Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: bản chất, nguyên nhân, giải pháp

Tài liệu Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: bản chất, nguyên nhân, giải pháp: ... Ebook Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: bản chất, nguyên nhân, giải pháp

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3626 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: bản chất, nguyên nhân, giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Lời nói đầu Ngày nay, cùng với vai trò quan trọng của nguồn lực con người, tài nguyên thiên nhiên, có thể nói, đầu tư là yếu tố có vai trò quan trọng mang tính quyết định đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia nói chung và các chủ thể kinh tế khác trong nền kinh tế nói riêng, đúng như cha ông đã nói "có bột mới gột nên hồ". Đầu tư, thực chất là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất và tài sản trí tuệ, gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển. Nguồn lực cho đầu tư là tiền vốn, theo nghĩa rộng là tiền vốn, đất đai, lao động, máy móc, thiết bị, tài nguyên. Nguồn lực này, thông qua hoạt động đầu tư do chủ thể đầu tư thực hiện nhằm đạt được mục đích của đầu tư là phát triển. Vì vậy, hoạt động đầu tư chính là một quá trình, diễn ra trong một thời kỳ dài, bao gồm nhiều nội dung, tuỳ theo cách tiếp cận. Xuất phát từ quá trình và thực hiện đầu tư, nội dung đầu tư phát triển bao gồm: đầu tư cho các hoạt động chuẩn bị đầu tư, đầu tư trong quá trình thực hiện đầu tư, đầu tư trong giai đoạn vận hành. Do những đặc thù của hoạt động đầu tư mà trong hoạt động đầu tư đã tồn tại khái niệm "độ trễ thời gian". Đây là một trong những mấu chốt để giải quyết vấn đề hiệu quả hoạt động đầu tư, một chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng của hoạt động đầu tư. Vốn đầu tư phát triển được đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau, độ trễ về thời gian phát huy tác dụng để tăng trưởng kinh tế cũng rất khác nhau. Vậy thực tế độ trễ thời gian trong các dự án đầu tư của Việt Nam giai đoạn qua như thế nào và cần được lý giải ra sao?. Trước nhu cầu thực tiễn tất yếu nhúm đó chọn đề tài nghiên cứu “Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển: bản chất, nguyên nhân, giải pháp”. Đề tài bao gồm 3 chương với kết cấu như sau: Chương 1: Lý luận chung về đầu tư phát triển và độ trễ thời gian trong đầu tư phát triển Chương 2: Thực trạng về độ trễ thời gian trong đầu tư phát triển Chương 3: Giải pháp CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN VÀ ĐỘ TRỄ THỜI GIAN TRONG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN 1.1. Các vấn đề cơ bản của đầu tư phát triển 1.1.1. Đầu tư Đầu tư theo nghĩa chung nhất là sự bỏ ra hay sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đạt các kết quả, thực hiện được các mục tiêu nhất định trong tương lai. Tuy nhiên đứng dưới các góc độ khác nhau thì nó cụ thể như sau: - Theo quan điểm tài chính: Đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn sinh lời. - Theo góc độ tiêu dùng: Đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu về một mức độ tiêu dùng nhiều hơn trong tương lai. Để có thể hiểu rõ bản chất của hoạt động đầu tư chúng ta cần làm rõ những yếu tố như: Nguồn lực đầu tư, hoạt động đầu tư, đối tượng của hoạt động đầu tư. Mục tiêu của hoạt động đầu tư: bao gồm những lợi ích về mặt tài chính gắn liền với doanh nghiệp chủ đầu tư; những lợi ích về mặt kinh tế và những lợi ích về mặt xã hội mà do hoạt động đầu tư tạo nên. Đối tượng của hoạt động đầu tư: Đầu tư vào tài sản hữu hình (tài sản vật chất), đầu tư vào tài sản vô hình (nghiên cứu và phát triển, dịch vụ, quảng cáo, thương hiệu), đầu tư vào tài sản sản xuất hay đầu tư vào tài sản lâu bền. 1.1.2. Đầu tư