Định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp tỉnh Thanh hoá giai đoạn 2011 - 2020 theo hướng CNH - HĐH

MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG, BIỂU LỜI MỞ ĐẦU DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1.1: Hiện trạng sử dụng đất tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2000 – 2007 26 Bảng 2.1.2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế theo khu vực kinh tế thời kỳ 2001 – 2010 29 Bảng 2.1.3: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế 31 Bảng 2.1.4: Tình hình thu hút vốn đầu tư ( giá hiện hành) 32 Bảng 2.2.1: Hiện trạng phát triển công nghiệp 37 Bảng 2.2.2. Số lao động tăng thêm ngành công nghiệp tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2001 – 2007

doc105 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1609 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp tỉnh Thanh hoá giai đoạn 2011 - 2020 theo hướng CNH - HĐH, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
40 Bảng 2.2.3: Quy mô và tỷ trọng vốn đầu tư phát triển công nghiệp trong tổng vốn đầu tư phát triển tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2001 – 2009 42 Bảng 2.2.4: Cơ cấu vốn đầu tư phát triển công nghiệp Thanh Hóa giai đoạn 2001 – 2009 phân theo nhóm ngành công nghiệp 44 Bảng 2.2.5: Cơ cấu GTSX công nghiệp các phân ngành trong nội bộ ngành CNKT 46 Bảng 2.2.6: Hệ thống các trạm biến áp ở Thanh Hóa đến năm 2007 55 Bảng 2.2.7: Cơ cấu công nghiệp theo thành phần kinh tế 56 Bảng 2.2.7: Hiện trạng phát triển công nghiệp theo 3 vùng kinh tế 58 Bảng 3.3.1 : Dự báo vốn đầu tư tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2011 -2020 89 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế theo ngành kinh tế thời kỳ 2001 – 2010 29 Biểu 2: GTSX công nghiệp tỉnh Thanh Hóa qua các năm 38 Biểu 3: Cơ cấu công nghiệp theo phân ngành cấp I giai đoạn 2000 – 2008 45 Biểu 4: Cơ cấu các phân ngành 48 Biểu 5: Cơ cấu nội bộ ngành SXPPĐKN 54 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CCCN : Cơ cấu công nghiệp CDCCNCN : Chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp CNH – HĐH : Công nghiệp hóa – hiện đại hóa TTCN : Tiểu thủ công nghiệp KTTĐ : Kinh tế trọng điểm KTĐL : Kinh tế động lực XHCN : Xã hội chủ nghĩa KCN : Khu công nghiệp CNKT : Công nghiệp khai thác CNCB : Công nghiệp chế biến SXPPĐKN : Sản xuất phân phối điện khí nước GTSX : Giá trị sản xuất VLXD : Vật liệu xây dựng LỜI MỞ ĐẦU Công nghiệp hóa – hiện đại hóa là bước đi tất yếu mà mỗi nước, mỗi dân tộc đều phải trải qua nhằm phát huy tốt nhất cơ hội của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là quá trình tạo ra những điều kiện cần thiết về vật chất – kỹ thuật, về con người và khoa học công nghệ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế nhanh và mạnh để huy động có hiệu quả nhất mọi nguồn lực, tăng năng suất lao động, thay đổi đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Mỗi quốc gia khi muốn thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước đều đòi hỏi phải có một cơ cấu kinh tế hợp lý đặc biệt là cơ cấu ngành công nghiệp nhất là khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển như vũ bão. Việc nghiên cứu phát triển ngành công nghiệp, hướng chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp từ đó nhận biết được các ngành công nghiệp có lợi thế so sánh trước mắt và những ngành có triển vọng trong tương lai sẽ có ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự phát triển bền vững của đất nước. Định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp luôn phải xác định rõ được mối quan hệ giữa nội bộ các ngành, giữa các vùng lãnh thổ và giữa các thành phần kinh tế. Các mối quan hệ được thể hiện cả về mặt số lượng cũng như chất lượng và được xác lập trong những giai đoạn lịch sử nhất định phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội cụ thể của từng nước, từng vùng lãnh thổ. Thanh Hóa là tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ, nằm gần vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và trên trục giao lưu chủ yếu giữa Bắc Bộ với Trung Bộ và Nam Bộ nên có vai trò rất quan trọng về kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của vùng Bắc trung bộ nói riêng và cả nước nói chung. Những năm gần đây, vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa tại tỉnh Thanh Hóa đã được cấp ủy Đảng, chính quyền quan tâm. Tuy nhiên, Thanh Hóa vẫn là một tỉnh nông nghiệp, công nghiệp đã có bước phát triển nhưng còn chậm, sức cạnh tranh còn nhiều yếu kém, yếu tố hiện đại trong ngành công nghiệp chưa được hình thành rõ nét. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhất là cơ cấu ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh bên cạnh những mặt được, có hiệu quả thì còn đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết cả về lý luận lẫn thực tiễn nhất là khi đã có sự hình thành, phát triển của Khu kinh tế tổng hợp Nghi Sơn với nhiều công trình kinh tế quan trọng tạo ra cục diện phát triển mới, đồng thời đang mở ra cơ hội rất lớn để công nghiệp Thanh Hóa bứt phá trong thời gian tới. Do đó, Thanh Hóa đang rất cần có một cơ cấu ngành công nghiệp hợp lý thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, phấn đấu cơ bản trở thành một tỉnh công nghiệp vào năm 2020. Nhận thấy được điều đó, em đã đi sâu vào tìm hiểu và chọn đề tài “Định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2011 – 2020 theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Đây thực sự đang trở thành một vấn đề hết sứa thiết thực và cấp thiết tại tỉnh Thanh Hóa hiện nay. Bài chuyên đề của em gồm ba nội dung chính: Chương I: Một số vấn đề lý luận về cơ cấu ngành công nghiệp và sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp. Chương II: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2000 – 2009 Chương III: Định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2011 – 2020. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới PGS.Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sơn và các cô chú, anh chị tại Viện chiến lược phát triển – Ban nghiên cứu và phát triển các ngành sản xuất đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập này. CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ CẤU NGÀNH CÔNG NGHIỆP VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH CÔNG NGHIỆP LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CẤU CÔNG NGHIỆP VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH CÔNG NGHIỆP Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế là mối quan hệ tỉ lệ giữa các bộ phận hợp thành một tổng thể kinh tế, các bộ phận này có những mối liên hệ hữu cơ, những tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng, các quan hệ tỉ lệ được hình thành trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, chúng luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể Giáo trình kế hoạch hóa phát triển kinh tế - xã hội . Có thể nói trong các vấn đề khác nhau của nhiệm vụ xây dựng đất nước, cơ cấu kinh tế là vấn đề then chốt và có ý nghĩa quyết định nhất. Nó không chỉ thể hiện ở quan hệ tỷ lệ mà quan trọng hơn là mối quan hệ tác động qua lại về nội dụng bên trong của hệ thống kinh tế, thể hiện tính chất và trình độ phát triển hệ thống kinh tế của một quốc gia. Sự phát triển của lực lượng sản xuất nhất định sẽ hình thành một cơ cấu kinh tế với tỷ lệ cân đối tương ứng với các bộ phận. Tỷ lệ đó được thay đổi thường xuyên và tự giác theo quá trình diễn biến khách quan của nhu cầu xã hội và khả năng đáp ứng nhu cầu đó. Vì vậy, sự biến đổi của cơ cấu kinh tế luôn gắn liền với sự thay đổi không ngừng của lực lượng sản xuất, nhu cầu tiêu dùng và đặc điểm chính trị, xã hội của từng thời kì. Sự vận động và phát triển này là xu hướng phổ biến của mọi quốc gia. Song mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên trong quá trình tái sản xuất mở rộng ở mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi quốc gia lại có sự khác nhau. Sự khác nhau đó bị chi phối bởi quan hệ sản xuất, bởi các đặc trưng văn hoá xã hội, bởi các yếu tố lịch sử của mỗi dân tộc. Do đó, các nước có thể có hình thái kinh tế-xã hội giống nhau, song lại vẫn có sự khác nhau trong hình thành cơ cấu kinh tế, vì điều kiện kinh tế, xã hội và quan điểm chiến lược mỗi nước khác nhau. Cơ cấu kinh tế được phân tích theo hai phương diện: Phương diện thứ nhất, mặt vật chất kĩ thuật của cơ cấu, bao gồm: Cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực kinh tế phản ánh số lượng, vị trí, tỉ trọng các ngành, lĩnh vực, bộ phận cấu thành nền kinh tế. Cơ cấu theo quy mô, trình độ kĩ thuật, công nghệ của các loại hình tổ chức sản xuất phản ánh chất lượng các ngành, lĩnh vực, bộ phận cấu thành nền kinh tế Cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ phản ánh khả năng kết hợp, khai thác tài nguyên, tiềm lực kinh tế-xã hội của các vùng phục vụ cho mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc dân thống nhất. Phương diện thứ hai, xét về mặt kinh tế-xã hội, bao gồm: Cơ cấu theo các thành phần kinh tế phản ánh khả năng khai thác năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh của mọi thành viên xã hội. Cơ cấu kinh tế theo trình độ phát triển của quan hệ hàng hoá tiền tệ. Nó phản ánh khả năng giải quyết mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa các ngành, lĩnh vực và các bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất. