yếu nghiên cứu các DNCI dưới góc độ là một bộ phận của kinh tế nhà nước và chỉ ra các giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh. Một số tác giả có đề cập đến một ngành, lĩnh vực công ích cụ thể. Do giới hạn lịch sử, cách tiếp cận KTTT đã có nhiều điểm còn hạn chế, các giải pháp không còn phù hợp với thực tiễn, đòi hỏi phải được xem xét, bổ sung trong điều kiện mới. Việc nghiên cứu DNCI trong nền KTTT định hướng XHCN qua khảo sát trên địa bàn Thủ đô Hà Nội là một hướng đi mới, không trùng lắp với các đề tài, công trình đã được công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích Nghiên cứu cơ sở lý luận về vị trí, vai trò, mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của DNCI trong nền KTTT. Đặc biệt làm rõ đặc điểm của DNCI ở nước ta và của Thành phố Hà Nội trong phát triển KTTT định hướng XHCN thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH. Từ đó chỉ ra phương hướng, giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNCI Thành phố Hà Nội phù hợp với yêu cầu phát triển mới theo hướng ngày càng thích nghi với yêu cầu của các quy luật KTTT và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. 3.2. Nhiệm vụ Làm rõ nội dung của DNCI nói chung, DNCI trong phát triển KTTT định hướng XHCN. Phân tích thực trạng hoạt động của các DNCI thành phố Hà Nội trong thời gian qua, chỉ ra được thành tựu và vấn đề đặt ra trong thời kỳ mới đối với yêu cầu phát triển Thủ đô, ngang tầm là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa, trái tim của cả nước, "Thành phố vì hòa bình" theo tôn vinh của tổ chức UNESCO. Đề xuất các phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNCI; dự báo xu hướng và cơ chế hoạt động, sắp xếp lại DNCI nhằm phát huy hiệu quả của vốn đầu tư, nâng cao chất lượng phục vụ và kiến nghị những yêu cầu, những vấn đề trước mắt phải giải quyết. 3.3. Giới hạn của luận văn Luận văn không đề cập đến tất cả các DNCI trên địa bàn thành phố Hà Nội nói chung mà tiếp cận chủ yếu các DNCI trong khu vực nội thành của Thủ đô Hà Nội và các số liệu chủ yếu tập trung trong DNCI ngành Giao thông công chính. Trong điều kiện phát triển KTTT định hướng XHCN, thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, các số liệu minh họa chủ yếu thời kỳ đổi mới và tập trung từ năm 2000 đến nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời kế thừa có chọn lọc một số công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước có liên quan đến nội dung này. Luận văn vận dụng những phương pháp chung của kinh tế chính trị Mác - Lênin, trong đó coi trọng phương pháp: kết hợp lôgic với lịch sử, phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp. Sử dụng một số số liệu tại Niên giám thống kê nhà nước, Báo cáo tổng kết của các sở, ngành Thành phố Hà Nội và các doanh nghiệp có liên quan. 5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài Trình bày có hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về DNCI, vị trí, vai trò và đặc điểm của DNCI trong phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta. Đề xuất được những giải pháp cơ bản có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNCI thành phố Hà Nội trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - Ý nghĩa lý luận: thông qua việc nghiên cứu có tính chất hệ thống, khoa học quá trình hình thành và phát triển DNNN nói chung, DNCI nói riêng trong các nền kinh tế qua các thời kỳ từ đó thấy được vị trí, vai trò, đặc điểm của hệ thống DNCI ở nước ta. Đặc biệt khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về DNCI trong phát triển KTTT định hướng XHCN thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. - Ý nghĩa thực tiễn: trên cơ sở những vấn đề lý luận được gợi mở, phân tích làm căn cứ đánh giá khách quan, khoa học thực trạng hoạt động của các DNCI Thủ đô Hà Nội trong những năm qua và dự báo xu hướng phát triển hệ thống doanh nghiệp này. Chỉ ra những kết quả đạt được, đồng thời phân tích nguyên nhân của tình trạng trên. Đề xuất giải pháp thiết thực, khả thi nhằm nâng cao hiệu quả trước mắt và đảm bảo tính ổn định lâu dài các DNCI của thành phố Hà Nội. Làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ làm công tác quản lý thực tiễn các DNCI của thành phố. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, các phụ lục và danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG ÍCH 1.1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG ÍCH TRONG CÁC NỀN KINH TẾ 1.1.1. Các khái niệm cơ bản về doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp công ích 1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước DNNN là bộ phận cấu thành quan trọng nhất của kinh tế nhà nước, tuy nhiên chúng ta không nên hiểu đồng nhất khái niệm DNNN với kinh tế nhà nước. Quan niệm về DNNN ở các quốc gia trên thế giới cũng có nhiều điểm không thống nhất với nhau. Ngay ở Việt Nam, quan niệm về DNNN trong từng giai đoạn cũng có nhiều thay đổi, do đó còn những điểm chưa thống nhất trong lý luận và thực tiễn, đặc biệt là trong quá trình sắp xếp, đổi mới DNNN hiện nay. Trước kia, khi đất nước ta còn tập trung tối đa sức người, sức của cho cuộc chiến tranh giành độc lập tự do cho tổ quốc, Đảng ta chủ trương thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung nền kinh tế, các xí nghiệp quốc doanh (ngày nay gọi là DNNN) chiếm vị trí thống trị trong nền kinh tế. Về mặt sở hữu, đó là các xí nghiệp do nhà nước thành lập, đầu tư 100% vốn (hoặc từ nguồn viện trợ của các nước anh em trong hệ thống XHCN); do nhà nước trực tiếp quản lý. Nhà nước cung cấp vật tư, nguyên liệu và các xí nghiệp sản xuất khi đó phải giao nộp toàn bộ sản phẩm. Về phân phối, thực hiện chế độ phân phối hiện vật, theo định lượng do nhà nước quy định. Khi chuyển sang nền KTTT định hướng XHCN, việc đổi mới cơ chế quản lý, DNNN luôn dành được sự quan tâm đúng mức. Các DNNN không những thay đổi về nguyên tắc hoạt động, cơ chế quản lý, phương thức hạch toán mà còn thay đổi cơ cấu sở hữu, ngoài ra còn xuất hiện một số hình thức sở hữu hỗn hợp. Luật DNNN ban hành ngày 30 tháng 3 năm 1995 lần đầu tiên tại nước ta đã đưa ra khái niệm về DNNN như sau: DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Đến tháng 11 năm 2003, luật DNNN được điều chỉnh như sau: "DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH". 1.1.1.2. Khái niệm doanh nghiệp công ích Tại Nghị định số: 56/CP ngày 2/10/1996 của Chính phủ, DNCI được quan niệm như sau: DNNN hoạt động công ích là DNNN độc lập hoặc DNNN là thành viên hạch toán độc lập của tổng công ty nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc sản xuất sản phẩm, cung ứng dịch vụ công cộng theo chính sách của Nhà nước, do Nhà nước giao kế hoạch hoặc đặt hàng và theo giá, khung giá hoặc phí do Nhà nước quy định, hoạt động chủ yếu không vì mục tiêu lợi nhuận. Đây là lần đầu tiên luật pháp Việt Nam thừa nhận loại hình DNNN hoạt động công ích làm cơ sở để xác định phạm vi và cơ chế quản lý các DNCI, là vấn đề rất mới đối với Việt Nam. Trước đây, trong cơ chế "thu đủ, chi đủ" không có sự khác nhau giữa doanh nghiệp kinh doanh và các DNCI chuyên sản xuất các hàng hóa, dịch vụ công cộng nhưng khi chuyển sang cơ chế thị trường, sau khi các DNNN chuyển sang nguyên tắc thương mại, trong một thời gian dài cả nhà nước và các DNCI đều lúng túng về cơ chế quản lý. Hiện nay, theo quan niệm mới tại Nghị định số 31/2005/NĐ-CP ngày 11/3/2005 của Chính phủ cho rằng: SP, DVCI là sản phẩm, dịch vụ thiết yếu đối với đời sống, kinh tế, xã hội của đất nước, cộng đồng dân cư của một khu vực lãnh thổ hoặc đảm bảo quốc phòng, an ninh mà việc sản xuất, cung cấp theo cơ chế thị trường thì khó có khả năng bù đắp chi phí đối với doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ này; do đó được Nhà nước đặt hàng, giao kế hoạch, đấu thầu theo giá hoặc phí do Nhà nước quy định. Đối với DNCI, trước đây do chưa xác định rõ tiêu chí DNNN hoạt động công ích và SP, DVCI đã dẫn đến tình trạng mở rộng quá nhiều danh mục (có tới 30 nhóm sản phẩm dịch vụ thuộc loại SP, DVCI), được hưởng nhiều chính sách ưu đãi, làm cho số DNNN làm nhiệm vụ công ích phát triển tràn lan, từ 617 doanh nghiệp (năm 1999) lên 732 doanh nghiệp (năm 2000), chiếm 12,8% tổng số DNNN. Hơn nữa, do không phân biệt việc cung ứng các SP, DVCI với xếp loại doanh nghiệp làm nhiệm vụ công ích nên doanh nghiệp làm nhiệm vụ công ích được bao cấp khá nhiều so với DNNN làm nhiệm vụ kinh doanh. Khắc phục tình trạng trên, Nghị định số: 31/2005/NĐ-CP ngày 11/3/2005 của Chính phủ đã quy định rõ danh mục SP, DVCI. Danh mục này không cố định mà căn cứ vào tình hình thực tế, có thể điều chỉnh cho phù hợp. Ngoài phụ lục kèm theo, Nghị định còn quy định rõ: "trong từng thời kỳ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan trình Thủ tướng Chính phủ quyết định việc sửa đổi, bổ sung danh mục SP, DVCI". Danh mục được chia làm ba loại theo thứ tự A, B, C; trong đó quy định rõ các phương thức cung ứng SP, DVCI và nguyên tắc lựa chọn. Đối với danh mục loại A, Nghị định ghi rõ: "Việc sản xuất và cung ứng các SP, DVCI quy định tại danh mục A Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định này do công ty nhà nước đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh, thực hiện theo phương thức đặt hàng hoặc giao kế hoạch". Ví dụ như: sản xuất thuốc nổ, hóa chất phục vụ quốc phòng; sản xuất chất phóng xạ; sản xuất, sửa chữa vũ khí, khí tài, trang thiết bị kỹ thuật cho quốc phòng an ninh, trang thiết bị, tài liệu kỹ thuật mật mã; in tài liệu, sách báo chính trị, quân sự chuyên dùng cho quốc phòng an ninh; thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đặc biệt theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Đối với Danh mục sản phẩm loại B, Nghị định cho phép các DNCI thực hiện theo phương thức đặt hàng (cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác hoặc hợp tác xã), hoặc giao kế hoạch. Sản phẩm loại B gồm: in tiền, các chứng chỉ có giá và sản xuất tiền bằng kim loại; dịch vụ điều hành bay; dịch vụ bảo đảm hàng hải; quản lý, bảo trì đường sắt quốc gia; quản lý, bảo trì cảng hàng không; xuất bản sách giáo khoa, sách và tạp chí phục vụ giảng dạy và học tập; xuất bản bản đồ, sách báo chính trị; xuất bản tạp chí, tranh ảnh, sách báo phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số; sản xuất phim thời sự, tài liệu, khoa học, phim cho thiếu nhi; quản lý khai thác hệ thống công trình thủy lợi quy mô lớn; quản lý, duy tu công trình đê điều, công trình phân lũ và các công trình phòng chống thiên tai; trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sinh thái, rừng ngập mặn lấn biển; sản xuất, lưu trữ giống gốc cây trồng, vật nuôi, sản xuất vac-xin phòng bệnh; dịch vụ bảo vệ nguồn lợi thủy sản; thoát nước đô thị; chiếu sáng công cộng, cung cấp điện cho vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo; quản lý, bảo trì đường đô thị, đường bộ vùng sâu, vùng xa; quản lý, bảo trì đường thủy nội địa; hoạt động điều tra cơ bản về địa chất, khí tượng thủy văn, đo đạc bản đồ; hoạt động khảo sát, thăm dò, điều tra về tài nguyên đất đai, nước, khoáng sản và các loại tài nguyên thiên nhiên; dịch vụ bưu chính phổ cập, dịch vụ bưu chính bắt buộc; một số lĩnh vực quan trọng khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Việc sản xuất và cung ứng các SP, DVCI quy định tại Danh mục C Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định này do DNNN, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác và hợp tác xã thực hiện theo phương thức đấu thầu hoặc đặt hàng. Ví dụ như: quản lý, khai thác hệ thống công tình thủy lợi có quy mô vừa và nhỏ; dịch vụ vận tải công cộng bằng xe buýt tại các đô thị; dịch vụ công cộng: vệ sinh môi trường công cộng, quản lý công viên, trồng và quản lý chăm sóc cây xanh, hoa cảnh vỉa hè, đường phố, dải phân cách, vòng xoay, quản lý nghĩa trang, hỏa táng; sản xuất phim truyện do nhà nước đặt hàng hoặc tài trợ; quản lý bảo trì hệ thống đường bộ, quản lý bảo trì bến phà, bến xe quan trọng; vận chuyển, cung ứng hàng hóa và dịch vụ thiết yếu phục vụ đồng bào miền núi, vùng sâu, vùng xa; một số sản phẩm và dịch vụ quan trọng khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Đối với những SP, DVCI có thể thực hiện theo hai phương thức, việc lựa chọn phương thức cung ứng SP, DVCI thực hiện theo thứ tự ưu tiên sau: đấu thầu; đặt hàng, giao kế hoạch. Như vậy, việc định ra các tiêu chí quy định cụ thể, rõ ràng các DNCI; SP, DVCI là căn cứ cho các chính sách, cơ chế quản lý đầu tư… phù hợp, sát thực tế, khắc phục tình trạng chồng chéo,lãng phí. 1.1.2. Quá trình hình thành doanh nghiệp công ích trong các nền kinh tế thị trường 1.1.2.1. Tư tưởng kinh tế về nhà nước tham gia vào sản xuất các hàng hóa công cộng Những người thuộc trường phái Trọng thương thế kỷ 15 - 17 cho rằng để có nhiều tiền, Nhà nước phải có những chính sách hỗ trợ, làm "bà đỡ" cho quá trình làm tăng của cải, tăng giá trị của các nhà kinh doanh. Các nhà kinh tế học cổ điển Anh thì muốn phủ định vai trò kinh tế của Nhà nước. Mặc dù vậy, A. Smith, nhà kinh tế học cổ điển nổi tiếng thời bấy giờ - vẫn phải thừa nhận rằng Nhà nước không thể không có vai trò trong việc duy trì các công trình công cộng (đường sá, cầu cống, sông đào, bến cảng) và những thể chế mang lại lợi ích cho toàn xã hội. Ăng-ghen khi nói về sự tác động của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế đã khẳng định có ba loại: Một là, nếu những tác động phù hợp, đúng quy luật, cùng hướng sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngược lại, làm trái quy luật, áp đặt sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế. Ba là, tác động của nhà nước tốt hướng này, cản trở hướng khác sẽ gây những cản trở trong quá trình phát triển kinh tế. Can thiệp vào đời sống kinh tế có nghĩa là Nhà nước dùng quyền lực áp đặt những quy chế của mình nhằm hướng dẫn, điều chỉnh hành vi của các chủ thể trong nền kinh tế cho phù hợp với những mục tiêu Nhà nước đã lựa chọn. Để thực hiện vai trò này, Nhà nước có thể ban hành và thực thi hệ thống luật pháp kinh tế can thiệp vào phân phối thu nhập trong xã hội, các chính sách kinh tế, hoặc trực tiếp tổ chức xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống. Chẳng hạn, khi nói về vai trò của Nhà nước trong tổ chức xây dựng và quản lý kết cấu hạ tầng, C. Mác cho rằng, đó không chỉ là sự thể hiện chức năng của Nhà nước, mà trong những trường hợp riêng biệt, nó còn là đòi hỏi phải có Nhà nước. Đó là trường hợp các Nhà nước ở phương Đông: "Dù cho những chính quyền chuyên chế đã xuất hiện và suy vong ở Ba Tư và Ấn Độ có nhiều đến đâu chăng nữa, thì mỗi một chính quyền đó cũng biết rất rõ rằng nó trước hết là người tổng phụ trách việc tưới nước cho các thung lũng mà nếu không có thì ở đó không thể có một nền nông nghiệp nào hết" [19, tr.10-14]. Với quan niệm như vậy chúng ta có thể hiểu rằng, ngay cả những quốc gia vốn coi trọng vai trò của kinh tế tư nhân, những quốc gia có nền KTTT phát triển từ rất sớm nhưng đều có một quan điểm chung về vai trò của nhà nước trong việc đảm nhận trách nhiệm cung ứng các sản phẩm HHCC trên thị trường. 1.1.2.2. Sự hình thành các doanh nghiệp công ích trong các nền kinh tế Ngay tại những nước tư bản phát triển nhất, kết cấu hạ tầng vẫn phải do Nhà nước đảm nhận xây dựng và vận hành. Các quốc gia phát triển ở châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Xin-ga-po,... kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò "bà đỡ" cho các doanh nghiệp vào những giai đoạn khó khăn, nhất là trong chuyển giao công nghệ, liên doanh góp vốn với nước ngoài. Những năm gần đây, khi nền kinh tế trì trệ, chính phủ Nhật Bản nhiều lần xuất dự trữ Nhà nước mua cổ phiếu để cứu vãn một số công ty khi chúng bị chao đảo trên thị trường chứng khoán. Tại Mỹ chủ trương "Chính phủ mang tinh thần kinh doanh" nhằm chống lại mô hình "Chính phủ quan liêu" và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của dân, đã đem lại nguồn sinh khí mới cho bộ máy Nhà nước, được dân chúng nhiệt liệt hoan nghênh. Tại Anh, Pháp và nhiều nước khác, người ta tổ chức việc đấu thầu các dịch vụ công, chuyển đại bộ phận giáo dục, đào tạo và y tế… sang chế độ ký hợp đồng với các chủ thể nằm ngoài khu vực Nhà nước tạo nên một xu thế xã hội hóa dịch vụ công rất sôi động. Ở nước Anh, dưới thời Thủ tướng M. Thát-chơ, người ta không thể nào tư nhân hóa được hệ thống đường sắt mà chỉ bán các nhà ga và những đoàn tàu. Chính phủ Anh giữ vai trò chính trong chi tiêu bảo đảm xã hội: trong tổng chi tiêu bảo đảm xã hội của nước Anh chỉ có 1/4 chi phí đến từ phí nộp của các ông chủ, 1/5 đến từ công nhân viên, còn trên 50% số chi tiêu là từ ngân sách của chính phủ. Hàng năm, chính phủ Anh đã chi về phương diện bảo đảm xã hội tới 30% tổng chi tiêu của chính phủ. Trong chi tiêu tài chính của Anh, khoản chi tiêu này được liệt vào hàng số một. Còn ở Pháp, sự thỏa thuận giữa các nhà quản lý và chính quyền cũng hết sức hiệu quả: các nhà quản lý làm chủ các dự án công nghiệp - công nghệ lớn, còn chính quyền thì sử dụng nguồn thu của dịch vụ công cộng làm đòn bẩy điều tiết kinh tế xã hội và làm phương tiện thực hiện chính sách tạo ra các nhà vô địch quốc gia dựa trên chủ nghĩa bảo hộ tấn công. Các hãng Alcatel Alsthom, Framatome, Thomson, Aérospatiale, Dassault… từng trong một thời gian dài được hưởng chế độ ưu đãi của Công ty Điện lực Pháp (EDF), France Telecom, Air France, Tổng cục Vũ khí… Tại Thụy Điển, các khoản chi đặc biệt để lắp đặt hệ thống điện thoại cần thiết cho những người khiếm thính hay thiểu năng phát âm được trích từ ngân sách xã hội của nhà nước, ngân sách này được hình thành từ nguồn thu là thuế phổ thông (thuế thu nhập, thuế giá trị gia tăng…). Không những ở mỗi quốc gia mà ngay cả các khối liên kết kinh tế cũng đề cao vai trò của dịch vụ công cộng. Tại điều 130A của Hiệp ước Maastricht đã nêu rõ quyền được sử dụng dịch vụ công cộng là một yếu tố góp phần vào việc tăng cường sự liên kết về kinh tế và xã hội của Liên minh Châu Âu. Trên cơ sở một nghiên cứu so sánh các văn bản pháp lý hiện hành tại năm nước thuộc liên minh Châu Âu (Đức, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Italia và Anh) đã cho kết luận rằng quyết tâm bảo đảm những quyền cơ bản của con người là nền tảng chung cho một quy chế Châu Âu thống nhất về dịch vụ công cộng. Bởi lẽ các dịch vụ công cộng là cần thiết cho việc thực hiện các quyền cơ bản, nên chúng cũng cần được bảo đảm chắc chắn như những quy định của Hiệp ước Maastricht bảo đảm cho sự vận hành trôi chảy của cơ chế thị trường. Nói vậy không có nghĩa là đối lập dịch vụ công cộng với thị trường, mà là tạo ra cơ sở khẳng định tính pháp lý cho việc nhà nước can thiệp nhằm tạo khuôn khổ, bổ sung và nếu cần thì điều chỉnh các cơ chế của thị trường nhằm bảo đảm được một nguồn cung ứng dịch vụ công cộng thỏa đáng. Quan điểm về dịch vụ công cộng mà hầu hết các nước phát triển đều nhất trí là không thể để mặc cho các dịch vụ này phát triển tùy tiện, càng không thể để cho các đối tượng kinh doanh trong một lĩnh vực có cạnh tranh như vận tải đường bộ tàn phá chính những yếu tố cơ bản trong các lĩnh vực hoạt động của mình, đồng thời cũng không thể để cho một lĩnh vực độc quyền bóc lột người sử dụng. Điều tiết của chính quyền dưới hình thức nào đó là một việc làm cần thiết. Do hoạt động điều tiết đó xử lý những vấn đề quan trọng như chất lượng và giá cả của các dịch vụ công cộng, những điều kiện cạnh tranh giữa các đơn vị cung ứng dịch vụ, nên nhất thiết phải tổ chức công tác điều tiết theo những mô hình vừa chặt chẽ, vừa thực tế. Dịch vụ công cộng bao hàm một khía cạnh mang tính xã hội: bảo đảm quyền sử dụng bình đẳng các HHCC cơ bản với mức giá vừa phải. Nó cũng bao hàm một khía cạnh mang tính lãnh thổ, thông qua biện pháp điều hòa giá cho phép tạo ra quyền hưởng thụ bình đẳng tại mọi địa điểm trên lãnh thổ. Thực tế điều này đã cho phép xử lý các hiệu ứng ngoại lai, nhưng điều tạo ra màu sắc đặc thù của dịch vụ công cộng chính là việc nó được sử dụng như một công cụ phục vụ chiến lược quốc gia nhằm tạo ra tính tự chủ về mặt khoa học - công nghệ. Hiện nay, phần lớn các nước công nghiệp phát triển đều chuyển sang áp dụng phương thức quản lý theo hoạt động công ích do có hiệu quả và tốt hơn việc quản lý các DNCI. 1.1.2.3. Sự hình thành nhận thức về doanh nghiệp công ích ở nước ta Quan niệm về HHCC ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới hiện nay: Trong những năm đổi mới, thuật ngữ HHCC đã dần dần được sử dụng và hiện nay trở thành khái niệm tương đối thông dụng trong nghiên cứu khoa học và đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, đến nay vấn đề này vẫn khá mới mẻ và nhiều điểm chưa thống nhất cả về lý thuyết cũng như thực tế. Có hai góc độ tiếp cận về HHCC ở Việt Nam: góc độ thuần túy lý thuyết và góc độ chính sách - cơ chế quản lý. Hai góc độ tiếp cận này phát triển song hành từ đầu thập kỷ 90 và ngày càng hoàn thiện cùng với sự phát triển của công cuộc cải cách - đổi mới tư duy kinh tế và sự xâm nhập, phát triển các quan niệm KTTT. Hai góc độ tiếp cận này không mâu thuẫn nhau mà bổ sung cho nhau. Với góc độ tiếp cận lý thuyết, giáo trình Kinh tế công cộng Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội và sách tham khảo của Học viện Hành chính quốc gia: HHCC được xem xét như một đối tượng của quản lý khu vực công cộng. Coi "HHCC là những loại hàng hóa mà việc một cá nhân này đang hưởng thụ lợi ích do hàng hóa đó tạo ra không ngăn cản những người khác cùng đồng thời hưởng thụ lợi ích của nó". Các định nghĩa, đặc điểm, nguyên lý cơ chế quản lý và tổ chức sản xuất đều tham khảo kế thừa các