phát triển - Khái niệm: Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và kiến trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế-xã hội, tạo ra việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Đầu tư phát triển làm gia tăng tài sản cho nền kinh tế mà không phải là sự chu chuyển giữa đơn vị này sang đơn vị kia của nền kinh tế. 1.1.3. Vốn đầu tư Căn cứ theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng: Vốn đầu tư được hiểu là tiền tích lũy của xã hội của các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ là tiền tiết kiệm của dân cư và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở sẵn có và tạo ra tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội. 1.1.4. Nguồn vốn đầu tư Là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và của xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. 1.2. Nguồn hình thành vốn đầu tư phát triển Vốn đầu tư là một nguồn lực quan trọng cho hoạt động đầu tư. Đứng trên góc độ vĩ mô, nguồn hình thành vốn đầu tư phát triển bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. 1.2.1. Nguồn vốn đầu tư trong nước Nguồn vốn đầu tư trong nước được hình thành từ phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế. Nguồn vốn trong nước bao gồm nguồn vốn nhà nước và nguồn vốn khu vực dân doanh: a, Nguồn vốn trong nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn và có ý nghĩa quan trọng cho hoạt động đầu tư phát triển kinh tế Việt Nam thời gian qua. - Nguồn vốn ngân sách nhà nuớc: Đây là nguồn đầu tư chủ yếu, quyết định sự phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội. Là nền tảng để thực hiện CNH,HĐH đất nước. Nhà nước của bất kỳ quốc gia nào cũng quan tâm đến hoạt động đầu tư này. Đặc biệt là ở các nước đang phát triển như nước ta là yếu tố vật chất có ý nghĩa quyết định để thực hiện tốt nhất các chủ trương, chính sách phát triển KTXH của đất nước. Ở VN đây là điều kiện vật chất để ổn định và củng cố chế độ chính trị, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước cũng như không ngừng cải thiện đời sống nhân dân. Vốn ngân sách đầu tư hiện nay chia làm hai loại: + Vốn ngân sách TW dùng để đầu tư xây dựng các dự án (trồng rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, các công trình chủ yếu của nền kinh tế…) + Vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các địa phương đầu tư vào những vấn đề quan trọng của địa phương. - Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển : Tín dụng đầu tư là quan hệ tín dụng trong đó nhà nước là người đi vay để đảm bảo các khảon chi của ngân sách đồng thời nhà nước cũng là người cho vay để đảm bảo các chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế. Là nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Ngoài ra nó còn có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp quan tâm hơn đến hiệu quả đầu tư vì với cơ chế tín dụng các doanh nghiệp vay vốn phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Do có yếu tố ưu đãi nên khuyến khích các DN đầu tư theo định hướng của nhà nước - Nguồn vốn tự huy động của các DNNN: Là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các DNNN vẫn nắm giữ một khối lượng vốn nhà nước khá lớn. Trong những năm 2001-2004 vốn này chiếm 32,3% so với tổng vốn đầu tư nhà nước,trong đó chủ yếu là vốn khấu hao cơ bản của các doanh nghiệp,trích lợi nhuận sau thuế cho ĐTPT và một phần vay từ các tổ chức tín dụng.Nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp dùng để đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm Theo đánh giá nguồn vốn nguồn vốn khu vực nhà nước trong nhiều năm nay chiếm tỷ trọng trên 56,6% tổng số vốn đầu tư. b, Nguồn vốn từ khu vực tư nhân. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, của hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ khu vực kinh tế ngoài nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được huy động triệt để. c, Thị trường vốn: Là nơi diễn ra các hoạt động mua, bán chứng khoán và các giấy ghi nợ trung hạn và dài hạn. Đây không phải là các sự việc mua đi bán lại hay chuyển đổi các giấy tờ có giá từ tay của một chủ thể này sang tay một chủ thể khác một cách đơn thuần nếu nhìn nhận từ bên ngoài. Về thực chất, đây là quá trình vận động tư bản ở hình thái tiền tệ - là quá trình chuyển tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khoán như một trung tâm thu gom mọi nguồn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ TW và chính quyền địa phương tạo ra một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế. Đây được coi là một lợi thế mà không một phương thức huy động nào có thể làm được. 2.1.2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu chuyển vốn quốc tế đó là quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới. Theo tính chất lưu chuyển của vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngoài chính như sau: - Tài trợ phát triển chính thức ODF: nguồn vốn này bao gồm viện trợ phát triển chính thức ODA và các hình thức tái trợ phát triển khác. Dòng vốn này phải qua chính phủ quốc gia tiếp nhận hoặc được bảo lãnh chính thức, dòng vốn phải đáp ứng cho đầu tư phát triển, duy trì và tạo mới để đảm bảo sự hoạt động của nền kinh tế và các cơ sở, nó không bao hàm các nguồn vốn mang tính chất nhân đạo như cứu nạn thiên tai…mà nó mang tính chất dài hạn, trong đó ODA chiếm phần lớn trong ODF . Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ khác ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF nào khác. Nguồn vốn này thường lớn nên có tác dụng nhanh và mạnh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên tiếp nhận vốn này thường gắn với sự trả giá về mặt chính trị và tình trạng nợ nần chồng chất nếu sử dụng không hiệu qủa vốn vay và nếu thực hiện không nghiêm ngặt việc trả nợ vay. Mặc dù có tính ưu đãi cao song sự ưu đãi của loại vốn này thường đi kèm với các điều kiện ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thị trường…). Vì vậy chúng ta cần xem xét kỹ khi tiếp nhận viện trợ và cần có nghệ thuật thỏa thuận để có thể nhận vốn, vừa bảo tồn được các mục tiêu có tính nguyên tắc. - Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển không chỉ đối với các nước nghèo mà cả đối với các nước phát triển. Nguồn vốn này khác cơ bản với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghiệp hay cần nhiều vốn. Do vậy để sử dụng hiệu quả vốn đầu FDI tùy thuộc chủ yếu vào cách thức huy động và quản lý sử dụng nó tại nước tiếp nhận đầu tư chứ không phải ở ý đồ của người đầu tư. - Thị trường vốn quốc tế: Với xu hướng toàn cầu hóa, mối liên kết ngày càng tăng của của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc gia đã tạo ra vẻ đa dạng của các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Thực tế cho thấy, mặc dù tất cả các nguồn vốn đều có sự gia tăng về khối lượng nhưng luồng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán có mức tăng nhanh hơn các luồng vốn khác. 1.3. Đặc điểm của đầu tư phát triển Đầu tư phát triển: là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất.nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực mới cho nền kinh tế -xã hội, tạo ra việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội . Đầu tư phát triển có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia, là một lĩnh vực hoạt động nhằm tạo ra và duy trì sự hoạt động của các cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế. Đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, hoạt động đầu tư là một bộ phận trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tăng