Phần I
Đầu tư và khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp
I, Đầu tư trong doanh nghiệp .
1,Khái niệm và đặc điểm của đầu tư .
1.1,Khái niệm
Trong những năm cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90 khái niệm “đầu tư ” trở nên thân quen đối với các nhà quản lý các cấp, đặc biệt phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội, có sự quản lý của nhà nước, ở nước ta đòi hỏi một sự đổi mới mạnh mẽ ở nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực đầu tư . Vậy đầu tư là gì, chúng ta có thể có
84 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1292 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Định hướng và giải pháp đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của Công ty Xi măng Bỉm Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những cách hiểu khác nhau về đầu tư .
Đầu tư theo nghĩa rộng nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn nhân lực đã bỏ ra để đạt được các kết qủa đó. Nguồn lực đó có thể là tiền tài nguyên thiên nhiên là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả tăng thêm đó là các tài sản chính (vốn), tài sản trí tụê ( trình độ văn hoá chuyên môn khoa học kỹ huật ...). Tài sản vật chất (nhà máy đường xá...) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội .
Trong các kết quả đã đạt được trên đây, những kết quả là tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn năng lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc, mọi nơi , không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn cả với nền kinh tế. những kết quả này không chỉ với người đầu tư mà cả nền kinh tế được thu hưởng.
Theo nghĩa hẹp đầu tư bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng , để đạt được cac kết quả đó
Từ đây ta có thể khái niệm về đầu tư phát triển như sau : Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
1.2, Đặc điểm của đầu tư
Hoạt động đầu tư phát triển có những đặc điểm khác biệt với các loại hình khác là :
- Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và nằm khê đọng trong suốt quá trình thực đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu tư phát triển.
- Thời gian để tiến hành một công cộc đầu tư cho đén khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra.
- Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng và do đó và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế...
- Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có hàng năm, hàng vạn năm ... điều này nói lên giá trị lớn lao của các thành quả đầu tư phát triển.
- Các thành quả hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó tạo dựng lên . Do đó các điều kiện địa hình tại đó có ảnh lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác động sau này của các kết quả đầu tư .
- Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian .
2) Vai trò đầu tư trong doanh nghiệp .
Qua phân tích nghiên cứu các nội dung của đầu tư trong doanh nghiệp chúng ta thấy rằng đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Để tạo dựng cơ sở vật chất cho sự ra đời của bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải xây dựng văn phòng, nhà xưởng, mua sắm lắp đặt máy móc thiết bị... trong quá trình hoạt động cơ sở vật chất này bị hư hỏng hao mòn, doanh nghiệp phải bỏ chi phí để sửa chữa. Đáp ứng được nhu cầu của thị trường và thích ứng với quá trình đổi mới phát triển của khoa học kỹ thuật, các doanh nghiệp phải đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật, quy trình công nghệ. Tất cả các hoạt động đó đều là hoạt động đầu tư. Ngay cả trong các doanh nghiệp hoạt động vô vị lợi cũng phải đầu tư để tiến hành sửa chữa lớn và thực hiện các chi phí thường xuyên.
Quá trình đầu tư trong doanh nghiệp có những vai trò quan trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp qua các mặt sau :
Thứ nhất : Đầu tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, xã hội liên tục phát triển, nền kinh tế toàn cầu nói chung, nền kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng cũng vì thế mà không ngừng vận động và phát triển. Sự phát triển đó được thể hiện rất rõ trong đời sống dân cư. Nhu cầu xã hội tăng lên cả về mặt lượng và mặt chất , nếu trước đây người ta mong muốn được “ăn no, mặc ấm”
Thì ngày nay nhu cầu ấy không còn phù hợp nữa mà trở thành nhu cầu mới “ăn ngon, mặc đẹp” .
Thị trường ngày càng trở nên sôi động, nhu cầu của con người phát triển đòi hỏi tiêu dùng nhiều hơn, hàng hoá phải có chất lượng cao, mẫu mã đẹp đa dạng và phong phú. Vì thế mà các nhà cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho thị trường muốn tồn tại được thì phải đáp ứng nhu cầu đó của dân cư. Cuộc chạy đua này là một cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nhà sản xuất để giành giật thị trường cho mình. Người quyết định số phận của doanh nghiệp là khách hàng, họ chọn nhà cung cấp nào thì nhà cung cấp đó tồn tại, tiêu chuẩn lựa chọn của họ ngày càng cao. Người tiêu dùng muốn có một túi hàng với giá thành rẻ nhất nhưng độ thoả dụng cao nhất, đó là hàng hoá có chất lượng tốt, có mẫu mã đẹp, có dịch vụ hoàn hảo.
Vì tất cả lẽ đó mà đòi hỏi nhà sản xuất phải tiến hành đầu tư phát triển. Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp có thể được tiến hành theo những chiến lược khác nhau để giành được yêu thế cạnh tranh trên thị trường.
Phân tích trên chúng ta có thể khẳng định lại lần nữa là: Đầu tư tạo điều nâng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Thứ hai : Đầu tư tạo diều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm .
Như chúng ta đã biết, đầu tư trong doanh nghiệp bao gồm ; đầu tư vào lao động, đầu tư vào tài sản cố định, đầu tư vào hàng dự trữ, đầu tư vào tài sản vô hình khác. Tất cả việc đầu tư này nhằm mục đích là tạo ra một sản phẩm với chất lượng cao, mẫu mã đẹp để đáp ứng nhu cầu của con người trong xã hội hiện đại. Điều này đã được chứng minh, trong những năm qua các doanh nghiệp muốn tồn tại trong nền kinh tế thị trường thì căn bản nhất là phải nâng cao chất lượng sản phẩm hạ giá thành ... như công ty thép Miền Nam, các côg ty may , công ty dày da...
Thứ ba : Đầu tư tạo điêù kiện giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận . Không có doanh nghiệp nào tiến hành sản xuất kinh doanh lại không đặt mục tiêu về lợi nhuận. Không chỉ là mong muốn có lợi nhuận mà họ còn mong muốn tiền của họ không ngừng tăng lên tức là quy mô lợi nhuận ngày càng được mở rộng .
Hoạt động đầu tư của mỗi doanh nghiệp chính là hoạt động nhằm thực hiện chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó với mục tiêu đạt được lợi nhuận mà doanh nghiệpp đề ra. Khi lợi nhuận càng cao thì lợi ích càng lớn và ngược lại . Lợi nhuận được quy mô bỡi doanh thu và chi phí theo công thức sau :
Lợi nhuận = doanh thu - chi phí
Doanh thu có lớn hay không lại phụ thuộc vào quá trình đầu tư của doanh nghiệp. Nếu đầu tư mang lại hiệu quả cao thì doanh thu sẽ nhiều Như vậy đầu tư đã tạo điều kiện giảm chi phí sản xuất , tăng lợi nhuận .
Thứ tư : Đầu tư góp phần đổi mới công nghệ ,trình độ khoa học kỹ thuật trong sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp .
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn luôn chú trọng đến việc đổi mới nhằm nâng cao sức cạnh tranh của mình. Và một trong các công việc đầu tư của doanh nghiệp là đầu tư vào tài sản cố định . Điều này có nghĩa là doanh nghiệp tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng suất, đổi mới sản phẩm cả về chủng loại mẫu mã và chất lượng ..
Như vậy có thể thấy dưới sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, mỗi doanh nghiệp đều nhận thấy vai trò to lớn của đầu cho công nghệ cũng như hiện đại hoá máy móc thiết bị trong quá trình sản xuất . Hay nói cách khác đầu tư góp phần đổi mới công nghệ trình độ khoa học kỹ thụât .
Thứ năm: Đầu tư góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Để hoạt động được và hoạt động có hiệu quả, bất cứ một doanh nghiệp nào cũng cần có một đội ngũ lao động có trình độ, kỹ năng. Trình độ kỹ năng của người lao động ảnh hưởng tới quá trình sản xuất kinh doanh và chất lượng sản phẩm... Cùng với điều kiện sản xuất như nhau nhưng lao động có trình sẽ tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt hơn. Đầu tư vào lao động bao gồm những hoạt động như đầu tư đào tạo cán bộ quản lý, tay nghề công nhân và các chi phí để tái sản xuất sức lao động .
Như vậy, đầu tư phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực .
3) Phân loại đầu tư trong doanh nghiệp .
Chúng ta có nhiều phương pháp phân loại đầu tư trong doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau .
Những tiêu thức phân loại đầu tư trong doanh nghiệp thường được sử dụng là:
a) Theo quy mô của dự án đầu tư thì đầu tư trong doanh nghiệp chia thành : + Đầu tư cho các dự án nhóm A
+ Đầu tư cho các dự án nhóm B
+ Đầu tư cho các dự án nhóm C
Tuỳ theo quy định của từng quốc gia, từng ngành mà mỗi dự án được xếp vào nhóm A, B hoặc nhóm C .
b) Theo ngành hoặc lĩnh vực kinh doanh thì đầu tư trong doanh nghiệp được chia thành :
+ Đầu tư cho công nghiệp .
+ Đầu tư cho nông nghiệp .
+ Đầu tư cho dịch vụ .
c) Đầu tư trong doanh nghiệp chia thành đầu tư cố định và đầu vào dự trữ .
+ Đầu tư cố định là đầu tư vào nhà xưởng , máy móc thiết bị và các hàng hoá lâu bền khác .
+ Đầu tư vào dự trữ Là những khoản đầu tư vào nguyên liệu thô , bán thành phẩm và sản phẩm hoàn thành .
d) Đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu :
+ Đầu tư theo chiều rộng được hiểu là trên cơ sở năng lực sản xuất hiện có, doanh nghiệp tiến hành đầu tư mở rộng quy mô sản xuất tăng khối lượng sản phẩm. Song không đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị nên chất lượng sản phẩm không đổi, không làm giảm giá thành của sản phẩm .
+ Đầu tư chiều sâu được hiểu là sản phẩm sản xuất ra làm tăng lợi nhuận do năng suất lao động và hiệu quả tương đối của việc sử dụng vốn tăng lên khối lượng không tăng hoặc có thể giảm bằng việc đầu tư máy móc thiết bị hiện đại .
e) Đầu tư hữu hình và đầu tư vô hình .
+ Đầu tư vào tài sản hữu hình là đầu tư nhằm tạo ra hoặc tăng thêm những vật chất, vật thể có tính chất hữu hình .
+ Đầu tư vào tài sản vô hình gồm : đầu tư vào bí quyết công nghệ , đào tạo lao động . Đầu tư vào quảng cáo, nghiên cứu thị trường , đầu tư vào nghiên cứu ứng dụng .
4) Nội dung của đầu tư trong doanh nghiệp .
4.1) Đầu tư phát triển nguồn nhân lực .
Bước sang thế kỉ 21 ,trí thức sẽ trở thành yếu tố có sức mạnh nhất, quan trọng nhất trong các yếu tố sản xuất khác .Do vậy ai nắm được trí tthức, người đó sẽ ở vào địa vị chi phối kinh tế xã hội, quốc gia nào nắm được nhiều trí thức quốc gia đó sẽ ở vị trí chi phối nền kinh tế toàn cầu, khu vực nào hội tụ được nhiều trí thức nhất khu vực đó sẽ trở thành trung tâm của nền kinh tế thế giới.Tri thức là nguồn yéu tố cốt lõi của nền kinh tế trí thức, vật mang trở trí thức là con người mà tố chất của người gắn liền với giáo dục. Vì vậy đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư vào nguồn trí thức. Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy muốn đất nước phát triển thì việc đầu tư cho giáo dục phải lớn mạnh, việc này không chỉ có nhà nước hay cá nhân mà toàn xã hội, toàn thành phần kinh tế .
Như vậy, bất cứ loại hình doanh nghiệp nào đều phải quan tâm đến lao động trong quá trình đầu tư của mình. Việc quan tâm đến lao động trong doanh nghiệp không chỉ số lượng mà cần quan tâm cả is lượng và vật chất lao động :
Về số lượng lao động :Nó ảnh hưởng đến quy mô sản xuất nếu có nhiều lao động và ngược lại.
Về chất lượng lao động : Nó có ảnh hưởng đến cường độ lao động, năng suất lao động . Việc tăng chất lượng lao động chỉ bằng cách tăng đầu tư cho y tế, giáo dục đào tạo,dạy nghề ... Từ đó nâng cao thể lực trình độ, tay nghề của người lao động.
Trong điều kiện này nhiều doanh nghiệp coi việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực là chiến lược trong cạnh tranh . Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp được chia làm ba loại : Cán bộ quản lí,công nhân sản xuất và cán bộ nghiên cứu khoa học . Đối với từng loại này phải có chính sách đào tạo riêng nhưng đều phải liên tục được tu dưỡng rèn luyện nghiên cứu, học tập ...để nâng cao kinh nghiệm, trình độ tay nghề ...
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp được bắt đầu từ khâu tuyển người đây là cơ sở để có được lực lượng lao động tốt, bởi vậy khâu tuyển người đòi hỏi cần phải rất khắt khe cẩn thận nhất .Tuyển người hiện nay đòi hỏi phải đạt được các nhu cầu như : Trình độ văn hoá trình độ ngoại ngữ, trình độ vi tính ,yếu tố thể lực luôn được đánh giá cao đặc biệt là ở công nhân sản xuất .
Thứ hai là, nâng cao khả năng lao động của người lao động thường xuyên Trong điều kiện đổi mới hiện nay rất nhiều công nghệ hiện đại đã và đang được ứng dụng trong các loại hình doanh nghiệp ở nước ta .vì vậy việc đào tạo lao động là yêu cầu vô cùng quan trọng ,rất nhiều công nhân và quản lí ...đã và đang ra nước ngoài học tập và các doanh nghiệp cũng học tập lẫn nhau .
Thứ ba là việc khen thưởng tổ chức các hoạt động về tinh thần giúp người lao động hăng say trong công việc từ đó nâng cao năng suất lao động .Các hình thức khen thưởng đang được thực hiện ở các doanh nghiệp các cá nhân thành viên có thành tích tốt đều được thưởng xứng đáng góp phần nâng cao trong trong xí nghiệp , công ty , các cuộc thi các cá nhân sản xuất giỏi, nâng cao bậc thợ ... được tổ chức thường xuyên .
Nhờ có chính sách đào tạo lao động nhiều doanh nghiệp đã đạt được những thành công to lớn, góp phần không nhỏ trong chiến lược sản xuất kinh doanh cũng như chiếnlược cạnh tranh của mình .
4.2) Đầu tư vào tài sản cố định, đổi mới máy thiết bị, công nghệ ở doanh nghiệp .
Công nghệ có thể hiểu là tập hợp các công cụ phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực sản xuâts thành phẩm nhằm mục đích sinh lời
Công cụ phương tiện ở đây không chỉ là phương tiện vật chất của sản xuất mà còn là bất kỳ công cụ và bí quyết có liên quan vào dùng để chế tạo, sử dụng công cụ vật chất đó để thực hiện các hoạt động biến đổi công nghệ gồm hai phần : phần cứng và phần mềm, phần cứng của công nghệ là máy móc thiết bị, công cụ ... Phần mềm của công nghệ là kỷ năng bí quyết, công nghệ kinh nghiệm quản lý . Như vậy khái niệm bao hàm có máy móc thiết bị và kỷ năng ,bí quyết công nghệ kinh nghiệm quản lý đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị công nghệ là một hình thức của đầu tư phát triển nhằm thực hiện hoá dây chuyền công nghệ và trang thiết bị tăng năng lực sản xuất kinh doanh cũng như khả năng cạnh tranh của sản phẩm thông qua việc cải tiến đổi mới nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ . Để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng đòi hỏi ngày càng cao cũng như đối phó với các đối thủ cạnh tranh tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường thì doanh nghiệp không còn con đường nào khác là phaỉ nâng cao chất lượn sản phẩm của mình hạ giá thành để nâng cao khả năng cạnh tranh đồng thời tăng năng suất lao động , cải tiến và phát triển các loại hàng hoá dịch vụ mới , để thoả mãn những đòi hỏi của thị trường vấn đề này đòi hỏi các doanh nghiệp phải đầu tư vào đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ .
Việc đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ ở các doanh nghiệp cần xem xét các vấn đề sau :
Thứ nhất là : vòng đời của máy móc thiết bị và công nghệ .
Chu kỳ phát triển của máy móc thiết bị và công nghệ như sau : xuất hiện, tăng trưởng, trưởng thành, bảo hoà, chu kỳ đó gọi là vòng đời của máy móc thiết bị. Đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ cũng phải căn cứ vào vòng đời này để quyết định thời điểm đầu tư thích hợp nhằm đảm baỏ hiệu quả của đồng vốn.
Thứ hai là : phân tích môi trường kinh doanh .
- Phần lớn máy móc thiết bị công nghệ chủ yếu phải nhập từ nước ngoài hoặc qua chuyển công nghệ nên cần phải phân tích môi trừơng quốc tế như các vấn đề về pháp luật , quyền sở hữu bằng phát minh sáng chế , chuyên gia công nghệ ... Bên cạnh đó cần phải xem xét phân tích môi trường văn hoá như phong tục tập quán , định chế xã hội của nước có công nghệ xuất khẩu. Các vấn đề về hệ thống chính trị, các chính sách như chính sách thương mại , quan hệ kinh tế đối ngoại cũng cần xem xét một cách kỹ lưỡng .
- Phân tích môi trường kinh tế quốc dân cần chủ động đối với các yếu tố kinh tế , chính trị xã hội , điều kiẹn tự nhiên , nắm bắt được thực trạng nền kinh tế đang ở giai đoạn này , tỷ lệ lạm phát là bao nhiêu ? lãi suất ngân hàng là bao nhiêu ? phải dự đoán được xu hướng tiêu dùng và thị hiếu của dân cư thông qua các hoạt động nghiên cứu thị trường , đồng thời phải nghiên cứu các tác động của MMCN đến ô nhiểm môi trường cũng như tác động của tự nhiên đến máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất .
- Phân tích môi trường ngành và nội bộ ngành .
Tập trung và tìm hiểu xem có bao nhiêu đối thủ cạnh tranh tiềm lực và khả năng của họ như thế nào, sản phẩm của họ đóng vai trò như thế nào đối với người tiêu dùng, họ đang sử dụng máy móc thiết bị công nghệ nào .
Thứ ba là : Phân tích thực trạng nội bộ doanh nghiệp :
- Phân tích nhóm nhân tố liên quan đến nguồn nhân lực : bao gồm :
+ Trình độ nghề nghiệp của công nhân sản xuất trực tiếp .
+ Trình độ của cán bộ lãnh đạo , nhất là năng lực lãnh đạo kỹ thuật .
- Phân tích vị thế của doanh nghiệp trên thị trường :
+ Nguồn tài chính là vấn đề cần chú ý lựa chọn mục tiêu vừa phải và có hướng đi phù hợp .
+ Cần xem xét quy mô vốn có thể huy động và đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của mỗi ngành .
- Xem xét các điều kiện về cơ sở hạ tầng hiện có hoặc có các biện pháp bổ xung thích hợp với máy móc thiết bị và công nghệ dự kiến sẽ lựa chọn .
Thứ tư là : phân tích các yếu tố liên quan đến máy móc thiết bị và công nghệ .
- Xem xét xu hướng lâu dài của máy móc thiết bị và công nghệ để đảm bảo tránh sự lạc hậu hoặc khó khăn gây trở ngại cho việc sử dụng máy móc thiết bị ( khan hiếm về nguyên liệu hoặc vật liệu mà máy móc thiết bị sử dụng...) trong khi chưa thu hồi đủ vốn .
- Lựa chọn máy móc thiết bị mà các dụng cụ thay thế sẵn có trong nước hoặc là được đảm bảo chắc chắn có phụ tùng thay thế .
- Máy móc công nghệ phải lựa chọn loại có nhiều nguồn cung cấp để tạo ra sự cạnh tranh giữa các nhà cung cấp để mua được công nghệ với giá phải chăng, tạo thế chủ động cho hoạt động sau này .
- Xem xét toàn diện khía cạnh kinh tế kỹ thuật của máy móc thiết bị và công nghệ để lựa chọn công nghệ thích hợp, tối ưu với điều kiện của doanh nghiệp .
Thứ năm là , phân tích các chỉ tiêu thể hiện hiệu quả đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ .
- Giảm bớt cường độ lao động, các công việc nặng nhọc, thay đổi cơ cấu lao động trong doanh nghiệp theo hướng tăng tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật, giảm tỷ lệ lao động tay nghề thấp, không có trình độ nghiệp vụ .
- Tác động đến cơ cấu tổ chức cũng như tổ chức sản xuất của doanh nghiệp theo hướng tinh gọn, năng động, và hiệu quả .
- Cải thiện môi trường lao động theo hứơng giảm dần các yếu tố và khu vực độc hại, phát triển công nghệ sạch
- Mở rộng thị trường theo hướng có nhiều bạn hàng mới và thị phần được mở rộng, đáp ứng được nhiều đòi hỏi khắt khe và thường xuyên thay đổi của thị trường .
- Thực hiện được mục tiêu trong chiến lược chương trình phát triển kinh tế xã hội của đất cũng như các ngành lĩnh vực mà doanh nghiệp đang tham gia kinh doanh
4.3) Đầu tư vào tài sản vô hình khác .
Đầu tư vào tài sản vô hình có thể hiểu như sau : Đó chính là đầu tư vào nâng cao trình độ tay nghề, phương pháp quản lý, bí quyết công nghệ nghiên cứu thị trường, các phương pháp khuyến mại ...
ở đây chỉ đề cập một số nội dung chủ yếu nhất :
* Đầu tư cho nghiên cứu và triển khai ( R&D)
Trước hết cần phải nói đến đó là đầu tư cho nghiên cứu và triển khai cho các doanh nghiệp
Đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ là lĩnh vực đầu tư không thể thiếu được của các công ty kinh doanh nói chung . Nghiên cứu khoa học và công nghệ giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của các công ty trong sản xuất kinh doanh, bảo đảm sức mạnh và vị trí cạnh tranh của công ty trên thị trường hiện tại cũng như trong tương lai . Hoạt động đầu tư cho nghiên cứu khoa học và công nghệ được thực hiện dưới hình thức đầu tư cho nghiên cứu triển khai thường gắn với chiến lược kinh doanh của công ty, góp phần thực hiện những mục tiêu ( Ngắn hạn hoặc dài hạn ) của công ty . Tuy nhiên nhu cầu, khả năng và quy mô đầu tư nghiên cứu và triển khai của mỗi công ty có sự khác nhau
Mục đích của các chương trình và dự án R&D không chỉ dừng lại ở dạng nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu nhằm tăng chất lượng của sản phẩm , tạo nên sản phẩm có đặc điểm nổi bật hơn , mà còn tập trung nghiên cứu tìm kiếm , phát triển kỹ thuật và công nghệ mới nhất cho công ty có thể nói R&D là phần không thể thiếu được trong các hoạt động của công ty . đầu tư vào R&D là một trong những yếu tố giúp các công ty giảm được các chi phí liên quan đến sản xuất kinh doanh
Nhu cầu đầu tư nghiên cứu và phát triển của các doanh nghiệp đã được xác định trên cơ sở phân tích những mặt mạnh yếu và các cơ hội của công ty và khả năng tài chính của công ty . Dựa vào phân tích những mặt mạnh yếu và các cơ hội của công ty người ta có thể xác định được liêụ công ty có nhu cầu đầu tư cho nghiên cứu và triển khai hay không và cần phải tập trung đầu tư cho các lĩnh vực, cho các hoạt động nào của công ty. Nghiên cứu khả năng tài chính của công ty sẽ cho phép xác định được khả năng và quy mô đầu tư nghiên cứu triển khai của bản thân công ty đó. Quy mô đầu tư nghiên cứu triển khai của các công ty không những phụ thuộc vào khả năng tài chính của công ty mà còn phụ thuộc vào hàng loạt các nhân tố như :
- Quy mô sản xuất kinh doanh của công ty : Quy mô sản xuất kinh doanh càng lớn thì khả năng, quy mô đầu tư nghiên cứu triển khai càng lớn
- Cơ hội về đổi mới kỹ thuật và các cơ hội trong ngành : những ngành có nhiều cơ hội đổi mới công nghệ và kỹ thuật đòi hỏi các công ty trong ngành đó phaỉ tích cực đầu tư cho nghiên cứu nắm bắt kịp thời các cơ hội về kỹ thuật và công nghệ của ngành .
Khi đánh giá hiệu quả của nghiên cứu triển klhai các doanh nghiệp thường dựa trên một số quan điểm sau :
Thứ nhất là, hiệu quả đầu tư nghiên cứu và triển khai phải được xem xét đánh giá toàn diện, về các mặt tài chính kinh tế xã hội, môi trường
Thứ hai là, hiệu quả đầu tư nghiên cứu và triển khai vừa có thể lượng hoá được vừa có thể không lượng hoá được. Do đó kết quả của đầu tư cho nghiên cứu và triển khai có thể được thể hiện dưới dạng hiện hoặc dạng ẩn tuỳ theo dự án, chương trình nghiên cứu .
Tóm lại, có thể nói đầu tư cho nghiên cứu triển khai đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Các chương trình và dự án R&D gắn chặt với chiến lược kinh doanh giúp các doanh nghiệp đạt được các mục tiêu ngắn hạn cũng như dài hạn về kinh tế cũng như các ảnh hưởng khác .
* Đầu tư cho việc nghiên cứu thị trường :
Thứ nhất, đầu tư cho việc nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp trước hết là nghiên cứu khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp .
Có thể nói cạnh tranh là một đặc tính cơ bản nhất của thị trường , sẽ không có thị trường nếu không có cạnh tranh, trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo mục tiêu của doanh nghiệp, người tiêu dùng là tối đa hoá lợi nhuận và sự tiện ích của mình , khả năng cạnh tranh là nguồn năng lượng thiết yếu để doanh nghiệp tiếp tục vững bước trên con đường hội nhập kinh tế
Thực tế cho thấy doanh nghiệp kinh doanh thành công thực hiện các kỹ năng cạnh tranh rất thuần thục, nó tạo thành phương pháp cạnh tranh đặc thưng doanh nghiệp. Các kỹ năng này tập trung vào :
- Tạo lập và phát triển uy tín doanh nghiệp
- Coi trọng chiến lược mở rộng thị trường
- Xây dựng và thực hiện đổi mới sản phẩm , mẫu mã
- Luôn tìm cách giảm chi phí sản xuất (tồn đọng vốn, chi phí trung gian, sáng kiến cải tiến kỹ thuật )
- Sách lược tiêu thụ sản phẩm khôn khéo .
Thứ hai khi nghiên cứu thị trường trong đầu tư tài sản vô hình của doanh nghiệp ta cần phải nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng
Hành vi của người tiêu dùng được thực hiện trong việc tìm kiếm, mua, sử dụng đánh giá và vứt bỏ các sản phẩm và dịch vụ mà họ dự định sẽ thoả mãn các nhu cầu của họ . Nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng là nghiên cứu các cá nhân đưa ra quyết định như thế nào đối với việc chi tiêu các nguồn tài nguyên có thể sử dụng của họ ( như tiền thơì gian và nổ lực ) trong các hạng mục liên quan đến sự tiêu dùng . hành vi người tiêu dùng bao gồm hai quyết định là tinh thần và hoạt động vật chất . Qua việc nghiên cứu hành vi người tiêu dùng sẽ cung cấp cho các nhà sản xuất những thông tin quan trọng để họ lên kế hoạch sản xuất thiết kế cải tiến và xây dựng được chiến lược khuyến mại .
Nghiên cứu hành vi người tiêu dùng đi xa hơn các vấn đề trên nó xem xét vấn đề sử dụng của ngươì tiêu dùng đối với các hàng hoá họ mua và các đánh giá tiếp theo của họ . Những hiệu quả có thể xảy ra sau đó của sự không thỏa mản sau khi mua hàng của người tiêu dùng có thể tác động quan trọng đối với các nhà Marketing , người phải xây dựng được chiến lược vận động khuyến mại của công ty . hơn nữa việc nghiên cứu hành vi người tiêu dùng cũng nghiên cứu cách họ sử dụng sản phẩm họ mua như thế nào và các đánh giá sau khi mua hàng của họ .
Mục đích chính của nghiên cứu người tiêu dùng là phục vụ cho công tác quản lý kinh doanh sản xuất và dịch vụ . Các nhà quản lý muốn biết nguyên nhân hành vi của người tiêu dùng, họ muốn biết con người đưa ra quyết định mua hàmg sử dụng, cất kho và vứt bỏ các sản phẩm như thế nào từ đó xây dựng chiến lược Marketing lập ra những phần mảng thị trường mới cho một sản phẩm riêng hay một loại sản phẩm. Nghiên cứu hành vi người tiêu dùng được tiến hành bỡi các tổ chức Marketing khác như hiệp hội nghiên cứu thị trường và các công ty Marketing riêng biệt.
Thấy được tầm quan trọng và cần thiết của việc nghiên hành vi người tiêu dùng, các công ty, xí nghiệp đang đầu tư một cách thích đáng cho việc nghiên cứu. Việc nghiên cứu thành công giúp doanh nghiệp có chiến lược sản xuất kinh doanh đúng hướng, tiêu thụ nhanh sản phẩm quay nhanh vòng vốn nhanh thúc đẩy nền kinh tế phát triển .
* Đầu tư và bí quyết công nghệ
Một nội dung trong đầu tư tài sản vô hình đó chính là bí quyết công nghệ. Đầu tư vào tài sản vô hình cũng có nghĩa là đầu tư vào mua bí quyết công nghệ
Ngoài máy móc thiết bị thì bí quyết công nghệ (Know-how) là một phần quan trọng của công nghệ. Thật sai lầm và không đầy đủ khi đầu tư đổi mới công nghệ mà không chú ý đến bí quyết công nghệ . Các doanh nghiệp hiện nay thường chỉ nghĩ đến mua máy móc thiết bị mà quên mất đi phần bí quyết công nghệ .
Bí quyết công chứa đựng trong tất cả các khâu, các công đọan của quá trình sản xuất như tổ chức hợp lý hoá, điều hành sản xuất, hệ thống tài chính kế toán, khách hàng, thị trường tiêu thụ sản phẩm, đào tạo và thông tin, lập kế hoạch cải tiến công nghệ, xử lý môi trường...
Chính vì thế bí quyết công nghệ đóng vai trò rất quan trọng là nó là một nhân tố mà các doanh nghiệp cần quan tâm xem xét và tiến hành đầu tư .
4.4) Đầu tư vào hàng dự trữ .
* Theo lý thuyết Mankew : đầu tư vào hàng tồn kho gồm hàng hoá mà doanh nghiệp giữ lại trong kho kể cả vật tư nguyên liệu, bán thành phẩm và thành phẩm .
- Theo cách phân loại căn cứ vào đặc điểm hoạt động của các kết quả Đầu tư có đầu tư cơ bản (đầu tư cố định) Nằm tái sản xuất các tài sản . tài sản cố định, đầu tư vận hành (đầu tư vào hàng dự trữ) nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các doanh nghiệp mới hình thành tăng thêm tài sản lưu động cho các doanh nghiệp hiện có (đầu tư nguyên vật liệu thô, bán thành phẩm và sản phẩm hoàn thành )
Đầu tư vận hành chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư, đặc điểm kỹ thuật của quá trình thực hiện đầu tư không phức tạp .
* Đặc điểm của đầu tư vào dự trữ .
- Dự trữ được chuyển hoá thành các dạng khác nhau trong quá trình sản xuất, ví dụ : từ nguyên liệu thô - bán thành phẩm - thành phẩm .
- Quy mô đầu tư vào dự trữ của một doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều nhân tố như dự đoán cầu trong tương lai, phụ thuộc vào quy luật tiêu dùng nhu cầu riêng biệt của mỗi mặt hàng và quy luật tiêu dùng ở thời kỳ quá khứ sẽ được phản ảnh tương tự ở kỳ dự báo
- Phụ thuộc vào khách hàng, sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp có tham vọng chiếm lĩnh thị trường lớn thì sẽ dự trữ nhiều
- Phụ thuộc vào mức độ chậm trễ của khâu phân phối lưu thông thể hiện ở một bộ phận dự trữ là dự trữ bảo hiểm
Dự trữ bảo hiểm là bộ phận dự trữ cần thiết trong những trường hợp sau :
+ Lượng vật tư tiêu dùng bình quân một ngày đêm phục vụ cho sản xuất lớn hơn mức tiêu dùng vật tư thường xuyên ở doanh nghiệp
+ Lượng vật tư nhận được từ đơn vị cung ứng trong lần giao hàng ít hơn so với kế hoạch
+ Khoảng cách chênh lệch giữa hai kỳ cung ứng nối tiếp nhau của đơn vị cung ứng lớn hơn so với kế hoạch
- Chi phí dự trữ bao gồm :
+ Chi phí đặt hàng :gồm chi phí giao dịch ,chi phí điện thoại ,văn phòng phẩm ( chi phí đặt hàng tương đối cố định cho mỗi lần đặt hàng ).
+ chi phí tồn trữ gồm :Chi phí về lãi suất, chi phí về tiền công tiền lương cho những người bảo vệ quản lí, chi phí cho máy móc thiết bị
- Các bộ phận của dự trữ gồm :
+ Dự trữ thường xuyên : là loại dự trữ nhằm để bảo vệ cho quá trình sản xuất doanh nghiệp diễn ra liên tục giữa hai kì cung ứng nối tiếp nhau của đơn vị cung ứng .
+ Dự trữ bảo hiểm .
+ Dự trữ chuẩn bị : ở một số doanh nghiệp sản xuất, một số loại vật tư trước khi đưa vào tiêu dùng sản xuất phải thông qua một số công đoạn như là pha trộn, ghép đồng bộ, đập nhỏ ...và thời gian giành cho công đoạn này trên cùng một ngày thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vật tư dữ trữ lượng vật tư dự trữ này được gọi là dự trữ chuẩn bị của doanh nghiệp .
+ Dự trữ hàng hoá bằng đơn vị hiển vật gọi là dự trữ tuyệt đối .Do sự phát triển của sản xuất, dự trữ tuyệt đối có xu hướng tăng .
+ Dự trữ hàng hoá tính theo đơn vị thời gian gọi là dự trữ tương đối của doanh nghiệp ,dự trữ này có xu hướng giảm .
* Vai trò của dự trữ .
Dự trữ luôn là vấn đề sống còn là một đòi hỏi tất yếu khách quan, nó đảm bảo tính liên tục và hiệu quả của sản xuất và tiêu dùng .
Trong mô hình dự trữ JIT ( Just in time ) chỉ ra :
Nếu dự trữ thật nhiều dẫn đến ứng đọng vốn, hàng hoá hỏng, tăng chi phí bảo quản không hiệu quả .
N._.ếu dự trữ ít quá không đủ nguyên vật liệu để sản xuất, không đủ hàng hoá để bán và dẫn đến gián đoạn sản xuất kinh doanh .
Cần phải phân biệt dự trữ và tình trạng dư thừa ứng đọng sản phẩm trong các doanh nghiệp .
5) Vốn đầu tư của doanh nghiệp .
5.1. Khái niệm .
Trong điều kiện hiện nay ,nền kinh tế sản xuất hàng hoá để tiến hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh thì các doanh nghiệp đều phải có vốn .
Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh lần đầu tiên được thành lập, số vốn này được dùng để xây dựng nhà xưởng, mua máy móc thiết bị ... để tạo ra các cơ sở vật chất kỹ thuật ( các tài sản cố định ) cho các cơ sở này, đồng thời số vốn trên còn được dùng để mua sắm nguyên vật liệu, trả tiền lương cho người lao động trong chu kì sản xuất kinh doanh ( tạo vốn lưu động gắn liền vơí hoạt động của các tài sản cố định vừa được tạo ra ).
Đối với cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ đang hoạt động để mua sắm thêm các máy móc thiết bị ,xây dựng thêm nhà xưởng và tăng thêm vốn lưu động nhằm mở rộng quy mô hoạt động hiện có ,sửa chữa hoặc hiện đại hoá các tài sản cố định đã bị hư hỏng hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình .
Số vốn cần thiết để tiến hành lao động đầu tư của doanh nghiệp như trên là rất lớn ,không thể lúc đó doanh nghiệp có đầy đủ .Vì vậy số vốn cần thiết cho các hoạt động đầu tư trên chỉ có thể là tích luỹ của cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ,là vốn huy động từ dân cư và vốn huy động từ nước ngoài .
Từ đây ta có khái niệm về vốn đầu tư của doanh nghiệp như sau :
Vốn đầu tư doanh nghiệp bao gồm nguồn lực tự tích luỹ của doanh nghiệp ,nguồn vay nguồn viện trợ và các lực huy động từ bên ngoài .
5.2.Nội dung vốn đầu tư của doanh nghiệp .
Nội dung của vốn đầu tư trong doanh nghiệp bao gồm các khoản mục gắn liền với nội dung của hoatj động đầu tư trong doanh nghiệp .
Hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật và thực hiện các chi phí gắn liền với sự hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa được tái sản xuất thông qua các hình thức xây dựng ,mua sắm lắp đặt ... thực hiện có chi phí gắn liền vơí sự ra đời và hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật đó .
Xuất phát từ nội dung hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp trên đây ,có thể chia vốn đầu tư thành các khoản mục sau đây :
- Chi phí chuẩn bị đầu tư bao gồm chi phí nghiên cứu cơ hội đàu tư ,chi phí nghiên cứu tiền khả thi,chi phí nghiên cứu khả thi và thẩm định.
- Những chi phí tạo ra tài sản cố định bao gồm :
+ Chi phí ban đầu và đất đai .
+ Chi phí xây dựng sửa chữa nhà cửa ,cấu tríc hạ tầng .
+ Chi phí mua sắm lắp đặt máy móc, thiết bị dụng cụ, mua sắm phương tiện vận chuyển.
- Những chi phí tạo ra tài sản lưu động bao gồm :
+ chi phí nằm trong giai đoạn sản xuất như chi phí mua nguyên vật liệu, trả lương cho người lao động, chi phí điện nước, nhiên liệu, phụ tùng ...
+ Chi phí nằm trong giai đoạn lưu thông gồm có sản phẩm dở dang tồn kho, hàng hoá bán chịu, vốn bằng tiền .
- Chi phí dự phòng .
5.3. Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp.
* Đối với cơ quan quản lí nhà nước, các cơ sở hoạt động xã hội phúc lợi công cộng vốn đầu tư bao gồm :
- Vốn từ Ngân sách Nhà nước .
- Vốn huy động từ cán bộ công nhân viên .
- Vốn viện trợ của các tổ chức quốc tế từ thiện .
- Vốn tự có .
- Vốn vay .
* Đối với doanh nghiệp quốc doanh .
- Nguồn vốn chủ sở hữu mà trong đó chủ yếu là vốn cấp phát từ Ngân sách Nhà nước .ngoài vốn từ Ngân sách còn vốn hình thành do lợi nhuận để lại ,vốn liên doanh liên kết cấu thành nên vốn chủ sở hữu .
- Nguồn vốn vay của các Ngân hàng, tổ chức tín dụng và của các nguồn không chính thức ( thoả thuận giữa hai bên ) .
- Tín dụng thuê mua :
Tín dụng thuê mua là loại tín dụng bằng tài sản cho thuê trong đó chủ chủ sở hữu tài sản cho người khác sử dụng trong một thời gian, còn người thuê mua phải trả cho chủ tài sản một khoản tiền tương ứng với quyền sử dụng .
* Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh .
- Vốn tự có của doanh nghiệp .
- Vốn vay
- Vốn góp
- Vốn huy động thông qua phát hành cổ phiếu .
- Vốn liên doanh các tổ chức trong và ngoài nước .
II. Cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
1. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
- Cạnh tranh là một đặc tính cơ bản của thị trường, sẽ không có kinh tế thị trường nếu không có cạnh tranh. Theo kinh tế học thì cạnh tranh (competion) là sự tranh giành thị trường (khách hàng) để tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp. “Như vậy đã là kinh tế thị trường thì đương nhiên có cạnh tranh và cạnh tranh theo nghĩa là tranh giành khách hàng (thị phần) thì chỉ có trong khuôn khổ của kinh tế thị trường” Bùi tất thắng - Tính cạnh tranh của nền kinh tế việt nam hiện nay - Tạp chí nghiên cứu kinh tế tháng 11năm 2000 - tr.25
- Người ta phân chia các trạng thái cạnh tranh thành 2 loại: Cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo. Cạnh tranh hoàn hảo là tình trạng cạnh tranh trong đó số người mua và số người bán một mặt hàng đồng nhất, nhiều đến nỗi không ai có khả năng ảnh hưởng đến giá cả trên thị trường. Tingh trạng thị trường không đạt được như trên thì được gọi là cạnh tranh không hoàn hảo.
Người ta chứng minh rằng trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo mục tiêu của doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận, và sẽ không thể có các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh nếu chúng sống trong một môi trường không có cạnh tranh. Nói cách khác một doanh nghiệp rất khó trở thành doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh nếu được nuôi dưỡng lâu năm trong môi trường thiếu tính cạnh tranh.
Vì cạnh tranh là hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế thị trường và để đạt được mục tiêu lợi nhuận những doanh nghiệp tham gia thị trường phải thông qua sự cạnh tranh lẫn nhau nên từ lâu vấn đề cạnh tranh đã là một trong những nội dung quan trọng của các môn khoa học về kinh tế và là một đối tượng điều chỉnh của luật pháp. Thế kỷ XIII Adam Smith, nhà kinh tế học cổ điển vĩ đại Anh trong tác phẩm "Của cải của các dân tộc" (1776) đã thuyết minh vai trò quan trọng của cạnh tranh tự do trong bối cảnh nền kinh tế thị trường TBCN đang ở giai đoạn hình thành, bị rất nhiều ràng buộc bởi những thiết chế phi tự do của nhà nước phong kiến. Theo ông "Mỗi cá nhân (doanh nghiệp) đều sử dụng vốn của mình sao cho có được sản phẩm, có giá trị cao nhất. Thông thường cá nhân này không có chủ định củng cố lợi ích công cộng, mà cũng chẳng biết mình đang củng cố lợi ích này ở mức độ nào. Cá nhân (doanh nghiệp) này chỉ có mục đích bảo vệ sự an toàn và thành quả của riêng mình. Trong quá trình này một bàn tay vô hình đã buộc anh ta phải theo đuổi một mục đích không nằm trong dự định. Trong khi theo đuổi lợi ích của mình anh ta đã thường bảo vệ luôn lợi ích của xã hội một cách biểu hiện hơn cả khi anh ta có ý định làm việc này. Với Adam Smith, trật tự thị trường theo nguyên lý "bàn tay vô hình" sẽ điều hoà các hoạt động kinh tế một cách có hiệu quả. "Độc quyền là kẻ thù lớn đối với quản lý tốt, mà việc quản lý tốt không thể có được trừ khi có sự cạnh tranh tự do và rộng khắp nó buộc những nhà sản xuất phải biết đấu tranh để bảo vệ lợi ích của chính họ". Kết luận ấy đương nhiên đưa ông đến chỗ là một trong những người cổ vũ nhiệt thành nhất cho một cơ chế kinh tế tự do (laisser-facre) và phản đối lại tình trạng độc quyền cũng như sự can thiệp quá mức của chính phủ.
- Tuy nhiên, cạnh tranh thị trường không phải bao giờ cũng trôi chảy. Những mặt trái của nó được khái quát lại trong thuật ngữ "thất bại thị trường", với một trong những biểu hiện rõ nhất là những cuộc khủng hoảng kinh tế mang tính chu kỳ.
Ngoài ra, theo như sự phân tích của kinh tế chính trị học Mác xít, cuộc cạnh tranh trong điều kiện của kinh tế thị trường TBCN còn mang tính mù quáng và tàn bạo theo kiểu "cá lớn nuốt cá bé". Với biết bao nhiêu những hậu quả kinh tế và xã hội đè xuống đầu các giai cấp cần lao. Với những nhược điểm trên nhiệm vụ tạo lập môi trường kinh tế có cạnh tranh, chống độc quyền đương nhiên thuộc về chức năng của nhà nước.
2. Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam
Cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế cơ bản của kinh tế thị trường, các doanh nghiệp vừa là đối tượng vừa là động lực chủ yếu của quá trình phát triển kinh tế, vì vậy có thể khẳng định là năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp cần phải được nâng cao, phải được bảo đảm và phát triển bằng những chiến lược cạnh tranh hữu hiệu trên cơ sở phát huy những lợi thế cạnh tranh. Đây là một nhân tố chính quy định sự phát triển bền vững của bản thân doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập quốc tế. Một trong những khó khăn lớn nhất hiện nay Việt Nam đang gặp phải là thực trạng khả năng cạnh tranh của hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam là rất trì trệ, tình trạng tham nhũng và làm thất thoát tài sản là rất phổ biến. Chúng ta hãy xem xét cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam thông qua:
Môi trường kinh doanh hiện nay chưa thể hiện rõ tính gay gắt của nhân tố cạnh tranh, các doanh nghiệp nhà nước vẫn nhận được sự bảo hộ, ưu đãi của nhà nước so với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác trong giai đoạn chuẩn bị hội nhập hoàn toàn vào thị trường khu vực. Tuy nhiên, thông thường khi xây dựng chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp thì dựa trên chủ yếu về an toàn trong kinh doanh là đa dạng hoá đầu tư và sản phẩm với kết quả cuối cùng là bảo đảm và phát triển nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng hiện nay chỉ tiêu này là rất khó đối với bản thân đa số các doanh nghiệp vì họ chưa đủ các điều kiện về vốn, công nghệ, cơ chế và trình độ quản lý, thậm chí còn chưa làm tốt được những công việc liên quan đến sản phẩm trong kinh doanh, nói gì đến việc đa dạng hoá sản phẩm.
Về thế lực của doanh nghiệp: Thế lực của doanh nghiệp hay còn gọi là vị thế của doanh nghiệp trên thị trường được đánh giá chủ yếu thông qua thông số tỷ lệ thị phần mà doanh nghiệp chiếm giữ hoặc bằng nhãn hiệu thương mại sản phẩm của doanh nghiệp. Do thị trường nước ta chưa hội nhập hoàn toàn vào thị trường khu vực nên đại đa số các doanh nghiệp vẫn chưa thực sự đứng vững trên đôi chân của mình, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhà nước một phần do cơ chế quản lý của nhà nước. Do vậy hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước thời gian qua có được là nhờ lợi thế độc quyền và lẽ tất nhiên là các doanh nghiệp này nắm giữ hầu hết thị phần, nếu không nói là 100% thị phần trong nước. Các doanh nghiệp thành đạt trên thế giới đều xây dựng nhãn hiệu riêng của mình như Sony, Motorola, Mobil... và khi đọc đến tên nhãn hiệu, người tiêu dùng trên toàn thế giới đều có thể cảm nhận ngay, phân biệt ngay được tiềm lực, chất lượng, phương thức phục vụ của sản phẩm này như thế nào so với các sản phẩm khác cùng loại. Nhưng thực tế hiện nay, mặc dù nhà nước đã tạo rất nhiều điều kiện cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước cũng chưa quan tâm một cách thích đáng đến hình ảnh của chính mình và chưa tạo nên một nhãn hiệu có tính thương mại cao cho sản phẩm, dịch vụ của mình. Điều này đi ngược lại mục đích kinh doanh. Về lý luận cũng như thực tế kinh doanh trong nền kinh tế thị trường cho thấy để tồn tại và phát triển bền vững các doanh nghiệp đều phải cố gắng xây dựng một hình ảnh, một nhãn hiệu thương mại cho các sản phẩm dịch vụ của mình, từ đó mới có hy vọng có được một chỗ đứng vững chắc trên thị trường.
Như vậy nếu không nhanh chóng đổi mới phương thức kinh doanh một cách toàn diện, thiết lập được môi trường kinh doanh bình đẳng thì các doanh nghiệp của chúng ta khó hy vọng chiến thắng và nguy cơ trở thành thị trường tiêu thụ sản phẩm nước ngoài đối với nước ta khi hội nhập có khả năng cao. Thay đổi một cách sâu sắc về nhận thức, về vai trò của nhân tố cạnh tranh, cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, và vai trò của bản thân doanh nghiệp trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc lựa chọn xây dựng cho mình một chiến lược cạnh tranh thích hợp với môi trường, từ đó xây dựng được chỗ đứng của mình trên thương trường.
3. Vai trò của đầu tư đối với khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp:
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh nhau trên thương trường để tồn tại, phát triển và đạt được mục đích của mình đề ra. Để tăng được khả năng cạnh tranh các doanh nghiệp đã không ngừng đầu tư cho sản phẩm, dịch vụ của mình. Vì vậy đầu tư có vai trò to lớn trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được biểu hiện thông qua chất lượng sản phẩm, chất lượng phục vụ, nghiên cứu thị trường. Vì vậy các doanh nghiệp cần đầu tư đồng loạt vào các yếu tố trên để tăng tính hấp dẫn của sản phẩm, dịch vụ do chính các doanh nghiệp tạo ra. Cụ thể là:
- Đối với chất lượng sản phẩm: Đây là yếu tố quan trọng để tăng uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. Đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm cho doanh nghiệp được chia thành 2 lĩnh vực chính là:
+ Đầu tư vào mua sắm thiết bị, khoa học công nghệ cho sản xuất sản phẩm: Có thể nói chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất lớn vào công nghệ sản xuất. Với một công nghệ sản xuất lạc hậu thì ắt hẳn sẽ không tạo ra được một sản phẩm có chất lượng cao, từ đó sẽ giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Vì vậy trong tiến trình nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp đã rất chú trọng tới việc đổi mới dây chuyền sản xuất từ đó tạo ra được sản phẩm có hàm lượng công nghiệp chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu khắt khe của thị trường. Có như vậy mới tăng được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cả thị trường trong và ngoài nước.
+ Đầu tư vào nguồn lao động: việc đầu tư đào tạo nguồn lao động có hiệu quả sẽ nâng cao chất lượng của lao động. Đó là tay nghề và ý thức làm việc của lao động, từ đó chất lượng sản phẩm sẽ tăng, năng suất lao động tăng giá thành hạ. Điều này sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Đầu tư vào nguồn lao động được thực hiện liên tục trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp, nhất là đối với việc đổi mới trong thiết bị sản xuất thì càng có tầm quan trọng hơn. Thật vậy, với một dây chuyền sản xuất hiện đại nhưng đội ngũ quản lý sản xuất không đủ khả năng vận hành hoặc rất ít hiểu biết về công nghệ mới như vậy sẽ dẫn tới những sản phẩm làm ra kém chất lượng không đạt yêu cầu chất lượng của công nghệ cần phải có, khi đó khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bị giảm sút ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Ngược lại, với một đội ngũ lao động có trình độ kỹ thuật cao, đội ngũ quản lý biết điều hành sản xuất tốt thì không có gì phải bàn cãi và tất nhiên sản phẩm được sản xuất ra có ảnh hưởng cao, đáp ứng được yêu cầu của thị trường từ đó tạo uy tín và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
- Đối với chất lượng phục vụ: Đây là yếu tố tạo độ an tâm khi sử dụng sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp. Đầu tư nâng cao chất lượng phục vụ của doanh nghiệp ở đây chính là đầu tư vào các loại hình dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng. Đối với trước khi bán hàng, doanh nghiệp cần có các biện pháp để giới thiệu sản phẩm tới đông đảo người tiêu dùng như đầu tư cho quảng cáo tiếp thị phù hợp, phát hành khuyến mãi... như vậy người tiêu dùng sẽ am hiểu sâu hơn về sản phẩm của doanh nghiệp, tạo được thiện chí của người tiêu dùng đối với sản phẩm. Trong quá trình bán hàng thực hiện các loại hình đi kèm như bán hàng có kèm theo quà tặng, mở các đợt bốc thăm trúng thưởng đối với các khách hàng mua sản phẩm của doanh nghiệp. Và yếu tố quan trọng nhất trong chất lượng phục vụ đó là mức độ bảo hành sản phẩm của doanh nghiệp, đối với mỗi sản phẩm được bán ra được bảo hành sẽ tạo được sự yên tâm của người tiêu dùng khi sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp. Như vậy uy tín và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được nâng lên một tầm cao mới.
- Đối với Nghiên cứu thị trường: Các doanh nghiệp để tồn tại và phát triển rất quan tâm tới nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, vì vậy đầu tư vào nghiên cứu thị trường là một yếu tố không thể thiếu để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Đầu tư nghiên cứu thị trường ở đây chính là xem xét tìm hiểu nhu cầu của thị trường về một loại hàng hoá nào đó, xu hướng ở hiện tại và tương lai như thế nào để từ đó có quyết định đúng đắn trong việc sản xuất, thiết kế mẫu mã sản phẩm phù hợp với đa số người tiêu dùng. Đầu tư nghiên cứu thị trường còn nắm bắt được thông tin về chiến lược phát triển kinh doanh của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường từ đó phân tích đánh giá và đưa ra đường lối chiến lược phát triển cho doanh nghiệp trong thời gian tới, đáp ứng được nhu cầu của thị trường, nâng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường.
Tóm lại, đầu tư có vai trò đặc biệt quan trọng đối với khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Đầu tư tạo tiền đề để doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm, chất lượng phục vụ và tìm hiểu thị trường, từ đó đưa ra đường lối phát triển cho doanh nghiệp, tạo ra bước đi riêng cho chính mình đứng vững và tăng khả năng cạnh tranh trên thương trường.
III) Vai trò của sản phẩm xi măng trong sự nghiệp CNH - HĐH ở nước ta .
Bước vào xã hội hiện đại, kỹ thuật công nghệ ngày càng phát triển nhu cầu xây dựng kiến trúc của con người ngày một đòi hỏi sức bền của vật liệu tốt hơn nhiều hơn . Trước nhu cầu đó ,con người đã tìm tòi ,khám phá ,chế tạo ra xi măng ,cách ngày nay hơn một thế kỷ .Xi măng loại vật liệu xây dựng mà nguyên liệu chủ yéu của nó là đá vôi và đất sét đây là phát minh quan trọng ,đánh dấu một sự kiện lớn trong lịch sử tìm kiếm vật liệu bền trong xây dựng với loài người.
Công nghiệp xi măng ở Việt Nam ra đời gắn với sự phát triển của lịch sử dân tộc, nhằm mục đích đáp ứng vật liệu xây dựng trong công cuộc kiến thiết đất nước.
Trải qua những khó khăn ,thử thách cho đến nay sản phẩm xi măng ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước .
Ngành công nghiệp xi măng bước vào thập niên đầu tiên của thiên niên kỉ thứ III ,đã góp nhiều công sức với đất nước, trong nhiều công trình quan trọng điểm quốc gia như cầu Thăng Long, các nhà máy thuỷ điện, dầu khí ... và biết bao nhiêu tổ ấm ở mọi miền tổ quốc .
Xi măng Việt Nam đã và đang là niềm tin của người sử dụng niềm tự hào của những công trình .Và lời niềm hãnh diện của đất nước đối với bạn bè khu vực và quốc tế.
Đất nước ta đang trong quá trình CNH - HĐH .Vì vậy việc xây dựng một cơ sở hạ tầng lớn mạnh và tất yếu, thêm vào đó là quá trình đô thị hoá ngày càng cao, nhu cầu xây dựng ngày càng lớn, để thực hiện được điều này thì không gì khác là phải có những vật liệu xây dựng tạo nên mà trong đó không thể không nhắc đến xi măng, một loại chất kết dính và sức bền của nó thật tuyệt vời .
Xi măng Việt Nam với những thành tựu đạt được và vượt qua bao nhiêu khó khăn thử thách đã và đang thể hiện sức mạnh, sự vững vàng của một loài sản phẩm vật liệu xây dựng .Trong cơ chế thị trường và trước sự hội nhập kinh tế đất nước nói chung, ngành xi măng nói riêng .
Phần II
Thực trạng đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh ở
Công ty xi măng Bỉm Sơn.
I. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty xi măng Bỉm Sơn
1. Chủ trương về xây dựng của Đảng và Nhà nước.
Cuối thập kỷ 60, khi cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước của dân tộc đang đi vào giai đoạn ác liệt, thì Đảng và Nhà nước ta đã hoạch định một chiến lược xây dựng, để ngay sau khi thống nhất nước nhà, dân tộc ta có thể bắt tay vào công cuộc xây dựng kiến thiết đất nước. Cũng trong thời gian này, với sự giúp đỡ to lớn của nhân dân Liên Xô, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định xây dựng một nhà máy sản xuất xi măng hiện đại, có công suất lớn nhất nước ta tại khu Bỉm Sơn, nhằm đáp ứng nhu cầu xi măng cho công cuộc xây dựng đất nước ngay sau khi kết thúc chiến tranh.
Xây dựng nhà máy xi măng Bỉm Sơn Đảng và Nhà nước ta có chủ trương như sau:
Thứ nhất: Sau khi xây dựng xong, nhà máy đi vào hoạt động sản xuất sẽ đem lại hiệu quả to lớn về kinh tế, quốc phòng … cho đất nước, mở ra một khu công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng lớn nhất ở khi vực bắc miền Trung. Cung cấp vật liệu xi măng xây dựng cho cả nước, phục vụ các công trình trọng điểm quốc gia như thuỷ điện Hoà Bình, cầu Thăng Long, nhiệt điện Phả Lại …
Thứ hai: Giải quyết việc làm cho hàng vạn người lao động góp phần xây dựng đội ngũ công nhân hiện đại, nắm bắt khoa học kỹ thuật tiên tiến tiếp thu công nghệ và kỹ thuật sản xuất do Liên Xô giúp đỡ.
Thứ ba: Nhà máy xi măng Bỉm Sơn là khu công nghiệp lớn, tạo nên một khu trung tâm kinh tế phía bắc tỉnh Thanh Hoá, đồng thời thu hút nguồn nhân lực dồi dào của tỉnh và các tỉnh phía bắc miền Trung, góp phần nhanh chóng đô thị hoá vùng đồi núi Bỉm Sơn.
Thứ tư: Nhà máy xi măng Bỉm Sơn còn là công trình mang ý nghĩa lịch sử lớn trong chiến tranh và trong xây dựng, thể hiện tình đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân Liên Xô và nhân dân Việt Nam.
Với nhận thức đó, Đảng và Nhà nước ta đã nhanh chóng chỉ đạo các cấp, các ngành tập trung bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ xây dựng nhà máy xi măng Bỉm Sơn.
2, Quá trình phát triển và cơ cấu tổ chức của Công ty xi măng Bỉm Sơn.
Cùng với cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã đồng thời tiến hành cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật nhằm đưa dân tộc ta, đất nước ta thoát khỏi tình trạng đói nghèo, lạc hậu. Và thế là nhà máy xi măng Bỉm Sơn được ra đời là một chủ trương từng bước xây dựng nền công nghiệp hiện đại và thực hiện công nghiệp hoá ở Việt Nam, nhằm đáp ứng vật liệu xây dựng, kiến thiết đất nước ngay sau khi chiến tranh chống Mỹ xâm lược kết thúc, thực hiện lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh "Xây dựng đất nước ta đoàng hoàng hơn, to đẹp hơn".
Nhà máy xi măng Bỉm Sơn được xây dựng và tiến hành sản xuất vào ngày 4 tháng 3 năm 1980 trong bối cảnh đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh, lại nằm trong thời kỳ bao cấp nhất là từ năm 1982 đến năm 1990 khi mà nền kinh tế đất nước đang trải qua những khó khăn, thử thách vói một cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, với sự khủng hoảng kinh tế về giá cả, tiền lương … đời sống xã hội gặp nhiều khó khăn, sản xuất đình trệ ách tắc. Trong bối cảnh lịch sử xã hội lúc đó Nhà máy xi măng Bỉm Sơn với một đội ngũ cán bộ công nhân trẻ trung đầy nhiệt huyết, với sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, cùng với sự quan tâm của các cấp, các ngành và sự giúp đỡ nhiệt thành của Đảng - nhân dân Liên Xô, nhà máy đã vượt lên muôn ngàn khó khăn, hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch sản xuất xi măng, cung cấp cho đất nước một khối lượng vật liệu xây dựng lớn, góp phần tái kiến thiết đất nước, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các hạng mục công trình khác của đất nước. Có thể thấy trong giai đoạn này, nhà máy xi măng Bỉm Sơn thực sự là một khu công nghiệp đầu đàn trong ngành xây dựng ở Việt Nam và nhà máy đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình ở thời kỳ cơ chế bao cấp.
Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ chuyển đổi từ cơ chế quan liêu bao cấp sang hạch toán kinh doanh từ năm 1991 đến nay, Công ty xi măng Bỉm Sơn lại một lần nữa đi tiên phong trong việc thể nghiệm hạch toán sản xuất kinh doanh, độc lập tự chủ trong việc sản xuất vật liệu xây dựng.
Những năm 1991 - 1992 khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông âu tan rã, các chuyên gia Liên Xô rút về nước, nhà máy gặp muôn vàn khó khăn về trang thiết bị, dây chuyền, chuyên gia kỹ thuật … Đây là giai đoạn đầy thử thách gay go của nhà máy. Trước thực trạng đó cán bộ công nhân nhà máy Công ty xi măng Bỉm Sơn lại từng bước tháo gỡ khó khăn, vượt qua thử thách trong sản xuất vững vàng bằng đôi chân công nghiệp của mình trong cơ chế thị trường và đã hoàn toàn làm chủ trong việc sản xuất kinh doanh, đưa Công ty tiến vào thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Hơn 20 năm qua, Công ty xi măng Bỉm Sơn với những thành tựu đạt được, đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng danh hiệu như: Huân chương lao động hạng hai năm 1989, Bộ XD tặng cờ Đơn vị xuất sắc năm 1999 … và nhiều huy hiệu cao quý khác.
Công ty xi măng Bỉm Sơn với những thành tựu đạt được trong hơn 20 năm qua đã chứng minh đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước, vai trò to lớn của cán bộ công nhân Công ty. Đồng thời còn thể hiện sức mạnh, sự trưởng thành vững vàng của Công ty trong cơ chế thị trường. Hơn nữa những thành tựu, những kết quả vê kinh tế - xã hội mà Công ty đạt được đã và đang là tiền đề cho sự hội nhập kinh tế của cả nước nói chung và Công ty nói riêng trong khu vực ASEAN và các nước trên thế giới.
Cơ cấu tổ chức của công ty
II. Thực trạng đầu tư và khả năng cạnh tranh của Công ty xi măng Bỉm Sơn.
1. Thực trạng đầu tư của Công ty xi măng Bỉm Sơn.
1.1. Giai đoạn 1982 đến 1995.
Với chủ trương xây dựng Công ty xi măng Bỉm Sơn của Đảng và Nhà nước thì công việc tiến hành đầu tư sửa chữa, xây dựng lại, … được Công ty tiến hành một cách thường xuyên, cũng trong giai đoạn này thì Công ty xi măng Bỉm Sơn không hề có đầu tư chiều sâu hay đầu tư mở rộng quy mô sẩn xuất.
Đối với kế hoạch đầu tư hàng năm của Công ty thì được chia làm ba bộ phận như sau:
- Đầu tư cho xây lắp
- Đầu tư mua sắm thiết bị
- Đầu tư cho chi phí khác.
Trong giai đoạn này công việc lập kế hoạch và quản lý đầu tư là do ban kiến thiết của Công ty đảm nhiệm. Trải qua thời gian dài khi xoá bỏ cơ chế quan liêu bao cấp và trước tình hình mới thì ban kiến thiết không còn phát huy được chức năng của mình vì vậy dẫn đến giải tán ban này,
Cho đến nay, việc thu thập và xử lý những số liệu về đầu tư của Công ty trong giai đoạn 1982 - 1996 là rất khó khăn do các nguyên nhân sau:
- Khi giải tán ban kiến thiết thì việc lưu trữ các báo cáo về đầu tư được tiến hành một cách thiêú thận trọng gây lộn xộn trong kho lưu trữ hồ sơ.
- Hàng năm Công ty vẫn tiến hành thiêu huỷ những báo cáo theo quy định của Nhà nước.
- Khi người phụ trách về đầu tư chuyển sang công tác khác thì không bàn giao lại cho nhân sự mới.
- Số liệu về đầu tư trong giai đoạn này còn thấp nên chưa có sự quan tâm đúng mức.
1.2. Giai đoạn 1996 - đến nay.
1.2.1 Đầu tư Tài sản cố định
Giai đoạn này được đánh dấu bằng cơn sốt xi măng cuối năm 1995. Vì vậy Công ty gặp rất nhiều khó khăn trong công tác tiêu thụ. Mặt khác các thiết bị công nghệ của Công ty đã trải qua 15 năm sản xuất, vận hành bị hư hỏng nhiều, thiếu thiết bị để nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của Công ty trước sự cạnh tranh của xi măng ngoại nhập và sản phẩm xi măng của liên doanh nước ngoài.
Cụ thể việc thực hiện đầu tư theo các bộ phận của Công ty như sau:
Đơn vị tính: Triệu đồng
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Xây lắp
1840
2100
2345
3650
4638
5280
4315
Mua sắm thiết bị
1450
1650
1600
2850
4975
32143
3065
Chi phí khác
320
400
400
1727
1100
5290
16236
Tổng số
3610
4150
4345
8236
10713
44282
23643
Tốc độ phát triển định gốc (%)
Năm
1996
97/96
98/96
99/96
2000/96
2001/96
2002/96
Xây lắp
100
114,1
127,4
198,8
252,06
287
234,5
Mua sắm thiết bị
100
113,8
110,3
196,5
343,1
2216,7
211,3
Chi phí khác
100
125
125
539,7
343,7
1653,1
5082,2
Tổng số
100
114,9
120,36
228,1
296,7
1226,6
655
Nguồn: Công ty xi măng Bỉm Sơn
Qua các bảng trên nhận thấy số vốn đầu tư của Công ty xi măng Bỉm Sơn qua các năm tăng dần. Số vốn đầu tư của năm 1996 là 3610 triệu đồng, năm 1997 là 4150, năm 1998 là 4345 triệu đồng, năm 1999 là 8236 triệu đồng, năm 2000 là 10713 triệu đồng, riêng năm 2001 và năm 2002 số vốn đầu tư của Công ty tăng lên cao là do Công ty tiến hành đầu tư cải tạo hiện đại hoá dây chuyền. Nhờ vậy mà tốc độ tăng trưởng định gốc vốn đầu tư năm 1997 so với năm 1996 là 114,9%, năm 1998 là 120,36%, năm 1999 là 228,1%, năm 2000 là 296,7%, không tính năm 2001 và năm 2002. Tuy nhiên sự tăng lên của vốn đầu tư cho từng bộ phận cũng như tốc độ phát triển định gốc của các bộ phận xây lắp, mua sắm thiết bị, chi phí khác lại không đều. Đối với bộ phận xây lắp, năm 1996 số vốn đầu tư là 1840 triệu đồng, năm 1997 là 2100 triệu đồng, năm 1998 là 2345 triệu đồng, năm 2000 là 4638 triệu đồng, năm 2001 là 5280 triệu đồng và năm 2002 kế hoạch vốn đầu tư cho xây lắp giảm xuống còn 4315 triệu đồng. Như vậy, có thể thấy đối với công tác xây lắp số vốn hàng năm tăng lên một cách đều đặn, từ đó dẫn đến tốc độ phát triển định gốc cũng tăng lên dần năm 1997 là 114,1%, năm 1998 là 127,4%, năm 1999 là 198,8% năm 2000 là 252,06%. Từ đó cho thấy quy mô vốn đầu tư cho công tác xây lắp được chú trọng và quan tâm thích đáng.
Đối với bộ phận mua sắm thiết bị, qua bảng biểu trên ta thấy quy mô vốn đầu tư cho các năm là không đồng đều. Số vốn đầu tư của năm 1996 là 1450 triệu đồng, năm 1997 tăng lên là 1650 triệu đồng, nhưng đối với năm 1998 lại giảm xuống còn là 1600 triệu đồng, và các năm tiếp theo bị tăng lên năm 1999 là 2850 triệu đồng, năm 2000 là 4975 triệu đồng, năm 2001 lại tăng lên 32143 là do Công ty tiến hành hiện đại hoá dây chuyền sản xuất, năm 2002 kế hoạch là 3065. Do vậy mà tốc độ phát triển định gốc của công tác mua sắm thiết bị không đồng đều. Năm 1997 là 113,8%, năm 1998 là 110,3%, năm 1999 là 196,5%, năm 2000 là 343,1%, và năm 2002 là 211,3. Điều này cho thấy Công ty đang từng bước thay thế máy móc thiết bị theo từng thời kỳ để tăng chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của Công ty.
Đối với bộ phận chi phí khác như các chi phí nghiên cứu khả thi, chi phí đấu thầu, chi phí thẩm định … cũng tăng lên làm đáp ứng cho việc lựa chọn và cho phép Công ty khẳng định các quyết định là chính đáng phù hợp với từng giai đoạn, riêng kế hoạch chi phí khác của năm 2002 có sự tăng lớn về quy mô điều này bởi lẽ trong năm 2002 một phần cải tạo dây chuyền sản xuất số 2 và tiếp tục chuẩn bị các chi phí cho việc cải tạo dây chuyền số 1.
Đánh giá tốc độ phát triển định gốc của vốn đầu tư hằng năm cũng như từng bộ phận của Công ty thì chưa đủ, để nhận biết sự tăng lên hằng năm của vốn đầu tư và của các bộ phận xây lắp, mua sắm thiết bị, chi phí khác thì cần phải nghiên cứu tốc độ phát triển liên hoàn. Điều này được thể hiện ở biểu sau:
Đơn vị tính: %
Năm
1996
97/96
98/97
99/98
2000/99
2001/00
2002/01
Xây lắp
100
114,1
111,6
156,03
126,7
113,8
81,7
Mua sắm thiết bị
100
113,8
97
178,1
174,6
646,1
9,._.h hướng của Đảng và nhà nước.
Trong văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX ,phần đường lối kinh tế và chiến lược phát triển cho mười năm 2001 - 2010 là : Đẩy mạnh công nghiệp hoá ,hiện đại hoá ,đưa đất nước ta khỏi tình trạng kém phát triển ,tập trung xây dựng có chọn lọc một công nghiệp nặng quan trọng và công nghệ cao ... tạo nền tảng đén năm 2020 nứoc ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại . Cụ thể đối với việc phát triển công nghệ là : phát triển nhanh các ngành công nghiệp ,có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh ,chiếm lĩnh thị trường trong nước ,đẩy mạnh xuất khẩu và phát triển công nghiệp là nhân tố quan trọng trong quá trinh công nghiệp nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước .Vì vậy định hướng đầu tư của ngành công nghiệp tới là tập trung vốn vào :
- Đầu tư vào chiều sâu đổi mới máy móc thiết bị công nghệ cao ,nhất là công nghệ thông tin ,viễn thông ,điện tử ...
Với ngành xi măng .Đẩy nhanh tiến độ về xaay dựng hiện đại hoá các nhà máy xi măng để đưa và khai thác trong 5 năm tới , để tăng thêm 8-9 triệu tấn công suất .Đến năm 2005 ,dự kiến tổng công suất đạt trên 24,5 triệu tấn .Lượng xi măng sản xuất trong nước có thể đáp ứng được nhu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước
2) Định hướng của nngành và công ty .
Trước năm 1991 ,đất nước mới chỉ có xi măng Bỉm Sơn
( 1,2 triệu tấn /năm ) Hà Tiên 2 sản xuất clinke để Hà Tiên 1 nghiền xi măng ( 0,3 triệu tấn /năm ) và một số xi măng lò đứng của các địa phương ,một số ngành .
Thời kì 1991 - 2000 ,xi măng là một trong các ngành công nghiệp được nhà nước ưu tiên phát triển ,đặc biệt là thời kì 1996 - 2000 .Xi măng Hoàng Thạch 2 ( 1,2 triệu tấn /năm ),xi mănng Hà Tiên 2 ( 1,2 triệu tấn /năm ) ,xi măng Bút Sơn ( 1,4 triệu tấn /năm ) đi vào sản xuất ,xi măng Hoàng Mai ( 1,4 triệu tấn /năm ) đưa vào hoạt động giữa năm 2000 ,xi măng Tam Điệp ( 1,4 triệu tấn /năm ) được phép khởi công .Xi măng Hải Phòng ( 1,4 triệu tấn /năm ) đang hoàn tất thủ tục đẻ khởi công .Hàng loạt xi măng lò đứng tại các địa phương với lượng thiết kế 3 triệu tấn /năm ra đời .
Thêm vào đó là những liên doanh ra đời như : xi măng Chinfon ( 1,4 triệu tấn /năm ) ,xi măng Sao Mai ( 1,76 triệu tấn /năm ) ,xi măng Nghi Sơn - giai đoạn 1 : 2,27 triệu tấn /năm .Tất cả các liên doanh này với công nghệ hiện đại đã đưa sản phẩm tham gia thị trường và họ đã sớm chiếm lĩnh thị trường với lợi thế ưu đãi .
Với sự tăng lên về số lượng các nhà máy xi măng trên thì những năm cuối của thời kì này đất nước ta đã không phải nhập khẩu xi măng tuy có lúc phải nhập clinke trong giải pháp tình thế .
Theo dự báo kế hoạch thời kì 2001 -2005 tốc độ tăng GDP bình quân 6 -7% ,có khả năng tới 7,5% /năm ,vốn đầu tư toàn xã hội trong 5 năm sẽ là 57 -60 tỷ USD .
Như vậy ,nhu cầu xi măng tănng từ 10 - 12% và có thể tăng lên tới 13% điều này được thể hiện trên bảng biểu sau :
Giai đoạn 2001 - 2005.
Tốc độ tăng 2000 2001 2002 20003 2004 2005
Tốc độ tăng 10% 12,50 13,70 15,10 16,60 18,30 20.00
11% 12,50 13,80 15,40 17,10 18,90 21,00
12% 12,50 14,00 15,68 17,56 19,60 22,00
13% 12,50 14,10 19,05 18,00 20,30 23,00
Nguồn: Bộ xây dựng .
Giai đoạn 2006 - 2010
2006 2007 2008 2009 2010
Tốc độ tăng 8% 21,60 23,33 25,20 27,20 29,40
8% 22,68 24,50 26,45 28,60 30,85
8% 23,76 25,60 27,70 29,90 32,32
8% 24,84 26,82 28,97 31,29 33,80
Nguồn : Bộ xây dựng.
Từ nhu cầu trên ,ngành xi măng đã dự kiến các phương án đầu tư xây dựng mới , cải tạo mở rộng để thoả mãn nhu cầu .
Về phía công ty ; Trong thời gian tới khi dự án xi măng Hải Phòng được hoàn thành sẽ đóng cửa cơ sở sản xuất cũ , thì xi măng Bỉm Sơn trở thành đơn vị có nhiều cái “ nhất ” ở vị trí chót của tổng công ty xi măng Việt Nam, như :
- Công nghệ lạc hậu nhất.
- Tiêu hao vật tư năng lượng lớn nhất.
- Chi phí lao động lớn nhất.
- Ô nhiểm môi trường lớn nhất.
Trong khi đó 1 đến 3 năm tới , các cơ sở lân cận xi măng Bỉm sơn
(Aghệ An, Thanh Hoá, Ninh Bình và Hà Nam với dân số chưa đến 8,03 triệu người ) nhưng có sản lượng xi măng gần 8,5triệu tấn / năm như vậy mức bình quân (tấn xi măng / người) tại khu vực này gấp 5 làn so với mức bình quân trên toàn quốc . Đây lại là những cơ sở hơn hẳn xi măng bỉm sơn ở hầu hết các điểm so sánh như:
- Công nghệ hiện đại nhất.
- Các chỉ tiêu kinh tế kỷ thuật tiên tiến nhất.
- Điều kiện giao thông cho tiêu thụ sản phẩm tốt nhất.
- Năng suất lao động cao , tỷ trọng lao động trí tuệ cao.
- Các chỉ tiêu môi trường trong giới hạn cho phép.
Lợi thế cạnh tranh của xi măng Bỉm Sơn lúc đó là yếu nhất .
Như mục tiêu chiến lược xây dựng đất nước giai đoạn 2001 - 2010 , với dự báo tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và nhu cầu xi măng của thị trường cho phép các cơ sở nâng cao tối đa năng lực của mình, nhưng đồng thời phải thoả mãn các điều kiện như :
- Thời điểm hội nhập của nền kinh tế khu vực AFTA 2006.
- Các lợi thế cạnh tranh.
- Các quy định của pháp luật : Bảo vệ môi trường , chất lượng sản phẩm , thuế ...
Từ nhận định trên công ty đã có định hướng như :
- Một là ; Tiến hành đầu tư cải tạo hiện đại hoá dây chuyền sản xuất hiện hiện có , hoàn thành trước năm 2006
- Hai là : chuẩn bị các điều kiện, đặc biệt là vốn , để đầu tư mở rộng thêm một cơ sở (một dây chuyền sản xuất) hiện đại công suất 1,4 triệu tấ/năm hoàn thành ào năm 2010 . Khi đó lợi thế cạnh tranh của xi măng Bỉm sơn sẽ ngang bằng , thậm trí có những điểm vượt trội so với các cơ sở lân cận , vì suất đầu tư thấp .
- Ba là : Vận dụng những chính sách đầu tư kinh tế hiện hành đặc biệt là việc huy động vốn cho các loại hình doanh nghiệp và tạo công ăn việc làm cho lao động dư dôi sau khi tiến hành hiện đaị hoá dây chuyền , cũng như con em họ sinh ra sau khi xây dựng nhà máy đã và đang trưởng thành .
II - Giải pháp nhằm tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm xi măng của công ty xi măng Bỉm sơn
1) Giải pháp về thị trường .
Có thể hiểu một cách đơn giản về cạnh tranh đó là việc lấn chiếm thị trường , tăng thị phần . Vì vậy việc đánh giá chính xác diễn biến của thị trường xi măng để có phương án đầu tư là điều cần thiết để có những giải pháp phù hợp làm tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm xi măng của công ty .
1.1 - Đối với thị trường khu vực Hà Nội và một tỉnh vùng Tây Bắc .
Đây là thị trường có sức tieu thụ lớn đặc biệt là thị trường Hà Nội khoảng 0,95 đến 1 triệu tấn/năm . Tại đây có nhiều dự án đang được đầu tư xây dựng mới hoặc hoàn thiện với số vốn lớn . Qua khảo sát nghiên cứu cơ cấu tiêu dùng xi măng thì khoảng 25% dùng cho xây dựng các khu công nghiệp vui chơi giải trí , 30% dùng cho phát triển giao thông và khoảng 45% cho tiêu dùng cá nhân .
Tham gia thị trường này gồm các loại xi măng : ChinFon, Nghi sơn, xi măng Hải Phòng, Hoàng Thạch, Bút Sơn, Bỉm Sơn và một số xi măng địa phương , Quốc phòng.
Đối với xi măng liên doanh : với ưu thế giá thành thấp , được thực hiện các cơ chế về tiêu thụ ,linh hoạt , giá bán thấp nên đã tăng sức cạnh tranh trên thị trường .
Qua tìm hiểu mục tiêu của ChinFon phải đạt 40% sản lượng tiêu thụ tại thị trường , xi măng Nghi Sơn phải đạt từ 27 đến 30% sản lượng . Hiện nay toàn bộ khu vực nội thành Hà Nội không có một bao xi măng Bỉm sơn nào tại các cửa hàng ddại lý ... làm cho thói quen tiêu dunghf của người dân Hà Nội quên lãng xi măng Bỉm Sơn, Mặc dù chỉ một hai năm trước đây và cả hiện nay nó rất được ưa thích .
Khách hàng của công ty xi măng Bỉm Sơn tại thị trường Hà Nội chỉ còn lại những công trình xây dựng cơ sở hạ tầng mà chủ đầu tư đã quen dùng xi măng Bỉm sơn , còn tiêu dùng cá nhân hầu như không biết đến xi mang Bỉm Sơn nữa .
Thêm vào đó mạng lưới bán hàng xi măng tại đây hầu như không có mặt sản phảm của công ty . Điều này ảnh hưởng rất lớn việc chiếm lĩnh thị trường của công ty .
Giải pháp để tăng khả năng cạnh tranh của xi măng Bỉm Sơn tại thị trường này là :
- Thương thảo với các đối tác tiêu thụ để đưa xi măng bày bán ở các cửa hàng đại lý . Đồng thời đầu tư xây dựng các đại diện , đại lý của công ty , giải pháp này không những đẻ tiêu thụ sản phẩm mà còn tạo laị thói quen tiêu dùng của người Hà nội với xi măng Bỉm sơn .
- Đầu tư xây dựng hệ thống vận tải và xây dựng đơn giá cước phù hợp chủ động tìm kiếm khách hàng và điều phối xi măng .
- Bên cạnh việc giới thiệu sản phẩm thông qua các cửa hàng , quầy hàng , hội chợ ... công ty cần đầu tư tăng cường quảng cáo trên thông tin đại chúng nhằm gợi lại những tiềm thức cuả người tiêu dùng đối với xi măng Bỉm sơn .
1.2 - Thị trường Nam Định, Ninh Bình
Qua tìm hiểu thị trường thì cơ cấu tiêu thụ xi măng như sau : 25% cho xây dựng cơ bản , 15% cho xây dựng các công trình giao thông , 60% là tiêu dùng cá nhân . Hiệu quả tiêu thụ xi măng tại thị trường này tương đối cao , tham gia thị trường này có xi măng Bút sơn , xi măng Bỉm sơn và xi măng địa phương , các loại xi măng này đã làm giảm thị phần của xi măng Bỉm sơn . Trong khi đó mạng lưới tiêu thụ tại thị trường này (trước đây rất gắn bó với xi măng Bỉm sơn ) đã quay sang tiêu thụ cho xi măng Bút sơn làm giảm sức tiêu thụ vì vậy giải pháp để cạnh tranh với các loại xi măng khác trên thị trường là :
- Đề nghị tổng công ty xi măng cho phép công ty xi măng Bỉm sơn được khuyến mại trực tiếp trong giá bán nhằm chioếm lĩnh được các công trình có vốn đầu tư lớn.
- Đầu tư vào việc chào hàng , nmôi giới tiêu thụ xi măng cho các công trình có vốn đầu tư lớn .
- Cần có chế độ khuyến khích tinh thần và vật chất đối với các địa điểm tiêu thụ xi măng băbgf các hình thức như : Mũ ,áo ... có in biểu tượng công ty nhằm tăng cường cho quảng cáo .
1.3 - Thị trường Thanh - Nghệ Tĩnh :
Đây là thị trường có sức tiêu thụ lớn và mang lại hiệu quả cao cho công ty , thị trường này, đặc biệt là thị trường Thanh hoá là nơi tiêu thụ sản phẩm cao nhất của công ty .
Qua khảo sát tình hình thực tế thì nhu cầu xi măng ở thị trường này như sau : 10% là đầu tư xây dựng các khu công nghiệp , 40% là xây dựng các công trình giao thông và 50% là tiêu dùng cá nhân . Tham gia cạnh tranh với xi măng Bỉm sơn có các loại xi măng Nghi sơn, xi măngChinFon và một số xi măng địa phương . ở thị trường Thanh Nghệ Tỉnh thì xi măng Nghi sơn là đối thủ cạnh tranh lớn đối với công ty , tuy nhiên, do người tiêu dùng đã quen dùng xi măng Bỉm sơn vì vậy mà thị phần của công ty ít bị ảnh hưởng . Mà ảnh hưởng chủ yếu do tâm lý .
Để giữ vững thị trường và tăng thị phần đặc biệt và nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty taị nơi này thì cần có giải pháp sau :
- Đầu tư vào khâu vận chuyển sản phẩm về đúng điểm bán hàng không nên dùng chi phí của việc bán tại các thị trường xa để giảm giá bán tại các thị trường trung tâm thành phố tạo khoảng trống cho các loại xi măng khác .
- Đầu tư cho quảng cáo , khuyến mại đối với khách hàng và tránh các thủ tục rườm rà gây phiền phức .
- Thực hiện tốt chương trình kích cầu của chính phủ và kiên cố hoá kênh mương , tiếp tục triển khai xây dựng đường giao thông .
1.4 - Thị trường tiêu thụ Miền trung (Từ Quảng trị đến thừa thiên Huế)
Đây là địa bàn rộng lớn , thiên tai thường xảy ra liên miên nên mức tiêu thụ xi măng rất lớn , Tại thị trường này xi măng Bỉm sơn rất có uy tín về chất lượng sản phẩm mặc dù có nhiều đối thủ cạnh tranh . đây là thị trường tiềm năng của công ty nên công ty cần có chiến lược thị trường để giữ và mở rộng thị trường , xắp tới các xi măng khác sẽ xâm nhập thị trường này mạnh hơn vì vậy công ty cần có giải pháp như :
- Tiến hành đầu tư mở rộng và xây dựng mới các cửa hàng , đại lý trên các khu vực , tăng cường quảng cáo để giữ uy tín cho xi măng Bỉm sơn .
1.5 - Đối với thị trường xuất khẩu (xuất khẩu sang thị trường Lào)
Xi măng Bỉm sơn thâm nhập thị trường Lào rất sớm . Thời kỳ cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 nhiều công trình lớn do các nhà thầu Bắc Âu thực hiện đã trực tiếp chỉ định đưa xi măng Bỉm sơn vào các công trình của họ . Uytín chất lượng xi măng Bỉm sơn gần như độc ở thị trường Lào .
Thời gian sau đó , chúng ta chưa có sự quan tâm đúng mức tới thị trường này đã làm ảnh hưởng đến người tiêu dùng ... trong khi đó xi măng Thái Lan dần lấn lướt trên thị trường . Vì vậy chúng ta cần phải đầu tư nghiên cứu hành vi tiêu dùng của họ và tăng cường quảng cáo , khuyến mại đồng thời mở rộng và xây dựng nhiều đại lý sản phẩm của công ty .
2) Giải pháp về công nghệ .
Trong thế kỷ XXI xu hướng sử dụng dây chuyền công nghệ sản xuất xi măng với một lò quay công suất lớn sẽ tiếp tục phát triển mạnh so với dây chuyền công nghệ với nhiều lò quay công suất nhỏ . Điều này làm cho chi phí cố định và chi phí biến đổi cho một tấn xi măng tăng chậm hơn so với mức độ tăng công suất của nhà máy , các thiết bị sản xuất ngày càng phải thích ứng với yêu cầu thực tế sao cho năng lực sản xuất của dây chuyền một lò công suất lớn tối thiểu cũng phải tốt như các dây chuyền nhiều lò công suất nhỏ . Các dây chuyền công nghệ công suất lớn cũng sẽ được xử dụng khi hiện đại hoá các dây chuyền công nghệ trong các nhà máy hiện có . ở những khu vực mà thị trường xi măng đã vững vàng , thì cần phải đầu tư hiện đại hoá hoặc thay thế công nghệ cũ bằng công nghệ mới để giảm các chi phí vận hành , đảm bảo tốt hơn các vấn đề môi trường và để cạnh tranh với các nhà máy mới xây dựng . Điều này cũng có nghĩa là một loạt các hệ thống lò quay cũ (như lò quay dài phương pháp ướt , lò quay phương pháp khô công suất nhỏ) sẽ được thay thế bằng một lò quay phương pháp khô có công suất bằng hoặc lớn hơn hiện tại .
Nguồn nguyên liệu .
Xu hướng hiện nay trong công nghệ xi măng là tiếp tục tối ưu hoá chi phí các thành phần của phôí liệuclanke và xi măng .
Đa số các nhà máy nằm gần mỏ nguyên liệu đá vôi và đất sét song vẫn phải mua thêm 5 - 30% các thành phần nguyên liệu khác của phối liệu clanke và xi măng trong những năm tới các nhà máy xi măng sẽ dùng ít hơn các nguyên liệu mỏ tự nhiên trongtrong các thành phần cho các thành phânf phối liệu clnke và xi măng .
Nghiền : Trong công đoạn nghiền (nghiền than , nghiền xi măng ...) sẽ vẫn sử dụng máy nghiền đứng con lăn với thiết bị phân li hiệu suất cao . Máy nghiền đứng con lăn đã được chấp nhận cho nghiền liệu ,nghiền than và được áp dụng rộng rãi trong các công đoạn này do tính nổi trội của nó so với việc sử dụng các loại máy nghiền khác . Sử dụng máy nghiền đứng con lăn để kết thúc xi măng hoặc cho nghiền liệu nhằm tiết kiệm nhân lực khi nghiền so với máy nghiền bi ; mặt khác khả năng hoạt động liên tục của máy này rất tốt cũng như việc thiết kế bố trí nhỏ gọn hơn nhiều . Do vậy máy nghiền đứng con lăn sẽ hoàn toàn thay thế máy nghiền bi trong các công đoạn nghiền cuả nhà máy xi măng sẽ xây dựng .
Quá trình nung clanke :
Quá trình nung clanke sẽ được thực hiện rong trong lò nung 2 gối đỡ với hệ thống truyền động ma sát so với hệ thống lò nung 3 gối đỡ với truyền động hộp số và pinhông hiện nay . Tháp tro đổi nhiệt xiclôn van sẽ được thiết kế có độ giảm áp thấp với hiệu suất lắng cao nhằm tôí ưu hoá mức tiêu thụ nhiệt năng và điện năng số lượng tầng xiclôn cũng sẽ thiết kế phù hợp với các yêu cầu sấy trong máy nghiền đứng con lăn và buồng phân huỹ sẽ được cải tiến nhằm vận hành dễ dàng hơn .
Nhiên liệu : Xu hướng mới là xử dụng loại than cốc dầu , chất thải lỏng và rắn . Nung bằng các loại nhiên liệu này sẽ tiết kiệm đáng kể chi phí .
Điều kiện tự động hoá : Với sợ phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin , máy tính đóng vai trò ngày càng cao trong hoạt động của nhà máy xi măng và phương pháp kiểm tra tự động đang được xử dụng rộng rãi . Như vậy nhà máy xi măng sẽ được thực hiện hoàn toàn tự động với việc xử dụng nhân lực ít nhất .
Trước xu hướng phát triển công nghệ sản xuất xi măng trong những năm tới và thực trạng công nghệ của công ty . Vì vậy việc đầu tư hiện đại hoá cải tạo dây chuyền sản xuất của công ty là đúng hướng . Hiện tại công ty có hai dây chuyền sản xuất và giải pháp công nghệ của công ty như sau :
Giai đoạn 1 : Tiến hành đầu tư cải tạo , hiện đại hoá dây chuyền số 2 (Dây chuyền này do Nhật cung cấp) sẽ được khởi công vào quý IV năm 2000 và hoàn thành cuối năm 2002 nâng cao sản lượng sản xuất của công ty là 1,8 triệu tấn/năm .
Giai đoạn 2 : tiến hành đầu tư cải tạo , hiện đại hoá dây chuyền số 1 (Dây chuyền này cũng do Nhật cung cấp) nâng sản lượng lên 2,4 triệu tấn/năm .
Giai đoạn 3 : Tiến hành đầu tư xây dựng mới một dây chuyền nữa để có sản lượng 3,6 - 3,8 tấn /năm thơì gian hoàn thành trước năm 2010
Với giải pháp như trên thì trong thời gian tới thì công ty sẽ có một lượng sản phẩm rồi dào , chất lượng cao , góp phần thoả mãn nhu cầu của xã hội , có một cơ sở sản xuất tương xứng với thị xã công nghiệp vật liệu xây dựng và với các cơ sở sản xuất lớn ở khu vực , không chỉ vậy , việc đầu tư hiện đại hoá các dây chuyền sản xuất và xây dựng thêm dây chuyền mới cần cho phép công ty đạt được các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật tiên tiến, giải quyết triệt để vấn đề môi trường , giải quyết cơ bản về lao động , đủ tiêu chuẩn của thời kỳ hội nhập khu vực .
3) Giải pháp về nhân lực .
Công ty xi măng Bỉm sơn sau khi cải tạo dây chuyền sản xuất số 2 , đứng trước một thực trạng là hai dây chuỳen sản xuất theo hai phương pháp khác nhau , dây chuyền 1 sản xuất theo phương pháp ướt , dây chuyền 2 sản xuất theo phương pháp khô . Vì vậy giải pháp về nhân lực như sau :
* Đối với khối sản xuất chính .
Công ty sau khi cải tạo dây chuyền số 2 , tổng công suất thiết kế của các dây chuyền tăng từ 1,2 triệu tấn/năm lên 1,8 triệu/năm . Như vậy sản lượng dự kiến sẽ tăng 1,5 lần do đó việc khai thác nguyên liệu , vận chuyển nguyên liệu và bốc xúc sẽ phải tăng lên vì vậy lao động ở các địa điểm này như hiện nay thì phải tăng thêm lao động . Nếu tiến hành đầu tư băng tải , máy đập tại vùng nguyên liệu thì số lao động sẽ giảm so với dự kiến tuy nhiên do dây chuyền 1 vẫn sản xuất theo phương pháp ướt , vì vậy không thể bố trí lao động ở dây chuyền 1 kiêm vận hành ở dây chuyền 2 được . Mặt khác sau cải tạo thì một số thiết bị mới phát sinh , vì vậy lao động của cả hai dây chuyền vẫn không giảm . Để từng bước giảm lao động , công ty cần hợp lý hoá sản xuất , đầu tư đào tạo lao động của dây chuyền 2 kiêm thêm vận hành dây chuyền một , tăng mức độ đảm nhiệm máy móc thiết bị của người lao động .
* Đối với khối sản xuất phụ trợ
Lao động củ khối sản xuất phụ trợ được xây dựng trên cơ sở đáp ứng yêu cầu của của sản xuất chính , đảm bảo cho sản xuất liên tục và ổn định .
Đối với lao động sửa chữa cơ và sửa chữa điện được tập trung quản lý về một đầu mối là các xươngr chuyên môn nhằm đảm bảo vừa sửa chữa bảo dưỡng thường xuyên các thiết bị dây chuyền , vừa đảm bảo công tác sửa chữa lớn của công ty . Công ty sẽ tổ chức lao động này chuyên môn hoá theo từng công đoạn sản xuất để đáp ứng nhu cầu kịp thời của sản xuất . Và để làm việc này thì công ty . Tiến hành đầu tư nâng cao trình độ kỹ thuật người lao động .
Đối với lao động lao động thí nghiệm KCS , do hai phương pháp công nghệ của hai dây chuyền khác nhau . Vì vậy việc thử nghiệm mẫu sẽ tăng thêm về số lượng do vừa phải lấy mẫu ở dây chuyền công nghệ khô vừa phải lấy mẫu ở dây chuyền công nghệ ướt và phải làm thí nghiệm ở cả hai loại mẫu vì vậy việc đầu tư cho lao động ở phòng KCS không chỉ chất mà còn cả số lượng ...
* Đối với khối quản lý .