tài liệu nước ngoài. Do vậy, có đủ căn cứ để kết luận rằng, quan niệm về HHCC dưới góc độ lý thuyết ở nước ta hầu như nhất trí hoàn toàn với quan niệm của kinh tế học hiện đại của thế giới. Dưới góc độ chính sách - cơ chế quản lý, quan niệm về HHCC được phát triển xuất phát từ nhu cầu tổ chức lại và đổi mới cơ chế quản lý đối với các doanh nghiệp chuyên cung ứng HHCC (các DNCI) đã và đang tồn tại trong nền kinh tế từ thời bao cấp. Do vậy, bản thân tên gọi cũng sử dụng thuật ngữ có tính kế thừa. Các dịch vụ quốc phòng, an ninh và các hàng hóa chuyên dùng phục vụ quốc phòng, an ninh mặc dù không được xếp vào nhóm HHCC nhưng các doanh nghiệp cung ứng chúng được coi là DNCI và có quy chế quản lý giống như đối với HHCC. Như vậy có thể thấy, dưới góc độ chính sách, quan niệm về HHCC ở Việt Nam hiện nay vừa rộng hơn vừa hẹp hơn so với quan niệm lý thuyết về HHCC trên thế giới. Quan niệm rộng hơn thể hiện ở chỗ, nó hàm chứa một loạt hàng hóa cá nhân khuyến dụng. Trong điều kiện nước ta mới chuyển sang cơ chế thị trường, nhóm hàng hóa này chưa thể tổ chức sản xuất và cung ứng hoàn toàn theo phương thức thị trường, việc xếp chúng vào danh mục HHCC là phù hợp. Về bản chất, nhóm hàng hóa này là hàng hóa cá nhân được cung cấp bởi phương thức công cộng, được gọi là nhiệm vụ công ích hoặc hàng hóa cá nhân khuyến dụng. Tuy nhiên, trong thời gian tới sẽ thu hẹp dần danh mục này lại do các thành phần kinh tế khác có khả năng đảm nhận như: xã hội hóa một phần thu gom, vận chuyển rác thải; đấu thầu một số tuyến xe buýt nội đô, cung cấp nước sạch… nhằm giảm mức đầu tư của nhà nước. Quan niệm hẹp hơn thể hiện ở chỗ, có một loạt hàng hóa và dịch vụ như giáo dục, dịch vụ y tế, bảo đảm không khí sạch, cảnh quan kiến trúc, dịch vụ hành chính công… do ở Việt Nam chưa được coi là hàng hóa nên không xếp vào danh mục HHCC. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với giai đoạn cải cách hiện nay. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới, dần dần danh mục các HHCC sẽ được bổ sung, hoàn thiện. Để hiểu rõ vị trí, vai trò của các DNCI trong nền KTTT trước hết chúng ta cần tiếp cận khái niệm hàng hóa và dịch vụ công cộng (sau đây gọi chung là hàng hóa công cộng - HHCC). Có nhiều cách quan niệm khác nhau về HHCC: Một số ý kiến cho rằng HHCC là loại hàng hóa được cung cấp mà người tiêu dùng nó không phải trực tiếp trả tiền. Một số ý kiến khác lại cho rằng dịch vụ công là mọi hoạt động thực thi các chức năng của Nhà nước, bao gồm cả chức năng cai trị của bộ máy Nhà nước đối với xã hội và chức năng cung cấp các hàng hóa và dịch vụ phục vụ nhu cầu thiết yếu của công dân còn HHCC chỉ là một bộ phận của dịch vụ công, HHCC xét theo nghĩa này chỉ gồm những hàng hóa và dịch vụ phục vụ cho những nhu cầu tối cần thiết của cộng đồng, do các tổ chức của Nhà nước hoặc các chủ thể được Nhà nước ủy quyền và tài trợ đứng ra cung cấp, không bao gồm các hoạt động mang chức năng cai trị. Mặc dù vậy, trước xu hướng hiện nay là thu hẹp dần phạm vi của các loại hàng hóa và dịch vụ không phải trực tiếp trả tiền, quan niệm về HHCC như cách thứ nhất không phản ánh được đầy đủ tính sâu sắc của khái niệm HHCC. Thuật ngữ HHCC theo cách quan niệm thứ hai và được xem xét trên khía cạnh những thuộc tính cơ bản của nó: tính không kình địch và tính không loại trừ._.. Đây là những hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra nhằm thỏa mãn nhu cầu của xã hội, đảm bảo lợi ích chung của cả cộng đồng. HHCC được chia làm các loại: Nhóm HHCC thuần túy: những hàng hóa và dịch vụ không thể chia nhỏ và không thể quy định mức độ sử dụng đối với các đối tượng khác nhau. Nói cách khác đó là các hàng hóa và dịch vụ mà nếu thêm một người sử dụng thì không ảnh hưởng đến việc người khác sử dụng (tính không kình địch) và khi chúng được sản xuất ra không thể ngăn cấm ai đó muốn tiêu dùng (tính không loại trừ). Các HHCC thuần túy điển hình: hệ thống đê điều phòng chống lụt bão, hệ thống các biển báo đường sông, đường biển, đường bộ, hệ thống vệ sinh môi trường và cảnh quan đô thị, hệ thống các phát minh khoa học. Loại HHCC này rất khó có thể tính toán các chi phí để sản xuất ra đồng thời cũng không thể phân bổ lượng tiêu thụ cụ thể cho mỗi thành viên của xã hội (hội việc một ai đó sẽ hưởng bao nhiêu hàng hóa chiếu sáng công cộng), từ đó cũng không thể định giá cho người sử dụng (ai sử dụng nhiều thì phải trả nhiều tiền). Nhóm các HHCC không thuần túy: nhóm này mang những thuộc tính gần giống HHCC thuần túy nhưng ở mức độ khác. Một số loại không thể loại trừ nhưng việc một người sử dụng có thể ảnh hưởng đến người khác. Ví dụ như trong dịch vụ cấp giấy phép, mọi công dân đều có quyền đòi hỏi được cung cấp nhưng do năng lực có hạn, cơ quan có trách nhiệm chỉ có thể làm việc với từng người một nên nó có phần nào tính kình địch. Một số loại khác không có tính kình địch nhưng lại có thể loại trừ nhưng trên thực tế việc loại trừ rất tốn kém và không đáng để loại trừ. Như với một cây cầu mọi người có thể đi qua mà không ảnh hưởng tới việc cũng đi qua cầu của người khác và hoàn toàn có thể tiến hành thu phí qua cầu nhưng để thu được một khoản lệ phí nào đó lại phải bỏ ra những khoản chi phí lớn hơn nhiều. Hay như trong giáo dục bậc tiểu học và chăm sóc sức khỏe có thể loại trừ nhưng để tạo ra sự công bằng tối thiểu cho các công dân Nhà nước không muốn loại trừ. Mặc dù vậy HHCC thuần túy và không thuần túy cũng chỉ có giới hạn tương đối. Nếu như truyền hình ở một số nước là không thể loại trừ và không kình địch thì ở một số nước khác, với sự ra đời của truyền hình cáp, hoàn toàn có thể loại trừ ai đó muốn sử dụng. Từ những đặc điểm của các loại HHCC nêu trên, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét: Một số HHCC khu vực kinh tế tư nhân không muốn tham gia sản xuất và cung ứng (gọi chung là cung cấp) do tính phi hiệu quả của nó. Nguyên tắc hoạt động của khu vực này là vì lợi nhuận chứ không phải vì lợi ích xã hội, do đó nếu không thể tính toán một cách chính xác chi phí cũng như không thể loại trừ đối tượng sử dụng thì đương nhiên họ sẽ không làm. Một số loại HHCC khác khu vực tư nhân không thể cung cấp do chi phí đầu tư quá lớn hoặc đòi hỏi công nghệ quá hiện đại, điển hình là việc xây dựng các loại cầu lớn, mạng lưới phát thanh truyền hình, đường sá giao thông hay công nghệ vũ trụ. Trong một số lĩnh vực cung cấp HHCC khác, khu vực tư nhân không được tham gia do luật pháp quy định. Bởi vì đây có thể là những lĩnh vực có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự ổn định trật tự an toàn xã hội như quốc phòng, an ninh hay đê điều phòng chống lụt bão. Nhưng những HHCC này lại có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc duy trì sự ổn định chung, dựa vào đó các hoạt động kinh tế - xã hội khác mới diễn ra thông suốt và hiệu quả do vậy không ai khác mà chính Nhà nước phải đảm nhiệm việc cung cấp. Mặc dù có sự khác biệt như vậy nhưng xét theo quan điểm lịch sử cụ thể có thể khái quát, quan niệm về HHCC ở nước ta hiện nay là phù hợp và thống nhất với khoa học kinh tế hiện đại. Phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam trong giai đoạn đổi mới và hội nhập mạnh mẽ hiện nay. Về tên gọi, mặc dù chưa có sự thống nhất nhưng về bản chất ngữ nghĩa của thuật ngữ và quan niệm hoàn toàn không có sự mâu thuẫn, đáp ứng các đòi hỏi của công cuộc cải cách kinh tế hiện nay. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa IX) tháng 9/2001 cũng đã xác định rõ hơn quan niệm về loại hình DNCI là những doanh nghiệp chuyên sản xuất, cung ứng HHCC không vì mục tiêu lợi nhuận nhưng rất cần thiết để bảo đảm sự phát triển cân đối của nền kinh tế, đảm bảo các mục tiêu xã hội. Trước thời kỳ đổi mới, trong điều kiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thị trường không được thừa nhận, do đó khái niệm hàng hóa nói chung trên thực tế cũng không được thừa nhận. Mọi sản phẩm, trong đó có HHCC đều do Nhà nước tổ chức sản xuất và nắm quyền phân phối theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thu đủ chi đủ. Trên thực tế, HHCC trong giai đoạn này đã tồn tại và giữ vai trò không nhỏ trong việc đảm bảo mục tiêu của Nhà nước cũng như đáp ứng nhu cầu nhân dân. Sự khác biệt trong quan niệm về HHCC trong thời kỳ này biểu hiện trên 5 nội dung sau đây: Thứ nhất, quan niệm dịch vụ công cộng được coi là HHCC: Trong cơ chế cũ, Nhà nước đảm nhiệm vai trò sản xuất cả HHCC và hàng hóa cá nhân nên không thể đặt vấn đề tại sao Nhà nước lại cung ứng HHCC. Những HHCC thuần túy như: hệ thống đê điều, biển báo giao thông, vệ sinh môi trường, phát minh khoa học… thuộc vào loại dễ xác định căn cứ vào mục đích cung cấp hàng hóa của Nhà nước. Những HHCC như: dịch vụ cấp giấy phép, giáo dục tiểu học, chăm sóc sức khỏe, phát thanh và truyền hình… khó xác định về phạm vi bởi hàng hóa được bao cấp và phân phối theo nhóm dân cư. Một mặt HHCC được quan niệm khá hẹp do rất nhiều sản phẩm, dịch vụ chưa được thừa nhận là hàng hóa ví dụ như: vận tải hành khách, vệ sinh đô thị, cung ứng nước sạch. Trong khi các dịch vụ giáo dục, y tế, an ninh, thủy nông, chiếu sáng… được coi là nhiệm vụ của các cơ quan sự nghiệp chứ không phải là hàng hóa. Ngược lại có một số dịch vụ cá nhân nhưng do quan niệm của thời kỳ bao cấp phải do khu vực công cộng cung ứng theo phương thức cào bằng như ăn uống công cộng, cắt tóc, nhà ở… nên nhiều tài liệu cũng xếp vào nhóm HHCC. Thứ hai, về chủ thể sản xuất và cung cấp dịch vụ công cộng: Do Nhà nước nắm giữ mọi hoạt động sản xuất và cung cấp dịch vụ công cộng. Nhà nước có nghĩa vụ sản xuất và cung cấp HHCC góp phần vào thực thi sự công bằng, đảm bảo quyền làm chủ của người lao động, đồng thời định hướng xu hướng phát triển nói chung của nền kinh tế theo kế hoạch của Nhà nước. Như vậy, trong cơ chế cũ không có các chủ thể tư nhân cung cấp HHCC. Thứ ba, về đối tượng tiêu dùng HHCC: Khía cạnh này không có sự khác biệt lớn vì trong hai cơ chế quản lý đối tượng đều là các thành viên trong xã hội. Sự khác nhau chủ yếu ở chỗ cung cấp hàng hóa trong giai đoạn trước đổi mới có đạt hiệu quả cao hay không. Có thể khẳng định rằng các HHCC trong giai đoạn trước đổi mới được cung ứng và tiêu dùng chưa đạt hiệu quả cao. Hiện tượng "người ăn không hết, kẻ lần chẳng ra" tương đối phổ biến (đầu nguồn thì để nước máy chảy tràn, lãng phí trong khi cuối nguồn nước máy lại không thể tự chảy được). Một trong những nguyên nhân là do khi đó giá nước máy được chi trả theo hình thức khoán sử dụng theo đầu người. Các thành viên trong xã hội tiêu dùng các HHCC không phải trực tiếp trả tiền nhưng gián tiếp thông qua thuế. Lợi dụng sơ hở quản lý dẫn đến tình trạng tiêu dùng lãng phí HHCC diễn ra ở nhiều nơi với cấp độ trầm trọng, làm cho rất nhiều người khác không được hưởng thụ chúng (ví dụ sự lạm dụng và thất thoát trong cung ứng