thêm cơ sở vật chất kỹ thuật mới, duy trì sự hoạt động của cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện có và vì thế, là điều kiện để phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ của các doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư phát triển có các đặc điểm khác biệt với các loại hình đầu tư khác, đó là: 1.3.1. Đòi hỏi vốn lớn, ứ đọng trong thời gian dài Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số lượng vốn lao động, vật tư lớn. Nguồn vốn này nằm khê đọng trong suốt quá trình đầu tư. Vì vậy trong quá trình đầu tư chúng ta phải có kế hoạch huy động và sử dụng nguồn vốn một cách hợp lý đồng thời có kế hoạch phân bổ nguồn lao động, vật tư thiết bị phù hợp đảm bảo cho công trình hoàn thành trong thời gian ngắn chồng lãng phí nguồn lực. 1.3.2. Thời gian dài với nhiều biến động Thời gian tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra. 1.3.3. Có giá trị sử dụng lâu dài Các thành quả của thành quả đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài, có khi hàng trăm, hàng nghìn năm, thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình nổi tiếng thế giới như vườn Babylon ở Iraq, tượng nữ thần tự do ở Mỹ, kim tụ tháp cổ Ai cập, nhà thờ La Mã ở Roma, vạn lý trường thành ở Trung Quốc, tháp Angcovat ở Campuchia, … 1.3.4. Cố định Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó đựơc tạo dựng cho nên các điều kiện về địa lý, địa hình có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư, cũng như việc phát huy kết quả đầu tư. Vì vậy cần được bố trí hợp lý địa điểm xây dựng đảm bảo các yêu cầu về an ninh quốc phòng, phải phù hợp với kế hoạch, qui hoạch bố trí tại nơi có điều kiện thuận lợi, để khai thác lợi thế so sánh của vùng, quốc gia, đồng thời phải đảm bảo được sự phát triển cân đối của vùng lãnh thổ . 1.3.5. Liên quan đến nhiều ngành Hoạt động đầu tư phát triển rất phức tạp liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Diễn ra không những ở phạm vi một địa phương mà còn nhiều địa phương với nhau. Vì vậy khi tiến hành hoạt động này, cần phải có sự liên kết chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong quản lý quá trình đầu tư, bên cạnh đó phải qui định rõ phạm vi trách nhiệm của các chủ thể tham gia đầu tư, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo được tính tập trung dân chủ trong quá trình thực hiện đầu tư. 1.4. Vai trò của đầu tư phát triển Nhìn một cách tổng quát: đầu tư phát triển trước hết là hoạt động đầu tư nên cũng có những vai trò chung của hoạt động đầu tư như: tác động đến tổng cung và tổng cầu, tác động đến sự ổn định, tăng trưởng và phát triển kinh tế, tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. Ngoài ra với tính chất đặc thù của mình, đầu tư phát triển là điều kiện trước tiên và cần thiết cho phát triển nền kinh tế, có những ảnh hưởng vai trò riêng đối với nền kinh tế và với từng cơ sở sản xuất. Đó là : - Đầu tư phát triển đảm bảo tính tương ứng giữa cơ sở vật chất kỹ thuật và phương thức sản xuất. - Đầu tư phát triển là điều kiện phát triển các ngành kinh tế và thay đổi tỷ lệ cân đối giữa chúng . Khi đầu tư phát triển được tăng cường, cơ sở vật chất kỹ thuật của các ngành tăng sẽ làm tăng sức sản xuất vật chất và dịch vụ của ngành. Phát triển và hình thành những ngành mới để phục vụ nền kinh tế quốc dân. Như vậy đầu tư phát triển đã làm thay đổi cơ cấu và quy mô phát triển của ngành kinh tế, từ đó nâng cao năng lực sản xuất của toàn bộ nền kinh tế. Đây là điều kiện tăng nhanh giá trị sản xuất và tổng giá trị sản phẩm trong nước, tăng tích luỹ đồng thời nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân lao động, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cơ bản về chính trị, kinh