Công ty sẽ sắp xếp lao động cho khối quản lý trên cơ sở mức độ đảm nhiệm công việc của người lao động , không phụ thuộc vào sản lượng của công ty . Mặc dù sau cải tạo hiện đại hoá thì sản lượng của công ty tăng 1,5 lần . Nhưng theo đánh giá hiện nay cũng như su hướng cho những năm tới ,lao động của khối quản lý sẽ phải giảm . Vì vậy việc đầu tư lao động ở khối quản lý là chủ yếu là đầu tư về chất lượng làm như vậy bộ máy quản lý mới gọn nhẹ , hoạt động linh hoạt có hiệu quả .
*Đối với khối tiêu thụ :
Công ty xi măng Bỉm sơn sau khi cải tạo hiện đại hoá dây chuyền số2 sản lượng tăng 1,5 lần so với hiện nay và cho các phươg án là 2,4 triệu tấn/năm hoặc 3,0 triệu tấn/năm . Mặt khác sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng quyết liệt , bởi sẽ có các nhà máy mới tung sản phẩm ra thị trường và đặc biệt là việc xoá bỏ các hàng rào thuế quan, sự hội nhập nền kinh tế thế giới , vì vậy bộ máy tiêu thụ sản phẩm phải từng bước gọn nhẹ , có chất lượng cao , đảm bảo hiệu quả kinh tế cao nhất . Việc tiêu thụ xi măng tập trung vào cơ chế tiêu thụ và mạng lưới tiếp thị . Vì vậy ,việc bán lẻ xi măng không còn phù hợp với yêu cầu sản lượng ngày càng tăng . Do đó công ty sẽ tập trung đầu tư đào tạo những lao động có kinh nghiệm Marketing đồng thời giảm số lao động bán lẻ xi măng , từng bước thông qua đại lý tiêu thụ xi măng để có mạng lưới tiêu thụ rộng khắp thuộc địa bàn công ty phụ trách
Căn cứ thực trạng tình hình lao động của công ty sau cải tạo hiện đại hoá dây chuyền số2 và lao động cần thiết của phương án , ta thấy rằng sau cải tạo hiện đại hoá công ty có một lực lượng lao động dôi dư tương đối lớn đòi hỏi phải xây dựng các phương án tạo việc làm mới , nhằm đảm bảo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động .
Và các phương án đối các lao động dôi dư này là đầu tư đào tạo lại để đảm nhiệm thêm các khâu sản xuất , các khâu tiêu thụ ... với sự thay đổi về công nghệ sản xuất ở công ty thì cơ cấu tổ chức cũng được thay đổi phù hợp như sau :
4, Giải pháp đầu tư cho vận tải tiêu thụ xi măng .
Theo dự báo nhu cầu tiêu thụ xi măng từ năm 2001 trở đi vẫn tiếp tục tăng . Ngoài các thị trường tiêu thụ chính như hiện nay tại các tỉnh miền trung Nam bắc bộ và một số công trình lớn đã đang và sẽ được xây dựng hoàn thành trong nước như đường Hồ Chí Minh , đường ngầm đèo Hải vân ... công ty xi măng Bỉm sơn còn phải tìm kiếm thị trường mới như : xuất khẩu xi măng sang Lào , Căm Pu Chia ...
Hầu hết từ trước đến nay việc đáp ứng nhu cầu xi măng cho các tỉnh của công ty chủ yếu là sử dụng phương tiện vận tải ô tô và vận tải đường sắt .
Vận tải ô tô sử dụng số lượng ô tô hiện có của công ty và các chi nhánh ngoài ra còn thuê ô tô vận tải của tư nhân và các đơn vị bên ngoài
Vận tải đường sắt : Hợp đồng thuê toa xe với ngành đường sắt với các phương thức vận tải này thì chi phí lưu thông taưng mà công ty lại không chủ động điều hành phương tiện vận tải , vẫn phụ thuộc nhiều vào sự điều hành của ngành đường sắt .
Để giải quyết vấn đề này cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các loại hình giao thông : vận chuyển đường sắt , vận chuyển ô tô , vận chuyển đường sông đường sóng pha biển
Khi nâng công suất lên 1,8 triệu tấn/năm thì dự kiến khối lượng xi măng vận tải đường sắt , đường ô tô , đường thuỷ như sau :
- Vận tải đường sắt chiếm 45% = 800.000 tấn
- Vận tải ô tô chiếm 35% = 650.000 tấn
- Vận tải đường thuỷ chiếm 20% = 350.000 tấn
Vận tải đường sắt , ô tô như các năm trước đây từ 1,2 - 1,5 triệu tấn xi măng vẫn có thể đảm bảo nhận bình thường mà không cần phải đầu tư thêm .
Vận tải đường thuỷ : Tiến hành dầu tư xây dựng cảng xuất xi măng và dự kiến vốn đầu tư cho phương án này là 22 tỷ đồng cụ thể , ở đây là cảng Ninh Phúc , Ninh Bình từ đây có thể vận chuyển sản phẩm xi măng của công ty đi tới Quảng Nam , Quảng Trị ...
5. Giải pháp về tạo vốn đầu tư.
Có thể thấy Công ty đang tiến hành đầu tư cải tạo hiện đại hoá dây chuyền sản xuất nhằm mở rộng sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh của Công ty theo từng giai đoạn. Giai đoạn đầu đưa sản lượng của Công ty lên 1,8 triệu tấn/năm, tiếp đó là 2,4 triệu tấn/năm và 3,6 á 3,8 triệu tấn/năm. Là một doanh nghiệp Nhà nước thuộc Bộ xây dựng thi việc tạo vốn đầu tư phụ thuộc vào Tổng Công ty xi măng Việt Nam.
Bài toán về vốn đầu tư phát triển công nghiệp xi măng đang thực sự là rất khó khăn. Bởi vì số vốn tự có của các đơn vị trong tổng Công ty xi măng Việt Nam cũng như Công ty xi măng Bỉm Sơn là quá nhỏ, số vốn khấu hao hàng năm phải nộp cho Bộ tài chính, vốn đầu tư từ ngân sách thì hết sức khó khăn, vay vốn nước ngoài thì khồn dễ dàng vay được vì họ quan tâm đến những lợi ích thực dụng.
Về phía chủ thể: Công ty xi măng Bỉm Sơn thuộc Tổng Công ty xi măng Việt Nam vì vậy Tổng Công ty có các giải pháp tạo vốn như sau:
+ Đối với vốn trong nước: Tổng Công ty xi măng đề nghị Nhà nước xếp các công trình hiện đại hoá, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh của Công ty xi măng Bỉm Sơn vào diện được vay vốn ưu tiên: Các hạng mục ngoài "hàng rào công trình" như đường giao thông, điện, nước … thường chiếm khoảng 25% vốn đầu tư đề nghị Chính phủ trực tiếp đầu tư cho chuyên ngành giao thông, điện, vốn khấu hao cho phép Tổng Công ty giữ lại 100%.
+ Đối với vốn nước ngoài: Chủ yếu nguồn vốn ODA đề nghị chính phủ hỗ trợ đầu tư. Mới đây Bộ tài chính cho phép Tổng Công ty xi măng Việt Nam thực hiện thí điểm việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp nhưng do lãi suất phát hành trái phiếu quá thấp nên khó huy động vốn trong dân.
Đối với Công ty phương án giải bài toán về vốn đầu tư để mở rộng sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh là nên thực hiện phát hành trái phiếu doanh nghiệp bằng ngoại tệ với lãi suất tương đương các ngân hàng đang thực hiện, nhưng nên giao cho các ngân hàng thương mại đấu thầu làm đại lý phát hành. Đồng thời các ngân hàng thương mại mở rộng quan hệ với các ngân hàng ở các nước trên thế giới, nhất là trong khu vực để vay vốn phát triển công nghiệp xi măng.
Để tạo đà thúc đẩy tăng trưởng nhanh nền kinh tế cùng với việc giải quyết vốn đầu tư phát triển hệ thống điện năng, phát triển hệ thống giao thông, thì việc đầu tư vốn đảm bảo nhu cầu vê xi măng cho phát triển là vấn đề hết sức cấp bách. Vốn cho lĩnh vực này cần có các giải pháp đồng bộ cả về tài chhính và tiền tệ, cần có sự quan tâm lớn của các nhà ngân hàng ở Việt Nam.
6. Giải pháp về quản lý
Nghiên cứu xây dựng, ban hành hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật tiên tiến áp dụng cụ thể cho từng dây chuyền sản xuất. Các chỉ tiêu định mức này cần thường xuyên theo dõi, phân tích, sửa đổi về bảo đảm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Quản lý chặt chẽ giá cả các loại nguyên, nhiên liệu và vật tư phụ tùng, thiết bị đầu vào để vừa đảm bảo chất lượng vừa hạ giá thành sản phẩm, khuyến khích việc thay thế vật tư, phụ tùng ngoại nhập bằng vật tư, phụ tùng thiết bị sản xuất trong nước để vừa tiết kiệm ngoại tệ, giảm chi phí vừa hạn chế được rủi ro vì lệ thuộc vào tình hình kinh tế nước ngoài. Cần tập trung chỉ đạo công tác quản lý vốn, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh, đẩy nhanh vòng quay vốn lưu động. Đây là một giải pháp cơ bản để hạ giá thành sản phẩm. Hoàn chỉnh mạng lưới tiêu thụ và ưu tiên dành tỷ lệ thích đáng vốn đầu tư để xây dựng các mạng lưới các trạm tiếp nhận và phân phối xi măng. Trong đó, ưu tiên đầu tư ở các thị trường lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh … và các khu công nghiệp tập trung. Phát triển hệ thống vận tải, bảo đảm môi trường, tìm biện pháp xuất khẩu xi măng sang Lào và các nước trong khu vực. Đây là giải pháp chiến lược trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh.
7. Giải pháp về cơ chế sản phẩm.
Công ty xi măng Bỉm Sơn là một đơn vụ thành viên của Tổng Công ty xi măng Việt Nam vì vậy, nó cùng chịu chung như các đơn vị khác ở Tổng Công ty một cơ chế quản lý giá sản phẩm. Cơ chế quản lý giá bán lẻ xi măng đã phần nào hoàn thành được sứ mệnh lịch sử trong thời gian qua. Đã đến lúc cần thay đổi chính sách quản lý giá bán lẻ.
Nói một cách tổng quát, giải pháp quan trọng đầu tư mang tính đột phá là xoá bỏ cơ chế định giá bán lẻ chuẩn xi măng hiện hành, trong đó Tổng Công ty xi măng Việt Nam vừa là cầu thủ chủ chốt, vừa là trọng tài thường trực của cuộc chơi, còn Ban vật giá Chính phủ là trọng tài phần nào trên danh nghĩa, và để cho thị trường là một yếu tố cơ bản quyết định giá xi măng. Có như vậy thì các nhà sản xuất xi măng sẽ được đặt trong trạng thái cạnh tranh với nhau bằng cách giảm giá bán, nâng cao chất lượng sản phẩm …
8. Giải pháp về giá đầu vào.
8.1. Giải pháp giá "đầu vào" mang tính khách quan.
Một trong nguyên nhân chủ yếu làm cho giá cả sản phẩm xi măng Công ty xi măng Bỉm Sơn ở mức cao đó là giá đầu vào cao, giá những đầu vào này cao như hiện nay là do độc quyền sản xuất và kinh doanh như: điện, than, bưu chính viễn thông … Ví dụ điện dùng cho sản xuất công nghiệp ở Việt Nam hiện nay lên 6,3 cent/kwh trong khi đó tại Trung Quốc và Indonexia chỉ là 4,5 cent/kwh, Malayxia là 5,7 cent/kwh. Giá điện ở Việt Nam còn mang tính độc đoán vô lý, trái với quy luật thị trường, thay vì "mua càng nhiều, giá lại càng rẻ" thì ở đây "mua càng nhiều, giá càng cao". Do đó, Nhà nước cần kiểm soát việc hình thành giá của các sản phẩm độc quyền, tránh việc hạch toán chi phí không hợp lý, không sát với thực tế. Ví dụ, thất thoát điện năng, thất thoát nước quá nhiều do khả năng quản lý yếu kém thì không được hạch toán và giá thành để bắt người sử dụng gánh chịu. Nhà nước cần tính toán cân nhắc lợi ích và ảnh hưởng tiêu cực đối với việc nâng giá sản phẩm là "đầu ra" của một ngành lại là "đầu vào" của nhiều ngành khác trong nền kinh tế.
8.2. Giải pháp về giá "đầu vào" mang tính chủ quan.
Chi phí vật liệu trực tiếp chiếm khoảng 55 - 70% giá thành sản xuất xi măng, trong khi đó Công ty đang phải nhập khẩu những vật liệu này, vì thế phần mua bán vật tư loại này cũng nảy sinh không ít tiêu cực (giá giá, khuyến mại, thưởng người mua) nếu kiểm soát chẳt chẽ, công khai sẽ góp phần giảm đáng kể giá thành sản xuất.
Thời điểm hội nhập và thực hiện AFTA ngày một gần. Toàn ngành xi măng nói chung và Công ty xi măng Bỉm Sơn nói riêng sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức to lớn trong quá trình nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước, thị trường ASEAN và thị trường ngoài ASEAN để tồn tại và phát triển.
Công ty xi măng Bỉm Sơn cần thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp trên đồng thời cần xây dựng một chiến lược thị trường với từng bước đi cụ thể, từng nhiệm vụ đặt ra phải hoàn thành theo một lộ trình chặt chẽ và nghiêm túc với quyết tâm cao. Nếu làm được như vậy thì Công ty xi măng Bỉm Sơn với truyền thống sản xuất kinh doanh có hiệu quả thị trường thuận lợi, nhất định sẽ vượt qua được mọi thử thách, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thương trường để phát triển bền vững xứng đáng với khẩu hiệu:
"Xi măng biểu tượng CON VOI niềm tin của người sử dụng,
niềm tin tự hào của những công trình".
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28738.doc