điện, nước, giao thông công cộng…). Thứ tư, về quan hệ cung cầu HHCC: Trong cơ chế quản lý cũ, đường cầu tiêu dùng HHCC luôn ở mức tối đa vì: thứ nhất, nhu cầu của người dân cả HHCC và hàng hóa cá nhân luôn lớn hơn cung thực tế; thứ hai, Nhà nước là chủ thể cung cấp và người tiêu dùng không phải trả tiền cho việc sử dụng. Do vậy, trên thị trường luôn có sự thiếu hụt và Nhà nước thường phải áp dụng chế độ tem phiếu hoặc các biện pháp hành chính khác để điều chỉnh quan hệ cung - cầu. Thứ năm, về hiệu quả cung cấp HHCC: Đánh giá hiệu quả cung cấp HHCC là công việc rất khó khăn, đặc biệt là trong cơ chế quản lý cũ. Tuy nhiên, thời kỳ trước 1975, một số HHCC cũng đã được cung cấp tương đối tốt, thỏa mãn một phần quan trọng các nhu cầu của nhân dân về các hàng hóa này như: giáo dục, y tế, văn hóa văn nghệ... Thời kỳ khủng hoảng kinh tế vào thập kỷ 80 (thế kỷ XX), việc cung cấp HHCC trở nên bất cập, mức độ thiếu hụt ngày càng trầm trọng. Bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với yêu cầu phát triển nhanh thì tình trạng lợi dụng thị trường HHCC để trục lợi cá nhân ngày càng phát triển. Việc đánh giá hiệu quả tuy đã có những tiêu chí định lượng như áp dụng các đơn giá định mức cho từng chuyên ngành cụ thể, lắp đặt đồng hồ đo đếm điện, nước; bãi bỏ chế độ dùng khoán theo đầu người… 1.1.2.4. Về mô hình tổ chức, cung cấp các hàng hóa công cộng Trên cơ sở tiêu chí phân định HHCC, xác định các mô hình tổ chức quản lý sản xuất và cung cấp HHCC nhằm tiết kiệm chi phí nhưng vẫn đạt được hiệu quả xã hội cao đòi hỏi phải rất linh hoạt, xuất phát từ thực tế có nhiều cách tổ chức quản lý cụ thể như: Một là: Nhà nước trực tiếp cung cấp thông qua hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các DNCI. Một số tổ chức nằm trong hệ thống các cơ quan hành chính Nhà nước hay các tổ chức sự nghiệp của Nhà nước đảm nhiệm cung cấp các dịch vụ thuộc hạ tầng xã hội như giáo dục, chăm sóc sức khoẻ. cungMột số được tổ chức theo mô hình các doanh nghiệp cung cấp các loại hàng hóa và dịch vụ do Nhà nước đặt hàng hoặc giao kế hoạch thực hiện theo giá phí Nhà nước quy định, đây chính là các DNCI. Có loại hình này là do quy trình cung cấp của một số HHCC tương tự như quy trình cung cấp các hàng hóa và dịch vụ thông thường: nghĩa là đã có những quy định rõ về việc mỗi người phải làm, các đầu vào đầu ra đã có quan hệ xác định, từ đó hoàn toàn có thể tính được chi phí và mở ra khả năng hoàn thành nhiệm vụ với chi phí thấp nhất. Do vậy, nó phải được vận hành theo nguyên lý doanh nghiệp, hạch toán kinh doanh nhưng không phải với bất kỳ chi phí nào. Bởi vậy các DNCI cung cấp các HHCC thường hoạt động trong các lĩnh vực thuộc hạ tầng kỹ thuật, chiếu sáng công cộng, vệ sinh môi trường, sửa chữa đường sá. Hai là: Nhà nước không trực tiếp sản xuất, tùy theo khả năng và điều kiện cụ thể, khu vực kinh tế tư nhân cũng có thể tham gia dưới các hình thức cơ bản như: trợ cấp cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong việc cung cấp các HHCC theo đúng yêu cầu của Nhà nước: giá cả, chất lượng, đối tượng phục vụ đồng thời đảm bảo được lợi ích của các chủ thể cung cấp. Thông qua đấu thầu ký hợp đồng với các chủ thể cung cấp, đây là hình thức Nhà nước mua lại các HHCC và giữ quyền kiểm soát thông qua hợp đồng. Chuyển một số lĩnh vực sang cho khu vực tư nhân cung cấp trên cơ sở hạn chế độc quyền, thông qua quá trình cổ phần hóa, bán, cho thuê DNNN. Khuyến khích và tạo điều kiện cho các cá nhân và tổ chức, đặc biệt là các tổ chức phi chính phủ hay các tổ chức từ thiện, tham gia cung cấp các HHCC trên cơ sở không vì lợi nhuận. Xét trên khía cạnh các hàng hóa cá nhân với tư cách là bộ phận nằm ngoài các HHCC nói trên, nghĩa là có cả hai đặc điểm kình địch và dễ loại trừ: Nhóm những cá nhân có tính công cộng: những hàng hóa và dịch vụ này thường ít có tính kình địch nhưng có thể loại trừ và việc loại trừ là cần thiết do chi phí gia tăng khi thêm một người tiêu dùng là lớn như: điện, nước, viễn thông, khí đốt. Đặc điểm của các ngành này là thường có lợi thế nhờ quy mô do đó dễ dẫn tới độc quyền, loại bỏ cạnh tranh gây tổn hại đến người tiêu dùng; mặt khác đây là những ngành có vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Với loại hàng hóa này, Nhà nước thường nắm hoặc kiểm soát chặt chẽ việc cung cấp và nhằm hướng tới sự công bằng chỉ có thể đảm bảo cung cấp một lượng nhỏ như nhau cho tất cả mọi người (thông qua các dịch vụ giá rẻ) còn nếu muốn sử dụng nhiều hơn phải trả tiền nhưng nếu sử dụng ít hơn thì không được hoàn lại hay khấu trừ phần chưa sử dụng; hoặc áp dụng giá phí khác nhau đối với những vùng có mức sống chênh lệch. Với mục tiêu xã hội này, việc thành lập các DNCI nhằm cung cấp một phần các hàng hóa dịch vụ nói trên là phù hợp. Có nhiều địa bàn khu vực tư nhân không muốn cung cấp do sức mua quá thấp hoặc chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro, ví dụ như cung cấp các hàng hóa cho vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo (ở Việt Nam có các chương trình cung cấp muối I-ốt, thuốc chữa bệnh, dầu hỏa, giấy viết cho đồng bào dân tộc). Để đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các vùng và thiết lập công bằng xã hội. DNCI là tổ chức thích hợp để đảm đương nhiệm vụ này. Một số loại hàng hóa khác Nhà nước không muốn khu vực tư nhân tham gia cung cấp do chúng có tính hai mặt: lợi và hại, trong đó cái hại đặc biệt nguy hiểm: sản xuất các chất độc, chất cháy, vũ khí, các loại thuốc bào chế từ các loại ma túy. Việc Nhà nước nắm lấy độc quyền cung cấp là cần thiết nhưng không thể kinh doanh vì lợi nhuận, do vậy hình thức DNCI sẽ là sự lựa chọn hợp lý. Ngoài ra, DNCI còn đảm nhận các lĩnh vực hoạt động có tính chiến lược đối với sự phát triển kinh tế - xã hội: cung cấp các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, đặc biệt là trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng kỹ thuật: giao thông, thủy lợi, điện, nước sạch, thoát nước, chiếu sáng công cộng, bưu chính viễn thông; kết cấu hạ tầng xã hội: giáo dục, y tế, công viên - cây xanh - vườn thú, môi trường đô thị, nghiên cứu khoa học cơ bản và trong lĩnh vực đảm bảo quốc phòng an ninh. DNCI góp phần quan trọng khắc phục những khiếm khuyết của thị trường, … những ngành, lĩnh vực có độ rủi ro cao, đòi hỏi đầu tư lớn nhưng lại chậm thu hồi vốn, những ngành có lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận trên vốn thấp và đặc biệt là những ngành mà Nhà nước cấm. Những ngành này mặc dù rất cần thiết và tạo điều kiện cho phát triển sản xuất nhưng các thành phần kinh tế khác không muốn đầu tư, hoặc không đủ khả năng, chưa đủ điều kiện triển khai thì DNCI là bộ phận đảm đương nhiệm vụ này tạo nên sự cân bằng cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho tái sản xuất được trôi chảy, góp phần đắc lực vào quá trình CNH, HĐH đất nước. Tính đặc thù của DNCI được quy định bởi những lý do sau: - Thứ nhất: trong cơ cấu hàng hóa, có một bộ phận hàng hóa cá nhân với tính chất đặc thù của loại hàng hóa này là tính cạnh tranh và tính loại trừ. Một bộ phận hàng hóa khác không thể do thị trường cung cấp vì nhiều lý do hoặc nếu thị trường cung cấp thì cũng không đủ số lượng và không đáp ứng yêu cầu, hoặc thị trường không muốn cung cấp, đó là HHCC. J.E.Stiglitz (người Mỹ, từng được giải Nôbel về Kinh tế năm 2001) cho rằng, HHCC có hai đặc tính quan trọng là: "Thứ nhất, chúng không bắt cá nhân nào phải trả thêm tiền khi hưởng lợi HHCC hay chi phí cận biên bằng 0 khi tăng lên một đơn vị cá nhân sử dụng. Thứ hai, nói chung thật là khó hoặc không thể không cho các cá nhân hưởng lợi từ HHCC". Với đặc điểm trên, thị trường không cung cấp hoặc không thể cung cấp HHCC vì chi phí quá lớn, thu hồi vốn chậm hoặc khó thu hồi. Có những lĩnh vực, HHCC có thể đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp nhưng nếu để thị trường đầu tư thì các doanh nghiệp tư nhân không thấy hết tầm quan trọng của hàng hóa mà trước hết là tính đến mục tiêu lợi nhuận. Nếu chỉ tính đến lợi nhuận sau khi bỏ vốn đầu tư sẽ không bảo đảm mục tiêu sử dụng HHCC của Nhà nước. Và với đặc điểm chi phí bằng 0 khi tăng thêm một đơn vị người sử dụng thì Nhà nước cung cấp loại hàng hóa này tốt hơn tư nhân. Điểm tốt hơn ở đây không chỉ ở chỗ Nhà nước đóng vai trò trong việc phân phối HHCC mà vì nếu tư nhân đầu tư thì họ sẽ thu tiền tăng thêm khi tăng thêm một cá nhân sử dụng, như vậy người tiêu dùng sẽ không muốn sử dụng hàng hóa này dẫn tới tình trạng HHCC được sử dụng dưới mức trung bình. - Thứ hai: những lĩnh vực mà khu vực tư nhân không muốn, không thể hay không được cung ứng. Những hàng hóa mà cá nhân không muốn cung ứng vì độ rủi ro cao (như chuyển muối lên vùng cao) và tính phi lợi nhuận của nó; có những hàng hóa tư nhân không thể làm được vì không đủ vốn hay trình độ công nghệ quá cao đối với một doanh nghiệp (điển hình như các công trình lớn thuộc kết cấu hạ tầng kỹ thuật) hay những hàng hóa mà tư nhân không được tham gia do pháp luật quy định đối với lĩnh vực có tầm quan trọng đặc biệt đến sự ổn định, trật tự an toàn xã hội. 1.2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ DOANH NGHIỆP CÔNG ÍCH Ở VIỆT NAM 1.2.1. Sơ lược quá trình hình thành doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam Từ khi giành được độc lập ở miền Bắc (1954) và thống nhất đất nước (1975) cho đến thời kỳ đổi mới, DNNN được thành lập và phát triển gắn liền với lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng CNXH. Tuy nhiên, do đặc điểm kinh tế - xã hội của đất nước ta có nhiều điểm khác biệt với các nước XHCN khác nên quá trình hình thành cũng có một số điểm đặc thù cả về quy mô, tỷ trọng, tính chất. - Bước đầu, các DNNN được hình thành từ việc quốc hữu hóa các xí nghiệp tư bản tư nhân hoặc tiếp quản các doanh nghiệp của chính quyền cũ để lại. Một số doanh nghiệp trong quá trình cải tạo XHCN theo mô hình "công tư hợp doanh", mặc dù không được quốc hữu hóa trực tiếp bằng pháp lý, nhưng trên thực tế do thực hiện cơ chế quản lý doanh nghiệp quốc doanh dần dần cũng biến thành DNNN. Tuy nhiên, số lượng các DNNN loại này không nhiều. Trên thực tế nhiều doanh nghiệp loại này sau khi trở thành DNNN được Nhà nước tiếp tục đầu tư phát triển mạnh về quy mô. - Loại thứ hai: Nhà nước tiến hành xây dựng mới các DNNN. Loại này gồm: trước hết nhà nước đầu tư trực tiếp từ ngân sách. Tiếp đến là các DNNN do chính quyền địa phương (tỉnh, huyện) thành lập trong thời kỳ phân cấp quản lý giai đoạn đầu và giữa thập kỷ 80 (các DNNN loại này chủ yếu thuộc lĩnh vực thương mại, dịch vụ, cơ khí sửa chữa; hầu hết quy mô nhỏ, năng suất, chất lượng, hiệu quả rất thấp). - Loại thứ ba: do Nhà nước đầu tư trực tiếp từ ngân sách hoặc vốn viện trợ xây dựng mới, công nghệ và thiết bị chủ yếu từ các nước thuộc hệ thống XHCN trước đây như: Liên