Định hướng và giải pháp thực hiện chuyển đổi sở hữu Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2006-2010

LỜI NÓI ĐẦU * Lý do chọn đề tài Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với sự phát triển của sáu thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế này cùng hợp tác và cạnh tranh lành mạnh trong khuôn khổ pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, thành phần kinh tế Nhà nước luôn đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Một trong những bộ phận quan trọng cấu thành nên kinh tế Nhà nước chính là doanh nghiệp nhà nước. C

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1238 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Định hướng và giải pháp thực hiện chuyển đổi sở hữu Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2006-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác doanh nghiệp Việt Nam nói chung cũng như các doanh nghiệp nhà nước nói riêng muốn đứng vững trên thị trường thì phải không ngừng hoàn thiện về cơ cấu quản lý và tổ chức sản xuất sao cho tận dụng tối đa mọi nguồn lực của doanh nghiệp. Do đó, để kinh tế Nhà nước có thể phát huy tốt vai trò chủ đạo của mình thì doanh nghiệp nhà nước cũng phải thể hiện được vai trò then chốt trong phát triển kinh tế. Muốn làm được điều đó thì phải thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước. Việc thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam được tiến hành bắt đầu từ năm 1992. Hơn 12 năm thực hiện chuyển đổi sở hữu bên cạnh những thành tựu đáng khích lệ thì vẫn còn đó những vướng mắc, khó khăn, tồn tại cần khắc phục để doanh nghiệp sau chuyển đổi hoạt động có hiệu quả hơn. Do đó, trong kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2006 – 2010 cần đưa ra những giải pháp mạnh hơn nhằm hoàn thành mục tiêu phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau chuyển đổi. Với những lý do trên và được sự hướng dẫn của thầy giáo PGS.TS Ngô Thắng Lợi, em đã quyết định chọn đề tài: “Định hướng và giải pháp thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010” làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. * Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài: các doanh nghiệp nhà nước hiện có ở Việt Nam, phân tích thực trạng hoạt động, tình hình thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005. Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu và đánh giá quá trình chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, những mặt còn hạn chế và tồn tại cần phải khắc phục. Bên cạnh đó, đề tài cũng nêu một số kinh nghiệm chuyển đổi sở hữu ở Trung Quốc từ đó rút ra những giải pháp phù hợp để vận dụng với thực tế chuyển đổi ở Việt Nam. * Mục tiêu đề tài Cung cấp những lý luận chứng minh chủ trương chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước của Đảng và Nhà nước là đúng đắn. Đánh giá thực trạng chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước trên phạm vi cả nước và tại một số ngành, địa phương điển hình. Đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2006 – 2010. * Phương pháp nghiên cứu Kết hợp phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin với phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp để thực hiện nghiên cứu đối tượng. * Kết cấu của bài viết gồm 3 chương: Chương I: Sự cần thiết phải thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam Chương II: Đánh giá thực trạng chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005 Chương III: Định hướng và giải pháp thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 NỘI DUNG CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI THỰC HIỆN CHUYỂN ĐỔI SỞ HỮU DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM I. Doanh nghiệp nhà nước và sự cần thiết phải thực hiện chuyển đổi sở hữu 1. Khái luận chung về doanh nghiệp nhà nước Khái niệm DNNN được hiểu theo nhiều cách khác nhau tuỳ theo cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu đối tượng này. Đối với Việt Nam, khái niệm về DNNN thay đổi qua nhiều thời kỳ, tương ứng với sự thay đổi quan niệm về sở hữu Nhà nước và sự thay đổi về cơ chế quản lý kinh tế. Trong thời kỳ Kế hoạch hoá tập trung (1960 – 1986), tổ chức kinh tế Nhà nước tồn tại dưới dạng các xí nghiệp (trong lĩnh vực công nghiệp), nông trường quốc doanh (trong lĩnh vực nông nghiệp) và các công ty (trong lĩnh vực thương mại). Khái niệm DNNN lúc này chưa xuất hiện mà chỉ có khái niệm về xí nghiệp công nghiệp quốc doanh và xí nghiệp thương mại quốc doanh. Đặc trưng của những xí nghiệp này là: các xí nghiệp có tư cách pháp nhân tức là những chủ thể pháp luật, chủ thể kinh tế độc lập; toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước; các xí nghiệp phải thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch do Nhà nước đề ra do thị trường giai đoạn này chưa hình thành đúng nghĩa nên các nhu cầu xuất phát từ sự hoạch định chủ quan của các cơ quan lập kế hoạch. Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cách tiếp cận thành phần KTNN, cách nhìn nhận các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh cũng có nhiều thay đổi. Mặt khác, để DNNN có thể hoạt động hiệu quả hơn, cần phải có một cơ sở pháp lý vững chắc cho loại hình doanh nghiệp được coi là có vai trò chủ đạo này. Chính vì vậy, năm 1995 Nhà nước ta đã ban hành Luật doanh nghiệp nhà nước thể chế hoá nhiều quan điểm mới về loại hình doanh nghiệp này. Luật doanh nghiệp nhà nước năm 1995 định nghĩa doanh nghiệp như sau: “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. DNNN có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam”. Khái niệm về DNNN được Quốc hội thông qua ngày 20-4-1995 đã phản ánh hai tính chất đặc trưng của DNNN là tính chất kinh doanh và công hữu. Với đặc trưng kinh doanh, DNNN được xem như là một công cụ hay phương tiện để Nhà nước thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội rộng lớn của mình, bởi DNNN tự chủ tài chính, dùng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh làm cơ sở tăng trưởng và phát huy vai trò chủ đạo. Bên cạnh đó, DNNN lại được xem là một chính sách hay công cụ can thiệp của Chính phủ. Bởi với tính chất công hữu, lợi ích thu được từ các hoạt động của DNNN không sử dụng để phục vụ lợi ích riêng cá nhân mà phục vụ cho lợi ích chung của xã hội. DNNN dưới tác động của cạnh tranh và dưới tác động của những nhu cầu phúc lợi xã hội, an ninh quốc phòng được phân thành DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích. DNNN hoạt động kinh doanh có chức năng chủ yếu là hoạt động kinh doanh trên số vốn và tài sản Nhà nước vì mục tiêu lợi nhuận. Còn DNNN hoạt động công ích có chức năng chủ yếu là đáp ứng những nhu cầu xã hội với những sản phẩm và dịch vụ không thể thiếu được, yếu tố lợi nhuận không đóng vai trò quan trọng. Sự phân loại này có tác dụng trong việc thực hiện sự bình đẳng giữa các DNNN hoạt động kinh doanh và có cách tiếp cận khác với DNNN hoạt động công ích. Đến Luật DNNN năm 2003, khái niệm DNNN được hiểu sâu hơn. Điều 1 Luật DNNN năm 20003 định nghĩa: “DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước. công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”. Như vậy, về khía cạnh sở hữu, quan điểm của Đảng và Chính phủ Việt Nam có những mặt nới lỏng và năng động hơn. Bên cạnh những doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước, còn tồn tại những doanh nghiệp mà Nhà nước chỉ có cổ phần chi phối ở một số ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng. Khái niệm DNNN trong Luật DNNN năm 2003 chứa đựng một số điểm mới cơ bản sau: P Việc xác định DNNN không hoàn toàn dựa vào tiêu chí sở hữu như trước đây. Trước đây, chỉ những doanh nghiệp được Nhà nước thành lập và đầu tư vốn, hoàn toàn do Nhà nước quản lý thì mới được coi là DNNN. Trong số đó, tiêu chí sở hữu là tiêu chí cơ bản nhất để quyết định doanh nghiệp là DNNN. P Thừa nhận sự tồn tại bình đẳng của các hình thức sở hữu trong một DNNN. Điều này có nghĩa là có những DNNN trong đó các hình thức sở hữu khác nhau hoàn toàn bình đẳng trên nguyên tắc nền dân chủ cổ phần. P Pháp luật hiện hành thừa nhận khả năng chuyển đổi DNNN thành doanh nghiệp thông thường thông qua cơ chế chuyển nhượng, mua bán cổ phần. P Tiêu chí xác định DNNN theo Luật DNNN năm 2003 không dựa vào tiêu chuẩn sở hữu và quản lý như điều kiện cần và đủ. Hiện nay, tiêu chí xác định DNNN là quyền kiểm soát và quyền chi phối. Nếu không sở hữu một lượng cổ phần cần thiết thì không thể nắm quyền kiểm soát doanh nghiệp. Tiêu chí sở hữu để xác định DNNN hoàn toàn mang tính định tính. Còn tiêu chí quyền chi phối được áp dụng trong Luật DNNN năm 2003 là tiêu chí mang tính chất định lượng. Tính định lượng thể hiện ở tỷ lệ phần vốn góp của Nhà nước trong toàn bộ vốn của doanh nghiệp. Như vậy, quyền kiểm soát được coi là tiêu chí cơ bản để xác định một doanh nghiệp có phải là DNNN hay không. Đây chính là điểm mới trong cách tiếp cận DNNN. Do cách tiếp cận DNNN như vậy nên hình thức pháp lý của DNNN trở nên đa dạng hơn bao gồm: công ty nhà nước độc lập hoặc tổng công ty nhà nước, công ty cổ phần nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước hai thành viên trở lên, doanh nghiệp có cổ phần hoặc vốn góp chi phối của Nhà nước, công ty Nhà nước giữ quyền chi phối và loại hình doanh nghiệp mà Nhà nước chỉ là cổ đông bình thường. 2. Sự cần thiết phải thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đã được xác định rõ từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Đó là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong đó thành phần KTNN giữ vai trò chủ đạo. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, quan điểm ấy vẫn không hề thay đổi mà phát triển cao hơn thích nghi với điều kiện kinh tế - xã hội mới. Nhưng thực tế cho thấy, trong những năm qua thành phần KTNN đặc biệt là bộ phận DNNN hoạt động không có hiệu quả. Để có thể phát huy vai trò chủ đạo của DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì phải tiến hành chuyển đổi sở hữu DNNN. Chuyển đổi sở hữu để thích nghi với nền kinh tế nhiều thành phần, chuyển đổi để nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế và chuyển đổi để thích nghi với những yêu cầu của tình hình mới... 2.1. Chính sách đa thành phần sở hữu ở Việt Nam Ở Việt Nam, thực hiện nhất quán chính sách của Đảng về xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, các doanh nghiệp phát triển đa dạng, phong phú gồm nhiều loại hình sở hữu, nhiều quy mô, hoạt động trong môi trường hợp tác và cạnh tranh bình đẳng. Định hướng XHCN trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần được Đảng ta chỉ rõ: “Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh”. Đối với KTNN, Đảng cũng chỉ rõ: “Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTNN. KTNN đóng vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng”. Đến Nghị quyết Đại hội lần thứ IX, Đảng tiếp tục nhấn mạnh hơn nữa: “Tiếp tục đổi mới và phát triển KTNN để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. KTNN là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế”. Về mặt kinh tế, việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu: toàn dân, tập thể, tư nhân với nhiều hình thức đan xen, qua lại, từ đó hình thành nên 6 thành phần kinh tế là một thực tế hiện nay. Đó là: P Thành phần kinh tế Nhà nước, bao gồm các nguồn lực do Nhà nước làm chủ sở hữu, đưa vào và biến thành tài sản được dùng trong quá trình sản xuất – kinh doanh của các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân. Thành phần KTNN về thực chất là phản ánh quy mô, cấu trúc, sức mạnh của hệ thống các DNNN. P Kinh