A. Lời nói đầu
Chúng ta bước vào thế kỷ 21 với nhiều cơ hội và thách thức. Việt Nam đang trên con đường công nghiệp hoá-hiện đại hoá, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại.
Để thúc đẩy phát triển kinh tế, Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức nhằm tranh thủ sự ủng hộ của các nước như : ASEAN, APEC, WB…Vào năm 2005-2006, Việt Nam sẽ tham gia vào AFTA và mục tiêu tiếp theo của chúng ta là sớm gia nhập được WTO.
Để gia nhập được WTO Việt Nam đã tích cực chuyển mạn
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1405 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Định hướng và một số giải pháp chất lượng nguồn lao động tỉnh Bắc Ninh từ nay đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h sang cơ chế thị trường, hoàn thiện môi trường đầu tư. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là khi tham gia vào các tổ chức AFTA, WTO chúng ta có thể cạnh tranh được với các nước khác hay không khi mà nguồn lực cho phát triển của chúng ta còn thấp:
-Vốn đầu tư cho phát triển rất ít.
-Trình độ khoa học –kỹ thuật lạc hậu.
-Trình độ công nhân thấp.
Để tham gia cạnh tranh chúng ta chỉ có lợi thế tài nguyên thiên nhiên, lực lượng lao động dồi dào. Tài nguyên thiên thiên nhiên khai thác mãi cũng hết,lao động dồi dào nhưng cũng không sử dụng được. Do đó, để có thể cạnh tranh được, ngay từ bây giờ chúng ta phải trang bị kiến thức, trình độ chuyên môn, kỹ thuật cho người lao động làm tăng năng suất lao động , nâng cao hiệu quả sử dụng lao động.
Cùng với cả nước, Bắc Ninh đã và đang chuyển ngành rất nhanh trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ một phương chỉ chuyên sản xuất nông nghiệp là chính đến nay giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh đã vượt ngành nông nghiệp. Các khu công nghiệp lần lượt ra đời. Bộ mặt của tỉnh đã thay đổi hẳn, thu nhập của người dân tăng cao nhưng nhìn chung năng suât lao động còn thấp, trình độ sản xuất chủ yếu vẫn là thủ công, sản xuất nhỏ lẻ, lạc hậu, manh mún.
Điều này có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng nổi bật lên đó là vấn đề người lao động. Không phải là ở số lượng người lao động mà la ở nhân tố bên trong của mỗi người lao động ( hay chất lượng người lao động ).Trình độ của người lao động trên địa bàn tỉnh là rất thấp. Đến năm 2001, tổng số lao động qua đào tạo mới chỉ chiếm 21,4% tổng số lao động trong toàn tỉnh , đó là còn chưa kể đến trong tổng số lao động được đào tạo thì tỷ lệ lành nghề còn rất thấp.
Từ lý do đó em đã chọn đề tài : “ Định hướng và một số giải pháp chất lượng nguồn lao động tỉnh Bắc Ninh từ nay đến năm 2010” làm báo cáo chuyên đề thực tập.
Nội dung đề tài của em gồm 3 chương:
Chương I : Những vấn đề lý luận về chất lượng lao động và sự cần thiết nâng cao chất lượng lao động.
Chương II : Phân tích thực trạng chất lượng lao động và khả năng đào tạo nghề của tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
Chương III : Định hướng và một số giải pháp nâng cao chất lượng lao động của tỉnh Bắc Ninh từ nay đến nay đến năm 2010.
B. Nội dung
Chương I: Những vấn đề lý luận về chất lượng lao động và sự cần thiết nâng cao chất lượng lao động
I. nguồn lao động và vai trò của nó với phát triển kinh tế xã hội
1. Nguồn lao động
1.1. Dân số
Dân số là toàn bộ những người cư trú trên một vùng lãnh thổ nhất định được tính theo số liệu thống kê hàng năm và các đợt tổng điều tra.
Tổng quy mô dân số là chỉ tiêu mang tính thời điểm, nó được xác định tại một thời điểm nhất định. Đây là chỉ tiêu cơ bản trong mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
Tổng quy mô dân số có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau.
Phân theo giới tính: nhằm xác định cơ cấu dân cư theo giới tính, là cơ sở hoạch định các chỉ tiêu kinh tế xã hội khác.
Phân theo độ tuổi: cơ cấu dân số theo độ tuổi có tác dụng đánh giá tính chất đặc điểm dân số một quốc gia, một vùng, làm cơ sở tiếp tục cho công tác hoạch định mục tiêu về lực lượng lao động, giáo dục, đào tạo. Dân số nước ta 56% trong tuổi lao động 34% dân số dưới tuổi lao động, 10% dân số trên tuổi lao động, đây là cơ cấu dân số trẻ.
Phân chia theo ngành: cơ cấu dân số được phân theo dân số nông nghiệp nông thôn và phi nông nghiệp. Đây là cơ sở để xây dựng mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo lực lượng lao động và dân cư.
Như chúng ta đã biết, lao động là yếu tố không thể thiếu của bất kỳ một quá trình sản xuất nào. Mà lao động thuộc về yếu tố con người, vậy người dân nào của một quốc gia cũng được coi là lao động không? Điều này hoàn toàn không thể được vì trong xã hội có những người không lao động được. Họ còn quá nhỏ, họ quá già, hay bị ốm đau tàn tật hoặc cũng có thể họ không muốn lao động do họ được thừa hưởng tài sản của ông cha để lại hoặc được người khác bảo trợ… Vậy những đối tượng nào được liệt vào nguồn lao động của một quốc gia. Đã có rất nhiều cách hiểu khác nhau và nhiều định nghĩa khác nhau được đưa ra.
1.2. Nguồn nhân lực
Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lực con người, là một bộ phận của các nguồn lực giống như các nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính cần được huy động, quản lý để thực hiện những mục tiêu phát triển đã định.
Theo định nghĩa của Liên Hiệp Quốc: nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế xã hội trong một cộng đồng.
Khác với các nguồn lực vật chất, tài chính, con người có cảm giác rất nhạy cảm với những tác động qua lại của mọi mối quan hệ tự nhiên, kinh tế, xã hội tại môi trường họ sống, làm việc, họ có thể quyết định và hành động theo ý mình… do đó việc quản lý và sử dụng nguồn nhân lực khó khăn hơn rất nhiều so với việc quản lý và sử dụng các nguồn lực vật chất và tài chính khác…
Theo nghĩa hẹp nguồn nhân lực: để có thể lượng hoá được trong công tác kế hoạch hoá ở nước ta quy định là một bộ phận của dân số, bao gồm những người trong độ tuổi lao động theo quy định của Bộ luật lao động nước CHXHCN Việt Nam (nam từ 15 đến hết 60 tuổi, nữ từ 15 đến hết 55 tuổi) và có khả năng lao động. Đây là lực lượng lao động có thể huy động vào các hoạt động của nền kinh tế xã hội. Nếu chúng ta hiểu theo nghĩa rộng thì nguồn nhân lực của một quốc gia là rất lớn và có thể không định lượng được vì bất cứ ai cũng có thể tham gia hoặc không tham gia vào nguồn nhân lực. Do vậy ý nghĩa nghiên cứu của vấn đề này là không lớn; nó chỉ khái quát một cách chung nhất, tổng quát nhất vai trò của con người trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Còn theo định nghĩa của Liên hiệp quốc thì coi nguồn nhân lực không chỉ bao gồm con người mà nó còn phải có trình độ kiến thức đi cùng. Theo khái niệm này thì Liên hiệp quốc muốn nhấn mạnh đến vai trò chất lượng của lao động. Điều này là cực kỳ quan trọng trong thời đại ngày nay (thời đại kinh tế tri thức) và nó còn quan trọng hơn đối với các nước đang phát triển như Việt Nam khi mà muốn phát triển thu hẹp dần khoảng cách với các nước phát triển.
1.3. Nguồn lao động
Từ các khái niệm nguồn nhân lực (theo nghĩa hẹp) chúng ta có khái niệm về nguồn lao động (lực lượng lao động) là một bộ phận của nguồn nhân lực, bao gồm những người trong độ tuổi lao động đang làm việc và những người chưa có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc (đang tích cực tìm việc), không bao gồm những người đang đi học, làm nội trợ, mất khả năng làm việc và không có nhu cầu làm việc.
Đối với toàn bộ dân số của một quốc gia ta có thể chia thành hai bộ phận lớn là những người tạo ra thu nhập và những người không tạo ra thu nhập (lực lượng ăn bám). Đây là những căn cứ quan trọng giúp những nhà hoạch định chính sách đưa ra các chính sách phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế ở mỗi nước.
2. Các yếu tố cấu thành nguồn lao động
Nguồn lao động bao gồm các yếu tố bên ngoài, bên trong. Yếu tố bên ngoài là số lượng người lao động trong lực lượng lao động, yếu tố bên trong là chất lượng của từng người lao động nói riêng và chất lượng của nguồn lao động nói chung.
Về số lượng: số lượng nguồn lao động biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng nguồn lao động. Các chỉ tiêu về số lượng lao động này có liên quan trực tiếp đến các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng dân số. Quy mô và tốc độ tăng dân số cao dẫn đến quy mô và tốc độ tăng nguồn lao động càng lớn.
Tuy nhiên mối quan hệ giữa dân số và nguồn lao động biểu hiện sau một khoảng thời gian 15 năm (vì đến lúc đó con người mới bước vào tuổi lao động). Điều này giải thích cho việc tốc độ tăng dân số cao hiện tại sẽ gây sức ép về lao động và việc làm cho nền kinh tế xã hội trong tương lai
Về chất lượng nguồn lao động: là trạng thái nhất định của nguồn lao động thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của nguồn lao động. Chất lượng nguồn lao động không những là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển kinh tế, mà còn là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển về mặt đời sống xã hội, bởi lẽ chất lượng nguồn lao động cao sẽ tạo động lực mạnh mẽ hơn với tư cách không chỉ là nguồn lực cho sự phát triển mà còn thể hiện mức độ văn minh của xã hội.
3. Vai trò của nguồn lao động với phát triển kinh tế xã hội
3.1. Vai trò hai mặt của phát triển kinh tế
Lao động một mặt là một bộ phận của nguồn lực phát triển, đó là đầu vào không thể thiếu được của quá trình sản xuất. Ngoài vai trò đóng góp vào quá trình hoạt động kinh tế như vốn, tài nguyên và khoa học công nghệ, lao động đồng thời tạo ra sự liên kết giữa các yếu tố trong quá trình sản xuất.
Mặt khác nguồn lao động lại là một bộ phận của dân số, những người hưởng lợi ích trực tiếp từ quá trình phát triển. Mục tiêu cuối cùng của sự phát triển là nhằm phục vụ ngày một tốt hơn con người, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Như vậy con người vừa là động lực vừa là cái đích của sự phát triển kinh tế xã hội
3.2. Vai trò của lao động với tăng trưởng kinh tế
Theo trường phái cổ điển: trong học thuyết về "giá trị lao động" Adam Smith cho rằng lao động chứ không phải đất đai, tiền bạc là nguồn gốc cơ bản tạo ra mọi của cải vật chất cho xã hội.
Theo Ricardo cho rằng vốn và lao động luôn kết hợo với nhau theo tỷ lệ nhất định trong từng ngành. Do vậy để tạo ra được khối lượng sản phẩm tăng thêm thì không nững cần phải tăng vốn mà còn phải tăng thêm lao động.
Theo học thuyết Mac xít: cho rằng các yếu tố tác động đến quá trình tái sản xuất là đất đai, lao động, vốn và tiến bộ khoa học. Marx đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của lao động trong việc tạo ra giá trị thặng dư. Đây là nguồn gốc của tích luỹ đầu tư mở rộng sản xuất.
Còn trong mô hình tân cổ điển: cho rằng lao động và vốn có thể kết hợp được với nhau theo nhiều tỷ lệ khác nhau. Vốn có thể thay thế cho lao động và ngược lại tuỳ thuộc vào công nghệ mà chúng ta sử dụng. Điều này có ý nghĩa quan trọng giúp chúng ta tận dụng được đội ngũ lao động dồi dào trong khi vốn cho phát triển kinh tế của chúng ta còn rất hạn hẹp. Do vậy có thể nói lao động là nhân tố chủ yếu tạo ra tăng trưởng ở các nước đang phát triển.
Trường phái này còn đưa ra hàm sản xuất có tên là Cobb - douglas:
Y = f(K,L,R,T) trong đó: Y: là đầu ra (có thể là GDP)
K: là vốn sản xuất.
L: là số lượng lao động.
R: là nguồn tài nguyên tự nhiên.
T: là khoa học công nghệ.
Dạng hàm này được sử dụng để đánh giá vai trò của các nhân tố tạo nên sản lượng là:
Trong đó: a + b + g = 1.
Từ đây đưa ra được mối quan hệ theo tốc độ tăng trưởng của các biến số đầu vào:
g = t + a.k + b.l + g.r trong đó: g: là tốc độ tăng trưởng của GDP.
k, l, r: là tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào
t: là phần dư còn lại, phản ánh tác động của khoa học công nghệ.
Mặc dù các trường phái có những quan điểm khác nhau, nghiên cứu trên những khía cạnh khác nhau nhưng họ đều không thể phủ nhận vai trò của lao động trong việc tạo ra sản phẩm và góp phần vào việc tạo ra tăng trưởng kinh tế.
3.3. Tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế là mối quan hệ tỷ lệ giữa các bộ phận hợp thành một tổng thể kinh tế, các bộ phận này có những mối liên hệ hữu cơ, những tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng, các quan hệ tỷ lệ được hình thành trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định, chúng luôn vận động và hướng vào mục tiêu cụ thể.
Có nhiều cách phân loại cơ cấu kinh tế khác nhau. Tuy nhiên có hai cách phân loại quan trọng nhất là:
- Cơ cấu ngành kinh tế.
- Cơ cấu vùng kinh tế.
Sự phân công và phân công lại lao động giữa các vùng có ý nghĩa quyết định đến cơ cấu kinh tế của cả vùng và cơ cấu của ngành kinh tế. Theo Liên hợp quốc nền kinh tế của một quốc gia được chia ra làm 3 phần:
Khu vực 1: ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp…
Khu vực 2; ngành công nghiệp chế biến, xây dựng cơ bản.
Khu vực 3: các ngành hoạt động dịch vụ.
Tương ứng với cơ cấu ngành kinh tế là cơ cấu lao động trong ngành các ngành do đó để tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế thì chúng ta cần phải điều chỉnh cơ cấu lao động giữa các ngành.
Cơ cấu ngành kinh tế ở việt Nam năm 2000 như sau: (theo GDP)
Ngành nông nghiệp:24,3%.
Ngành công nghiệp: 36,61%.
Ngành dịch vụ : 39,09%.
Tương ứng với cơ cấu này là cơ cấu lao động như sau:
Nông nghiệp : 62,56%.
Công nghiệp, xây dựng cơ bản: 13,15%.
Dịch vụ : 24,29%.
Xu hướng chuyển dịch dịch cơ cấu kinh tế theo ngành là tăng tỷ trọng của các ngành công nghiệp, xây dựng cơ bản, dịch vụ và giảm tỷ trọng (trong GDP) của ngành nông nghiệp. Do đó chúng ta cần đưa ra các chính sách, biện pháp rút bớt lao động trong ngành nông nghiệp và chuyển sang cho các ngành ở khu vực II và khu vực III.
3.4. Vai trò tạo ra khoa học công nghệ phát triển kinh tế
Khoa học công nghệ có tác động vào mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, nền kinh tế có phát triển nhanh theo hướng hiện đại hay không tuỳ thuộc vào ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ. Nhưng khoa học công nghệ chính là sản phẩm sáng tạo của con người, do con người. Mọi hoạt động sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần rút cuộc đều là những hoạt động của con người, của người lao động, họ phát minh sáng chế và sử dụng tư liệu lao động, tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra sản phẩm phụ cho chính mình và cho xã hội.
3.5. Thu nhập và tỷ lệ lao động có việc làm góp phần ổn định nâng cao mức sống của người dân
Lao động ngoài là yếu tố tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế còn có liên quan trực tiếp và gián tiếp tới các vấn đề xã hội. Vì con người là trung tâm của sự phát triển, mục tiêu cuối cùng của sự phát triển là nhằm nâng cao phúc lợi xã hội cho con người. Lao động mà có trình độ tay nghề càng cao, cũng được coi như là những hàng hoá khan hiếm trên thị trường,những người lao động này luôn luôn được trả giá cao. Những người càng có trình độ chuyên môn, tay nghề càng cao thì thu nhập càng cao do làm tăng năng suất lao động, không những đóng góp cho cá nhân nâng cao thu nhập, mà còn đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội, đó là điều kiện tiền đề cho nâng cao mức sống cả về vật chất và tinh thần của con người.
Tuy nhiên nhu cầu về lao động xã hội có trình độ càng cao thì càng ít. Ngược lại, thì không đúng do trình độ phát triển của nền kinh tế thì những người lao động “phổ thông” sẽ không phù hợp với điều kiện sản xuất do đó nhu cầu của loại lao động này cũng không cao. Vì vậy trong các chính sách đào tạo chúng ta cần phải chú ý đến việc phân bổ học sinh vào các cấp học sao cho vừa nâng cao chất lượng nguồn lao động vừa đảm bảo giải quyết tốt các vấn đề thất nghiệp và thu nhập, đáp ứng nhu cầu lao động của xã hội.
Như chúng ta đã biết thất nghiệp có hai hình thức là thất nghiệp hữu hình (ở thành thị) và thất nghiệp trá hình (ở nông thôn). Hướng giải quyết thất nghiệp của chúng ta hoàn toàn có thể làm được từ việc nâng cao trình độ chuyên môn và tay nghề của người thất nghiệp giúp họ có thể tự mình tìm được những công việc phù hợp, nâng cao cơ hội lựa chọn việc làm cho người lao động.
ở thành thị chúng ta tiến hành đào tạo lại cho những người mà ta gọi là thất nghiệp cơ cấu và những người thất nghiệp do không có chuyên môn gì, để chuyển những người thất nghiệp này vào những ngành, những công việc đang thiếu lao động (đặc biệt là công nhân kỹ thuật).
ở nông thôn: đa phần người lao động là không có trình độ cao và không được đào tạo họ chỉ có thể làm được những công việc đơn giản mà từ trước đến nay vẫn làm và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Chúng ta có thể tiến hành đào tạo cho những người lao động ở đây để họ có thể chuyển dần sang khu vực công nghiệp hay thậm chí đào tạo cho những kỹ thuật sản xuất trong nông nghiệp để họ tiếp tục làm việc tại chỗ nhưng tạo ra năng suất lao động cao hơn, tạo tiền đề để chuyển dần những lao động khác sang khu vực công nghiệp, qua đó nâng dần được thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên.
II. Chất lượng nguồn lao động
Chất lượng lao động và chỉ tiêu đánh giá
Khái niệm về chất lượng lao động
Chất lượng là nói đến yếu tố bên trong của vật chất: như chất lượng sản phẩm được biểu hiện bằng tính lâu bền và có ích của sản phẩm. Cũng như các hàng hoá khác, lao động cũng là một hàng hoá. Vì thế ta có: Chất lượng lao động là trạng thái nhất định của người lao động như trình độ học vấn, trình độ tay nghề, sức khoẻ, khả năng giao tiếp… và những khả năng khác của người lao động có thể sử dụng vào khả năng kinh tế- xã hội.
Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn lao động
1.2.1. Chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khoẻ của người lao động
Sức khoẻ là tình trạng thoải mái về thể chất, tình thần và xã hội chứ không phải đơn thuần là không có bệnh tật. Sức khoẻ là tổng hoà nhiều yếu tố tạo nên giũa bên trong và bên ngoài, giữa thể chất và tinh thần.
Sức khoẻ là một nhu cầu cơ bản của con người, là hạnh phúc của mỗi gia đình và cộng đồng, sức khoẻ vừa là mục đích của phát triển đồng thời nó cũng là điều kiện của sự phát triển. Sức khoẻ của mỗi con người phụ thuộc vào chức năng sinh lý, các quy định đặc thù sinh học (giới tính, tuổi tác, sự di truyền và thể trạng bẩm sinh). Nó phụ thuộc vào điều kiện môi trường bên ngoài của con người, đặc biệt là môi trường xã hội. Bất cứ một quốc gia nào cũng đều cho rằng sức khoẻ là yếu tố quan trọng của chất lượng cuộc sống.
Có nhiều chỉ tiêu biểu hiện tình trạng của người lao động. Bộ y tế nước ta quy định có 3 loại:
Loại A: Thể lực tốt, loại không có bệnh tật gì.
Loại B: Trung bình
Loại C: Yếu không có khả năng lao động.
Ngoài ra, trạng thái của sức khỏe của dân cư còn đánh giá qua chỉ tiêu:
Tỷ lệ người có bệnh
Cơ cấu giới tính, cơ cấu tuổi…
Chiều cao, cân nặng,…
1.2.2. Chỉ tiêu biểu hiện trình độ học vấn của nguồn lao động
Trình độ học vấn của người lao động là sự hiểu biết của người lao động đối với những kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội. Trong một trường mực nhất định trình độ học vấn của nguồn lao động biểu hiện bằng mặt bằng dân trí thông qua một số chỉ tiêu sau:
Số lượng người biết chữ.
Số người có trình độ tiểu học
Số người có trình độ phổ thông cơ sở
Số người có trình độ phổ thông trung học
Tỷ lệ người tốt nghiệp từng bậc học trong tổng lực lượng lao động.
Đây là chỉ tiêu hết sức qua trọng phản ánh chất lượng của nguồn lao động, có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trình độ học vấn cao tạo khả năng tiếp thu và khả năng vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học vào thực tiễn.
1.2.3. Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn kỹ thuật.
Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chuyên môn nào đó, nó biểu hiện trình độ được đào tạo ở các trường Trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, sau đại học và công nhân kỹ thuật hay tại các trung tâm đào tạo nghề tư nhân.
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn lao động có thể được đo bằng các chỉ tiêu sau:
Số lượng và tỷ lệ cán bộ sơ cấp
Số lượng và tỷ lệ cán bộ trung cấp
Số lượng và tỷ lệ cán bộ cao đẳng, đại học và sau đại học.
Số lượng lao động được đào tạo và lao động phổ thông.
Số người có bằng cấp kỹ thuật và không có bằng
Trình độ tay nghề theo bậc thợ.
Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật chính là yếu tố quyết định đến sự thành bại của chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động phụ thuộc vào hệ thống đào tạo, chất lượng đào tạo cũng như trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Để đánh giá được chất lượng nguồn lao động của một nước căn cứ vào:
Tỷ lệ lao động qua đào tạo: là số người lao động trong lực lượng lao động đã được đào tạo qua các trường lớp.
Chất lượng của nguồn lao động tỷ lệ thuận với tỷ lệ lao động qua đào tạo.
Các chỉ tiêu:
+ Tỷ lệ lao động biết chữ
+ Tỷ lệ lao động đã tốt nghiệp ở các bậc học
+ Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật
Cơ cấu lao động qua đào tạo:
Để phản ánh chính xác hơn chất lượng lao động của một quốc gia chúng ta cần căn cứ thêm vào cơ cấu lực lượng lao động đã qua đào tạo.
Các chỉ tiêu
+ Tỷ lệ lao động qua đào tạo sơ cấp, công nhân kỹ thuật.
+ Tỷ lệ lao động qua đào tạo trung học chuyên nghiệp.
+ Tỷ lệ lao động qua đào tạo cao đẳng, đại học, trên đại học.
+ Tỷ lệ lao động được đào tạo theo khối kỹ thuật.
+ Tỷ lệ lao động được đào tạo theo khối kinh tế.
+ Tỷ lệ lao động được đào tạo theo khối xã hội.
Khả năng tham gia của lực lượng lao động.
Năng suất lao động.
Là trong một thời gian như cũ số lượng sản phẩm sản xuất ra được nhiều hơn hay thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm giảm đi.
Năng suất lao động được đo bằng số lượng sản phẩm trên một đơn vị thời gian hoặc là thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Công thức như sau:
Wsp = Q/T hay WTg= T/Q
Với W: Là năng suất lao động
Q: Là sản lượng
T: Thời gian lao động
Người lao động với sức khoẻ, trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật, năng lực phẩm chất, trình độ tổ chức, sử dụng lao động… Sẽ tạo ra một năng suất lao động cao, nâng cao hiệu qủa của quá trình sản xuất.
+ Cường độ lao động.
Cường độ lao động là mức độ khẩn trương của người lao động và mức độ khẩn trương này đo bằng khối lượng hao phí (calo).
Việc người lao động có thể chịu đựng được cường độ lao động ở mức độ khác nhau thể hiện khả năng chịu đựng, mức độ tập trung, tính nhanh nhẹn của người lao động. Đây là điều rất tốt, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay sản xuất theo hợp đồng và trả lương theo sản phẩm. Tuy nhiên tăng cường độ lao động chỉ nên áp dụng một cách không thường xuyên, mức độ vừa phải và vào lúc quan trọng vì nếu áp dụng liên tục với cường độ cao sẽ làm ảnh hưởng đến người lao động như bị lao lực, giảm thị lực, tai nạn…
Chất lượng sản phẩm thông qua các tiêu chuẩn chất lượng (Iso)
Khả năng tham gia hợp tác phân công lao động quốc tế
2. Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lao động
2.1. Nhân tố giáo dục
Giáo dục theo nghĩa hẹp là giáo dục nhà trường. Trên thực tế giáo dục là một loại hoạt động như sau: nó là quá trình sản xuất, truyền bá tri thức thông qua các tổ chức , cơ cấu nhà nước và dân gian, nhằm mục đích bồi dưỡng cho người ta các năng lực thích ứng sau, thích ứng với cuộc sống.
Theo khái niệm này hoạt động giáo dục có thể chia làm 3 loại.
Giáo dục nhà trường: gồm giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên nghiệp.
Giáo dục gia đình: đây là cơ sở của giáo dục nhà trường.
Giáo dục xã hội: nó vừa có tác dụng kiểm nghiệm thành quả của giá dục nhà trường, vừa kéo dài và bổ sung cho giáo dục nhà trường trong xã hội.
Kết quả của giáo dục làm tăng lực lượng lao động có trình độ cao, tạo ra khả năng thúc đẩy nhanh quá trình đổi mới công nghệ, dẫn đến thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Giáo dục tác động đến nguồn lao động thông qua tăng năng suất lao động của mỗi cá nhân nhờ đó nâng cao trình độ và tích lũy kiến thức.
Vấn đề việc làm là vấn đề quan tâm lớn nhất đối với sự phát triển xã hội. Lao động có đầy đủ việc làm là tiêu chí một quốc gia phát triển cao, vừa là mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Mục tiêu này chịu tác động của nhiều nhân tố trong đó ảnh hưởng của giáo dục là không thể coi nhẹ. Đào tạo nhân tài chuyên môn các cấp để thoả mãn nhu cầu các mặt của xã hội. Vì rằng xã hội cần có nhân tài nhiều tầng nhiều bậc vừa cần có cán bộ quản lý các cấp vừa có công nhân kỹ thuật có trình độ trung cấp và sơ cấp. Nếu sự nghiệp giáo dục không đào tạo một cách cân đối giữa các tầng các lớp thì sẽ gây ra thất nghiệp giả tạo theo cơ cấu hoặc hạ thấp nhân tài xuống để sử dụng gây lãng phí chi phí đào tạo.
Mặt khác giáo dục có vai trò đổi mới tri thức nếu không sẽ gây ra “hao mòn vô hình” của đội ngũ lao động, có thích ứng với nhu cầu phát triển kinh tế.
Cũng chính trình độ giáo dục nâng cao không ngừng có tác động tích cực tới sự nghiệp phát triển y tế, sự nghiệp thể dục thể thao, càng làm tăng lên chất lượng nguồn lao động.
Giáo dục và đào tạo nâng cao giá trị vốn nhân lực tiêu biểu là nâng cao trình độ ngành nghề. Đây là tiêu chí nâng cao chất lượng nguồn lao động. Để nâng cao vốn nhân lực không còn con đường nào khác ngoài công tác giáo dục và đào tạo nghề cho họ. Vốn nhân lực tự nó đòi hỏi con người có kiến thức, chuyên môn nghề nghiệp. Vì vậy, đòi hỏi phải nâng cao chất lượng nguồn lao động.
Đã có một thời người ta chỉ coi trọng máy móc thiết bị, coi công nghệ là trung tâm của sự phát triển, cho nên chỉ hướng vào hiện đại hoá máy móc công nghệ. Trong những thập niên gần đây, người ta mới nhận thức đúng vai trò của người lao động trong phát triển kinh tế nên đã hướng vào phát triển nguồn lao động.
Đào tạo được chia ra: đào tạo mới được áp dụng đối với những người chưa có nghề: đào tạo lại đối với những người đã có nghề, song vì lý do nào đó nghề của họ không còn phù hợp nữa: đào tạo nâng cao trình độ lành nghề nhằm bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kinh nghiệm làm việc để người lao động có thể đảm đương được những chức vụ phức tạp hơn.
Trình độ lành nghề của người lao động thể hiện bằng chất lượng của lao động. Nó thể hiện sự hiểu biết bằng lý thuyết, về mặt kỹ thuật sản xuất và kỹ năng lao động để hoàn thành những công việc có trình độ phức tạp nhất định. Lao động có trình độ lành nghề là lao động có chất lượng cao hơn, là lao động phức tạp hơn, tạo ra giá trị cao hơn lao động giản đơn.
2.2. Chế độ dinh dưỡng
Nhu cầu về dinh dưỡng là nhu cầu cơ bản của con người, nó không những cần thiết để duy trì sự sống của con người mà còn giúp con người phát triển và hoàn thiện bản thân mình. Việc cung cấp dinh dưỡng sẽ tác động trực tiếp đến tình hình sức khoẻ của con người, tạo cho con người sức khoẻ để lao động đồng thời giúp con người hồi phục sức lực sau khi làm việc. Theo tiêu chuẩn của Liên hiệp quốc thì về mức năng lượng cần đảm bảo là 2200 calo/ngày/người.
Đặc biệt là trẻ em khi trong bụng mẹ và sau khi sinh cần được đảm bảo đầy đủ về số lượng và thành phần dinh dưỡng sẽ làm giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, đảm bảo cho trẻ em khi sinh ra và lớn lên không bị còi cọc và giúp trẻ thông minh hơn. Điều này sẽ giúp tạo ra một thế hệ nguồn lao động trong tương lai có chất lượng tốt hơn.
2.3. Chăm sóc y tế
Trong cơ thể con người luôn luôn tiềm ẩn một vài hoạt động và trong quá trình hoạt động kinh tế xã hội thậm chí là nghỉ ngơi, giải trí họ cũng có thể gặp những tai nạn bất ngờ. Nên người lao động luôn cần phải được chăm sóc y tế ngay khi có bệnh và bị tai nạn để có thể tiếp tục làm việc. Chăm sóc y tế tốt sẽ luôn đảm bảo sức khoẻ cho người lao động, giúp người lao động kéo dài thời gian làm việc.
Cũng giống như cung cấp dinh dưỡng, việc chăm sóc y tế cho bà mẹ và trẻ em cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của nguồn nhân lực trong tương lai.
2.4. Nhân tố về tập quán, truyền thống và văn hoá
Truyền thống văn hoá, phong tục tập quán lối sống là nguồn gốc cơ bản hình thành lên năng lực phẩm chất của người lao động. Phong tục tập quán tốt đẹp, lối sống lành mạnh sẽ tạo cho người lao động một năng lực tinh thần khoẻ mạnh thuần khiết. Người lao động có nhận thức sâu sắc về lao động, ý thức làm việc cao. Tuy nhiên, nó cũng ảnh hưởng tới tác phong làm việc của người lao động.
Nguồn lao động của nước ta được đánh giá là có chất lượng cao về mặt năng lực phẩm chất. Người Việt Nam cần cù chịu khó, sáng tạo và ham học hỏi, điều này được đúc kết lên từ truyền thống văn hoá 4000 năm dựng nước và giữ nước, từ những tập quán tốt đẹp, thuần phong mỹ tục, con người Việt Nam đã được tôi luyện qua nhiều thử thách khó khăn hình thành ý chí, năng lực, tinh thần vững vàng kiểm định trong lao động và cuộc sống. Đó là nét đẹp của con người Việt Nam vẫn được lưu truyền từ đời này qua đời khác.
Tuy nhiên, lịch sử phát triển của nước ta gắn với nền văn minh lúa nước cùng tác phong lao động nông nghiệp: Bảo thủ, trì trệ, vô tổ chức và dựa nhiều vào cảm tính, chậm trễ, lề mề không theo dây truyền sản xuất. Vì vậy, khi bước vào thời kỳ công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước chúng ta đã gặp phải không ít khó khăn khi phải hoà nhập cùng tác phong lao động công nghiệp: Tuân thủ nguyên tắc kỷ luật chặt chẽ, tính lao động tập thể. Người lao động Việt Nam cần có sự rèn luyện hơn nữa để thích nghi với điều kiện sống và làm việc của nền sản xuất hiện đại.
2.5. Nhóm nhân tố liên quan đến cơ chế sử dụng và đãi ngộ người lao động
Song song với vấn đề đào tạo nguồn nhân lực thì cơ chế sử dụng, chính sách đãi ngộ cũng có tác động rất lớn đến trình độ chuyên môn kỹ thuật, nguồn nhân lực. Nó vừa là kết quả, vừa là nguyên nhân của thực trạng trình độ chuyên môn kỹ thuật nguồn nhân lực nước ta hiện nay.
Nói như vậy bởi người lao động được đào tạo ở trường lớp sau đó sẽ được làm các công việc trong nền kinh tế xã hội. Việc sử dụng đãi ngộ người lao động là kết quả tình trạng trình độ chuyên môn kỹ thuật nguồn lao động bởi người lao động sẽ mang kiến thức chuyên môn kỹ thuật được đào tạo của mình để sử dụng trong công việc và chính kết quả công việc đó sẽ phản ánh chất lượng đào tạo của người lao động. Mặt khác, nó lại là nguyên nhân của thực trạng trình độ chuyên môn kỹ thuật nguồn nhân lực bởi vì cơ chế sử dụng và cơ chế đãi ngộ người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật sẽ tác động đến tâm lý người lao động trong định hướng nghề nghiệp cho con cháu hay chính trong công việc hiện tại của mình.
Như vậy, rõ ràng vấn đề sử dụng đãi ngộ người lao động có những tác động rất lớn dến thực trạng trình độ chuyên môn kỹ thuật nguồn lao động.
Việt Nam đang đứng trước một thực trạng là chính sách sử dụng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật còn nhiều bất cập và chưa hợp lý. Biểu hiện: Sử dụng không hết lao động qua đào tạo, sử dụng không hợp lý còn tuỳ tiện, chắp vá chưa gắn với thi tuyển yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ, sử dụng lao động không đúng nghề.
Trong cơ chế đãi ngộ với lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật còn có những hạn chế gây nên tình trạng cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật bất hợp lý mà nguyên nhân cơ bản là do hệ thống tiền lương hiện nay duy trì sự khác biệt quá lớn giữa lao động chân tay và lao động trí óc. Trong công tác, tổ chức, sử dụng cán bộ nhiều nơi và nhiều lúc còn dựa trên sự vị nể và cảm tính hơn là cân nhắc phân bố dựa trên trình độ chuyên môn, trình độ học vấn.
3. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng nguồn lao động
3.1. chất lượng lao động và._. tăng trưởng kinh tế
Chất lượng lao động: yếu tố cần thiết phần mềm công nghệ
+ Như chúng ta đã biết vai trò của khoa học công nghệ ngày nay là cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia.
+ Ngày nay công nghệ được hiểu là sự kết hợp giữa phần cứng và phần mềm. Phần cứng là các trang thiết bị máy móc; phần mềm bao gồm con người đó là kỹ năng tay nghề, kinh nghiệm của người lao động. Trang thiết bị, máy móc được coi là xương sống cốt lõi của quá trình hoạt động sản xuất, nhưng lại do con người lắp đặt và vận hành.
+ Xét đến cùng thì tất cả các máy móc, phát minh sáng chế khoa học công nghệ đều do con ngươì với tay nghề, trình độ chuyên môn tạo ra, hơn nữa con người có trình độ sẽ tiếp tục làm cho công nghệ ngày càng phát triển.
+ Thực tiễn sản xuất ở nước ta trong giai đoạn vừa qua cũng nhận thấy rằng những thiết bị hiện đại nhập về nhưng không làm chủ được bí quyết công nghệ và công nhân không đủ trình độ vận hành thiết bị nên sản phẩm làm ra không đảm bảo yêu cầu chất lượng mong muốn. Công suất máy móc thiết bị được sử dụng ở mức thấp chưa đến 50%. Cùng một thiết bị nhập về nhưng ở 2 cơ sở sản xuất khác nhau lại cho ra các sản phẩm chất lượng khác nhau. Để sản phẩm đạt được chất lượng như nhau lại có thể dùng các thiết bị và công nghệ khác nhau.
Chất lượng lao động gọi là “ vốn nhân lực” là yếu tố ảnh hưởng quyết định đến tăng trưởng kinh tế theo quan điểm của các trường phái hiện đại.
Tăng năng suất lao động
Khi chúng ta nâng cao chất lượng lao động sẽ làm cho số sản phẩm được làm ra trong một đơn vị thời gian tăng thêm hay giảm chi phí về lao động dể tạo ra một đơn vị sản phẩm (hay làm tăng năng suất lao động). Khi năng suất lao động tăng lên làm giảm chi phí sản xuất làm tăng giá trị gia tăng trong nền kinh tế.
Ta có thể biểu diễn sự tăng năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế qua công thức sau:
TSF = T . W
Trong đó: TSF: là tổng sản phẩm xã hội được tạo ra trong kỳ.
T: Thời gian lao động (hay số lượng lao động)
W: Năng suất lao động
Trong công thức trên ta thấy số lượng lao động (T) có hạn, để tổng sản phẩm xã hội tăng ta tăng số lượng lao động tham gia vào hoạt động kinh tế. Tuy nhiên việc làm này có giới hạn, vì đến một lúc nào đó chúng ta sẽ sử dụng hết số lượng lao động. Do đó tổng sản phẩm xã hội sẽ không tăng lên. Còn năng suất lao động tăng lên không giới hạn, do đó tổng sản phẩm xã hội cũng tăng lên không có giới hạn, tăng năng suất lao động là con đường không có giới hạn để tăng tổng sản phẩm xã hội. Vậy, ý nghĩa của việc tăng năng suất lao động là rất lớn như V.I. LêNin đã từng nói: “Xét đến cùng thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ xã hội mới”.
3.2. Chất lượng lao động và vấn đề chất lượng sản phẩm
Trong nền kinh tế tập trung bao cấp chúng ta chỉ quan tâm đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra mà không hề quan tâm đến vấn đề chất lượng sản phẩm. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nayvấn đề chất lượng sản phẩm đã được quan tâm đúng mức đặc biệt khi tham gia vào thương mại quốc tế thì chất lượng sản phẩm được đặt lên hàng đầu.
Để có một sản phẩm được thị trường chấp nhận (chất lượng tốt) có thiết bị máy móc tốt chưa đủ mà phải có những người công nhân có tay nghề phù hợp, nắm được bí quyết công nghệ, có bộ máy quản lý năng động, có khả năng nắm bắt nhu cầu thị trường, tổ chức nhanh chóng dây chuyền sản xuất phù hợp với dây chuyền mới.
Có rất nhiều sản phẩm chúng ta không thể dùng máy móc được hay một số công đoạn để sản xuất sản phẩm như hàng thủ công mỹ nghệ, sản phẩm trí tuệ.v.v…. Đòi hỏi người lao động phải có tay nghề cao mới làm ra được
Tay nghề và trình độ người lao động không những đảm bảo được chất lượng sản phẩm mà còn tạo ra được những loại sản phẩm mới, những sản phẩm có giá trị cao.
3.3.Chất lượng lao động với quá trình phát triển CNH-HĐH và kinh tế tri thức
Hội nghị lần thứ VII của BCH TƯ ĐCS Việt Nam (khoá VII) đã ra nghị quyết 7-NQ/TƯ về mục tiêu lâu dài của CNH-HĐH là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, đặt ra yêu cầu: làm chủ công nghệ cao là yêu cầu quá trình CNH-HĐH.
CNH-HĐH là quá trình chuyển đối căn bản, toàn diện, toàn bộ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động phổ thông sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao. CNH-HĐH là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ mới cho các ngành sản xuất, trước hết là các ngành then chốt. Làm chủ công nghệ mới, công nghệ cao, biến công nghệ nhập thành của mình, nắm chắc nó, sử dụng nó từ đó xây dựng năng lực sáng tạo công nghệ mới là yêu cầu rất cơ bản đối với nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH.
Trong quá trình cô ng nghiệp hoá hiện đại hóa phải phát triển những ngành có trình độ công nghệ cao, thúc đẩy năng lực cạnh tranh và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường ở qui mô thế giới. Yếu tố quyết định nắm được công nghệ cao là yếu tố trí tuệ của nguồn lao động. Khi khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì lao động trí óc có vai trò nòng cốt trong việc sử dụng công nghệ cao.
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đang tạo ra những điều kiện để chuyển từ xã hội công nghiệp sang xã hội tri thức.
Ngày nay khái niệm nền kinh tế tri thức đang được nhiều người quan tâm nghiên cứu tìm hiểu về bản chất và mối quan hệ. Các nhà giáo dục và các doanh nhân hết sức coi trọng xu hướng chuyển đổi và những thách thức mới, yêu cầu mới của thị trường lao động đối với nguồn lao động tương ứng với nền kinh tế tri thức trong tương lai. Để định hướng chiến lược cho việc thực hiện các giải pháp hiệu quả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội và phát triển khoa học công nghệ cũng như giáo dục đào tạo những năm đầu thế kỷ.
Kinh tế tri thức là nền kinh tế được dẫn dắt bởi tri thức và sản xuất dịch vụ xã hội, được thực hiện trên cơ sở khai thác tri thức mà trục chính là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, năng lượng và vi điện tử…
ở nền kinh tế tri thức có những đặc trưng:
Sản phẩm là thông tin, tri thức là hàng hoá có hàm lượng trí tuệ cao.
Sản phẩm là sở hữu của nhiều người.
Nhu cầu cá nhân với sản phẩm tri thức là vô hạn.
Sản phẩm tri thức càng có nhiều người sử dụng thì giá trị càng tăng.
Từ những đặc trưng nổi bật trên đòi hỏi nguồn lao động tương ứng, được đào tạo đặc biệt về nội dung và phương pháp mới:
Lao động chân tay chuyển sang lao động trí tuệ. Nghĩa là phát triển kinh tế liên quan đến sở hữu trí tuệ, sáng tạo và sử dụng thông tin. Do đó, đòi hỏi phải đầu tư mạnh vào vốn con người và nhân lực được tri thức hoá.
Sản xuất vật chất chuyển sang phi vật chất. Những khu công nghệ cao là nơi tập trung trí tuệ và sức sáng tạo của lực lượng sản xuất tiên tiến.
Những nét khái quát về nền kinh tế tri thức và đặc trưng của nó đã đủ nhận thấy sẽ xuất hiện một thị trường lao động hết sức đặc biệt với những thách thức mới đối với nguồn lao động. Đó là cơ cấu ngành nghề mới do công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, năng lượng và vi điện tử đòi hỏi. Rõ ràng đội ngũ lập trình viên,các chuyên gia công nghệ phần mềm phải giỏi là yêu cầu mới của nguồn lao động trong nền kinh tế tri thức.
Nguồn lao động tương lai phải được coi trọng giáo dục về tư duy sáng tạo về năng lực tự chủ, tự học hỏi và cần được đào tạo những kỹ năng thành thạo, linh hoạt về công nghệ mới, quản lý mạng, đặc biệt là năng lực kinh doanh.
Cũng cần nhấn mạnh một vài kỹ năng quan trọng của nguồn lao động mới trong nền kinh tế thị trường như: ngoại ngữ, sử dụng máy vi tính, khả năng giao tiếp, từ đó phát huy hiệu quả cao của người lao động
3.4. Chất lượng lao động và vấn đề tham gia hội nhập
Ngày nay dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã tạo ra những cơ hội hết sức thuận lợi cho các nước kém phát triển có thể rút dần khoảng cách với các nước phát triển, bằng cách chuyển giao công nghệ, tranh thủ công nghệ của các nước đi trước. Tuy nhiên, để có thể tiếp nhận được những công nghệ hiện đại đòi hỏi cần có các chuyên gia cao cấp để đánh giá, thay thế và cải tiến cho phù hợp với điều kiện của đất nước. Sau đó đòi hỏi một lực lượng người lao động có trình độ để vận hành hoạt động. Nếu không có ta phải thuê chuyên gia nước ngoài, chi phí lớn, lãng phí nguồn lực. Trong xu hướng hội nhập ngày nay, thương mại quốc tế phát triển rất mạnh, do các rào cản thuế quan, phi thuế quan đã bị dỡ bỏ rất nhiều.
Tuy nhiên trong vài năm trở lại đây, các nước phát triển đã đưa ra một vài hàng rào phi thuế quan gây khó khăn cho các nước đang phát triển như: Tiêu chuẩn chất lượng, đảm bảo an toàn vệ sinh, kiểm dịch… Để có thể xuất khẩu hàng hoá xang các nước phát triển đòi hỏi chúng ta phải có đội ngũ lao động có chất lượng để làm ra các sản phẩm có đủ chất lượng đáp ứng được yêu cầu của các nước đó. Sự hội nhập quốc tế còn thể hiện ở sự phân công lao động diễn ra trên phạm vi toàn thế giới. Việc nâng cao chất lượng lao động giúp chúng ta dễ dàng tham gia hội nhập quốc tế theo cả chiều sâu và chiều rộng.