Xô, Trung Quốc. Trong quá trình phát triển, các doanh nghiệp loại này dần chiếm lĩnh hầu hết các ngành kinh tế. Trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp, các DNNN được thành lập ở các địa bàn ít dân cư, cần khai thác tài nguyên đất, rừng với các ngành nghề khác nhau, chủ yếu trồng và khai thác gỗ, các cây công nghiệp dài ngày. DNNN chiếm giữ hầu như toàn bộ các ngành công nghiệp như năng lượng (điện lực, than và dầu khí), khai khoáng, luyện kim, chế tạo máy, sản xuất xi măng, phân bón, thuốc trừ sâu, hóa chất, dược phẩm và công nghiệp phục vụ quốc phòng. Trong các ngành sản xuất hàng tiêu dùng chủ lực, DNNN cũng có tỷ trọng áp đảo (năm 1990 chiếm: 70% vải, 85% giấy, 70% xe đạp, 60% xà phòng). Các ngành xây dựng, vận tải (hàng không, đường sắt, đường biển), xuất nhập khẩu, thương nghiệp bán buôn… DNNN cũng có tỷ trọng tuyệt đối. Đến tháng 6 năm 1995, cả nước có 6.213 DNNN, trong đó: trung ương quản lý 1.811 doanh nghiệp, địa phương quản lý 4.402 doanh nghiệp. - Sự cần thiết của DNNN. KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát mà nước ta lựa chọn trong thời kỳ đổi mới. Nó vừa mang tính chất chung của KTTT, vừa có những đặc thù, được quyết định bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH. Đây là sự vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm trong nước và thế giới về phát triển KTTT, là sự kết tinh trí tuệ của Đảng và nhân dân trong quá trình lãnh đạo nhân dân xây dựng đất nước. Đảng ta đã xác định một cách nhất quán KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Vì vậy việc xác định một cách rõ ràng và nhất quán vị trí, vai trò của kinh tế Nhà nước trong quá trình hoạch định đường lối, chính sách phát triển kinh tế đất nước là rất cần thiết. Ở nước ta, vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước là xuất phát từ lợi ích của đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, là "hòn đá thử vàng" để xem xét sự đúng hướng hay chệch hướng XHCN trong tiến trình phát triển kinh tế. Kinh tế Nhà nước càng phát huy tốt vai trò chủ đạo bao nhiêu thì kinh tế - xã hội sẽ phát triển nhanh, góp phần thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" nhanh và vững chắc bấy nhiêu... Nhiều DNNN kinh doanh có hiệu quả và những DNCI đang góp phần thể hiện rõ vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Đó là những "người lính tiên phong" trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, trong cuộc chiến chống đói, nghèo và tụt hậu; là chỗ dựa để Nhà nước điều tiết nền KTTT theo định hướng XHCN. Ngay cả những người "phản biện" nghiêm khắc nhất đối với các DNNN cũng không thể phủ nhận được thực tế đó. Tuy khuyến khích các thành phần kinh tế cùng phát triển, nhưng chúng ta không thể kỳ vọng nhiều vào các doanh nghiệp tư nhân trong nước hoặc nước ngoài đầu tư phát triển các ngành kinh tế như kết cấu hạ tầng kỹ thuật, cung ứng những hàng hóa và dịch vụ quan trọng. Đó còn chưa kể đến việc giải quyết các vấn đề xã hội... Ở một nước kém phát triển như Việt Nam, tư nhân nào có thể nâng cấp và làm mới các tuyến đường giao thông, các nhà máy điện và các trung tâm nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ; tư nhân hoặc liên doanh nào đến những xã vùng sâu, vùng xa để làm đường ô-tô, xây dựng trạm biến thế, để bán điện với giá tương đương như ở đô thị; hoặc khi thiên tai xảy đến, tư nhân nào có thể cứu hộ, trợ giúp được cả một địa phương, một khu vực. Đất nước ta mới bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân. Khó khăn càng chồng chất, khi quan hệ hợp tác kinh tế với các đối tác quốc tế có trình độ phát triển cao hơn rất nhiều. Việc tiếp nhận, chuyển giao công nghệ phụ thuộc vào năng lực tiếp thu và khả năng nội sinh hóa công nghệ nhập khẩu. Tiềm lực khoa học và công nghệ yếu kém, lẽ đương nhiên, dễ gặp phải những khó khăn, rủi ro hơn trong việc thực thi các hợp đồng chuyển giao công nghệ cũng như các dự án góp vốn đầu tư hoặc nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Trong hoàn cảnh này, các đối tác nước ngoài có thể lợi dụng ưu thế của họ để khống chế các đối tác nội địa. Chính vì vậy, nếu không có một khu vực kinh tế Nhà nước đủ mạnh thì Nhà nước không thể hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác vươn lên trong cuộc hợp tác và cạnh tranh với các đối tác nước ngoài. Để vươn lên nhằm thoát khỏi tình trạng kém phát triển bằng CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế là hướng đi đúng của nước ta và không có con đường nào khác. Cuộc đấu tranh để bảo vệ sự lựa chọn con đường phát triển của mình trong hội nhập kinh tế quốc tế và thực tiễn những năm vừa qua càng cho thấy, nhất thiết không thể thiếu vai trò của kinh tế nhà nước, trong đó các DNNN - yếu tố quan trọng nhất trong việc giữ vững định hướng XHCN của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình xây dựng nền kinh tế quốc dân. Điều đó thể hiện trước hết ở chỗ, trong hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế Việt Nam sẽ phải hợp tác và cạnh tranh với hàng loạt các đối tác nước ngoài rất mạnh về vốn và công nghệ. Đương nhiên các đối tác nước ngoài đó muốn ở Việt Nam sẽ chỉ còn lại những doanh nghiệp nhỏ làm vệ tinh, đại lý tiêu thụ cho chúng và không có khả năng cạnh tranh đáng kể với chúng. Chính vì thế, họ không mấy thiện cảm khi thấy chúng ta duy trì và củng cố các DNNN cỡ lớn. Khi làm việc với những đối tác có tiềm lực to lớn đó, nếu Việt Nam không có một khu vực kinh tế Nhà nước đủ mạnh, sẽ khó có thể vừa hợp tác hiệu quả lại vừa giữ vững được sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội trên mỗi bước đường đi lên CNXH. Kinh tế nhà nước phải đủ sức làm chỗ dựa cho Nhà nước "của dân, do dân, vì dân" trong việc điều tiết, phát triển nền kinh tế nhằm chủ động hơn nữa trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vì lợi ích của đại đa số nhân dân, bảo đảm thống nhất giữa phát triển kinh tế với thực hiện công bằng xã hội - một trong những tiêu chí then chốt của nền KTTT định hướng XHCN. Từ lợi ích của CNXH, trong quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN, rõ ràng, vị trí quan trọng, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là điều không cần tranh luận, nhất là khi hiểu đúng quan điểm của Đảng và Nhà nước ta: "kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân… DNNN giữ những vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật". DNNN giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Việt Nam khác các nước khác vì DNNN của nước ta là toàn bộ nền kinh tế, là xương sống của nền kinh tế. Những gì lớn nhất DNNN đều nắm giữ: 75% tài sản cố định quốc gia, 50% vốn đầu tư nhà nước đầu tư cho DNNN và 60% vốn tín dụng của ngân hàng đầu tư cho DNNN, 70% tổng vốn vay nợ nước ngoài, vốn ODA cũng dành cho DNNN phần lớn. Năm 2003, số DNNN có lãi chiếm 77,2%, tổng số nộp ngân sách nhà nước là 87.000 tỷ đồng (tương đương 9,2% thu ngân sách), tỷ suất lợi nhuận trên vốn đạt 10,79%, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân trong ba năm 2000 -2003 là 10%. Tại Báo cáo giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng nhận định: DNNN vẫn giữ được các vị trí trọng yếu trong kinh tế, tiếp tục đóng góp lớn nhất vào các nguồn thu nội địa của ngân sách. Đã tổng rà soát, xây dựng và bước đầu triển khai chương trình đổi mới các DNNN. Một số DNNN đã nâng cao được sức cạnh tranh, hiệu quả kinh doanh và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. 1.2.2. Vị trí và vai trò của doanh nghiệp công ích đối với quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 1.2.2.1. Sự hình thành doanh nghiệp công ích Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, tính chất bao cấp nặng nề và tràn lan, do đó chưa có sự phân biệt DNNN hoạt động công ích và DNNN hoạt động kinh doanh. Từ khi ban hành Luật Doanh nghiệp Nhà nước ngày 20/4/1995, Nhà nước đã phân DNNN thành hai loại: DNCI và DNNN hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở Luật DNNN, Chính phủ đã ban hành Nghị định 56/CP ngày 2/10/1996 xác định cơ chế quản lý đối với DNCI. Như vậy từ năm 1995 ở Việt Nam mới có khái niệm DNCI và DNCI được thừa nhận về mặt pháp lý, nhưng trên thực tế trước năm 1995 đã có nhiều DNNN hoạt động với tính chất là DNCI. Sau gần 7 năm thực hiện Nghị định 56/CP, các DNCI đã có sự phát triển nhanh về số lượng và lĩnh vực hoạt động. Theo số liệu thống kê, hiện nay cả nước có 732 DNCI (đầu năm 1999 có 617 doanh nghiệp) chiếm 12,77% tổng số DNNN với tổng vốn Nhà nước là 9.896 tỷ đồng, bằng 7,6% tổng số vốn Nhà nước của toàn bộ DNNN. Nhìn chung các DNCI ra đời là phù hợp và thực hiện được mục đích thành lập, hoàn thành được nhiệm vụ kế hoạch hoặc đơn đặt hàng của Nhà nước, góp phần phục vụ đời sống và phục vụ quốc phòng, an ninh quốc gia. Chất lượng sản phẩm và dịch vụ của nhiều DNCI có tiến bộ, phục vụ tốt khách hàng và phần lớn các DNCI có lãi. Theo số liệu của Cục Tài chính doanh nghiệp, năm 2003 có tới 82% doanh nghiệp có lãi, 10% doanh nghiệp thua lỗ, giảm nhiều so với năm 2000. Thu nhập của người lao động trong các DNCI cũng khá cao, năm 2003 thu nhập bình quân của người lao động đạt trên 1.000.000, đồng/người/tháng. Cơ cấu lĩnh vực hoạt động công ích ở nước ta hiện nay: lĩnh vực giao thông công chính chiếm 16%; lĩnh vực quản lý, khai thác, duy tu đường, dịch vụ giao thông vận tải chiếm 20%; lĩnh vực khai thác công trình thủy lợi chiếm 20%; giống cây trồng 20%; phục vụ quốc phòng an ninh 14%; còn lại 10% thuộc các lĩnh vực khác. Biểu đồ 1.1: Cơ cấu lĩnh vực hoạt động công ích Giao thông công chính: 16% Quản lý khai thác, duy tu đường dịch vụ GTVT: 20% Khai thác quản lý thủy lợi: 20 % Giống cây trồng: 20 % Phục vụ quốc phòng, an ninh 14 % Lĩnh vực khác: 10 % Nguồn: Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương [5, tr 30]. 1.2.2.2. Vị trí, vai trò, bản chất của doanh nghiệp công ích Vai trò của hệ thống DNNN gắn liền với việc tham gia vào hoạt động kinh tế của Nhà nước. Vai trò này thể hiện trên 3 khía cạnh: kinh tế, chính trị và xã hội. Như chúng ta đều biết: "chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế". Nền chính trị của Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo nhằm đưa nước ta tiến lên CNXH, thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Các doanh nghiệp ở nước ta, trước hết là DNNN cũng phải phục vụ cho nhiệm vụ này. Thời kỳ từ năm 1990 đến nay, đất nước ta phải đối mặt với những khó khăn gay gắt, có những năm trong tình thế hiểm nghèo. Đầu những năm 90, mặc dù gặp phải hoàn cảnh hết sức khó khăn khắc nghiệt như: mô hình XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ; Mỹ thực hiện chính sách bao vây cấm vận; khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực năm 1997 - 1998 tác động mạnh; thiên tai liên tiếp xảy ra; việc chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang nền KTTT định hướng XHCN có những thời cơ và thuận lợi mới và cả những thách thức khó khăn song với sự quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân chúng ta vẫn đạt được những thành tựu to lớn. GDP năm 2000 tăng gấp 2 lần năm 1990; tình hình chính trị - xã hội tương đối ổn định; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện; quốc phòng - an ninh được tăng cường; sức mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn hơn nhiều so với 10 năm trước. Các DNCI bước đầu đảm bảo cung ứng những sản phẩm dịch vụ quan trọng theo kế hoạch của Nhà nước giao, giải quyết được nhu cầu thiết yếu về HHCC. Những năm gần đây, tốc độ đô thị hóa của đất nước ngày càng nhanh, phát sinh nhiều vấn đề phải giải quyết như: xây dựng và quản lý các dịch vụ công cộng, vệ sinh đô thị, duy tu bảo dưỡng cơ sở hạ tầng… Chính các DNCI là phương tiện chủ lực của Nhà nước để giải quyết các vấn đề này đáp ứng phục vụ ngày càng tốt hơn cho cuộc sống xã hội. Các DNCI đã có nhiều đóng góp tạo tiền đề thúc đẩy nền kinh tế phát triển: thu nộp ngân sách, cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên ở các doanh nghiệp, tạo thêm việc làm cho người lao động. Cơ cấu tài sản của DNCI cũng phát triển theo hướng tích cực, giá trị tài sản cố định phục vụ cho các hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp được tăng lên. Hiệu quả sử dụng đồng vốn của các DNCI được tăng lên. Số DNCI làm ăn thua lỗ có xu hướng giảm dần. Theo số liệu thống kê của bảy DNCI ngành Giao thông công chính Hà Nội, trong năm 2004 đã đạt 594 tỷ đồng doanh thu, lợi nhuận 20,2 tỷ đồng, nộp ngân sách đạt 20,1 tỷ đồng, không có doanh nghiệp bị thua lỗ. - Vị trí của DNCI. Ở Việt Nam, trong cơ chế tập trung bao cấp thời kỳ trước, kinh tế Nhà nước được xác định giữ vai trò chủ đạo nhưng với nghĩa là._.hất chung như: chi phí quản lý hành chính, chi phí bảo hộ lao động, chi phí về tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng công nhân, chi trả lãi vay (kể cả lãi vay đầu tư chiều sâu), lãi suất có thể lấy lãi suất do Ngân hàng nhà nước Việt Nam quy định trong từng thời kỳ. Các khoản chi về mua và trả tiền sử dụng các tài liệu kỹ thuật, bằng sáng chế, phát minh, giấy phép chuyển giao công nghệ và dịch vụ kỹ thuật (không thuộc tài sản cố định) được phân bổ dần vào chi phí. Các khoản chi liên quan trực tiếp đến tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, cung cấp dịch vụ như: bảo quản thành phẩm, chi phí vận chuyển bốc dỡ hàng hóa, chi phí đóng gói sản phẩm, chi phí cho tuyên truyền quảng cáo… được xây dựng phù hợp với đặc điểm từng sản phẩm công ích và trên cơ sở hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Các khoản chi về bảo hiểm theo chế độ thống nhất của nhà nước như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Ngoài các khoản chi phí như đã trình bày ở trên, các doanh nghiệp nên dành một tỷ lệ nhất định (khoảng 5 ữ 7%) để chi phí các khoản cần thiết như chi phí tiếp tân, khánh tiết, giao dịch, đối ngoại liên quan đến hoạt động công ích. Ba là: Về các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư, trong đó có các quy định về thuế suất. - Về thuế suất phổ thông. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp quy định thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp phổ thông là 28%, điều đó có nghĩa là nhà nước thu khoảng 1/3 số lợi nhuận mà doanh nghiệp làm ra, số còn lại 2/3 là lợi nhuận ròng để cho doanh nghiệp phân phối theo các mục tiêu đã đề ra. Nếu so với thuế suất 45% hay 35% của thuế lợi tức thì thuế suất 28% là tương đối hợp lý và so với thuế suất thuế thu nhập công ty của một số nước như Trung Quốc: 33%, Mỹ: 34%, Philippin: 35%, Singapore: 27%... thì thuế suất 28% của nước ta cũng tương đồng. Tuy nhiên, việc quy định thuế suất còn phải đặt trong điều kiện lịch sử của từng nước, nếu nền kinh tế đang tăng trưởng hay phát triển bình thường thì thuế suất 28% là hợp lý. Nhưng nếu trong giai đoạn nền kinh tế bắt đầu có dấu hiệu suy thoái, tổng mức đầu tư toàn xã hội bị giảm sút, tăng trưởng kinh tế theo xu hướng giảm dần thì thuế suất 28% có thể vẫn còn cao. Ở nước ta, nhu cầu kích thích đầu tư, mở rộng sản xuất là cần thiết, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp cung ứng SP, DVCI thì thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp nên giảm hơn nữa. Việc áp dụng thuế suất thấp sẽ góp phần kích thích người dân đầu tư những khoản tiền nhàn rỗi, những khoản tích lũy dưới dạng tích trữ vàng và ngoại tệ đầu tư trực tiếp vào hoạt động công ích, tạo dựng nên các doanh nghiệp cung ứng SP, DVCI mới hoặc mở rộng quy mô vốn. Đây chính là động lực thực sự để phát triển mạnh kinh tế xã hội của đất nước. - Về thuế suất bổ sung. Hiện nay các DNCI của Thành phố Hà Nội vẫn tuân thủ quy định chung, căn cứ để xác định nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung đối với doanh nghiệp là phần thu nhập còn lại sau khi nộp thuế thu nhập theo thuế suất ổn định. Doanh nghiệp nào sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp mà phần thu nhập còn lại cao hơn 12% so với giá trị vốn chủ sở hữu hiện có tại thời điểm quyết toán năm tài chính, thì phần thu nhập trên 12% đó phải nộp thuế thu nhập bổ sung với thuế suất 25%. Điều quy định này có nghĩa là tỷ lệ lợi nhuận kinh doanh không phải chịu thuế thu nhập bổ sung ở mức tối đa chỉ được xác định bằng tỷ lệ lãi suất gửi tiền tiết kiệm 1%/tháng. Như vậy, bất kỳ doanh nghiệp nào kinh doanh có tỷ lệ lợi nhuận cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm (1%/tháng) thì phần cao hơn đó phải chịu thuế thu nhập bổ sung. Căn cứ để đánh thuế bổ sung quy định như vậy là chưa thỏa đáng bởi vì không thể so sánh việc cho vay vốn để kiếm lời với việc đầu tư vốn vào kinh doanh. Khi cho vay vốn để kiếm lời thì hệ số rủi ro rất nhỏ, tiền lời thu được bảo đảm thường xuyên. Ngược lại, đầu tư vốn vào kinh doanh là loại đầu tư dài hạn, trong quá trình kinh doanh chủ đầu tư không được phép rút vốn và mức độ rủi ro rất cao, tỷ lệ lãi suất thu được không ổn định. Vì thế thông thường người ta chỉ đầu tư vào kinh doanh khi tỷ suất lợi nhuận trên vốn cao hơn nhiều so với lãi suất tiết kiệm. Từ những phân tích như trên, chúng tôi đề nghị Thành phố nên thực hiện thuế thu nhập bổ sung theo phương án sau: Một là: nhà nước không đánh thuế thu nhập bổ sung đối với tất cả các doanh nghiệp cung ứng SP, DVCI. Hai là: chỉ đánh thuế thu nhập bổ sung đối với các ngành kinh doanh độc quyền, không đánh thuế thu nhập bổ sung đối với doanh nghiệp cung ứng SP, DVCI. - Về thuế thu nhập doanh nghiệp. Mở rộng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp để hướng dẫn đầu tư, phân bổ hợp lý các nguồn lực trong xã hội phục vụ hoạt động công ích phát triển. Một trong những khuyết tật của nền KTTT là sự phân bổ không hợp lý các nguồn lực trong xã hội, người ta chỉ chú trọng vào những ngành mang lại lợi nhuận cao, không quan tâm đến những vấn đề xã hội, môi trường. Hậu quả do đặc điểm này gây ra là những lệch lạc của nền kinh tế và rối loạn của xã hội. Chính vì thế mà cần phải có bàn tay can thiệp của nhà nước. Nhà nước có thể can thiệp bằng nhiều công cụ: mệnh lệnh hành chính, các chế tài luật pháp, biện pháp về kinh tế… Một trong những biện pháp kinh tế khá hữu hiệu là ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp như thực hiện kỳ miễn thuế, kỳ giảm thuế, kỳ chuyển lỗ là một trong những công cụ để phân bổ có hiệu quả hơn các nguồn lực phục vụ hoạt động công ích. Theo các quy định hiện hành của thuế thu nhập doanh nghiệp, chúng ta đã có một số quy định về miễn thuế, giảm thuế và chuyển lỗ. Tuy nhiên, các quy định về miễn thuế, giảm thuế còn ít, chưa đủ liều lượng để có thể thay đổi quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Chúng tôi cho rằng, để khuyến khích đầu tư và phân bổ có hiệu quả hơn các nguồn vốn đầu tư trong xã hội cho hoạt động công ích, nhà nước cần mở rộng hơn thời gian miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các DNCI, đặc biệt là quy định năm đầu tiên kinh doanh có lợi nhuận để xác định thời điểm được hưởng chế độ miễn, giảm thuế. Theo quy định hiện hành thì năm đầu tiên có lãi được tính là năm đầu tiên hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận trước khi thực hiện chuyển lỗ. Thông thường, một doanh nghiệp mới đi vào hoạt động kinh doanh thì trong một vài năm đầu thường bị thua lỗ, nên nếu quy định năm đầu tiên có lãi được tính là năm đầu tiên hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận trước khi thực hiện chuyển lỗ để bắt đầu kỳ miễn giảm thuế thì trên thực tế các doanh nghiệp không được lợi gì nhiều và thực tế là thời gian miễn thuế, giảm thuế lại chính là giai đoạn doanh nghiệp đang kinh doanh thua lỗ. Vì vậy, đối với những ngành cần khuyến khích đầu tư như GTCC, nhà nước nên cho phép thực hiện chế độ miễn, giảm thuế kể từ năm đầu tiên kinh doanh có lợi nhuận sau khi đã chuyển lỗ. - Về thu sử dụng vốn. Thực hiện chuyển đổi thu sử dụng vốn phù hợp với bản chất của chế độ thu này, có chế độ thu riêng mà trước mắt là miễn thu (hay thực hiện tỷ lệ thu là 0%) nhằm khuyến khích các doanh nghiệp cung ứng SP, DVCI tích tụ vốn cho tái đầu tư. Các doanh nghiệp cung ứng SP, DVCI cũng cần thiết phải chuyển phần thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước vào lợi nhuận sau khi thực hiện nghĩa vụ thuế lợi tức đối với nhà nước và chuyển sang một tên gọi mới phù hợp hơn, đúng bản chất hơn, đó là thu một phần lợi nhuận của doanh nghiệp cung ứng SP, DVCI về ngân sách nhà nước. Căn cứ vào định hướng phát triển doanh nghiệp trong từng thời kỳ để điều chỉnh tỷ lệ thu phù hợp nhằm đạt được mục tiêu của nhà nước đã đề ra. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, đối với các doanh nghiệp cung ứng SP, DVCI, tỷ lệ thu này nên để ở mức 0% nhằm giảm nghĩa vụ vật chất đối với loại hình doanh nghiệp cần khuyến khích phát triển này; đồng thời tạo điều kiện tích tụ, tập trung vốn cho loại hình doanh nghiệp mà nhà nước cần ưu tiên đầu tư vốn. - Bốn là: Hỗ trợ đầu tư. Như chúng ta đã biết, vốn là tiền đề cho mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Phần lớn các hoạt động công ích có đặc thù là nhu cầu vốn đầu tư lớn, thời hạn thu hồi vốn chậm, tỷ suất lợi nhuận trên vốn thấp. Đối với các doanh nghiệp cung ứng SP, DVCI là lĩnh vực, ngành nghề cần khuyến khích phát triển, nhà nước có thể áp dụng một số biện pháp sau đây: Thực hiện chính sách bảo lãnh tín dụng thông qua quỹ "Bảo lãnh tín dụng" nhằm giúp các doanh nghiệp không có khả năng tiếp cận các nguồn vốn có được chỗ dựa để vay vốn. Thực hiện chính sách này, nhà nước sẽ thành lập "Quỹ bảo lãnh tín dụng", hoạt động chính của quỹ này là nhằm bảo lãnh cho các doanh nghiệp thiếu vốn có thể vay được vốn từ ngân hàng. Chúng tôi mong rằng, quỹ này sẽ được tổ chức và hoạt động dưới dạng một tổ chức tài chính hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Trong điều kiện ngân sách eo hẹp, nguồn vốn thành lập ban đầu của Quỹ bảo lãnh tín dụng không chỉ trông chờ vào nhà nước mà nên thực hiện đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư, mở rộng các nguồn cấp vốn cho quỹ. Tuy nhiên, với tiềm lực kinh tế và chức năng dẫn dắt nền kinh tế thì ban đầu nhà nước cần đầu tư một lượng vốn nhất định (≥ 1/3), phần còn lại sẽ huy động từ các công ty bảo hiểm, từ các ngân hàng, các doanh nghiệp lớn của cả khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh, các tổ chức trong và ngoài nước khác. Ngay từ đầu, để bảo đảm hoạt động của quỹ có hiệu quả, cần xác định rõ đối tượng các doanh nghiệp được hưởng quy chế bảo lãnh vay vốn, xác định rõ các điều kiện để một doanh nghiệp được bảo lãnh, mức bảo lãnh vay, mức phí bảo lãnh… Những vấn đề cụ thể như thế cho một quỹ bảo lãnh sẽ được xác lập trong quy chế hoạt động của quỹ. Đổi mới chính sách tín dụng và thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi để tạo điều kiện cho doanh nghiệp cung ứng SP, DVCI thu hút đến mức tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân và các nhà đầu tư nước ngoài. Trước mắt, nhà nước cần ban hành những quy định cụ thể nhằm hạn chế, tiến tới loại bỏ những trở ngại trong việc vay vốn, nhất là vay của nước ngoài. Nghiêm khắc thi hành kỷ luật đối với những nhân viên, cán bộ nhà nước lợi dụng quyền hạn của mình để sách nhiễu, vòi vĩnh các doanh nghiệp khi xem xét cho vay vốn. Nhà nước cần chấn chỉnh lại hệ thống ngân hàng, nâng cao trình độ thẩm định dự án vay vốn của ngân hàng, cải tiến thủ tục cho vay vốn để đơn giản, thuận tiện hơn. Đối với các doanh nghiệp cung ứng SP, DVCI, nhà nước nên mở rộng hình thức cho vay không cần thế chấp, chỉ cần tín chấp kèm theo phương án sản xuất kinh doanh mang tính khả thi. Nhà nước nên khuyến khích các tổ chức phi chính phủ, các doanh nghiệp tự lập ra các trung tâm hỗ trợ đầu tư. Các trung tâm này có thể đứng ra bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng. Hiện tại chúng ta đã có Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và một số chương trình cấp tín dụng ưu đãi cho các DNNN. Tuy nhiên, chúng tôi đề nghị nên mở rộng phạm vi cấp tín dụng ưu đãi có mục đích cho các doanh nghiệp tham gia cung cấp SP, DVCI trên thị trường. - Năm là: Phát triển hoạt động thuê tài chính trong nền kinh tế. Thuê tài chính là hình thức cung cấp tín dụng trung và dài hạn cho nền kinh tế thông qua việc cho thuê tài sản (thường là máy móc, thiết bị). Trong nền KTTT, bên cạnh hoạt động cung ứng vốn của các tổ chức tín dụng thì việc cấp vốn thông qua hình thức thuê tài chính có tầm quan trọng đặc biệt. Một số DNCI của Thành phố quy mô vốn vừa và nhỏ, nên tài sản để cầm cố, thế chấp làm cơ sở vay vốn ít hoặc không có. Vì vậy, các doanh nghiệp thường thiếu vốn trung và dài hạn để đầu tư tài sản cố định. Để các doanh nghiệp cung ứng SP, DVCI giải quyết được vấn đề vốn trung và dài hạn khi không có tài sản cầm cố, thế chấp, đó là hoạt động thuê tài chính hay còn gọi là thuê mua. Hình thức thuê tài chính có tính an toàn cao hơn so với các hình thức tín dụng thông thường khác. Trong hình thức cấp vốn này, lợi ích của người thuê và người cho thuê gắn chặt chẽ với nhau và được thể hiện trên hợp đồng, đây là loại hợp đồng "không hủy ngang" giống như hợp đồng xuất - nhập khẩu hàng hóa, điều đó có nghĩa là bên thuê và cho thuê tài sản không được phép hủy bỏ hợp đồng khi đang còn hiệu lực. Do đặc điểm này và nhu cầu to lớn của cộng đồng các doanh nghiệp thiếu vốn mà tín dụng thuê mua rất phát triển trong các nền KTTT với nhiều hình thức khác nhau. Thành phố Hà Nội cần khuyến khích phát triển các loại hình hoạt động cho thuê tài chính dưới nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu mới phát triển, các doanh nghiệp chưa quen với loại hình kinh doanh này nên UBND Thành phố cần giữ vai trò nòng cốt, khởi xướng và kích thích hoạt động thuê tài chính phát triển. Trong điều kiện hiện nay, tiến bộ khoa học và công nghệ diễn ra với tốc độ nhanh, điều đó làm cho các doanh nghiệp có quy mô vốn vừa và nhỏ khó có thể theo kịp sự đổi mới của công nghệ sản xuất. Nhờ có hoạt động thuê tài chính, các doanh nghiệp cung ứng SP, DVCI của Thành phố dù khó khăn về vốn kinh doanh vẫn có thể trang bị được những máy móc, kỹ thuật tiến bộ nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Lợi ích này xuất phát từ chỗ các công ty cho thuê tài chính là những công ty chuyên cung cấp vốn trung và dài hạn dưới hình thức thiết bị theo yêu cầu của người đi thuê. Họ có kinh nghiệm lựa chọn nhà cung cấp thiết bị, lựa chọn loại thiết bị phù hợp với yêu cầu sử dụng của người thuê để từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng cho người thuê, tiết kiệm chi phí mua tài sản. 3.2.2.3. Bảo đảm lợi ích cho người lao động trong doanh nghiệp công ích của Thành phố Vấn đề cần được khắc phục là xóa bỏ sự bất cập khi thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước và đảm bảo quyền lợi cho cán bộ công nhân viên khi có sự thay đổi về áp dụng hệ số lương mới. Trong khi giá cả sinh hoạt leo thang, lương mới chưa được lĩnh (từ 210.000, đồng lên 290.000, đồng thời điểm tháng 10/2004) do chưa được Nhà nước điều chỉnh đơn giá, định mức (thời điểm tháng 9/2005 liên ngành đang xây dựng đơn giá, định mức điều chỉnh) nhưng các doanh nghiệp tham gia cung ứng các SP, DVCI vẫn phải nộp ngay theo quy định các khoản bảo hiểm xã hội. Điều đó gây khó khăn không nhỏ cho doanh nghiệp, ảnh hưởng đến đời sống và tư tưởng của cán bộ công nhân viên. Việc điều chỉnh từ 290.000, đồng lên 350.000, đồng từ tháng 10/2005 cũng cần lưu ý điều này. Việc áp dụng quy định của Luật Lao động cần được linh hoạt ở một số hoạt động công ích có tính đặc thù yêu cầu "tính liên tục" rất cao nên ngoài việc không được đình công, bãi công cần quy định thêm là không áp dụng chế độ làm việc 40h/tuần, điều đó sẽ làm giảm thu nhập do thời gian ngoài giờ theo quy định doanh nghiệp phải thanh toán cho người lao động vào ngày nghỉ hàng tuần ít nhất bằng 200% và gián tiếp làm tăng biên chế của doanh nghiệp. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Trên cơ sở quan điểm, phương hướng của Đảng, Nhà nước và UBND Thành phố Hà Nội, luận văn đề ra một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNCI, hoàn thiện cơ chế quản lý, thúc đẩy việc hình thành thị trường SP, DVCI trên cơ sở sắp xếp lại các DNCI; tách chức năng quản lý nhà nước của ngành và chức năng chỉ đạo sản xuất của các doanh nghiệp; đẩy mạnh việc xã hội hóa việc cung cấp các SP, DVCI trên thị trường. Phù hợp giữa cái chung (KTTT) và cái đặc thù (định hướng XHCN), qua đó đảm bảo cung ứng ngày càng tốt hơn SP, DVCI cho xã hội. KẾT LUẬN Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành, phát triển các DNCI, vị trí, vai trò, đặc điểm của DNCI trong phát triển KTTT định hướng XHCN ở Thủ đô Hà Nội trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm phát triển DNCI trong phát triển KTTT ở một số nước trên thế giới và Thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu, phân tích thực trạng hoạt động của các DNCI thành phố Hà Nội trong thời gian qua, những kết quả đạt được, những vấn đề đặt ra và nguyên nhân. Trên cơ sở định hướng của Đảng, Nhà nước và thành phố Hà Nội, luận văn đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNCI thành phố Hà Nội phù hợp với yêu cầu chung (KTTT) và tính đặc thù (định hướng XHCN), qua đó đảm bảo cung ứng ngày càng nhiều hơn, chất lượng cao hơn SP, DVCI cho thành phố. Cơ sở của việc nghiên cứu đổi mới cơ chế, chính sách đối với hoạt động công ích, DNCI là việc nhìn nhận đánh giá, so sánh hiệu quả, tác dụng của cơ chế, chính sách đối với DNCI từ khi được ban hành so với trước đổi mới và so sánh với kinh nghiệm của nước ngoài. Thực tế việc tham gia cung ứng SP, DVCI của mọi thành phần kinh tế đang diễn ra ở Việt Nam để đưa ra định hướng và giải pháp đổi mới cơ chế, chính sách đối với hoạt động công ích. Xuất phát từ ba vấn đề cơ bản của kinh tế học là: sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Nhà nước chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc xác định tiêu chí SP, DVCI và đối tượng phục vụ. Việc sản xuất như thế nào nhà nước có thể dựa vào điều kiện, khả năng ngân sách, đặc thù và tầm quan trọng của sản phẩm để quyết định cách thức tổ chức thực hiện. Nhà nước không thể trực tiếp thực hiện cung ứng mọi SP, DVCI mà cần có sự tham gia, đóng góp của các thành phần kinh tế cũng như có sự đồng thuận của người tiêu dùng SP, DVCI trên quan điểm chung là: Nhà nước chuyển từ "người chèo thuyền" sang vai trò là "người lái thuyền". Đối với một số loại SP, DVCI nhất định nhà nước phải trực tiếp thông qua các tổ chức kinh tế của nhà nước thực hiện, số còn lại nhà nước có thể ban hành các biện pháp, cơ chế, chính sách để quản lý. Căn cứ những vấn đề trên, việc đổi mới từ khái niệm, tiêu chí xác định hoạt động công ích (SP, DVCI) đến xác định phương thức quản lý và thực hiện hoạt động công ích là vấn đề quan trọng, chính yếu của đề tài nhằm đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý đối với hoạt động công ích, nâng cao hiệu quả hoạt động và cung ứng SP, DVCI và tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế tham gia hoạt động công ích. Đề tài đã khẳng định hoạt động công ích là hoạt động cung ứng SP, DVCI thiết yếu cho cộng đồng xã hội mà thị trường không đảm bảo cung cấp (do người sản xuất cung ứng không muốn tham gia thực hiện hoặc không đủ điều kiện thực hiện) và đổi mới phương thức quản lý, chuyển từ quản lý DNCI hiện hành sang ban hành các cơ chế, chính sách nhằm quản lý hoạt động công ích (SP, DVCI). Cả lý thuyết và thực tiễn đều khẳng định, trong nền KTTT định hướng XHCN không thể thiếu khu vực kinh tế nhà nước vững mạnh, đủ khả năng đóng vai trò chủ đạo trong nền KTTT định hướng XHCN. Trong thành phần kinh tế nhà nước, không có những doanh nghiệp tham gia cung cấp các SP, DVCI và những DNNN giữ các vị trí then chốt của nền kinh tế quốc dân không thể tiến hành thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH theo đúng định hướng XHCN. Tóm lại, đề tài đã phân tích những bất cập của các quy định về cơ chế, chính sách quản lý DNCI hiện hành; xu thế trên thế giới và xu hướng phát triển hoạt động công ích trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa ra các quan điểm, nguyên tắc đổi mới cơ chế, chính sách hoạt động công ích phục vụ thiết thực cho việc đổi mới DNNN nói chung và đổi mới quản lý hoạt động công ích của thành phố Hà Nội nói riêng nhằm năng cao chất lượng SP, DVCI; giảm chi phí và kiểm soát được các hoạt động công ích phù hợp với điều kiện phát triển của Thủ đô. Việt Nam đang nỗ lực chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và hiện đang có quan hệ kinh tế với rất nhiều quốc gia trên thế giới. Để nền KTTT định hướng XHCN vận hành thông suốt, cần tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước. Mặc dù có những hạn chế nhất định, các doanh nghiệp tham gia cung cấp các SP, DVCI vẫn cần phải được quan tâm đúng mức. Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ đề xuất một số giải pháp chủ yếu và kiến nghị xét thấy có thể sớm thực hiện được. Một số vấn đề được phát hiện trong nghiên cứu của đề tài này có thể được tiếp tục đi sâu trong những nghiên cứu tiếp theo. Chúng tôi coi đề tài này mới chỉ là những bước đi đầu tiên trong nỗ lực đóng góp cho việc xây dựng các thể chế hình thành và tiếp tục phát triển các doanh nghiệp tham gia cung cấp các SP, DVCI trên thị trường. Nhiều vấn đề nghiên cứu còn ở phía trước. Tôi xin trân trọng cám ơn sự tận tình của TS Nguyễn Minh Quang - người hướng dẫn khoa học, các giảng viên Viện Kinh tế chính trị học - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, các nhà khoa học trong Hội đồng trực tiếp nhận xét đánh giá, các Viện nghiên cứu, Sở Giao thông Công chính thành phố Hà Nội cùng các doanh nghiệp tham gia cung cấp các SP, DVCI trên địa bàn Thủ đô và các đồng nghiệp đã nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi trong quá trình thực hiện luận văn này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TS. Đinh Văn Ân (2004), "Phát triển các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần", Tạp chí Cộng sản, 8(707), tr. 42-47. Adam Smith (1997), "Của cải của các dân tộc", Nxb Giáo dục, Hà Nội. Hà Anh (2005), "Xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường để Thủ đô xanh, sạch, đẹp", Báo Kinh tế & đô thị, 35(1119), ngày 6/4, tr. 2. Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp (2004), "Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước năm 2004-2005", Kinh tế và dự báo, 3(371), tr. 1-3. Chu Văn Cấp (2001), "Về mục tiêu và đặc trưng bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta", Lý luận chính trị (5), tr. 34-38. Chu Văn Cấp (2004), "Định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta", Tạp chí Cộng sản, 22(721), tr. 14-18. Chính phủ (1996), Nghị định số 56/CP ngày 2/10 về doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích, Hà Nội. Chính phủ (2005), Nghị định số 31/2005/NĐ-CP ngày 11/3 về sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, Hà Nội. Chính phủ (2005), Quyết định số 94/2005/QĐ-TTg ngày 05-5 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt phương án sắp xếp, đổi mới công ty nhà nước thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Hà Nội. Cục Thống kê thành phố Hà Nội (2005), Niên giám thống kê Hà Nội 2004, Nxb Thống kê, Hà Nội. Lê Vinh Danh (2001), Chính sách công của Hoa Kỳ, Nxb Thống kê, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Đặng (2003), "Một số vấn đề về đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Trong sách: Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường - Kinh nghiệm của Trung Quốc - Kinh nghiệm của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nghiêm Xuân Đạt (2003), "Một số vấn đề chủ yếu của định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô giai đoạn 2001 - 2010", Kinh tế và phát triển, (50), tr.10-15. Hoàng Giang (2005), "Sau 3 tháng thực hiện xã hội hóa xe buýt: người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm", Báo Kinh tế & đô thị, 62(1146), ngày 8/6, tr. 4. Đỗ Thị Hải Hà (2003), "Quản lý nhà nước với vấn đề dịch vụ công", Kinh tế và dự báo, 9(365), tr. 22-23. Đoàn Thị Thu Hà (2003), "Dịch vụ công và vai trò của Nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ công", Kinh tế và phát triển, (69), tr. 39-41. An Như Hải (2004), "Học thuyết Mác - Lênin về vai trò kinh tế của Nhà nước", Lý luận chính trị, (8), tr. 10-14. Lê Thị Vân Hạnh (2004), "Về vai trò của Nhà nước và nền hành chính công trong nền kinh tế thị trường", Thông tin khoa học xã hội, (9), tr. 19-26. Nguyễn Thị Hoa (2003), "Dịch vụ công và vai trò của Nhà nước trong cung cấp dịch vụ công", Kinh tế và dự báo, 4(360), tr.17-18. Chu Hoàng (2003), "Bảo đảm xã hội, hiện trạng và cải cách của xã hội Anh", Nghiên cứu châu Âu, 5(53), tr. 127-130. Nguyễn Mạnh Hùng (2003), "Lồng ghép quy hoạch phát triển với bảo vệ môi trường phát triển bền vững", Kinh tế và dự báo, 11 (367), tr. 16-18. Bùi Văn Huyền (2002), "Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích", Báo chí và tuyên truyền, (4), tr. 30-33. Phan Văn Khải (2004), "Xây dựng Hà Nội xứng với vai trò Thủ đô, người Hà Nội tiêu biểu cho dân tộc Việt Nam", Báo Kinh tế & đô thị, 91 (1018), ngày 30/7, tr. 3-5. Phan Văn Khải (2004), "Chuyển các hoạt động sự nghiệp công ích sang cơ chế dịch vụ phù hợp với kinh tế thị truờng định hướng xã hội chủ nghĩa", Lao động & xã hội, (250), tr. 1-2. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Những vấn đề quản lý của nhà nước đối với hàng hóa công cộng ở nước ta hiện nay, Kỷ yếu khoa học cấp bộ, Hà Nội. Luật Doanh nghiệp nhà nước (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ luật Lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (đã được sửa đổi bổ sung năm 2002) (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Ngô Quang Minh (2001), Kinh tế nhà nước và quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước, (Sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. "Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước", Phát triển kinh tế, (121), tr.18-21. Lê Hữu Nghĩa (2003), "Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản và quản lý của Nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Cộng sản, 31(694), tr. 13-17. Trần Thiên Nhiên (2004), "Thủ tướng với Hà Nội", Báo Kinh tế & đô thị, 91(1018), ngày 30/7, tr. 1-2. D.W. Pearce (Biên tập) (1999), Từ điển kinh tế học hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Đình Phan (2003), "Một số ý kiến về phát triển và hoàn thiện cơ chế quản lý các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích ở Việt Nam", Kinh tế và phát triển, (70), tr. 30-34. Nguyễn Đình Phan - Trần Kim Hào (2004), "Đổi mới quản lý hoạt động công ích", Kinh tế và dự báo, 4(372), tr. 3-5. Nguyễn Đình Phan - Trần Kim Hào (2004), "Đổi mới hoạt động công ích", Kinh tế và phát triển, (84), tr. 13-15. Tào Hữu Phùng (2004), "Nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Tạp chí Cộng sản 4(703), tr. 12-16. Trần Quý (2001), "Sứ mệnh, vị trí của xí nghiệp quốc doanh trong điều kiện kinh tế thị trường ở Trung quốc", Kinh tế - khoa học - công nghệ (4), tr. 93-98. Tô Huy Rứa (2002), "Doanh nghiệp nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, (Số đặc biệt + (2)), tr. 31-38. Tô Huy Rứa (2004), "Nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Cộng sản, 6(705), tr. 13-17. P.A. Samuelson - W.D. Nordhaus (1997), Kinh tế học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Sở Giao thông Công chính Hà Nội (1999), Nghiên cứu đề xuất mô hình quản lý các doanh nghiệp công ích trong lĩnh vực giao thông công chính, Đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ, Hà Nội. Sở Giao thông Công chính Hà Nội (2001), Nghiên cứu đề xuất mô hình quản lý các doanh nghiệp công ích trong lĩnh vực giao thông công chính, Tóm tắt đề tài nghiên cứu khoa học, Hà Nội. Sở Giao thông Công chính Hà Nội (2004), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm 2004 và nhiệm vụ trọng tâm của quý I năm 2005 của ngành Giao thông Công chính Hà Nội, Hà Nội. Sở Giao thông Công chính Hà Nội (2005), 15 năm (1990 - 2005) ngành Giao thông công chính Hà Nội đổi mới và phát triển, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. Sở Giao thông Công chánh Thành phố Hồ Chí Minh (2002), Tài liệu trao đổi kinh nghiệm về công tác quản lý khai thác hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật giao thông công chánh Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. J. E.Stiglitz (1995), Kinh tế học công cộng, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. Thành ủy Hà Nội (2004), Đề án số 31-ĐA/TU về một số nhiệm vụ trọng điểm về cải thiện môi trường xã hội trong hai năm 2004 - 2005, Hà Nội. Vũ Đình Tích (2001), "Quán triệt Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) trong sắp xếp đổi mới doanh nghiệp hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp hoạt động công ích", Kinh tế và dự báo, 10 (342), tr. 4-6. Phùng Tử Tiêu - Triệu Húc Lượng (1993), "Thực chất việc thị trường hóa kinh tế quốc hữu", Kinh tế nghiên cứu Trung quốc, (11), tr. 36-39. Nguyễn Phú Trọng (2002), "Xây dựng Thủ đô ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại", Tạp chí Cộng sản, (Số đặc biệt +(2)), tr. 6-9. Nguyễn Phú Trọng (2003), "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Quan niệm và giải pháp phát triển", Tạp chí Cộng sản, 31(694), tr. 3-12. Nguyễn Phú Trọng (2004), "Thủ đô Hà nội 35 năm thực hiện di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh", Tạp chí Cộng sản, 17(716), tr. 6-10. Nguyễn Phú Trọng (2004), "Thủ đô Hà Nội: Sau 50 năm nhìn lại", Tạp chí Cộng sản, 19(718), tr. 3-8. Nguyễn Phú Trọng (2004), "Phát huy thành tựu 50 năm, viết tiếp trang sử mới làm rạng rỡ Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến", Báo Kinh tế & đô thị, 122(1049), tr. 2-3. Nguyễn Phú Trọng (2004), "Nhiệm vụ trọng tâm năm 2005 vẫn là cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả kinh tế và cải thiện môi trường xã hội", Báo Kinh tế & đô thị, 147(1074), ngày 8/12, tr. 3. Vũ Huy Từ (1998), Quản lý khu vực công, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. Từ điển Kinh tế chính trị học (1987), Nxb Tiến bộ, Matxcơva - Sự thật, Hà Nội. Trần Xuân Trường (2004), "Bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, 20(719), tr. 26-29. Phạm Văn Vận - Vũ Cương (2004), Giáo trình Kinh tế công cộng, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Nxb Thống kê, Hà Nội. "Về một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng" (2004), Tạp chí Cộng sản, 4(703), tr. 3-8. "Về một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng" (2004), Tạp chí Cộng sản, 5(704), tr. 3-8. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2003), Cơ sở khoa học và thực tiễn đổi mới chính sách, cơ chế quản lý đối với hoạt động công ích và doanh nghiệp hoạt động công ích, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội. Đức Vượng (2003), "Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường: Kinh nghiệm của Trung Quốc và kinh nghiệm của Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, 34(697), tr. 22-26. 25 vấn đề lý luận trong công cuộc cải cách mở cửa ở Trung Quốc, (Sách tham khảo) (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVTS0015.doc
Tài liệu liên quan