tế tập thể là hình thức liên kết tự nguyện giữa những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh của tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề trong sản xuất – kinh doanh. Kinh tế tập thể phát triển dưới nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên về sở hữu tập thể. P Kinh tế cá thể, tiểu chủ là loại hình kinh tế với các chủ thể là các hộ sản xuất kinh doanh nhỏ, loại hình kinh tế này dựa trên sở hữu tư nhân. Các hộ sản xuất kinh doanh ở cả phạm vi nông thôn và thành thị, với quy mô nhỏ, chủ yếu dựa vào vốn và lao động của gia đình. P Kinh tế tư bản tư nhân là loại hình kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Tuy đều là sở hữu tư nhân nhưng kinh tế tư bản tư nhân phân biệt với kinh tế cá thể, tiểu chủ ở quy mô hoạt động. Kinh tế tư bản tư nhân có quy mô sản xuất kinh doanh và quy mô sử dụng lao động lớn hơn. Kinh tế tư bản tư nhân đại diện cho trình độ phát triển cao về kinh tế với trình độ công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến. P Kinh tế tư bản Nhà nước là loại hình kinh tế dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp. Đó là hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân trong và ngoài nước. P Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là loại hình kinh tế dựa trên vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây là loại hình kinh tế hỗ trợ và bổ sung quan trọng cho các loại hình kinh tế trong nước về vốn, công nghệ và thị trường. So với các loại hình kinh tế trong nước, loại hình này thường có trình độ công nghệ và trình độ quản lý cao hơn. Do đó, đối với những nước như nước ta, việc khuyến khích và tạo môi trường thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài là vấn đề có ý nghĩa quan trọng. Cùng với việc xác định rõ 6 thành phần kinh tế tồn tại ở nước ta, tại Đại hội lần thứ IX, quan điểm của Đảng ta về vị trí của các thành phần kinh tế được hoàn thiện ở mức độ cao hơn. Đảng và Nhà nước ta đã xác định, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN các thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển trong một thể thống nhất, mọi thành viên đều bình đẳng và có quyền lợi cũng như nghĩa vụ trước pháp luật là như nhau. Các thành phần kinh tế tồn tại với vị trí quan trọng của nó và cần phải được chú trọng phát triển. Hiện nay, ở nước ta thành phần KTNN và kinh tế tập thể vẫn là nền tảng cho sự phát triển kinh tế và KTNN phải đóng vai trò chủ đạo. 2.2. Vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam DNNN là một công cụ quan trọng, một lực lượng vật chất hùng mạnh giúp Nhà nước thực hiện ý đồ can thiệp của mình để đưa nền kinh tế vận hành theo đúng định hướng và đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội mà kinh tế thị trường thuần tuý không thể thực hiện nổi. Vai trò chủ đạo nêu trên của DNNN được thể hiện qua những khía cạnh chủ yếu sau: 2.2.1. DNNN là một tổ chức kinh tế có lợi thế so sánh so với các doanh nghiệp cùng loại thuộc các khu vực khác của nền kinh tế quốc dân Lợi thế so sánh của DNNN thể hiện chủ yếu ở phương diện hiệu quả xã hội. DNTN thuộc quyền sở hữu tư nhân nên mục tiêu chính của nó là phải đem lại lợi nhuận tài chính cao cho chủ sở hữu doanh nghiệp, bất chấp một thực tế rằng để đạt hiệu quả đó, xã hội có thể phải hy sinh hiệu quả phân bổ nguồn lực ở một nơi nào đó trong nền kinh tế. Do đó, hiệu quả tổng thể kinh tế - xã hội của doanh nghiệp tư nhân có thể không cao. Việc hàng loạt DNTN hoạt động không chú ý đến những hậu quả về mặt môi trường do mình gây ra là một thí dụ điển hình. Trái lại, DNNN thuộc quyền sở hữu công cộng, nên mục tiêu chính của nó là phải tối đa hoá lợi ích của chủ sở hữu, tức là nhân dân, thông qua đại diện của mình là Nhà nước. Chính vì thế, đối với loại hình doanh nghiệp này, hiệu quả kinh tế xã hội phải được đặt lên hàng đầu. 2.2.2. DNNN là một nhân tố quan trọng góp phần vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế Điều này thể hiện rõ nét ở việc DNNN thường được trao nhiệm vụ đầu tư vào những công trình kết cấu hạ tầng có quy mô tương đối lớn so với năng lực của khu vực tư nhân và các loại hàng hoá công cộng khác mà tỷ suất lợi nhuận không hấp dẫn DNTN. Đặc điểm chung của các công trình kết cấu hạ tầng là quy mô vốn đòi hỏi tương đối lớn, thời gian thu hồi vốn lại lâu, kèm theo nhiều rủi ro trong quá trình đầu tư mà bản thân DNTN không thể kiểm soát nổi. Chính những đặc điểm này đã làm cho việc đầu tư vào nhiều loại kết cấu hạ tầng không hấp dẫn DNTN. Bên cạnh đó, nhiều loại hàng hoá công cộng còn có thuộc tính chung là rất khó loại trừ việc tiêu dùng của những cá nhân “không sẵn sàng trả tiền” cho nó. Vì thê, nếu DNTN đầu tư và thu hồi vốn thông qua việc thu phí sử dụng thì sẽ rất khó khăn. Trái lại, một DNNN đầu tư với sự hỗ trợ vốn của Chính phủ lại có thể giải quyết tốt vấn đề này. Nếu coi hàng hoá công cộng do DNNN cung cấp là tiền đề cho sự phát triển kinh tế thì tính chất tiền đề đó càng thể hiện rõ và phát huy tác dụng trực tiếp nếu DNNN thiết lập mối quan hệ trực tiếp với các doanh nghiệp thuộc các khu vực cần hỗ trợ. Bằng cách đó, DNNN sẽ góp phần tạo các mối quan hệ xuôi chiều, ngược chiều, quan hệ mạng lưới... với DNTN, trở thành đối tác và là lực lượng hậu thuẫn cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Thông qua mối quan hợp tác này mà nền kinh tế sẽ đạt tốc độ tăng trưởng vững mạnh hơn nhiều. 2.2.3. DNNN là một công cụ để góp phần khắc phục các khuyết tật của thị trường Điều này không chỉ thể hiện ở vai trò tiên phong của DNNN trong việc cung cấp hàng hoá công cộng, mà còn thể hiện ở chỗ DNNN góp phần điều tiết “độc quyền”, tạo ra các “ngoại ứng tích cực” và nâng cao hiệu quả cung cấp thông tin thị trường. Do tính chất tự nhiên của nhiều loại thị trường mà độc quyền vẫn tồn tại như một tất yếu khách quan. Bên cạnh những tác động tiêu cực của độc quyền như bán với giá cao, thu lợi nhuận siêu ngạch, lũng đoạn thị trường... cũng cần kể đến những tác dụng tích cực khác của nó như tăng cường tập trung hoá, tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng khoa học công nghệ mới, tranh thủ lợi thế kinh tế theo quy mô... Vì thế, vai trò của Nhà nước không phải là xoá bỏ độc quyền, mà là điều tiết để tranh thủ lợi ích và hạn chế tác dụng của độc quyền. Sự có mặt của DNNN trong những lĩnh vực kinh tế cơ bản như nghiên cứu, triển khai, bảo vệ môi trường... vừa là tiền đề cho phát triển kinh tế bền vững, vừa tạo ra những ngoại ứng tích cực mà các thành phần kinh tế khác cũng có thể tranh thủ được lợi ích của nó. Cuối cùng, DNNN có thể cải thiện thông tin thị trường bằng cách cung cấp các thông tin cạnh tranh để điều tiết giá cả thị trường hoặc trực tiếp tham gia vào lĩnh vực thông tin tuyên truyền. Là một thành phần kinh tế chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, có khả năng chi phối một thị phần lớn, những thông tin về giá cả do DNNN đưa ra sẽ là dấu hiệu quan trọng cho các doanh nghiệp khác theo dõi những biến động của môi trường kinh doanh. 2.2.4. DNNN góp phần cải thiện tình hình phân phối phúc lợi xã hội Với hai đặc trưng cơ bản là “kinh doanh” và “công hữu”, thặng dư do các hoạt động của DNNN tạo ra không bị phân tán cho các hoạt động tiêu dùng và tái đầu tư tư nhân, mà được sử dụng tập trung cho khu vực công cộng thông qua Chính phủ. Việc tự hạch toán và đóng góp cho Ngân sách Nhà nước có vai trò tích cực nhằm giúp cắt giảm chi tiêu chính phủ và hạn chế tăng thuế cá nhân. Tác dụng tạo công ăn việc làm và thu nhập của DNNN cũng là một đóng góp có ý nghĩa, đặc biệt là ở những vùng sâu vùng xa, vùng có điều kiện khó khăn mà đầu tư tư nhân chưa vươn tới. Tóm lại, những phân tích trên nói lên “vai trò tiềm năng” mà DNNN có thể đảm nhiệm. Nhưng để biến vai trò đó thành hiện thực thì đòi hỏi bản thân các DNNN phải tự phấn đấu vươn lên, đổi mới công tác quản lý, thích nghi với điều kiện cạnh tranh thị trường, thực sự giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế, đi đầu ứng dụng khoa học công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội. 2.3. Xu thế đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam Quá trình sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN đã làm giảm bớt tính độc tôn của hình thức sở hữu duy nhất tồn tại trong loại hình doanh nghiệp này. Từ đó DNNN được chuyển sang một cấu trúc sở hữu mới: cấu trúc nhiều hình thức sở hữu. Điều này cho thấy DNNN không nhất thiết phải chiếm tỷ trọng lớn mà quan trọng là DNNN phải giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế. Bởi vậy, xu thế đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả của DNNN phải đảm bảo thoả mãn những yêu cầu sau: Một là, DNNN phải nắm giữ vai trò lãnh đạo nền kinh tế, bảo đảm an ninh quốc gia, quốc phòng toàn dân. DNNN là một trong những công cụ vĩ mô quan trọng của Nhà nước góp phần dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. DNNN là chỗ dựa để Đảng thực hiện truyền thống lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối với nền kinh tế. Đồng thời, DNNN phải đóng vai trò là “anh cả” hướng dẫn và tạo điều kiện cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển và vươn lên trong cạnh tranh. DNNN phải là hình mẫu cho sự phát triển các doanh nghiệp khác và là đại diện cho phương thức sản xuất kinh doanh và quản lý mang đặc thù Việt Nam. Hai là, DNNN phải đi đầu trong hoạt động đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn kinh doanh phức tạp và giải quyết các vấn đề xã hội. Về lĩnh vực khoa học công nghệ, DNNN phải đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ cao, sử dụng lao động có trình độ. Về lĩnh vực nông nghiệp, DNNN phải đi đầu trong việc phục vụ nông nghiệp và tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp, cung cấp công nghệ chế biến, máy móc thiết bị cũng như những yếu tố đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, DNNN phải đi đầu trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, đầu tư vào vùng sâu vùng xa, vùng biên giới hải đảo - những nơi mà các loại hình doanh nghiệp khác không có đủ “nhiệt tình” vươn tới. Mặt khác, DNNN phải đi đầu trong quá trình thực hiện liên doanh liên kết với nước ngoài và thực hiện các cam kết quốc tế. Để thực hiện công bằng xã hội, bên cạnh việc tạo hành lang pháp lý cho thị trường vận động, thực thi chính sách, điều tiết thu nhập, chính sách công cộng thì tất yếu phải phát huy vai trò của DNNN trong việc đảm bảo các sản phẩm và dịch vụ công ích. Do đó, DNNN phải đi đầu trong việc hình thành các trung tâm kinh tế mới, góp phần điều chỉnh cơ cấu ngành, lãnh thổ để thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa các nhóm và các vùng dân cư. Ba là, DNNN phải là trọng điểm trong việc thực hiện tăng cường lực lượng vật chất, góp phần tạo ra sản lượng hàng hoá và dịch vụ ngày càng cao, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Mục tiêu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là tăng trưởng nhanh và phát huy có hiệu quả nội lực của từng doanh nghiệp. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện chủ yếu ở việc hình thành xu hướng phát triển những ngành công nghiệp mới có trình độ công nghệ cao, cho ra đời thế hệ sản phẩm mới có khả năng sinh lời lớn, có triển vọng phát triển lâu dài và khai thác có hiệu quả các nguồn lực phát triển của đất nước. Bên cạnh đó, trong xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, các ngành truyền thống vẫn duy trì và hoàn thiện để giải quyết các vấn đề xã hội, bảo đảm thu nhập và việc làm cho đại bộ phận dân cư. Tất cả các nội dung trên phải có sự tác động mạnh mang tính chủ lực, tiên phong của DNNN. Bốn là, các DNNN có khả năng cạnh tranh quốc tế cao trên thị trường trong và ngoài nước về giá cả, chất lượng, dịch vụ trong ngắn và dài hạn. Đây là một trong những lợi thế quan trọng của DNNN so với các loại hình doanh nghiệp khác. Do đó, DNNN phải tạo ra những sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam, có đặc điểm độc đáo, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng trong nước và nước ngoài. Tiếp đến, chất lượng sản phẩm do DNNN sản xuất phải đạt trình độ quốc tế, bảo đảm ổn định lâu dài và được cải tiến liên tục, được chứng nhận đạt tiêu chuẩn quốc tế. Năm là, DNNN phải thực hiện được mục tiêu đạt hiệu quả kinh doanh cao do những công nghệ hiện đại, lực lượng lao động có trình độ tay nghề cao. Những chỉ tiêu hiệu quả cần đạt được của DNNN là tỷ suất lợi nhuận cao, tốc độ quay vòng vốn lớn, dự báo và kiểm soát được những rủi ro trong kinh doanh, gây dựng được chữ “tín” cho bạn hàng trong nước và quốc tế. Đây có thể nói là một thách thức, một yêu cầu khó khăn nhất của DNNN, nhưng nó lại củng cố vững chắc nhất cho vị trí chủ đạo của DNNN trong nền kinh tế thị trường. 2.4. Thực trạng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước và những yêu cầu mới đặt ra 2.4.1. Thực trạng kém hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước a. Hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước thấp Theo đánh giá chung của Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp Trung ương, số DNNN thực sự kinh doanh có hiệu quả chỉ chiếm 40%, số doanh nghiệp chưa có hiệu quả, hoạt động sản xuất khi lỗ khi lãi chiếm 31% và còn lại 29% số DNNN hoạt động không có hiệu quả, lỗ liên tục trong nhiều năm liền. Cũng trong năm 2000, DNNN chỉ đóng góp cho Ngân sách Nhà nước 39,2% tổng thu Ngân sách nhưng trong đó phần thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ có 13,4%. Một đồng vốn Nhà nước của doanh nghiệp chỉ làm ra 0,095 đồng lợi nhuận trước thuế. Trong khi đó đối với DNNN sau chuyển đổi thì tỷ lệ vốn/lợi nhuận trước thuế bằng 0,19 đồng. Điều này đặt ra yêu cầu phải thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Đến năm 2002, tỷ lệ lợi nhuận/vốn của DNNN vẫn ở mức thấp 2,9%, tỷ lệ lãi/doanh thu tiêu thụ năm 2003 chỉ đạt 4,2% so với 13,6% của doanh nghiệp thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm do DNNN sản xuất trên thị trường quốc tế và trong nước còn thấp. Một số mặt hàng như sắt thép, phân bón, xi măng... có mức giá cao hơn giá nhập khẩu từ 20 - 40%, riêng mặt hàng dầu thô cao hơn 70 - 80%. Hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh của DNNN thấp là những nguyên nhân chính dẫn đến tốc độ phát triển của DNNN không cao, thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. b. Quy mô doanh nghiệp còn nhỏ bé Xét về quy mô DNNN, các doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Bảng 1: Quy mô vốn của doanh nghiệp nhà nước STT Số lượng DNNN Quy mô vốn Nhà nước <1 tỷ 1–5 tỷ 5–10 tỷ >10 tỷ 1 Cộng tỉnh, thành phố 3833 1164 1736 469 464 Tỷ lệ (%) 100 30,35 45,37 12,20 12,08 2 Cộng các Tổng công ty 91 1224 134 527 225 338 Tỷ lệ (%) 100 10,97 43,04 18,41 27,58 3 Cộng các Bộ, ngành 553 16 95 71 371 Tỷ lệ (%) 100 2,88 17,15 12,82 55,97 4 Tổng số 5610 1314 2352 765 1773 Tỷ lệ (%) 100 23,43 42,02 13,64 20,89 Nguồn: Kinh tế Nhà nước và quá trình chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước Nxb Chính trị quốc gia, 2001 Qua bảng ta thấy, có tới 75,72% DNNN có quy mô vốn dưới 5 tỷ đồng, còn tỷ trọng DNNN có quy mô vốn trên 5 tỷ vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ. Để thành phần kinh tế Nhà nước phát huy được vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế thì phải giảm dần số lượng các DNNN có quy mô vốn dưới 5 tỷ đồng và tăng dần tỷ trọng DNNN có quy mô vốn trên 5 tỷ đồng. Điều này đặt ra yêu cầu phải nỗ lực hơn nữa trong việc sắp xếp và đổi mới DNNN. c. Công nợ của các DNNN ngày càng tăng, lao động thiếu việc làm và dôi dư còn lớn, trình độ quản lý còn yếu kém Nợ của các DNNN đang là một gánh nặng khó khắc phục, nợ quá hạn và nợ khó đòi ngày càng tăng. Tổng số nợ phải trả của DNNN tính đến tháng 12 năm 2003 theo Bộ Tài chính lên đến 207,8 nghìn tỷ đồng, trong đó 76% là vay nợ ngân hàng, còn lại là do chiếm dụng các khoản phải nộp ngân sách hoặc chiếm dụng vốn của các doanh nghiệp khác. Tình hình tài chính không lành mạnh một phần là do lịch sử để lại, mặt khác là do lúng túng, chưa có giải pháp khả thi xử lý dứt điểm. Điều này làm cho hạch toán kế toán của doanh nghiệp bị méo mó, không minh bạch và DNNN luôn ở trong tình trạng bị động đối với các khoản nợ khó đòi. Lao động thiếu việc làm và dôi dư cũng là khó khăn lớn, ảnh hưởng đến quá trình chuyển đổi sở hữu DNNN. Không ít DNNN tuỳ tiện tăng biên chế gián tiếp, trực tiếp quá mức khiến cho bộ máy làm việc cồng kềnh dẫn đến chi phí tăng và năng suất lao động giảm. Bên cạnh đó, các DNNN lại thiếu lao động trẻ có trình độ chuyên môn cao, người lao động đang làm việc phần lớn chưa qua đào tạo hoặc làm việc trái nghề dẫn đến năng suất lao động thấp. Năm 2000, theo báo cáo của Bộ Lao động – thương binh và Xã hội, số lao động mất việc và không có việc làm thường xuyên ở các DNNN là 20%, và đến năm 2002, 2003 tăng lên tương ứng là 26% và 28%. Thêm vào đó là trình độ quản lý của lãnh đạo DNNN chưa đáp ứng được yêu cầu của cơ chế thị trường, chưa năng động, nhanh nhạy với điều kiện mới. Nhiều cán bộ quản lý chưa được đào tạo hoặc đào tạo lại nên không đáp ứng được nhu cầu chuyên môn của công việc. Một bộ phận không nhỏ cán bộ quản lý sa sút về phẩm chất đạo đức, dựa vào hoạt động sản xuất của doanh nghiệp để làm lợi cho cá nhân. d. Trình độ công nghệ của DNNN còn lạc hậu Theo khảo sát của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường tại nhiều DNNN, thiết bị, máy móc, dây chuyền sản xuất lạc hậu so với thế giới 10 – 20 năm, trình độ cơ khí hoá, tự động hoá dưới 10%, tài sản ở dạng thanh lý chiếm 38% và 52% đã qua bảo dưỡng, sửa chữa. Hậu quả là chưa tạo được nhiều sản phẩm mũi nhọn có hàm lượng chất xám cao trên cơ sở kết hợp phát huy lợi thế so sánh, nội lực của đất nước với sử dụng có hiệu quả hợp tác quốc tế. Tóm lại, với thực trạng hoạt động kém hiệu quả như trên của DNNN trong thời gian qua đặt ra yêu cầu phải thực hiện các giải pháp mạnh mẽ và cương quyết nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN. Một trong những giải pháp quan trọng nhất là thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN. Có như vậy DNNN mới phát huy tác dụng trong việc nâng cao vai trò chủ đạo của khu vực KTNN. 2.4.2. Những yêu cầu mới đặt ra a. Gắn kết lợi ích của người lao động, lợi ích của người quản lý với lợi ích của Nhà nước Trong các DNNN chưa có sự xác định thực sự mối quan hệ giữa chủ sở hữu và người điều hành. Do đó không những không xác định rõ trách nhiệm mà ngay cả trong quyền điều hành hoạt động của DNNN. Bản thân yếu tố sở hữu được quan niệm là Nhà nước nhưng tồn tại một cách chung chung, thiếu cụ thể về người đại diện. Điều hành các DNNN là ban giám đốc, ban quản lý nhưng thiếu những yếu tố ràng buộc trách nhiệm và hạn chế cả về quyền hạn nên thiếu sự kiểm soát chặt chẽ từ phía chủ sở hữu và thiếu tính tích cực chủ động sáng tạo trong điều hành của bộ máy quản lý. Vì vậy, các doanh nghiệp này thường chậm đổi mới về mọi mặt, kém năng động trên thị trường, né tránh thách thức và ít mạnh dạn trong hoạt động kinh doanh, bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh và phát triển. Hệ thố._.ng quản lý của các DNNN thiết kế quá cồng kềnh, phức tạp, nhiều cấp trung gian nhưng trách nhiệm cá nhân lại không được ràng buộc chặt chẽ và tương xứng với quyền hạn, đồng thời không gắn với lợi ích cá nhân của các cán bộ quản lý một cách thoả đáng. Nhiều khi đây lại là nguyên nhân làm cho các doanh nghiệp này mất đi lợi thế so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác ở trong nước, làm chúng chịu thua thiệt trong kinh doanh với khách hàng nước ngoài. Sự can thiệp nhiều khi quá sâu của các cơ quan Nhà nước vào hoạt động của DNNN (quy định các định mức kinh tế - tài chính, quyết định mức chi tiêu hoặc hạn mức chi tiêu cho nhiều hoạt động cụ thể, quy định cách thức hoặc mức thù lao, cách thức hạch toán...) làm giảm tính tự chủ và giảm đi một phần trách nhiệm của cá nhân các cán bộ hoặc của cả tập thể ban quản lý DNNN. Mặt khác, các thủ tục quá chặt chẽ về quá nhiều vấn đề có tính sự vụ (mua sắm, thanh lý tài sản...) làm cho tính chủ động của cán bộ quản lý DNNN bị hạn chế. Tâm lý ỷ lại, trông chờ, thái độ thiếu tích cực... cũng từ đó mà phát sinh, gây ra những cản trở không nhỏ cho hoạt động kinh doanh của các DNNN. b. Khai thác các nguồn lực xã hội Trong nhiều năm qua, theo báo cáo của DNNN cũng như bất kỳ cuộc điều tra nào về doanh nghiệp này cũng có thể nhận thấy yêu cầu cấp bách của các doanh nghiệp về việc cấp thêm vốn. Cho đến nay, DNNN chỉ có thể bổ sung vốn bằng cách xin cấp thêm vốn hoặc vay ngân hàng. Hình thức vay vốn của cán bộ, công nhân viên đã được thử nghiệm ở một số doanh nghiệp, đã phát huy tác dụng tích cực nhất định nhưng cũng làm xuất hiện thêm nhiều vấn đề khó giải quyết. Trong khi đó vẫn chưa tận dụng được nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân dẫn đến các nguồn lực xã hội chưa được khai thác đầy đủ và có hiệu quả. c. Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế Quan hệ kinh doanh với đối tác nước ngoài không chỉ đòi hỏi các doanh nghiệp phải có tiềm năng thích hợp, có khả năng ra quyết định kịp thời, độc lập mà còn phải có những hình thức pháp lý quen thuộc đối với họ. Việc chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước sẽ cho phép tạo ra những hình thức pháp lý phù hợp với thông lệ quốc tế. Đứng trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, hàng loạt những yêu cầu ngày càng trở nên bức thiết đòi hỏi các DNNN phải tiến hành chuyển đổi sở hữu. Tóm lại, việc chuyển đổi sở hữu ở các doanh nghiệp là những hoạt động bình thường trong hoạt động của chủ sở hữu. Sự chuyển đổi đó là cần thiết nếu nó liên quan, phục vụ trực tiếp cho lợi ích của chủ sở hữu và chủ đầu tư. Đối với các DNNN cũng không phải là ngoại lệ mặc dù trong nhiều trường hợp Nhà nước chú trọng đến lợi ích kinh tế - xã hội nhiều hơn lợi ích kinh tế đơn thuần. Sự chuyển đổi đó là cần thiết vì xét cho cùng là vì lợi ích của Nhà nước với tư cách là chủ đầu tư. Khi các DNNN hoạt động kinh doanh kém hiệu quả thì chẳng những lợi ích kinh tế đã không được bảo đảm mà lợi ích chính trị - xã hội cũng bị ảnh hưởng không tốt. II. Các hình thức chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 1. Căn cứ lựa chọn doanh nghiệp nhà nước tiến hành chuyển đổi sở hữu Chuyển đổi sở hữu là quá trình đa dạng hoá các DNNN, làm cho doanh nghiệp đó không thuộc quyền sở hữu 100% của Nhà nước. Nói cách khác, một công ty hay một doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Việc chuyển đổi sở hữu này sẽ giúp cho doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn, tự chủ tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình. Chuyển đổi sở hữu được tiến hành theo ba hình thức: CPH, bán hoặc giao doanh nghiệp cho tập thể người lao động. Quyết định 155/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 24 tháng 8 năm 2004 về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại công ty nhà nước và công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty Nhà nước được xem là căn cứ để lựa chọn DNNN tiến hành chuyển đổi sở hữu. Các DNNN sẽ dựa vào nội dung của Quyết định này để đánh giá xem doanh nghiệp của mình có tiến hành chuyển đổi sở hữu được hay không. 1.1. Những công ty mà Nhà nước giữ 100% vốn Nhà nước nắm giữ 100% vốn đối với những công ty hoạt động trong các ngành, lĩnh vực sau: P Những công ty hoạt động trong một số lĩnh vực quan trọng: Sản xuất, cung ứng vật liệu nổ; Sản xuất, cung ứng hoá chất độc; Sản xuất, cung ứng chất phóng xạ; Hệ thống truyền tải điện quốc gia; Mạng trục thông tin quốc gia và quốc tế; Sản xuất thuốc lá điếu; Điều hành bay; Bảo đảm hàng hải; Sản xuất, sửa chữa vũ khí, khí tài, trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh, trang thiết bị, tài liệu kỹ thuật và cung ứng dịch vụ bảo mật thông tin bằng kỹ thuật nghiệp vụ mật mã; Các công ty được giao thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đặc biệt và các công ty đóng tại địa bàn chiến lược quan trọng kết hợp kinh tế với quốc phòng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; In tiền, chứng chỉ có giá, sản xuất tiền kim loại; Xổ số kiến thiết; Các nhà xuất bản; Sản xuất phim khoa học, phim thời sự, phim tài liệu, phim cho thiếu nhi; Đo đạc bản đồ; Quản lý, bảo trì hệ thống đường sắt quốc gia, cảng hàng không và cảng biển có quy mô lớn, vị trí quan trọng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Quản lý, khai thác công trình thuỷ nông đầu nguồn, công trình thuỷ nông có quy mô lớn; Trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; Thoát nước ở đô thị lớn; Chiếu sáng đô thị; Một số lĩnh vực quan trọng khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ... P Những công ty bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào dân tộc miền núi, vùng sâu, vùng xa. P Những công ty đáp ứng đủ các điều kiện sau: vốn nhà nước từ 30 tỷ đồng trở lên, mức thu nộp ngân sách nhà nước bình quân ba năm liền kề từ 3 tỷ đồng trở lên, đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao, góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô và hoạt động trong những ngành, lĩnh vực sau: Chế biến dầu mỏ; Khai thác quặng có chất phóng xạ; Đóng và sửa chữa phương tiện vận tải đường không; In sách, báo chính trị; Bán buôn thuốc phòng bệnh, chữa bệnh, hoá dược; Bán buôn lương thực; Bán buôn xăng dầu; Vận tải đường không, đường sắt. 1.2. Những công ty tiến hành chuyển đổi sở hữu dưới hình thức cổ phần hoá, giao cho tập thể người lao động hoặc bán P Những công ty khi CPH, Nhà nước nắm giữ trên 50% tổng số cổ phần là những công ty có vốn nhà nước từ 20 tỷ đồng trở lên, mức thu nộp ngân sách nhà nước bình quân ba năm liền kề từ 2 tỷ đồng trở lên, hoạt động trong những ngành, lĩnh vực đã nêu ở trên và các ngành, lĩnh vực sau: Sản xuất điện; Khai thác các khoáng sản quan trọng: than, bô xít, quặng đồng, quặng sắt, quặng thiếc, vàng, đá quý; Sản xuất các sản phẩm cơ khí: thiết bị kỹ thuật điện và vật liệu điện, máy công nghiệp chuyên dùng, máy móc, thiết bị phục vụ nông, lâm, ngư nghiệp, đóng và sửa chữa phương tiện vận tải đường biển, đường sắt; Cung cấp hạ tầng mạng viễn thông; Sản xuất kim loại đen (gang, thép) trên 100.000 tấn/năm; Sản xuất xi măng công nghệ hiện đại, chất lượng cao, có công suất thiết kế trên 1,5 triệu tấn/năm; Sản xuất phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật; Sản xuất một số mặt hàng tiêu dùng, thực phẩm: muối ăn, sữa, bia trên 50 triệu lít/năm, cồn và rượu trên 10 triệu lít/năm; Khai thác, lọc và cung cấp nước sạch ở các thành phố lớn; Vận tải đường biển; Kinh doanh tiền tệ, bảo hiểm; Sản xuất giống cây trồng, vật nuôi; Dịch vụ đánh bắt hải sản xa bời; Quản lý, bảo trì hệ thống đường bộ, đường thuỷ quan trọng; Quản lý, khai thác các công trình thuỷ nông; Dịch vụ hợp tác lao động; Kinh doanh mặt bằng hội chợ, triển lãm. P Những công ty không thuộc mục kể trên khi tiến hành CPH, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền căn cứ từng trường hợp cụ thể, quyết định việc Nhà nước giữ cổ phần ở mức thấp hoặc không giữ cổ phần. P Những công ty không CPH được, thì thực hiện chuyển đổi sở hữu dưới hình thức giao công ty cho tập thể người lao động hoặc bán công ty theo quy định của Chính phủ. 2. Hình thức CPH 2.1. Mục tiêu, yêu cầu của CPH 2.1.1 Mục tiêu Chuyển đổi những công ty Nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và nước ngoài để tăng năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp. 2.1.2 Yêu cầu Thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường; khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn với phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán. 2.2. Đối tượng và điều kiện cổ phần hóa Các công ty nhà nước không thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ thực hiện CPH bao gồm: các Tổng công ty nhà nước (kể cả Ngân hàng thương mại nhà nước và các tổ chức tài chính nhà nước); công ty nhà nước độc lập; công ty thành viên hạch toán độc lập của tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập; đơn vị hạch toán phụ thuộc của công ty nhà nước. Những công ty nêu trên được tiến hành CPH khi còn vốn Nhà nước (chưa bao gồm giá trị quyền sử dụng đất) sau khi giảm trừ giá trị tài sản không cần dùng, tài sản chờ thanh lý; các khoản tổn thất do lỗ, giảm giá tài sản, công nợ không có khả năng thu hồi và chi phí CPH. Việc CPH đơn vị hạch toán phụ thuộc của các công ty nhà nước chỉ được tiến hành khi: - Đơn vị hạch toán phụ thuộc của doanh nghiệp có đủ điều kiện hạch toán độc lập - Không gây khó khăn hoặc ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp hoặc các bộ phận còn lại của doanh nghiệp 2.3. Hình thức CPH công ty nhà nước Có ba hình thức CPH như sau: P Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn áp dụng đối với những doanh nghiệp CPH có nhu cầu tăng thêm vốn điều lệ. Mức vốn huy động thêm tuỳ thuộc vào quy mô và nhu cầu vốn của công ty cổ phần. Cơ cấu vốn điều lệ của công ty cổ phần được phản ánh trong phương án CPH. P Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán bớt một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn. P Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn. 3. Hình thức giao công ty nhà nước cho tập thể người lao động Giao công ty cho tập thể người lao động được hiểu là việc chuyển đổi sở hữu công ty nhà nước và tài sản nhà nước tại công ty thành sở hữu của tập thể người lao động trong công ty có phân định rõ sở hữu của từng người, từng thành viên với các điều kiện ràng buộc. 3.1. Mục tiêu của việc giao công ty nhà nước Giao công ty nhà nước là biện pháp tiếp tục sắp xếp và đổi mới những công ty nhà nước kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài, Nhà nước không cần nắm giữ và không CPH được nhằm: P Tạo điều kiện cơ cấu lại công ty nhà nước, nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của khu vực kinh tế Nhà nước. P Sử dụng có hiệu quả hơn số vốn, tài sản Nhà nước đã đầu tư vào công ty, khai thác mọi tiềm năng trong các thành phần kinh tế để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. P Bảo đảm việc làm cho người lao động, thay đổi phương thức quản lý công ty, tạo động lực để phát huy quyền làm chủ của người lao động. P Giảm bớt chi phí và trách nhiệm trực tiếp kinh doanh của Nhà nước, đảm bảo lợi ích chung cho cả Nhà nước và người lao động trong công ty. Giao công ty nhà nước (gọi tắt là giao công ty) áp dụng đối với công ty nhà nước độc lập, công ty thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty có vốn nhà nước ghi trên sổ sách kế toán dưới 5 tỷ đồng. 3.2. Điều kiện giao doanh nghiêp cho tập thể người lao động Tập thể người lao động trong công ty được xem xét giao công ty khi đáp ứng đủ các điều kiện sau: P Tự nguyện đăng ký nhận giao công ty P Cam kết đầu tư thêm để phát triển sản xuất kinh doanh, bảo đảm việc làm tối thiểu từ 3 năm trở lên, đóng đầy đủ bảo hiểm cho người lao động trong công ty theo quy định của pháp luật (trừ trường hợp tự nguyện chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật về lao động và chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại công ty nhà nước). P Kế thừa phần công nợ và các nghĩa vụ tài sản của công ty sau khi xử lý. Kế thừa quyền và nghĩa vụ đối với người lao động theo Bộ luật Lao động. P Không được cho thuê, chuyển nhượng, tự giải thể công ty trong thời gian tối thiểu 3 năm sau khi giao. 4. Hình thức bán công ty nhà nước Bán công ty hoặc bộ phận của công ty là việc chuyển đổi sở hữu sở hữu có thu tiền toàn bộ công ty, bộ phận công ty sang sở hữu tập thể, cá nhân hoặc pháp nhân khác. 4.1. Mục tiêu của việc bán công ty nhà nước Việc thực hiện bán công ty nhà nước nhằm cơ cấu lại công ty, nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thông qua đó, sử dụng có hiệu quả số vốn, tài sản của Nhà nước và khai thác mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế khác cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Khi tiến hành bán công ty nhà nước, người lao động sẽ được bảo đảm việc làm, ổn định thu nhập và phát huy quyền làm chủ của người lao động. Lúc này, Nhà nước sẽ không sở hữu hoàn toàn DNNN đã thực hiện bán nên giảm bớt chi phí và trách nhiệm kinh doanh của Nhà nước. Do đó bảo đảm được lợi ích của cả Nhà nước và người lao động. 4.2. Các phương thức tiến hành bán công ty nhà nước Việc bán DNNN được tiến hành theo ba phương thức: đấu thầu, đấu giá hoặc bán trực tiếp. Nếu có từ hai người trở lên đăng ký mua doanh nghiệp thuộc diện phải chuyển đổi sở hữu thì doanh nghiệp sẽ được bán theo phương thức đấu thầu. Trường hợp công ty đã giải quyết hết số lao động hoặc đã phê duyệt phương án giải quyết hết số lao động theo quy định mà lại có từ hai người đăng ký mua trở lên thì phải bán doanh nghiệp theo phương thức đấu giá theo Quy chế bán đấu giá do Thủ tướng Chính phủ ban hành. Nếu chỉ có một người đăng ký mua thì doanh nghiệp sẽ được bán theo phương thức trực tiếp. Người đăng ký mua doanh nghiệp có quyền đến doanh nghiệp nghiên cứu sổ sách kế toán, bảng kê tài sản và thực trạng hoạt động của doanh nghiệp để quyết định có tiếp tục mua doanh nghiệp hay không. Kết luận: Việc thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN chỉ được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt khi có phương án sử dụng lao động trong doanh nghiệp hợp lý. Đây chính là mục tiêu chung và quan trọng nhất của các hình thức chuyển đổi sở hữu DNNN. III. Các nhân tố tác động đến quá trình chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam Quá trình chuyển đổi sở hữu DNNN ở nước ta diễn ra nhanh hay chậm, thuận lợi hay khó khăn là do sự tác động của rất nhiều nhân tố. Các nhân tố đó có quan hệ tác động qua lại hoặc cùng chiều hoặc ngược chiều. Nếu chúng tác động đồng thuận sẽ tạo điều kiện cho quá trình chuyển đổi sở hữu diễn ra nhanh. Ngược lại, nếu chúng tác động ngược chiều nhau sẽ làm chậm lại quá trình chuyển đổi. Có rất nhiều nhân tố tác động nhưng theo em bốn nhân tố sau có tác động mạnh nhất. 1. Cơ chế chính sách liên quan đến việc chuyển đổi sở hữu Sở hữu luôn là một trong những vấn đề trọng tâm của mọi thời kỳ lịch sử. Nó vừa là kết quả của sự phát triển kinh tế xã hội, đồng thời nó cũng tác động trở lại đến quá trình kinh tế xã hội. Chính vì vậy, vấn đề sở hữu luôn là mối quan tâm của các nhà chính trị - xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Việc tiến hành chuyển đổi sở hữu DNNN đồng nghĩa với việc giảm sở hữu Nhà nước, đây là vấn đề không mới nhưng chúng ta vẫn phải vừa làm vừa “dò dẫm” và học hỏi kinh nghiệm các nước bạn. Bởi vậy, để việc chuyển đổi sở hữu được tiến hành thống nhất trên phạm vi cả nước, Đảng và Nhà nước đã không ngừng ban hành các quyết định, nghị định phù hợp với điều kiện thực tế khi tiến hành chuyển đổi. Cơ chế chính sách được ban hành có phù hợp với thực tiễn, có phù hợp với yêu cầu đổi mới hay không phụ thuộc vào sự nhanh nhẹn và nhạy bén của cơ quan thường trực sắp xếp và đổi mới DNNN. Chỉ khi nào những cơ chế chính sách không còn là rào cản cho quá trình chuyển đổi thì quá trình đó mới diễn ra theo đúng mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra. Một trong những chính sách có tác động mạnh đến sự chuyển đổi sở hữu DNNN chính là chính sách ưu đãi đối với người lao động. Niềm tin của người lao động trong doanh nghiệp khi thực hiện chuyển đổi sở hữu về khả năng thành công có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Theo chủ trương của Đảng khi tiến hành chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần là ưu tiên bán cổ phần cho người lao động để đảm bảo thu nhập và quyền làm chủ của người lao động. Nếu chuyển sang hình thức giao hoặc bán thì đối tượng nhận mua hoặc nhận giao chủ yếu là tập thể người lao động. Do vậy, nếu không có những chính sách ưu đãi phù hợp với người lao động tạo cho họ niềm tin về sự hiệu quả về khả năng kinh doanh có lời sau khi tiến hành chuyển đổi sở hữu thì người lao động sẽ không chủ động tham gia vào quá trình chuyển đổi. Xuất phát từ mục tiêu đảm bảo thu nhập, nâng cao mức sống của người lao động cùng với việc đẩy mạnh hiệu quả sử dụng đồng vốn kinh doanh sau chuyển đổi là những yếu tố quan trọng tạo niềm tin cho người lao động khi tham gia chuyển đổi sở hữu. Muốn như vậy thì cơ chế chính sách ưu đãi người lao động phải phù hợp và dễ hiểu để người lao động không cảm thấy khó khăn khi tiếp cận chính sách pháp luật. 2. Sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong quá trình tổ chức thực hiện Có được cơ chế chính sách về chuyển đổi sở hữu phù hợp đã quan trọng thì sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước lại càng quan trọng hơn. Nó quyết định rất nhiều đến sự thành công hay thất bại của quá trình chuyển đổi sở hữu. Bởi một nghị định hay quyết định được ban hành, không phải cơ quan nào, cấp có thẩm quyền nào cũng có thể hiểu thông suốt, cũng có khả năng tiến hành thực hiện. Việc thực hiện phải có sự chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể của Đảng và Nhà nước. Một nghị định được ban hành về một vấn đề kinh tế xã hội nào đó thì kèm theo nó là một thông tư hướng dẫn cụ thể việc thi hành nghị định ấy. Mà việc chuyển đổi sở hữu DNNN khá phức tạp và “đụng chạm” đến quyền lợi của nhiều người. Vì vậy, cần phải có sự chỉ đạo và hướng dẫn cụ thể thông qua Ban chỉ đạo chuyển đổi. Ban chỉ đạo chuyển đổi bao gồm nhiều cá nhân được lựa chọn và cùng nhau chuẩn bị các chương trình hành động, lên kế hoạch sắp xếp lại hay kế hoạch chuyển đổi sở hữu DNNN. Ban chỉ đạo có trách nhiệm nghiên cứu văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước cũng như các Bộ, ngành có liên quan, tham khảo ý kiến tư vấn trong trường hợp cần thiết. Ban chỉ đạo sẽ thay mặt Đảng và Nhà nước tiến hành chuyển đổi sở hữu các DNNN cần phải chuyển đổi. Đồng thời cũng thay mặt Nhà nước trực tiếp quản lý quá trình chuyển đổi. Do đó, Ban chỉ đạo có tầm quan trọng rất lớn, có ảnh hưởng không chỉ với tiến độ chuyển đổi mà còn ảnh hưởng đến khả năng phát triển trong tương lai của doanh nghiệp sau chuyển đổi. Bởi vậy, việc lựa chọn các thành viên trong Ban chỉ đạo chuyển đổi cũng vô cùng quan trọng. Nếu các cá nhân trong Ban chỉ đạo chỉ đưa ra những ý kiến đánh giá nhằm duy trì quyền lợi cá nhân hay các ý kiến mang tính chủ quan, duy ý chí thì mục tiêu hoạt động của Ban chỉ đạo chuyển đổi sẽ không thể thực hiện được. Chính vì vậy, các thành viên phải là những người quán triệt sâu sắc chủ trương đổi mới DNNN của Đảng và Nhà nước, có trình độ, có kinh nghiệm, có nhiệt huyết đối với công cuộc đổi mới để “thổi những luồng gió mới” vào quá trình chuyển đổi sở hữu. Có như thế, quá trình chuyển đổi sở hữu DNNN mới được tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả cao. 3. Nhân tố khách quan xuất phát từ chính trong nội tại doanh nghiệp Quá trình chuyển đổi sở hữu DNNN có tiến hành thuận lợi khi bản thân doanh nghiệp vẫn còn tồn tại những rào cản cản trở sự chuyển đổi? Những rào cản phải kể đến là: quá trình xác định giá trị doanh nghiệp, nợ của DNNN và giá trị tài sản của doanh nghiệp trước khi chuyển đổi. Một là, bất cập từ quá trình xác định giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong giá trị cổ phần của người lao động khi thực hiện giao doanh nghiệp cho tập thể người lao động, có vai trò trong việc hình thành cơ cấu cổ phần lần đầu khi thực hiện CPH và có vai trò trong việc xác định giá bán doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp cao hay thấp có ảnh hưởng đến việc đánh giá hiệu quả chuyển đổi. Bởi sau khi tiến hành chuyển đổi sở hữu bằng CPH, giao, bán doanh nghiệp thì phải thông qua tỷ suất lợi nhuận vốn góp của cổ động hoặc lợi suất của tài sản để đánh giá hiệu quả của việc chuyển đổi. Giá trị của doanh nghiệp được xác định theo giá thực tế là tốt nhất. Nếu đánh giá quá cao sẽ tạo tâm lý e ngại không muốn mua cổ phần hoặc không muốn mua lại doanh nghiệp. Ngược lại, nếu giá trị doanh nghiệp được xác định ở mức thấp sẽ tạo lợi thế cạnh tranh để loại bỏ các đối thủ khác. Hai là, nợ tồn đọng của DNNN. Do đầu tư kém hiệu quảm, nhiều doanh nghiệp thua lỗ, không có vốn trả nợ ngân hàng, nợ tồn đọng của những năm trước để lại còn quá lớn. Sự khó khăn về tài chính và vấn đề xử lý tài chính như thế nào đã gây trở ngại lớn cho quá trình chuyển đổi sở hữu DNNN. Nếu nợ tồn đọng quá nhiều và doanh nghiệp không có phương án giải trình khắc phục và đảm bảo khả năng trả nợ thì doanh nghiệp không thể tiến hành chuyển đổi sở hữu. Bởi trong hồ sơ chuyển đổi sở hữu, DNNN cần phải giải trình cụ thể và chi tiết số tiền bán cổ phần hay số tiền bán doanh nghiệp sẽ được sử dụng như thế nào. Ba là, giá trị tài sản doanh nghiệp trước khi tiến hành chuyển đổi. Việc xác định giá trị tài sản doanh nghiệp vào giá trị doanh nghiệp có đúng hay không? Việc làm này có làm nâng cao giá trị doanh nghiệp hay không? Đối với những tài sản cần thanh lý thì thanh lý vào lúc nào, trước hay sau khi chuyển đổi? Bên cạnh đó, những vướng mắc về đất đai và sở hữu tài sản cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình chuyển đổi sở hữu. Nếu giá trị tài sản của doanh nghiệp được xác định rõ ràng, quyền sở hữu tài sản và đất đai được giải quyết dứt điểm thì việc chuyển đổi sở hữu sẽ gặp nhiều thuận lợi và quá trình chuyển đổi sẽ diễn ra nhanh hơn và đúng tiến độ. Bốn là, tính chất kinh tế của sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp cho thị trường. Những sản phẩm nào thích ứng với thị trường, đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng, có lợi thế cạnh tranh so với đối thủ sẽ hấp dẫn các thành phần kinh tế khác nhảy vào. Điều này sẽ tạo điều kiện cho việc thực hiện chuyển đổi sở hữu nhanh hơn và hiệu quả hơn. Ngược lại, đối với những sản phẩm mà để sản xuất ra nó đòi hỏi phải có quy mô vốn đầu tư lớn, thời gian quay vòng vốn lâu thì không hấp dẫn các nhà đầu tư nên việc chuyển đổi sở hữu sẽ gặp nhiều khó khăn. 4. Tâm lý, nhận thức của cán bộ quản lý doanh nghiệp và người lao động Khi nhắc đến chuyển đổi sở hữu là phải kể đến những người trực tiếp tham gia chuyển đổi. Đó là cán bộ quản lý doanh nghiệp và người lao động. Nếu thái độ và nhận thức của họ thông suốt, sẵn sàng tiến hành chuyển đổi doanh nghiệp thì sẽ đẩy nhanh tiến trình chuyển sở hữu. Đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp, vẫn còn tồn tại trong họ tâm lý bất di bất dịch “chủ nghĩa xã hội gắn liền với sở hữu nhà nước”. Nếu những tâm lý tiểu nông ấy không được gạt bỏ thì khó có thể thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, họ còn lo sợ bị mất lợi ích, lo sợ chuyển đổi sẽ làm chệch định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là rào cản của quá trình chuyển đổi sở hữu. Đối với người lao động, nếu họ thông suốt được vai trò và ưu thế của việc chuyển đổi, hiểu được vì sao phải tiến hành chuyển đổi thì chắc chắn họ sẽ là lực lượng nòng cốt của quá trình chuyển đổi. Nhận thức và tâm lý được giải toả, người lao động sẽ sẵn sàng và quyết tâm thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN. IV. Kinh nghiệm chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc Trung Quốc là nước bạn láng giềng của Việt Nam, có diện tích lớn và dân số đông, có nền kinh tế phát triển. Việc lựa chọn Trung Quốc làm quốc gia để học hỏi kinh nghiệm về chuyển đổi sở hữu DNNN là tất yếu bởi sự phát triển của Việt Nam tương đối đồng nhất và diễn ra theo đúng tiến trình giống như Trung Quốc. Mặc dù trình độ phát triển của Việt Nam còn thua kém Trung Quốc rất nhiều lần. Việt Nam cũng như Trung Quốc đi lên chủ nghĩa xã hội từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Cùng với sự phát triển của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, số lượng DNNN được thành lập ngày một nhiều và khi chuyển lên chủ nghĩa xã hội giai đoạn đầu, DNNN vẫn tiếp tục được thành lập bởi chủ nghĩa xã hội là sự công hữu về tư liệu sản xuất. Chủ nghĩa xã hội là sở hữu toàn dân mà giai đoạn đầu của nó là sở hữu nhà nước. Chỉ khi nào lực lượng sản xuất phát triển đến mức độ hiện đại và tiên tiến nhất định thì sở hữu nhà nước sẽ chuyển thành sở hữu toàn dân. Học hỏi kinh nghiệm cải cách DNNN của Trung Quốc sẽ giúp Việt Nam định hướng những quan điểm và giải pháp thực hiện sắp xếp, đổi mới DNNN có hiệu quả hơn. 1. Bối cảnh thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc Cải cách xí nghiệp quốc hữu ở Trung Quốc được bắt đầu sau Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khoá XI của Đảng cộng sản Trung Quốc (tháng 12 năm 1978). Mặc dù Chính phủ Trung Quốc đã có nhiều nỗ lực trong việc tạo cơ chế cho các xí nghiệp quốc hữu thích nghi với cơ chế thị trường, song nhìn chung hoạt động của các xí nghiệp quốc hữu vẫn còn kém hiệu quả. Nguyên nhân của những yếu kém là: P Hiệu quả kinh tế không phải là mục tiêu duy nhất mà các xí nghiệp quốc hữu theo đuổi. Bên cạnh mục tiêu hiệu quả kinh tế, xí nghiệp quốc hữu còn phải theo đuổi một số mục tiêu xã hội như bảo đảm việc làm, việc sa thải lao động là một hành động rất khó thực hiện. P Mức độ chênh lệch thu nhập không cao giữa xí nghiệp có hiệu quả và không có hiệu quả, vì vậy không những không khuyến khích được người lao động mà còn hạn chế cả luồng luân chuyển lao động, đặc biệt là lao động trí tuệ. P Những khó khăn trong việc tìm nguồn vốn, tìm kiếm và tuyển dụng nhân tài... đã làm cho các xí nghiệp quốc hữu khó có thể tìm ra giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh tế của mình. P Những gánh nặng mang tính lịch sử còn đè nặng lên các xí nghiệp quốc hữu. Hầu hết các xí nghiệp quốc hữu đều do Nhà nước đầu tư trong thời gian trước do vậy cơ cấu tài sản được đầu tư có thể không phù hợp với chiến lược kinh doanh trong nền kinh tế thị trường của xí nghiệp. P Trình độ quản lý xí nghiệp yếu kém. Chuyển sang hoạt động trong cơ chế thị trường với những điều kiện mới nhưng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở các xí nghiệp quốc hữu vẫn chủ yếu là những người cũ với nếp nghĩ và tư duy cũ. Với những hạn chế nêu trên chính là lí do khiến 2/3 DNNN ở Trung Quốc được lên kế hoạch chuyển đổi sở hữu theo hướng dẫn của Luật Công ty Trung Quốc. Luật Công ty được ban hành năm 1993 nhằm mục tiêu không chỉ đưa ra một hình thức pháp lý mới cho các nhà đầu tư mà còn hỗ trợ cho việc cải cách các xí nghiệp quốc hữu theo hướng chế độ xí nghiệp hiện đại. 2. Các hình thức và nội dung cải cách DNNN tại Trung Quốc Cải cách DNNN ở Trung Quốc được chia làm 3 giai đoạn, mỗi giai đoạn có đặc điểm và mục tiêu riêng do điều kiện cụ thể quyết định. Nếu giai đoạn thứ nhất nhằm mở rộng quyền tự chủ cho các doanh nghiệp về cơ bản vẫn trên nền cơ chế kế hoạch hoá tập trung thì trong giai đoạn thứ hai thực hiện hệ thống trách nhiệm của doanh nghiệp. Giai đoạn thứ ba gắn với việc thiết lập cơ chế thị trường xã hội chủ nghĩa, cải cách sở hữu đối với các DNNN vừa và lớn, mỗi giai đoạn đều tổ chức thí điểm và rút kinh nghiệm. Việc cải cách DNNN được tiến hành theo các hướng sau: P Sắp xếp lại tài sản: trong cơ chế kế hoạch hoá trước đây, do doanh nghiệp phải đảm nhận nhiều chức năng, theo đuổi nhiều mục tiêu, tài sản của doanh nghiệp bao gồm tài sản kinh doanh và tài sản phi kinh doanh. Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tập trung vào mục tiêu quan trọng nhất của mình trong cơ chế thị trường, trước hết cần phải tách phần tài sản phi kinh doanh của các doanh nghiệp. Phần này có thể giao lại cho chính quyền quản lý hoặc tách ra thành đơn vị độc lập. Phần tài sản còn lại sẽ được xử lý theo cơ chế thị trường, nghĩa là phải phân định tiếp loại tài sản có hiệu quả và tài sản không có hiệu quả để tiếp tục sử dụng hoặc thanh lý. P Sắp xếp lại các khoản vay: cũng như ở các nước có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây, các khoản nợ ngân hàng của doanh nghiệp rất lớn, tỷ trọng nợ khó đòi, nợ quá hạn tương đối cao. Tỷ trọng nợ khó đòi cao đã làm cho khả năng vay nợ của doanh nghiệp rất kém dẫn đến doanh nghiệp không thể có hy vọng vay tín dụng đầu tư chiều sâu để đổi mới sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp. Một giải pháp được đưa ra xử lý là chuyển các khoản nợ này thành vốn góp, ngân hàng từ vị trí chủ nợ sang vị trí cổ đông của doanh nghiệp. P Sắp xếp lại sản phẩm: Đây là giải pháp cơ bản để chuyển doanh nghiếp sang hoạt động theo cơ chế thị trường. Trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu thị trường, khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp phải xác định lại cơ cấu sản phẩm của mình để đạt hiệu quả cao nhất. P Sắp xếp lại lao động: lao động dôi dư là vấn đề có tính phức tạp trong quá trình cải cách, đặc biệt khi hệ thống bảo hiểm thất nghiệp chưa thực hiện được chức năng của mình. Để giải quyết vấn đề này, Trung Quốc đưa ra biện pháp “ba người cùng gánh vác”, đó là chính quyền, bảo hiểm ở địa phương và doanh nghiệp. P Sắp xếp lại quan hệ phân phối: việc xác định lại quan hệ phân phối trong doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng vì đây chính là vấn đề để thống nhất lợi ích của các nhóm trong doanh nghiệp. Quan hệ phân phối mới đa dạng hơn, không chỉ phân phối theo kết quả lao động mà còn phân phối theo cả sự đóng góp về vốn, về trí tuệ. 3. Quá trình chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc Phương châm cải cách DNNN của Trung Quốc là từ từ, thực hiện từng bước, thí điểm trước sau đó mới áp dụng rộng rãi, nắm cái lớn, buông cái nhỏ, chỉ duy trì sở hữu nhà nước trong những ngành, những doanh nghiệp chủ chốt. Và cố gắng nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN bằng cách tạo ra sự cạnh tranh theo cơ chế thị trường và khuyến khích sự phát triển khu vực ngoài quốc doanh để tạo công ăn việc làm và phát triển nhanh nền kinh tế, thay thế dần các DNNN trong nhiều ngành. Với phương châm đó, từ năm 1978 đến năm 1992, Nhà nước tập trung vào việc phân địn._.nhiều lao động đã không làm việc trong doanh nghiệp trong nhiều năm, nhưng khi doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi sở hữu thì quay lại đòi quyền lợi. Nhiều người đã có việc làm ổn định nơi khác nhưng vẫn “giữ biên chế” trong doanh nghiệp... Đành rằng nguyên do là doanh nghiệp không bố trí được việc làm cho họ nhưng trong một khoảng thời gian nhất định những việc “tạm thời” của họ đã dần đi vào ổn định. Nếu như quay lại yêu cầu doanh nghiệp sau chuyển đổi phải có trách nhiệm đối với họ thì sẽ gây sức ép cho doanh nghiệp. Do vậy, đối với những lao động mà doanh nghiệp sau khi chuyển đổi không có nhu cầu sử dụng thì cần có sự phân loại và áp dụng biện pháp ưu tiên theo từng loại: - Với những lao động đã không làm việc tại doanh nghiệp từ 3 năm trở lên thì doanh nghiệp nên trả tiền hỗ trợ cho họ đi tìm công việc khác. - Với những lao động thời gian làm việc trước khi nghỉ hưu chỉ còn dưới 5 năm thì có thể giải quyết cho họ nghỉ hưu sớm (nếu họ đồng ý). 2. Những giải pháp có liên quan đến tổ chức quá trình thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước 2.1. Thực hiện tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ quản lý doanh nghiệp và người lao động Cần nâng cao công tác phổ biến chính sách và tuyên truyền về chủ trương chuyển đổi sở hữu. Chú trọng giải quyết những vướng mắc về nhận thức với quá trình chuyển đổi sở hữu, tạo nên sự đồng thuận trong xã hội về thực hiện chủ trương chuyển đổi sở hữu. Khi thực hiện tuyên truyền không có nội dung chung bao trùm cho tất cả các đối tượng mà cần thiết phải có sự cụ thể hoá cho từng đối tượng cụ thể mới đảm bảo tính hiệu quả và thiết thực cho việc tạo hậu thuẫn về chính trị và xã hội để thực hiện chuyển đổi sở hữu. Cụ thể: - Với đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp, vấn đề trọng tâm tập trung giải quyết là chuyển đổi sở hữu có dẫn đến suy yếu kinh tế nhà nước? Việc thúc đẩy chuyển đổi sở hữu có tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân dẫn đến chệch hướng xã hội chủ nghĩa. - Với người lao động trong doanh nghiệp thì vấn đề cần tập trung là sự cần thiết phải chuyển đổi hình thức sở hữu, tác dụng tích cực của chuyển đổi sở hữu DNNN và người lao động sẽ trở thành những người chủ doanh nghiệp thực sự có quyền quyết định tương lai của họ. - Với các nhà đầu tư xã hội, điều quan trọng là cho họ thấy việc phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo có tính chiến lược và nhất quán của Đảng và Nhà nước, tạo sự yên tâm khi tham gia thực hiện chuyển đổi sở hữu và họ sẽ mang công sức, trí tuệ góp phần phát triển sản xuất kinh doanh. Nội dung tuyên truyền phải gắn gọn, dễ hiểu và tập trung vào hai nội dung chính: một là, chuyển đổi sở hữu DNNN là cần thiết bởi chuyển đổi sở hữu là làm tăng tính chủ động, tính sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau chuyển đổi, từ đó tạo động lực cho nền kinh tế quốc dân phát triển; hai là, chuyển đổi sở hữu DNNN không làm cho người lao động thất nghiệp mà là làm cho người lao động trở thành những người chủ thực sự, có quyền quyết định cho tương lai của doanh nghiệp cũng như của chính người lao động. Cách thức tuyên truyền được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài truyền hình, đài phát thanh về các Quyết định, Nghị định có liên quan đến chuyển đổi sở hữu DNNN. Bên cạnh đó, tại các doanh nghiệp hoặc các địa phương phải thường xuyên mở các lớp tập huấn cho cán bộ có trách nhiệm trực tiếp thực hiện các kế hoạch, chương trình về chuyển đổi sở hữu. Ngoài ra trên các trang Web về doanh nghiệp Việt Nam nên có một chuyên mục về chuyển đổi sở hữu DNNN cung cấp các thông tin về văn bản pháp luật, thực trạng quá trình chuyển đổi sở hữu ở Việt Nam trong thời gian qua. 2.2. Kiên quyết bằng các phương thức thị trường thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp Xoá bỏ việc xác định giá trị doanh nghiệp thông qua hội đồng. Việc xác định giá trị doanh nghiệp phải được thông qua các tổ chức chuyên nghiệp để nâng cao tính minh bạch trong định giá. Ngoài 44 tổ chức mà Bộ Tài chính đã công bố thì cần xem xét bổ sung thêm kể cả các tổ chức nước ngoài để tăng thêm tính cạnh tranh trong khâu xác định giá trị doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp có tổng giá trị tài sản theo sổ sách kế toán dưới 30 tỷ đồng thì doanh nghiệp tự xác định giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp được xác định chỉ là cơ sở để xác định cơ cấu vốn điều lệ và xây dựng phương án chuyển đổi sở hữu. Việc xác định giá trị doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào việc xử lý nợ tồn đọng nhằm làm lành mạnh hóa tài chính của doanh nghiệp và việc xử lý tài sản trước khi tiến hành chuyển đổi doanh nghiệp. Do đó cần phải thực hiện các biện pháp nhằm xử lý những vấn đề kể trên để giá trị doanh nghiệp được xác định theo giá thị trường. 2.3. Xử lý nhanh các khoản nợ của doanh nghiệp nhà nước trước khi chuyển đổi Không chuyển phần nợ ngân sách vào doanh nghiệp sau chuyển đổi để tránh tình trạng doanh nghiệp mới vừa ra đời đã rơi vào tình trạng nợ đọng trong khi chưa tiến hành kinh doanh. Điều này gây ảnh hưởng đến tâm lý của cổ đông, của tập thể người lao động khi nhận giao doanh nghiệp và của những người đăng ký mua doanh nghiệp. Đối với nợ tồn đọng khó đòi, phát sinh trước thời điểm chuyển đổi sở hữu, các cơ quan chức năng cần hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết dứt điểm. Cần phân loại các khoản nợ tồn đọng thành hai loại nợ có khả năng thu hồi ngay và nợ không có khả năng thu hồi ngay. Đối với các khoản nợ có khả năng thu hồi thì cơ quan chức năng hỗ trợ DNNN để thu hồi trước khi tiến hành chuyển đổi sở hữu. Đối với các khoản nợ không có khả năng thu hồi thì chuyển giao cho Công ty Mua bán nợ hoặc bộ phận xử lý nợ. Nên thành lập bộ phận xử lý nợ trực thuộc Công ty quản lý vốn và tài sản của Nhà nước ở các doanh nghiệp. Bộ phận này sẽ xử lý những khoản nợ không có khả năng thu hồi và thu về ngân sách. 2.4. Xử lý vấn đề tài sản trong doanh nghiệp nhà nước trước khi tiến hành chuyển đổi Tài sản của doanh nghiệp cần được tính toán đầy đủ vào trong giá trị doanh nghiệp trước khi tiến hành chuyển đổi sở hữu. Cần xử lý nhanh chóng và chính xác tài sản của DNNN để bảo đảm không bị thất thoát hay bị lạm dụng. Muốn vậy, cần nhanh chóng xử lý tài sản theo phương pháp đấu giá. Việc đấu giá cần được tiến hành với sự tham gia của công chúng. Cách làm này giúp tránh việc các lãnh đạo DNNN tự lập danh mục tài sản không cần dùng, định giá rẻ và sau đó chính mình lại mua những tài sản đó và bán ra ngoài kiếm chênh lệch. Việc loại trừ một số tài sản ra khỏi việc định giá doanh nghiệp dẫn đến sự lãng phí những tài sản này do doanh nghiệp sau chuyển đổi sẽ không quan tâm bảo quản chúng vì đó là tài sản “giữ hộ”. Điều này đồng nghĩa với sự xuống cấp nghiêm trọng của tài sản đó. Cần quy định rõ tài sản cố định như nhà xưởng, vật kiến trúc của doanh nghiệp sẽ được chuyển sang doanh nghiệp sau chuyển đổi. Mỗi loại tài sản, giá trị của chúng, các thông số kỹ thuật có liên quan cần phải xác định. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những tài sản mà doanh nghiệp sử dụng thông qua thuê mua tài chính hoặc đồng sở hữu với các chủ thể khác. Tóm lại, giá trị DNNN cần được tính đúng, tính đủ không loại trừ bất cứ bộ phận tài sản nào kể cả những nhà xưởng đã chuyển thành nhà ở. Trong trường hợp đã chuyển thành nhà ở, giá trị căn hộ mà người lao động được hưởng sẽ tính vào giá trị cổ phần ưu đãi mà họ được hưởng khi tiến hành CPH. Cần xác định chính xác về mặt pháp lý tất cả các loại tài sản nằm trong phạm vi quản lý của doanh nghiệp. Có nghĩa là phải làm rõ tài sản nào đang trong phạm vi sở hữu của DNNN, tài sản nào đang thuộc sự quản lý của doanh nghiệp chứ không thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Việc xác định rõ tài sản của công ty có ý nghĩa quan trọng đối với việc quản lý, kế toán, kiểm toán của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Cần tiến hành nhanh thủ tục chuyển quyền sử dụng đất cho doanh nghiệp sau chuyển đổi. Các cơ quan có thẩm quyền nên coi đây là một ưu tiên bởi càng kéo dài tình trạng này càng gây khó khăn cho tiến trình chuyển đổi sở hữu DNNN. 3. Đẩy mạnh hoạt động của doanh nghiệp sau chuyển đổi sở hữu Nhà nước chỉ tạo ra được môi trường pháp lý, tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi để doanh nghiệp sau chuyển đổi có thể làm tốt các nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, từ những điều kiện thuận lợi đó, doanh nghiệp sau chuyển đổi có thể phát triển được hay không, có thể không phụ sự tin cậy và trông chờ của Đảng và Nhà nước hay không lại phụ thuộc phần lớn vào sự nỗ lực, nhạy bén, sáng tạo của bản thân mỗi một doanh nghiệp. Do DNNN sau khi thực hiện chuyển đổi sẽ cùng hoạt động trong môi trường cạnh tranh với các loại hình doanh nghiệp khác nên để có thể phát triển trong nền kinh tế thị trường thì trước hết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của chính mình để có thể đối mặt với những thách thức đến từ môi trường kinh doanh trong nước và quốc tế. Trước đây DNNN làm ăn kém hiệu quả, tạo ra những sản phẩm kém chất lượng nhưng giá thành lại cao hay năng lực cạnh tranh kém, để có thể đứng vững thì họ thường yêu cầu “bảo hộ sản xuất” đòi hỏi Nhà nước đánh thuế nhập khẩu cao, thậm chí cấm nhập khẩu để được độc quyền. Sau khi chuyển đổi sở hữu, DNNN hoạt động theo mô hình mới, Nhà nước không thể bảo hộ theo kiểu như vậy. Do đó, Nhà nước phải tìm cách nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên nhiều mặt để tồn tại và phát triển trong xu thế hội nhập và cạnh tranh gay gắt. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được hiểu là năng lực tồn tại, duy trì và gia tăng lợi nhuận, thị phần trên thị trường của các sản phẩm và dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp. Những doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tốt sẽ có điều kiện thuận lợi thực hiện các mục tiêu đề ra, cả về mặt tài chính và các mục tiêu xã hội khác. Có rất nhiều yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, những yếu tố này bao gồm cả yếu tố bên ngoài và các yếu tố do doanh nghiệp chi phối. Có thể nhận thấy rằng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế và yếu kém so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Điều này xuất phát từ nguyên nhân khác nhau như: giá đầu vào khá cao; doanh nghiệp lại phải gánh chịu nhiều loại thuế, phí dịch vụ (phí điện thoại, viễn thông và nhiều loại phí tiêu cực khác); máy móc kỹ thuật lạc hậu, cũ kỹ; sự hiểu biết về thị trường, kinh nghiệm về kinh doanh, công tác tiếp thị của doanh nghiệp còn yếu. Đặc biệt, hầu hết các DNNN Việt Nam sau khi chuyển đổi vẫn kê thừa những nhược điểm vốn có của DNNN, đó là chưa có chiến lược kinh doanh lâu dài, ổn định mà chủ yếu là những kế hoạch ngắn hạn, theo từng mùa vụ... Do đó để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thì các DNNN sau khi thực hiện chuyển đổi phải thực hiện các giải pháp sau: 3.1. Xây dựng chiến lược kinh doanh làm kim chỉ nam cho các hoạt động của doanh nghiệp Doanh nghiệp cần xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh tính đến các mục tiêu dài hạn, dựa trên phân tích thị trường, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, định hướng vào thị trường mục tiêu, tập trung vào những sản phẩm và dịch vụ có khả năng cạnh tranh cao. Phải xuất phát từ thị trường sản xuất, nếu được nên cam kết tiêu thụ sản phẩm với khách hàng trước là tốt nhất. Tránh trường hợp sản xuất theo kiểu có gì sản xuất nấy, không bán cho người này thì bán cho người khác. Việc buôn bán như vậy rất mạo hiểm trên thương trường như hiện nay. Công tác nghiên cứu thị trường, tiếp thị để bán hàng lại là khâu yếu nhất, thậm chí nhiều DNNN chưa có bộ phận nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường tức là nghiên cứu, phân tích đối thủ cạnh tranh, tìm lợi thế tương đối của mình, tìm ra một mảng thị phần thích hợp để chiếm lĩnh, tránh đối đầu với những đối thủ quá mạnh. Công tác nghiên cứu thị trường phải có những dự báo trong tương lai về những đối thủ tiềm ẩn với các sản phẩm có thể thay thế hay lấn át sản phẩm của doanh nghiệp để có phương án đối phó hợp lý. Hầu hết các DNNN ở Việt Nam đều không xây dựng cho mình những mục tiêu chủ đạo lâu dài để định hướng cho hoạt động sản xuất kinh doanh, trừ một số DNNN quy mô vốn lớn thì có xây dựng chiến lược với những mục tiêu rõ ràng và có bộ phận nghiên cứu thị trường được tổ chức tương đối bài bản. Những DNNN không có mục tiêu định hướng thường cũng không có bộ phận nghiên cứu thị trường để tìm kiếm và nắm bắt những thông tin cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc tổ chức thu thập thông tin của đối thủ được thực hiện bị động và không thường xuyên. Để khắc phục những hạn chế nêu trên, các DNNN sau khi chuyển đổi sở hữu cần xác định rằng việc xây dựng chiến lược kinh doanh là cần thiết, là bước đi không thể thiếu để làm kim chỉ nam cho việc phối hợp các hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp. Từ đó, đảm bảo khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế. Để có thể hoạch định chiến lược kinh doanh hợp lý và tổ chức thực hiện thành công chiến lược, nhu cầu thông tin thị trường đối với các doanh nghiệp phải được coi là nhu cầu nhất thiết phải được thoả mãn. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tổ chức bộ phận nghiên cứu thị trường và thu thập cập nhật thông tin một cách có hệ thống và thường xuyên hỗ trợ tích cực cho cán bộ quản lý doanh nghiệp trong việc ra quyết định. 3.2. Đầu tư cho công tác tiếp thị, nghiên cứu phát triển sản phẩm và quảng bá thương hiệu Trong thời gian qua, trừ một số doanh nghiệp quy mô lớn đã có những bước tiến trong việc quảng bá và bảo hộ thương hiệu của doanh nghiệp, còn lại chi phí cho công tác này ở hầu hết các doanh nghiệp còn quá ít. Trong khi đó, xu hướng thị trường hiện nay người ta coi thương hiệu sản phẩm là vũ khí cạnh tranh rất lợi hại. Thương hiệu sản phẩm không chỉ đơn thuần là cái tên mà nó chứa đựng một giá trị rất lớn, đặc biệt nó cho phép doanh nghiệp tạo dựng lòng tin và sự trung thành của khách hàng, nó cho phép khác biệt hoá sản phẩm của doanh nghiệp. Do vậy thương hiệu là tài sản vô cùng có giá trị của doanh nghiệp. Mặc dù nó chỉ là tài sản vô hình nhưng có khi nó lại có giá trị bằng cả giá trị của doanh nghiệp. Hơn nữa, thông qua đầu tư xây dựng thương hiệu, doanh nghiệp có thể thực hiện các chính sách tiếp thị thuận lợi hơn và nó còn thể hiện sự cam kết nghiêm túc của doanh nghiệp đối với khách hàng. Sản phẩm được xem như là công cụ để doanh nghiệp kiểm tra khả năng cạnh tranh của mình, sản phẩm được người tiêu dùng chấp nhận cũng có nghĩa những nỗ lực của doanh nghiệp đã được khách hàng ghi nhận, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được khẳng định. Sản phẩm muốn được chấp nhận thì nó phải đem lại giá trị thực sự cho khách hàng, do đó doanh nghiệp phải đầu tư nghiên cứu phát triển những sản phẩm đáp ứng đúng mong đợi của khách hàng. Bên cạnh chất lượng, tính năng, kiểu dáng tính độc đáo hay khác biệt của sản phẩm thì bao bì cũng là một thành phần quan trọng của sản phẩm. Ngày nay khi chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao thì người tiêu dùng không chỉ “ăn no mặc ấm” mà còn “ăn ngon mặc đẹp” do đó nếu sản phẩm trông “bắt mắt” khách hàng thì chắc chắn khách hàng nghĩ rằng chất lượng cũng được đảm bảo. Tuy nhiên, ở Việt Nam bao bì đóng gói còn thua xa so với trình độ của thế giới. Nếu đem giao dịch quốc tế thì bao bì hàng hoá Việt Nam không đáp ứng yêu cầu bởi không có mã vạch, không ghi đầy đủ thông tin về sản phẩm như nhà sản xuất, hạn sử dụng. Điều này làm cho khả năng tiếp cận với thị trường thế giới còn gặp nhiều khó khăn. Do đó các nhà lãnh đạo doanh nghiệp sau chuyển đổi cần chú ý quan tâm đến vấn đề này nhiều hơn trong thời gian tới bởi trong tương lai yêu cầu của khách hàng nội địa cũng sẽ đòi hỏi cao như khách hàng nước ngoài. 3.3. Nâng cao trình độ và khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến Khả năng tiếp cận và đổi mới công nghệ, nỗ lực đầu tư cho nghiên cứu phương pháp công nghệ và sản phẩm mới, số lượng bản quyền sáng chế, đầu tư nghiên cứu kiểu dáng sản phẩm... đều là những yếu tố có ý nghĩa quyết định hàng đầu đến chất lượng và tính năng của sản phẩm. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, kiểm soát các yếu tố công nghệ là một trong những chìa khoá rất quan trọng để giúp doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh. Tuy nhiên, về mặt này các DNNN ở Việt Nam còn rất yếu. Nguyên nhân của tình trạng yếu kém này là do tồn tại nhiều yếu tố gây cản trở đến tiến trình đổi mới công nghệ trong các DNNN. Đó là: - Sự thiếu hiểu biết về thị trường mà nguyên nhân chính là do công tác nghiên cứu thị trường và tiếp thị yếu. - Sự thiếu hiểu biết về công nghệ thích hợp, do hầu hết các DNNN đều không có những nghiên cứu một cách hệ thống về công nghệ thích hợp với thị trường. Do Việt Nam chưa có thị trường vốn trung và dài hạn nên các DNNN không có khả năng lựa chọn về nguồn vốn, còn phụ thuộc vào vốn của Ngân hàng nên việc tiếp cận khoa học công nghệ hiện đại còn nhiều khó khăn. - Thủ tục đầu tư phức tạp và tốn thời gian, công sức, tiền bạc. - Việc thay đổi công nghệ nhiều khi không được người lao động ủng hộ đặc biệt là những người lao động lớn tuổi và ít được đào tạo. Họ lo sợ nếu áp dụng công nghệ hiện đại mới thì họ sẽ bị sa thải, bị mất “miếng cơm manh áo”. - Sự thiếu quyết tâm của bộ phận cán bộ lãnh đạo DNNN. Do DNNN được hưởng một số ưu đãi nên không thực sự phải đương đầu với sức ép cạnh tranh. Bởi vậy cán bộ quản lý doanh nghiệp không cảm thấy cần thiết phải thực hiện đổi mới công nghệ. Những nguyên nhân kể trên nếu không được sớm khắc phục khi chuyển sang loại hình sở hữu mới thì doanh nghiệp sẽ khó được cải thiện và điều này sẽ khiến các doanh nghiệp phải trả giá đắt nếu không thắng được đối thủ cạnh tranh. 3.4. Đầu tư vào việc xây dựng đội ngũ lao động Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì yếu tố có tác động mạnh nhất đến năng suất và hiệu quả lao động chính là người lao động. Người lao động Việt Nam được đánh giá là cần cù, chăm chỉ, ham học hỏi và khéo tay. Nếu họ được trả thù lao hợp lý và tổ chức tốt nhất định lao động của doanh nghiệp sẽ phát huy hết khả năng của mình từ đó nâng cao năng suất và hiệu quả lao động. Tuy nhiên, trong các DNNN những lợi thế kể trên chưa được phát huy đầy đủ. Nói đến DNNN là nói đến cơ cấu quản lý lao động cồng kềnh, nhiều tầng bậc hay biên chế lao động trong DNNN chưa hợp lý, chưa khoa học dẫn đến gánh nặng về chi phí. Do đó chế độ thù lao chưa được thực hiện tốt. Bên cạnh đó, chức năng, nhiệm vụ không được phân định rõ ràng, kỷ luật lao động không nghiêm minh dẫn đến năng suất lao động chưa cao. Công tác đào tạo lao động ở các DNNN ít được chú trọng, đặc biệt là đào tạo theo chiều sâu. Việc tổ chức các lớp đào tạo chưa được quản lý chặt chẽ, nhiều doanh nghiệp cử người đi học không đúng đối tượng nên hiệu quả đào tạo không cao. Với những nhược điểm kể trên, DNNN sau khi chuyển đổi sang loại hình sở hữu mới phải có những giải pháp khắc phục triệt để. Nguồn vốn quý nhất của bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng là nguồn lao động, nhân sự trong doanh nghiệp. Một đội ngũ lao động được đào tạo gắn kết cùng đoàn kết vượt qua mọi khó khăn thử thách của quá trình kinh doanh sẽ giúp cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn, tạo lợi thế cạnh tranh so vởi đối thủ. Do vậy, doanh nghiệp nên xây dựng cho mình một mục đích riêng làm cơ sở tinh thần cho doanh nghiệp vượt qua mọi khó khăn của thị trường, tạo sự đồng lòng trong tập thể người lao động và khuyến khích người lao động tham gia tích cực mọi hoạt động của doanh nghiệp. KẾT LUẬN Chuyển đổi sở hữu là một yêu cầu tất yếu của nền kinh tế nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. DNNN đang trong tình trạng kinh doanh kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh yếu nhưng lại nắm giữ tài sản lớn, giữ vị trí độc quyền trong nhiều ngành và lĩnh vực, nếu không có những bước đột phá trong chuyển đổi sở hữu DNNN thì không những hạn chế việc phát huy tiềm năng của DNNN mà còn hạn chế cả khả năng phát triển của cả nền kinh tế. Quá trình thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN đã được thực hiện hơn 10 năm qua, thành công đạt được cũng nhiều nhưng hạn chế không phải là ít. Thông qua chuyển đổi sở hữu, DNNN đã phát triển sản xuất kinh doanh, phát huy tốt nguồn nội lực; quan hệ sở hữu được xác định rõ ràng; cơ chế quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh được hoàn thiện; tài chính của doanh nghiệp được tăng cường và cuối cùng là góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng cường sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế. Song bên cạnh đó, việc thực hiện chuyển đổi sở hữu lại không hoàn thành kế hoạch đặt ra; phương thức quản lý và lề lối làm việc vẫn được duy trì theo kiểu cũ dẫn đến tình trạng “bình mới nhưng rượu cũ”; thời gian thực hiện chuyển đổi còn quá dài gây khó khăn cho doanh nghiệp và đặc biệt vẫn chưa giải quyết dứt điểm các khoản nợ, bất cập trong việc xác định giá trị doanh nghiệp trước khi tiến hành chuyển đổi sở hữu... Bởi vậy trong thời gian tới (giai đoạn 2006 – 2010) để có thể hoàn thành mục tiêu đặt ra cho công tác chuyển đổi sở hữu DNNN thì Việt Nam phải kiên quyết thực hiện các giải pháp mạnh nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc còn tồn tại. Từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, phát huy vai trò chủ đạo của DNNN trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước. Bài viết đã đưa ra một số nhận xét về thực trạng và phương hướng, giải pháp thực hiện chuyển đổi sở hữu của DNNN giai đoạn 2006 – 2010. Những nhận xét trên đây còn rất sơ bộ và non kém về phương pháp lý luận và trình độ nhận thức, chưa thể đi sâu như những nhà nghiên cứu kinh tế. Do đó bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót và khuyết điểm, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy các cô đặc biệt là PGS.TS Ngô Thắng Lợi. Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Ngô Thắng Lợi và chuyên viên Lê Mạnh Hùng thuộc Phòng Doanh nghiệp nhà nước Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã giúp đỡ em rất nhiều để hoàn thành bản chuyên đề thực tập này. Sinh viên thực hiện Bùi Thị Thu Hương DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Hoàng Anh, “Chặng đường mới của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước”, Tạp chí Nghiên cứu và Trao đổi số 6/2005 2. Vương Hồng Hà, “Cổ phần hoá sau hơn 10 năm thực hiện: kết quả và những hạn chế”, Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp số 3/2005 3. Lê Hồng Hạnh, Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004 4. Ngô Thắng Lợi, Doanh nghiệp nhà nước trong phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam đến năm 2010, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004 5. Nguyễn Duy Oánh, “Bàn thêm về tính chất của doanh nghiệp nhà nước và sự bức xúc cần sắp xếp lại”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 98/2005 6. Nguyễn Văn Phúc, Một số vấn đề về bán, khoán kinh doanh và cho thuê các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003 7. Nguyễn Văn Quảng, “Doanh nghiệp nhà nước sau hơn 4 năm thực hiện sắp xếp và đổi mới”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 9/2005 8. Tài liệu tham khảo do Phòng sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước Cục Doanh nghiệp nhỏ và vừa - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 9. Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương, Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Hà Nội, 2004 10. Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương, Tăng trưởng kinh tế Việt Nam và những rào cản cần phải vượt qua DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CPH: Cổ phần hoá DNNN: Doanh nghiệp nhà nước DNTN: Doanh nghiệp tư nhân KTNN: Kinh tế Nhà nước XHCN: Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC BẢNG VÀ SƠ ĐỒ Bảng 1: Quy mô vốn của DNNN 14 Bảng 2: Kế hoạch thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN 38 Bảng 3: Kết quả thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005 39 Bảng 4: So sánh tốc độ tăng một số chỉ tiêu quan trọng của DNNN sau chuyển đổi 40 Bảng 5: Tình hình thực hiện kế hoạch chuyển đổi sở hữu ở một số ngành, địa phương năm 2005 41 Bảng 6: Kết quả thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN ngành Công nghiệp giai đoạn 2001 – 2005 44 Bảng 7: So sánh tình hình doanh nghiệp trước và sau khi chuyển đổi sở hữu 53 Bảng 8: Kế hoạch chuyển đổi sở hữu DNNN ở Việt Nam giai đoạn 2006–2010 68 Sơ đồ 1: 10 năm thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN ở Việt Nam thời kỳ 1995 – 2004 38 Sơ đồ 2: Kết quả thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN giai đoạn 2001-2005 40 MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 1 NỘI DUNG 3 CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI THỰC HIỆN CHUYỂN ĐỔI SỞ HỮU DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 3 I. Doanh nghiệp nhà nước và sự cần thiết phải thực hiện chuyển đổi sở hữu 3 1. Khái luận chung về doanh nghiệp nhà nước 3 2. Sự cần thiết phải thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 6 2.1. Chính sách đa thành phần sở hữu ở Việt Nam 6 2.2. Vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam 8 2.3. Xu thế đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 11 2.4. Thực trạng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước và những yêu cầu mới đặt ra 13 II. Các hình thức chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 18 1. Căn cứ lựa chọn doanh nghiệp nhà nước tiến hành chuyển đổi sở hữu 18 1.1. Những công ty mà Nhà nước giữ 100% vốn 18 1.2. Những công ty tiến hành chuyển đổi sở hữu dưới hình thức cổ phần hoá, giao cho tập thể người lao động hoặc bán 19 2. Hình thức CPH 20 2.1. Mục tiêu, yêu cầu của CPH 20 2.2. Đối tượng và điều kiện cổ phần hóa 21 2.3. Hình thức CPH công ty nhà nước 21 3. Hình thức giao công ty nhà nước cho tập thể người lao động 22 3.1. Mục tiêu của việc giao công ty nhà nước 22 3.2. Điều kiện giao doanh nghiêp cho tập thể người lao động 22 4. Hình thức bán công ty nhà nước 23 4.1. Mục tiêu của việc bán công ty nhà nước 23 4.2. Các phương thức tiến hành bán công ty nhà nước 23 III. Các nhân tố tác động đến quá trình chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam 24 1. Cơ chế chính sách liên quan đến việc chuyển đổi sở hữu 24 2. Sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong quá trình tổ chức thực hiện 25 3. Nhân tố khách quan xuất phát từ chính trong nội tại doanh nghiệp 26 4. Tâm lý, nhận thức của cán bộ quản lý doanh nghiệp và người lao động 28 IV. Kinh nghiệm chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc 28 1. Bối cảnh thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc 29 2. Các hình thức và nội dung cải cách DNNN tại Trung Quốc 30 3. Quá trình chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc 31 4. Bài học kinh nghiệm đối với quá trình chuyển đổi sở hữu doanh nghiêp nhà nước ỏ Việt Nam 32 CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHUYỂN ĐỔI SỞ HỮU DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2005 35 I. Mục tiêu chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2001-2005 35 1. Chủ trương và chính sách thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước 35 2. Mục tiêu chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2001– 2005 37 II. Đánh giá thực trạng chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005 38 1. Thực trạng chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005 38 2. Thực trạng chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở một số ngành 42 2.1. Ngành công nghiệp 42 2.2. Ngành Giao thông vận tả 46 3. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và mối quan tâm của doanh nghiệp nhà nước sau khi thực hiện chuyển đổi sở hữu 49 3.1. Kết quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp sau chuyển đổi 49 3.2. Mối quan tâm của doanh nghiệp sau chuyển đổi 49 III. Đánh giá quá trình thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005 51 1. Đánh giá chung 51 1.1. Tác động tích cực của việc chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước 51 1.2. Những mặt còn hạn chế 56 2. Nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước 57 2.1. Cơ chế chính sách liên quan đến chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự phù hợp 57 2.2. Quá trình tổ chức, chỉ đạo thực hiện còn nhiều bất cập 58 2.3. Giá trị doanh nghiệp, giá trị tài sản và các khoản công nợ chưa được giải quyết triệt để 60 2.4. Hạn chế về nhận thức 63 CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHUYỂN ĐỔI SỞ HỮU DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010 65 I. Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2006 – 2010 65 1. Quan điểm chỉ đạo 65 2. Định hướng thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước 67 II. Giải pháp thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2006 – 2010 68 1. Tăng cường tổ chức quản lý Nhà nước tạo điều kiện tốt cho thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước 68 1.1. Xác định những ngành, lĩnh vực mà doanh nghiệp nhà nước cần nắm giữ nhằm củng cố vị trí then chốt trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 68 1.2. Tăng cường quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước 70 1.3. Tăng cường sự chỉ đạo chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước 73 1.4. Sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện cơ chế chính sách 74 2. Những giải pháp có liên quan đến tổ chức quá trình thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước 76 2.1. Thực hiện tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ quản lý doanh nghiệp và người lao động 76 2.2. Kiên quyết bằng các phương thức thị trường thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp 77 2.3. Xử lý nhanh các khoản nợ của doanh nghiệp nhà nước trước khi chuyển đổi 78 2.4. Xử lý vấn đề tài sản trong doanh nghiệp nhà nước trước khi tiến hành chuyển đổi 78 3. Đẩy mạnh hoạt động của doanh nghiệp sau chuyển đổi sở hữu 79 3.1. Xây dựng chiến lược kinh doanh làm kim chỉ nam cho các hoạt động của doanh nghiệp 81 3.2. Đầu tư cho công tác tiếp thị, nghiên cứu phát triển sản phẩm và quảng bá thương hiệu 82 3.3. Nâng cao trình độ và khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến 83 3.4. Đầu tư vào việc xây dựng đội ngũ lao động 84 KẾT LUẬN 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88 LỜI CAM ĐOAN Tên em là : BÙI THỊ THU HƯƠNG Lớp : Kế hoạch 44 Em xin cam đoan chuyên đề "Định hướng và giải pháp thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010” do em tự viết dựa trên các thông tin tư liệu tại cơ sở thực tập và các phương tiện thông tin đại chúng, không sao chép bất kỳ tài liệu nào khác và không vi phạm quy chế của nhà trường. Nếu sai em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước Khoa và nhà trường Sinh viên Bùi Thị Thu Hương ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28303.doc
Tài liệu liên quan