tế - xã hội. Do những đặc thù của hoạt động đầu tư mà trong hoạt động đầu tư đã tồn tại khái niệm "độ trễ thời gian". Đây là một trong những mấu chốt để giải quyết vấn đề hiệu quả hoạt động đầu tư, một chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng của hoạt động đầu tư. Vốn đầu tư phát triển được đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau, độ trễ về thời gian phát huy tác dụng để tăng trưởng kinh tế cũng rất khác nhau. Chẳng hạn, nếu đầu tư cho sản xuất thì có những lĩnh vực phát huy tác dụng ngay trong năm như vốn mua sắm phương tiện vận tải, vốn đầu tư xây dựng khách sạn, nhà hàng, ... Song nếu đầu tư cho việc trồng cây lâu năm như cao su, trồng quế, ... thì phải từ 7 đến 10 năm sau mới có kết quả. Còn nếu như đầu tư cho giáo dục - đào tạo, đầu tư cho nghiên cứu khoa học thì thời gian của độ trễ còn dài hơn so với đầu tư cho sản xuất. 1.5. Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển Dự án đầu tư bao gồm nội dung từ việc đề xuất việc bỏ vốn để tạo mới, sử dụng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian xác định. Dự án đầu tư là cơ sở cho việc quyết định của các chủ đầu tư có đầu tư hay không, việc cho phép thực hiện hay không thực hiện của các cấp có thẩm quyền phê duyệt dự án, cho vay hay không cho vay của các tổ chức tín dụng, quyết định tài trợ hay không của các nhà tài trợ…Do vậy, việc khảo sát điều tra để lập nên một dự án đầu tư là hết sức quan trọng bởi vì nó liên quan đến các khâu sau này của việc thực hiện dự án. Một dự án đầu tư được thực hiện thông qua hoạt động đầu tư. Chu kỳ của hoạt động đầu tư là các giai đoạn mà một dự án phải trải qua từ chuẩn bị đầu tư, giai đoạn đầu tư (thực hiện đầu tư) và giai đoạn vận hành các kết quả đầu tư. Như vậy, hoạt động đầu tư bao gồm nhiều giai đoạn thực hiện và do đặc điểm của nó mà phát sinh độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư. Khái niệm và bản chất Vậy thực chất độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư là gì? Đó là sự không trùng hợp giữa thời gian đầu tư với thời gian vận hành các kết quả đầu tư. Từ khái niệm trên ta đã hiểu được bản chất của độ trễ thời gian của hoạt động đầu tư, đó là đầu tư hiện tại nhưng kết quả đầu tư thường thu được trong tương lai. Thời gian đầu tư được tính từ khi khởi công thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Tuỳ theo tính chất, nội dung, qui mô của dự án mà thời gian đầu tư có thể dài hay ngắn. Thông thường, một dự án bắt đầu với công việc là chuẩn bị mặt bằng (công việc này liên quan đến việc thẩm định, điều tra mặt bằng môi trường xung quanh, điều tra tình hình thị trường, nghiên cứu triển vọng tương lai của dự án…). Bên cạnh đó, chủ đầu tư còn phải tìm kiếm nguồn lực cho việc thực hiện dự án. Nguồn lực đó bao gồm: tiền vốn, nhân lực, vật lực…Trong đó, việc huy động tiền vốn là một vấn đề rất quan trọng. Có những dự án qui mô lớn cần nguồn tiền lớn, việc huy động vốn mất rất nhiều thời gian, có thể huy động trong nội bộ công ty, huy động thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vay vốn ngân hàng…Mặt khác, có những dự án, chủ đầu tư phải bỏ thời gian, tiền bạc…đào tạo được đội ngũ cán bộ, kỹ sư, công nhân có đủ tay nghề, trình độ để thực hiện dự án (ví dụ như dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất…). Ngoài ra, khi thực hiện dự án, chủ đầu tư phải tìm nguồn nguyên vật liệu cung cấp đầu vào với giá cả phải chăng, đảm bảo chất lượng và cung ứng đảm bảo đủ số lượng khi thực hiện dự án…Đây là những yếu tố có vai trò hết sức quan trọng đối với việc thực hiện dự án đầu tư, nó liên quan đến tiến độ hoàn thành của dự án. Do vậy mới có những dự án có thời gian đầu tư kéo dài hàng chục năm. Thời gian vận hành các kết quả đầu tư được tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải. Đầu tư trong năm nhưng thành quả đầu tư chưa chắc đã phát huy ngay trong năm đó mà từ những năm sau và kéo dài trong nhiều năm kế tiếp. Như vậy, thời gian đầu tư và vận hành kết quả đầu tư là sự nối tiếp nhau đã tạo nên độ trễ thời gian. Có nhiều công trình phát huy tác dụng lâu dài, thậm chí tồn tại vĩnh viễn. Trong suốt quá trình vận hành, các thành quả đầu tư chịu tác động hai mặt, cả tích cực lẫn tiêu cực của các yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh tế - xã hội…Đặc điểm này của đầu tư cần được quán triệt khi đánh giá kết quả, chi phí và hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển. 1.5.2. Nguyên nhân của Độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư Từ thực chất của độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư, ta có thể hiểu được những nguyên nhân gây ra độ trễ trong hoạt động đầu tư: - Một nguyên nhân xuất phát từ đặc điểm của hoạt động đầu tư đó là đầu tư cần một nguồn lực lớn về vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư. Trong mỗi giai đoạn, quá trình của hoạt động đầu tư đều phải có sự tham gia của các nguồn lực. Có thể nói, việc huy động các nguồn lực này chiếm một thời gian khá nhiều của thời gian đầu tư, đặc biệt là nguồn vốn, bởi lẽ, thông thường, không một nhà đầu tư nào có đủ vốn tự có cho một dự án lớn, mà phải huy động từ nhiều nguồn: ngân hàng, phát hành cổ phiếu... Mặt khác, việc đào tạo, tuyển dụng nguồn nhân lực phù hợp và cần thiết cũng là một vấn đề nan giải và mất khá nhiều thời gian. - Một nguyên nhân nữa, do quá trình thực hiện đầu tư và thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn từ các nhân tố về tự nhiên, kinh tế xã hội, do vậy, việc nghiên cứu, qui hoạch, thiết kế công trình, dự án tại một địa điểm để khởi công công trình là một trong những vấn đề đầu tiên phải làm và tiêu tốn khá nhiều thời gian của các chủ đầu tư, nếu không có sự nghiên cứu này, sai lầm xảy ra sẽ gây tổn thất rất lớn cho chủ đầu tư. - Việc khởi công một công trình, một dự án chịu ảnh hưởng rất nhiều yếu tố, đặc biệt là yếu tố khách quan (như thời tiết, giá cả nguyên vật liệu…) gây ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ thực hiện dự án. - Tương tự, việc vận hành kết quả công trình cũng bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, cả khách quan lẫn chủ quan cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc vận hành kết quả đầu tư, nó có thể thúc đẩy hoặc kiềm chế việc vận hành kết quả đầu tư. - Một dự án được khởi công thực hiện, không phải ngày một ngày hai là xong, đôi khi phải mất nhiều công đoạn mới hoàn thành công trình, do vậy, việc vận hành dự án hay đưa kết quả của quá trình đầu tư đi vào hoạt động, phát huy tác dụng là bước kế tiếp của hoạt động đầu tư. - Hoạt động đầu tư là do con người thực hiện, do vậy, thời gian đầu tư và thời gian vận hành kết quả đầu tư do con người quyết định. Có những dự án đầu tư bị chậm trễ là do ý thức chủ quan của con người, đó có thể là do tình trạng tham ô, lãng phí, là trình độ, năng lực thẩm định dự án, giám sát, tuyển chọn nhà thầu hay nhà thầu kém năng lực…Chính những nguyên nhân này góp phần không nhỏ làm kéo dài thời gian đầu tư, làm độ trễ thời gian hoạt động đầu tư càng sâu hơn. Như vậy, độ trễ thời gian là một tất yếu của hoạt động đầu tư, vấn đề ở đây chính là hiểu bản chất của khái niệm này, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra giải pháp làm giảm đi ở mức tối ưu độ trễ nhằm tăng hiệu quả đầu tư, tăng hiệu quả nguồn lực đã bỏ ra, phát huy một cách nhanh nhất thành quả của hoạt động đầu tư. Chương II: Thực trạng về độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư phát triển của Việt Nam Để làm rõ vấn đề độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư của Việt Nam trong thời gian qua, chúng ta hãy đi vào những nét nổi bật của những dự án đầu tư được tài trợ từ các nguồn khác nhau, qua đó thấy được thực trạng của vấn đề độ trễ thời gian của các loại dự án có nguồn vốn khác nhau, thấy được nguyên nhân, cũng như tìm ra giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đầu tư. Bảng 1: Vốn đầu tư phát triển, cơ cấu và hiệu quả đầu tư CHỈ TIÊU NĂM 2003 2004 2005 2006 2007 1.Vốn đầu tư (tỷ VND) (Chia theo các TPKT) 239.246 290.927 343.135 398.900 461.900 -Khu vực nhà nước 126.558 139.831 164.635 185.100 200.000 -Khu vực ngoài quốc doanh 74.388 109.754 130.398 150.500 187.800 -Khu vực có vốn ĐTNN 38.300 41.342 51.102 63.300 74.100 2.Cơ cấu (%) 100% 100% 100% 100% 100% -Khu vực nhà nước 52,9 48,1 47,1 46,4 43,3 -Khu vực ngoài quốc doanh 31,1 37,7 38,0 37,7 40,7 -Khu vực có vốn ĐTNN 16,0 14,2 14,9 15,9 16,0 3.GDP (nghìn tỷ VND) 613,4 715,3 839,2 973,8 1.143,4 Tăng so với năm trước (nghìn tỷ VND) 77,6 101,9 123,9 134,6 169,6 4.Hiệu quả đầu tư Tỷ lệ VĐT so với GDP (%) 39,0 40,7 40,9 41,0 40,4 Để tăng 1 đồng GDP phải đầu tư (đồng) 3,73 3,5 3,8 4,3 4,47 (Nguồn: Vietnam Economic Times 2007 – 2008) Theo báo cáo nghiên cứu đánh giá giữa kỳ tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006 - 2010, Bộ Kế hoạch - Đầu tư đã nhận định: Tỷ trọng vốn đầu tư nhà nước vẫn là nguồn lực lớn nhất. Đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng tăng dần từ 23,3% lên 29,3% năm 2007. Đáng chú ý là thời gian gần đây các tập đoàn kinh tế và nhiều DNNN khác có xu thế mở rộng đầu tư kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực. Trong khi đó, công tác giám sát, nhất là về tài chính cũng như năng lực quản trị rủi ro của các tập đoàn đó không theo kịp. 2.1. Các dự án đầu tư có nguồn vốn từ Ngân sách nhà nước 2.1.1. Thực trạng độ trễ thời gian của các dự án đầu tư có nguồn vốn từ Ngân sách Nhà nước Những vấn đề liên quan đến độ trễ thời gian trong hoạt động đầu tư hiện nay ở Việt Nam có thể nêu ra sau đây liên quan đến vấn đề quản lý dự án, chậm trễ thực hiện dự án, gây ra tình trạng thời gian đầu tư kéo dài, đặc biệt là các dự án có nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Trong khi đó khu vực này đang chiếm gần nửa tổng đầu tư toàn xã hội (41 - 48%). Bảng 2: Tỷ trọng vốn đầu tư thực hiện qua các năm Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tỷ trọng vốn Nhà nước so với vốn đầu tư toàn xã hội (%) 59.8 57.3 52.9 48.1 47.1 45.7 39.9 Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển toàn xã hội so với GDP (%) 35.4 37.4 39.0 40.7 40.9 41.5 45.9 Nguồn: Niên giám thống kê tóm tắt 2007 Theo báo cáo, phần lớn các dự án sử dụng vốn nhà nước đều được thực hiện rất chậm, thủ tục đầu tư xây dựng rườm rà, hiệu quả đầu tư của nhiều dự án thấp, còn thất thoát, lãng phí so với đầu tư bằng nguồn vốn khác. Tình trạng bố trí vốn dàn trải còn phổ biến. Các công trình sử dụng vốn nhà nước bị chậm tiến độ ngày càng tăng. Năm 2005, có 2.280 dự án chậm tiến độ, chiếm 9,2% tổng số dự án thực hiện đầu tư trong năm. Một năm sau, con số này tăng lên thành 3.595 dự án, chiếm 13,1% và sang đến năm 2007 là 3979 dự án (13,9%). Tình trạng thiếu điện, cắt điện kéo dài ròng rã nhiều năm nhưng hàng chục dự án nhà máy điện của EVN chậm tiến độ đã ảnh hưởng đến tốc độ phát triển kinh tế và đời sống người dân. Năm 2008, hàng loạt các dự án do kém hiệu quả đã bị đình hoãn. Theo số liệu thống kê sơ bộ, các địa phương đã tiến hành thực hiện việc rà soát, sắp xếp lại các công trình, dự án theo Quyết định số 390/QĐ-TTg ngày 17-4-2008 của Thủ tướng Chính phủ. Đã có 548 công trình, dự án đình hoãn và giãn tiến độ với tổng số vốn 1.763,8 tỷ đồng. Một số địa phương có số công trình, dự án cắt giảm cao như: Hà Nội 49 dự án, với số vốn là 440,3 tỷ đồng; TP Hồ Chí Minh 59 dự án, số vốn 381,9 tỷ đồng; Hà Tây 23 dự án, số vốn 65 tỷ đồng; Tiền Giang 22 dự án, số vốn 66,3 tỷ đồng; Vĩnh Long 21 dự án, số vốn 68,8 tỷ đồng... Có thể kể ra một số trường hợp như Dự án cầu Thanh Trì và tuyến phía Nam vành đai 3 Hà Nội với số vốn đầu tư lên tới 7.660 tỷ đồng chậm trễ nhiều tháng, mỗi ngày phải trả 1,5 tỷ đồng tiền vay. Cầu xây xong nhưng đường dẫn lên cầu vẫn chưa xong nên tốn thêm cả chục tỷ đồng nữa để xây dựng đường tạm, song chất lượng vẫn kém và gây ách tắc. Một trong những dự án có thể nói là lớn về qui mô cũng như tầm quan trọng của nó là dự án về ngành điện. Ví dụ cụ thể là các dự án thuộc Tập đoàn điện lực Việt Nam đã có đến vài chục dự án chậm tiến độ, chậm từ 1-2 năm do vậy người dân nơm nớp lo thiếu điện 20-30%, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, xã hội và đời sống nhân dân. Hiện có tới 6 công trình dự kiến phải lùi thời điểm phát điện thực tế sang năm 2010 như: Thuỷ điện Bản Vẽ, thuỷ điện Buôn Tua Sah, nhiệt điện Hải Phòng 2…Lý do chủ yếu là do công tác chuẩn bị chưa tốt, di dân tái định cư khó khăn, một số nhà thầu không đủ năng lực để triển khai. Một điển hình nữa của sự chậm trễ trong việc thực hiện dự án đó là dự án Lọc dầu Dung Quất, chậm trễ tới 7 năm (theo kế hoạch phải hoàn thành vào năm 2002 nhưng đến đầu tháng 3 năm 2009, công trình mới phát huy hiệu quả của nó). Điều này đã gây ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, xã hội cho địa phương cũng như kinh tế trong nước. Bởi lẽ nguồn vốn rót vào công trình này rất lớn .Một ví dụ nữa là dự án xây dựng cầu Nhật Tân của Hà Nội. Theo kế hoạch đầu tiên của UBND TP Hà Nội, dự án cầu Nhật Tân sẽ phải khởi công voà cuối năm 2006. Nhưng thời điểm đó dự án không thể khởi công vì dự án do phí Bộ giao thông vận tải làm chủ đầu tư. Dự án này được dự kiến khởi công vào cuối năm 2007 nhưng thực tế vẫn chưa thực hiện như dự kiến. Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đây là dự án trọng điểm của Hà nội sẽ phải khởi công vào ngày 2/9/2009 nhưng Bộ Giao thông vận tải và các cơ quan liên quan hứa quyết tâm khởi công vào ngày 15/1/2009. Vào ngày 14/1/2009, UBND huyện Đông Anh đã chính thức bàn giao mặt bằng phục vụ thi công dự án cầu Nhật Tân và truyền tránh hai bên đầu cầu phía Đông Anh và mặt bằng trên cũng được xác định là địa điểm để khởi công dự án nhưng Bộ Giao thông vận tải vẫn chưa khởi công xây dựng công trình. Cuối năm 2007, Bộ giao thông vận tải đã đăng ký giải ngân tới hơn 27.500 tỷ đồng. Theo đó, hàng loạt dự án giao thông lớn được khởi công trong năm 2007 nhưng điều này lại tạo nên nguy cơ khủng hoảng nhân lực và năng lượng tại các dự án này. Theo kế hoạch này, hàng loạt các dự án đường cao tốc, các tuyến đường trục chính của các trung tâm kinh tế lớn trên cả nước sẽ được khởi công trong năm 2007 theo chiến lược phát triển giao thông vận tải đến năm 2020. Những dự án này được kỳ vọng sẽ làm thay đổi diện mạo hạ tầng giao thông và đóng góp vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội từng địa phương nói riêng và cả nước nói chung. Tuy nhiên, tình trạng thi công chậm trễ tại các công trình hạ tầng giao thông lớn đã là một thực tế kéo dài trong nhiều năm qua, gây không ít khó khăn cho sinh hoạt hàng ngày của người dân và ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư tại Việt Nam, vì đây là cơ sở hạ tầng hết sức quan trọng. Đó là một số ví dụ điển hình của các dự án đầu tư có từ Ngân sách nhà nước. Có thể nói việc chậm trễ thực hiện các dự án có vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước là một v._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6142.doc
Tài liệu liên quan