Việc tham gia hội nhập quốc tế nhằm phát huy lợi thế của đất nước mình và khắc phục những yếu điểm.
Trong thập niên trước chúng ta luôn luôn cho rằng chúng ta có nguồn lao động dồi dào, giá rẻ, có thể đây là lợi thế để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng qua thực tế thời gian qua các nhà đầu tư đã phàn nàn rất nhiều về trình độ, tác phong làm việc của người lao động bản sứ. Do vậy lợi thế tham gia hội nhập quốc tế sẽ không còn là số lượng lao động nếu chúng ta không quan tâm đến việc nâng cao chất lượng nguồn lao động.
4. Thực trạng chất lượng lao động và nhu cầu cho phát triển kinh tế xã hội, khoa học công nghệ của nước ta
Quan điểm phát triển của Đảng và Nhà nước trong thời gian tới là đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại.
Trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá phải phát triển những ngành có trình độ công nghệ cao, phải thúc đẩy năng lực cạnh tranh và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu và triển khai sản xuất và nghiên cứu thị trường ở quy mô thế giới. Yếu tố quyết định nắm được công nghệ cao là yếu tố trí tuệ của nguồn nhân lực. Khi khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì lao động trí óc có vai trò nòng cốt trong sử dụng công nghệ cao.
Thực trạng về trình độ lao động của nước ta là rất thấp theo điều tra lao động- Việc làm từ năm 1996- 1999 đối với 35,866- 37,874 triệu người lao động thì có tới 5,75% năm 1996, 5,1% năm 1997, 3,84% năm 1998 và 4,1% năm 1999 là chưa biết chữ và trong số người biết chữ vẫn còn có nhiều người chưa tốt nghiệp cấp 1. Trong đó, lực lượng lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật là rất cao: 87,6% năm 1996, 87,7% năm 1997 và 86,13% năm 1999 và đến năm 2000 con số này là 80%.
Mà theo F.M. Harbinson tốc độ tăng nhu cầu lao động có kỹ thuật phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) vì trong một chu kỳ dài: Tốc độ tăng việc cần lao động đã qua đào tạo (nhu cầu lao động có kỹ thuật) thường tăng gấp 2- 3 lần tốc độ tăng của GDP. Do đó tỷ lệ lao động qua đào tạo của cả nước là chưa đủ để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội.
Trong số lao động có chuyên môn kỹ thuật còn mất cân đối giữa cơ cấu đào tạo đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật.
Năm 1996 cấu trúc là 1- 1,7- 2,4 (1 lao động có trình độ đại học, cao đẳng trở lên có 1,7 lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp và 2,4 lao động có trình độ sơ cấp, học nghề và công nhân kỹ thuật).
Năm 2000 cấu trúc là: 1- 1,3- 1,7. Trong khi đó cấu trúc hợp lý của cả nước là 1- 4- 10. Nhìn chung chất lượng nguồn lao động ở nước ta ở mức thấp, quy mô tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp, cơ cấu, trình độ người lao động bất hợp lý. Để thực hiện thành công mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi Đảng, Nhà nước cần quan tâm nhanh chóng nâng cao trình độ người lao động
Chương II: Phân tích thực trạng chất lượng lao động và khả năng đào tạo nghề của Bắc Ninh hiện nay.
I. Giới thiệu khái quát lịch sử kinh tế xã hội của tỉnh bắc ninh có liên quan đến vấn đề chất lượng nguồn lao động
1. Đặc điểm về tự nhiên
Bắc Ninh là một tỉnh đồng bằng với diện tích đất tự nhiên là 803,9km2, đất nông nghiệp là 494,71km2 chiếm 61,54%. Điều này đã ảnh hưởng đến phong tục phương thức sản xuất, của người lao động Bắc Ninh.
Tuy nhiên, tỉnh Bắc Ninh lại có một vị trí rất thuận lợi giáp vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, giáp Hà nội, Hải Dương, có nhiều tuyến đường giao thông quan trọng như quốc lộ 1A, 1B, quốc lộ 18, quốc lộ 38 tạo điều kiện rất thuận lợi để Bắc Ninh tham gia buôn bán, giao lưu kinh tế với các vùng xung quanh.
2. Đặc điểm về kinh tế
Tổng sản phẩm (GDP) tăng bình quân năm là 12,4%. GDP bình quân đầu người năm 2000 đạt 348USD tăng 70,6% so với năm 1996. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá, từng bước nâng cao hiệu quả nền kinh tế.
Điều này đã đảm bảo cho người dân ở địa phương được chăm sóc tốt hơn về y tế, cải thiện đời sống tinh thần vật chất
Bảng1:Cơ cấu kinh tế của tỉnh trong những năm qua.
Cơ cấu/Năm
1997
1998
1999
2000
2001
N. nghiệp
44.7
44.1
40.6
37.7
34.2
CN- XDCB
24.4
25.7
31.4
35.3
37.6
Dịch vụ
30.9
30.2
28
27
28.2
Nguồn: Sở Kế Hoạch và Đầu Tư Bắc Ninh
Đặc biệt hơn trên địa bàn tỉnh còn có các cơ sở công nghiệp trung ương đóng trên địa bàn như: Nhà máy kính xây dựng Đắp Cầu, nhà máy thuốc lá Bắc Sơn và có nhiều làng nghề truyền thống hình thành từ lâu đời và hiện đang phát triển rất mạnh. Những điều kiện này đã tạo ra những tiền đề quan trọng để Bắc Ninh phát triển ngành công nghiệp. Đã tạo nên nhu cầu lớn về lao động có trình độ
3. Điều kiện về xã hội
Với số dân là 956.020 người, mật độ trung bình là 1,89 người/km2 (số liệu năm 2000). Tốc độ tăng dân số trung bình 1,3%, địa hình tương đối bằng phẳng có nhiều hệ thống sông ngòi chảy qua tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành nông nghiệp.
Tổng số nguồn nhân lực năm 2001 là 508.200 người, số lao động qua đào tạo là 108.754 người chiếm 21,4%, lao động chủ yếu tập trung vào sản xuất nông nghiệp 362.765 người chiếm 71,4%, nhưng chỉ tạo ra được 34,2% trong GDP. Tỷ lệ thất nghiệp thành thị có xu hướng giảm nhưng vẫn ở mức cao năm 1999 là 6,77% năm 2000 là 6,57%, năm 2001 là 5,71%. Hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn đã tăng lên nhưng vẫn ở mức trung bình so với cả nước. Năm 1999 là 71,9%, năm 2000 là 71,2%, năm 2001 là 73,8%. Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tăng mạnh thể hiện thông qua giá trị sản xuất của ngành công nghiệp.
Truyền thống, lịch sử là tỉnh nổi tiếng về truyền thống văn hoá, có nhiều di tích lịch sử, có nhiều danh nhân văn hoá nổi tiếng điều này tạo nên truyền thống hiếu học của người dân Bắc Ninh.
Hơn nữa ở Bắc Ninh còn có các làng nghề truyền thống lâu đời với các sản phẩm nổi tiếng trong và ngoài nước như đồ gỗ Đông Kỵ, tranh Đông Hồ… Các thế hệ ngày nay đã được thừa hưởng kỹ thuật, kinh nghiệm từ cha ông để lại.
II- Lực lượng lao động hiện tại của tỉnh.
1. Về nhân khẩu
Tại thời điểm điều tra (1/7/2002) tổng số nhân khẩu thực tế thường trú của toàn tỉnh là 970.736 người: trong đó khu vực thành thị có 105.971 người chiếm 10,92%, tổng số nữ là 559.168 người chiếm 51,49%.
Tính chung toàn tỉnh số nhân khẩu từ đủ 15 tuổi trở lên là 689.882 người, chiếm 71,07%. Số nhân khẩu trong độ tuổi lao động (nam từ đủ 15- 60 tuổi, nữ từ đủ 15- 55 tuổi) là 577.204 người chiếm 59,49% trong tổng dân số thường trú.
ở nông thôn số nhân khẩu trong độ tuổi lao động là 511.459 người chiếm 59,14%, ở khu vực thành thị con số này là 65.745 người chiếm 62,04%.
Lực lượng lao động thường xuyên của tỉnh.
Lực lượng lao động thường xuyên là một bộ phận trong lực lượng lao động mà đang làm việc thường xuyên trong nền kinh tế tại thời điểm điều tra.
2.1.Sự gia tăng quy mô lực lượng lao động
Nhìn chung toàn tỉnh số người trong độ tuổi lao động là 577.204 người chiếm 59,46% tổng dân số của tỉnh năm 2002. Trong đó, lực lượng lao động của tỉnh là 514.468 người chiếm 52,99% trong tổng dân số của tỉnh. Điều này thể hiện ở tỉnh Bắc Ninh cứ một ngưởi lao động phải nuôi một người. Qua đó người lao động có điều kiện, cơ hội để nâng cao trình độ chuyên môn, cải thiện đời sống vật chất tinh thần và chăm lo đầu tư cho thế hệ sau.
Bảng 2 .Lực lượng lao động của tỉnh Bắc Ninh.
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Quy mô LL LĐ
470.874
482.600
493.500
499.000
508.200
514.446
Tốc độ tăng
-
2,49%
2,26%
1,11%
1,84%
1,23%
Tỷ lệ trong dân số
-
-
-
52,19%
53,11%
52,99%
Nguồn: điều tra lao động việc làm Bắc Ninh qua các năm
Qua bảng ta thấy quy mô lực lượng lao động tăng lên qua các năm rất chậm, tốc độ tăng đang có xu hướng giảm dần và tương đương với tốc đọ tăng dân số của tỉnh (1,3%). Điều này phản ánh tốc độ tăng quy mô lực lượng lao động đang ổn định. Nguồn nhân lực của tỉnh sẽ tăng trung bình mỗi năm là 13.000 người và nguồn lao động mỗi năm sẽ tăng thêm trung bình từ 6.000-8000 người.
- Tỷ lệ thất nghiệp của tỉnh Bắc Ninh
Tính đến năm 2002 thì tỷ lệ thất nghiệp thành thị là 5,28% và hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn là 77,37%.
Bảng 3: Tỷ lệ thất nghiệp của tỉnh Bắc Ninh
Năm
1999
2000
2001
2002
Tỷ lệ thất nghiệp thành thị
6,77%
6,57%
5,71%
5,28%
Hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn
71,9%
71,2%
73,8%
77,37%
Nguồn: niên giám thống kê Bắc Ninh 2002
Trong các nhóm tuổi, nhóm lực lượng lao động ở độ tuổi từ 20-24 có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất (17,36%), tiếp đến là nhóm tuổi 15-19 (16,19%), thấp nhất là nhóm tuổi 50-54(0,54%), nhóm tuổi 45-49(1,16%), nhóm tuổi từ 40-44(2,45%), nhóm từ 30-34(3,19%), các nhóm tuổi khác có tỷ lệ thất nghiệp ở mức 4-5%. Điều này cho thấy, tỉnh Bắc Ninh cần tập trung vào để giải quyết việc làm cho các nhóm tuổi từ 15-24 là chủ yếu, có thể thông qua đào tạo làm tăng cơ hội tìm việc làm cho người lao động đồng thời nâng cao chất lượng nguồn lao động của tỉnh(vì đây là lực lượng còn trẻ có khả năng tiếp thu kiện thức và thời gian lao động còn dài).
Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm xuống đáng kể từ 6,77% năm 1999 còn 5,28% năm 2002. Hệ số sử dụng thời gian lao động nông thôn tăng lên từ 71,9% năm 1999 lên 77,37%.
Tỷ lệ thất nghiệp của cả nước 2002 là 6,01%, giảm 0,19% so với năm 2001 và hệ số sử dụng thời gian lao động ở nông thôn trung bình cả nước là 75,29%, tăng 0,99% so với năm 2001.
Tỷ lệ thất nghiệp và hệ số sử dụng thời gian lao động của tỉnh Bắc Ninhđã có những chuyển biến tích cực. Tỷ lệ này tương đương mức trung bình của cả nước. Do đó vấn đề giải quyết việc làm và nâng cao hệ số sử dụng thời gian lao động ở tỉnh Bắc Ninh vẫn là một vấn đề bức xúc.
2.2. Cơ cấu lao động theo ngành
Theo kết quả điều tra lao động việc làm qua các năm của tỉnh Bắc Ninh năm 2002 thì lao động trong ngành nông nghiệp là 280.652 người chiếm tỷ lệ 56,1% trong tổng lực lượng lao động thường xuyên của tỉnh. Lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ là: 98.581người và 121.828 người tương ứng với tỷ lệ lần lượt là 19,67% và 24,32%. Điều này cho thấy lực lượng lao động của tỉnh Bắc Ninh vẫn tập trung chủ yếu ở ngành nông nghiệp.
Bảng 4: Cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế
Năm
1999
2000
2001
2002
Tổng
Tỷ lệ
Tổng
Tỷ lệ
Tổng
Tỷ lệ
Tổng
Tỷ lệ
NN
391.054
79,24%
361.775
72,5%
362.753
71,4%
280.652
56,01%
CN
50.874
10,3%
72.854
14,6%
74.960
14,7%
98.581
19,67%
DV
51.572
10,46%
64.371
12,9%
70.487
13,9%
121.828
24,32%
Nguồn: niên giám thống kê Bắc Ninh.
Qua bảng ta thấy:
+ Quy mô lao động trong ngành nông nghiệp đang giảm xuống từ 391.054 năm 1999 còn 280.652 năm 2002.
+ Trong khi đó lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ đều tăng lên.
Cơ cấu lao động của cả nước năm 2002 là:
Lao động nông nghiệp: 60,95%, giảm 1,8% so với năm 2001
Lao động công nghiệp: 15,08%, tăng 0.7% so với năm 2001
Lao động dịch vụ: 23,96% , tăng 1,16% so với năm 2001.
+ Cơ cấu lao động trong các ngành đang chuyển biến theo hướng tích cực,tăng dần tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp, dịch vụ giảm dần tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp. Cơ cấu này hợp lý hơn mức trung bình của cả nước. Đặc biệt từ năm 2001 đến năm 2002 trong khi mức trung bình của cả nước lao động nông nghiệp giảm 1,8% thì của tỉnh giảm 15,39%.
+Tuy nhiên quy mô và tỷ trọng lao động trong ngành nông nghiệp vẫn còn khá cao (56,01% năm 2002). Chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển.
2.3. Cơ cấu lao động theo nhóm tuổi
Các nhóm tuổi có tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế thường xuyên trong năm cao nhất là nhóm từ 35- 39 tuổi (98,61%), tiếo đó là nhóm 30- 34 tuổi (98,04), thấp nhất là nhóm trên 60 tuổi (22,34%) tiếp đó là nhóm 15- 19 tuổi (36,29%).
Bảng 5: Cơ cấu lực lượng lao động thường xuyên theo độ tuổi lao động
Nhóm tuổi
Ll lĐ tx
Dân số
Tỷ lệ
Tỷ trọng
Tổng số
514468
970736
74,57
100%
15-19
41091
113230
36,29
7,99%
20-24
58932
66141
89,1
11,45%
25-29
74587
76296
97,76
14,5%
30-34
67142
68484
98,04
13,05%
35-39
68954
69927
98,61
13,4%
40-44
72625
74337
97,7
14,12%
45-49
56203
58457
96,14
10,92%
50-54
33275
37152
89,56
6,47%
55-59
19310
26003
74,26
3,75%
>=60
22285
99760
22,34
4,33%
Nguồn điều tra lao động việc làm bắc ninh 2002:
Qua bảng ta thấy:
Tỷ lệ lao động tham gia vào lực lượng lao động thường xuyên ở nhóm tuổi 15-19 là rất thấp có thể do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do nhóm tuổi này đang có tỷ lệ đi học rất lớn. Điều này hứa hẹn trong vài năm tới chất lượng nguồn lao động của tỉnh Bắc Ninh sẽ cao hơn.
Tỷ trọng tham gia lực lượng lao động của các nhóm tuổi từ 25-44 là cao nhất trung bình từ 13,5-14% trong tổng lực lượng lao động thường xuyên của tỉnh. Điều này cho thấy lực lượng lao động của tỉnh không quá trẻ và không quá già. Trong độ tuổi này người lao động sẽ phát huy được đầy đủ năng lực phẩm chất của mình và quyết định đến mặt bằng chất lượng lao động của tỉnh.
2.4. Cơ cấu lao động chia theo nhóm ngành kinh tế của các khu vực thành phần kinh tế
Giữa các khu vực thành phần kinh tế , có sự khác biệt rõ rệt về cơ cấu lao động làm việc chia theo nhóm ngành kinh tế . ở khu vực thành phần kinh tế nhà nước, lao động làm việc trong nhóm ngành dịch vụ chiếm tỷ lệ cao nhất (44,45%); tiếp đến là nhóm ngành công nghiệp và xây dựng (33,82%); nông lâm ngư nghiệp chỉ chiếm có 21,73%. ở khu vực kinh tế tập thể đa số lao động làm việc trong nhóm ngành nông, lâm, ngư nghiệp (76,94%) tiếp đến là nhóm ngành dịch vụ (17,61%); nhóm ngành công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm (5,45%). ở khu vực thành phần kinh tế tư nhân chiếm tỷ lệ cao nhất là lao động làm việc ở nhóm ngành công nghiệp và xây dựng(65,49%); tiếp đến là dịch vụ(20,29%); nhóm ngành nông, lâm, ngư nghiệp chỉ chiếm (13,92%). ở khu vực thành phần kinh tế cá thể lao động làm việc trong nhóm ngành nông, lâm, ngư ngiệp chiếm tỷ lệ cao nhất (44,78%), hai nhóm ngành còn lại tỷ lệ tương đương (27%). ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (100%) lao động làm việc trong nhóm ngành công nghiệp và xây dựng.
Bảng 5: cơ cấu lao động theo nhóm ngành:
Đơn vị tính: %
Nhóm ngành KTQD
Tổng số
Khu vực thành phần kinh tế nhà nước
Nhà nước
Tập thể
Tư nhân
Cá thể
Có vốn ĐTNN
Tổng số
100
100
100
100
100
100
Nông nghiệp
56,01
21,73
76,94
13,92
44,18
-
Công nghiệp
19,67
33,83
5,45
65,77
27,51
100
Dịch vụ
24,32
44,44
17,61
20,31
27,71
-
Nguồn: điều tra lao động việc làm Bắc Ninh 2002
2.5. Cơ cấu lao động chưa theo thành phần kinh tế
Kết quả điều tra cho thấy: trong tổng số lao động làm việc thường xuyên của toàn tỉnh thì khu vực kinh tế cá thể chiếm tỷ lệ lớn nhất (45,6%); tiếp đó là kinh tế tập thể (43,5%); thành phần kinh tế nhà nước đứng vị trí thứ 3 chỉ chiếm 7,5%; thứ tư là kinh tế tư nhân chiếm 3,2 %. Lao động làm việc trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ nhỏ nhất 0,1%.
III. Phân tích thực trạng chất lượng lao động của tỉnh.
Như chúng ta đã phân tích ở Chương I, chất lượng lao động được hình thành nên từ nhiều yếu tố. Tuy nhiên do thời gian thực tập có hạn, khả năng nghiên cứu của bản thân còn yếu và hạn chế trong nội dung chương trình học của mình. Em xin tập trung đi sâu vào phân tích đánh giá chất lượng nguồn lao động trên khía cạnh trình độ của người lao động.
1. Trình độ học vấn của lực lượng lao động.
Tính chung cho toàn tỉnh, tỷ lệ mù chữ của lực lượng lao động là 1,2% (tăng thêm 0,46% so với năm 2001), tỷ lệ tốt nghiệp THCS là 40,01% (giảm 7,46%) tỷ lệ tốt nghiệp THPT là 21,94% (giảm 4,82%).
Bảng 6: Trình độ văn hoá của lực lượng lao động tỉnh
Đơn vị: %
Chung
Thành thị
Nông thôn
Tổng
Nữ
Tổng
Nữ
Tổng
Nữ
Toàn tỉnh
100
100
100
100
100
100
Mù chữ
1,1
1,54
0,5
0,8
1,17
1,63
ChưaTốtnghiệp C1
8,35
10,5
4,25
5,25
8,85
11,1
Tốt nghiệp tiểu học
28,6
31,64
18,8
20,9
29,8
32,8
Tốt nghiệp THCS
40,01
40,09
33,5
33,8
40,8
40,8
Tốt nghiệp THPT
21,94
16,23
43,8
39,3
19,3
13,6
Nguồn: điều tra lao động việc làm Bắc Ninh 2002
Nhìn chung tỷ lệ trên ở mức trung bình của cả nước, nhưng vẫn còn thấp hơn nhiều so với trung bình của vùng đồng bằng Sông Hồng. Tỷ lệ tốt nghiệp PTCS của vùng này là 75,4%.
Do đó có thể thấy trình độ học vấn của lực lượng lao động của tỉnh là thuộc vào loại trung bình. Cần phải tiến hành đào tạo thêm trình độ học vấn cho lực lượng này để đáp ứng được yêu cầu phát triển. Trong đó phần lớn tập trung ở nông thôn. Tỷ lệ tốt nghiệp THPT ở khu vực thành thị bằng 2,3 lần ở khu vực nông thôn. Số người mù chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học chỉ chiếm 4,75% thấp hơn 2 lần tỷ lệ này ở khu vực nông thôn.
Trình độ học vấn của lực lượng lao động nam cao hơn lực lượng lao động nữ đặc biệt là tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông của nam cao hơn gần gấp đôi của nữ. Lý do là trình độ văn hoá của lao động nữ tại nông thôn thấp chỉ có 13,6% là tốt nghiệp trung học phổ thông.
2. Phân tích thực trạng về trình độ chuyên môn kỹ thuật.
2.1. Quy mô, tỷ lệ và cơ cấu lao động qua đào tạo
Tính đến năm 2002 lực lượng lao động thường xuyên của tỉnh có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp học nghề trở lên có 122.757 người chiếm 23,8% trong tổng lực lượng lao động của tỉnh . Lao động đã qua đào tạo từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên là 58.559 người chiếm tỷ lệ 14,6%.
Bảng 7: Quy mô và tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh Bắc Ninh
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Tổng số lao động đã qua đào tạo (người)
73.340
80.687
89.197
99.800
108.754
122.757
Tỷ lệ
16%
14,56%
18,1%
20%
21,4%
23,8%
Nguồn: báo cáo tổng kết công tác dạy nghề 1997 – 2001 tỉnh Bắc Ninh
Qua bảng ta thấy: so với năm 2001 số lao động qua đào tạo tăng thêm là 14.003 người, trong khi số lao động tăng trong năm là 6.234 người điều này cho thấy tốc độ tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo cao hơn tốc độ tăng lực lượng lao động.
Quy mô và tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh Bắc Ninh đều tăng qua các năm và tốc độ tăng ngày càng cao.
Ta thấy tỷ lệ tăng dần qua các năm, tăng trung bình của cả thời kỳ là 19,16%. Tỷ lệ này của cả nước là 12,29% (1997); 13,31% (1998); 13,87% (1999) và năm 2000 là 18- 20%.
Mức tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh luôn luôn cao hơn mức trung bình của cả nước nhưng như thế chưa đủ để đáp ứng nhu cầu phát triển của tỉnh. Theo F.M. Harbison thì tỷ lệ này phải là từ 30- 35%. Do đó tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh Bắc Ninh vẫn còn rất thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
Trong số lao động qua đào tạo của các năm một điều cần quan tâm là cơ cấu đào tạo.
Bảng 8: cơ cấu lao động qua đào tạo theo trình độ
Đơn vị tính: %
Năm
1998
2001
2002
ĐH,CĐ,trên ĐH
10.2
14.3
13.67
THCN
16,8
14,2
17,64
Sơ cấp, học nghề, cnkt
73
70,3
68,69
Cơ cấu đào tạo
1-1,65-7,15
1-1,03-4,69
1-1,29-5,02
Nguồn: điều tra lao động việc làm Bắc Ninh trong các năm qua
Qua bảng ta thấy: tổng số lao động được đào tạo ở bậc học cao đẳng, đại học và trên đại học đều tăng qua các năm, ở bậc trung học chuyên nghiệp thì tăng chậm hơn, còn ở bậc sơ cấp, học nghề, công nhân kỹ thuật thì đang có xu hướng giảm.
Năm 2002 tỷ lệ lao động qua đào tạo ở bậc cao đẳng, đại học và trên đại học là 13,67%, ở bậc trung học chuyên nghiệp là 17,64%, công nhân kỹ thuật là 68,69%. Điều này cho thấy năm 2002 tỷ lệ lao động qua đào tạo ở bậc công nhân kỹ thuật tương đối cao. Nếu xét về cơ cấu đào tạo ta thấy
Cơ cấu lao động qua đào tạo năm 2002: trong tỷ lệ lao động qua đào tạo thì cứ một lao động có trình độ cao đẳng đại học, trên đại học thì có 1,29 lao động trung học chuyên nghiệp tương ứng có 5,02 lao động là công nhân kỹ thuật.
Cơ cấu lao động qua đào tạo cảu cả nước là:
Năm 1998: 1 – 1.27 – 1,71
Năm 2002: 1 – 1,27 – 1,37
Cơ cấu lao động qua đào tạo của tỉnh Bắc Ninh có tỷ lệ lao động qua đào tạo ở bậc công nhân kỹ thuật cao hơn cả nước. Tuy nhiên như thế vẫn là chưa đủ để đảm bảo phát triển kinh tế xã hội một cách ổn định. Cơ cấu lao động qua đào tạo ở các bậc học là không cân đối.
Trong khi cơ cấu đào tạo của các nước ở bên ngoài thường có:1-(4-6)-20. Điều này cho thấy tỉnh Bắc Ninh còn thiếu quá nhiều lao động THCN và công nhân kỹ thuật lành nghề.
2.2. Phân tích thực trạng chất lượng lao động theo ngành kinh tế
Theo kết quả điều tra năm 2002 cả tỉnh có 280.652 người làm việc trong nhóm ngành nông, lâm ngư nghiệp, trong đó số đã được đào tạo là 37.271 người chiếm 30,86% trong tổng lực lượng lao động đã qua đào tạo của tỉnh; số lao động qua đào tạo đang làm việc trong các ngành công nghiệp và dịch vụ là 48.432 người và 35.080 người; chiếm lần lượt là 40,1% và 29,4% trong tổng lực lượng lao động qua đào tạo của tỉnh.
Bảng 9: cơ cấu lao động qua đào tạo phân theo ngành kinh tế:
Năm
2001
2002
Quy mô
Tỷ trọng
Quy mô
Tỷ trọng
NN
25.877
33,57
37.271
30,86
CN
33.762
43,78
48.432
40,1
DV
17.465
22,65
35.080
29,04
Nguồn: báo cáo công tác dạy nghề Bắc Ninh 2001 – 2002
Qua bảng ta thấy: quy mô lao động qua đào tạo qua theo các ngành đều tăng. Tỷ lệ tăng trong ngành dịch vụ tăng cao nhất (từ 22,65% năm 2001 lên 29,04% năm ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37070.doc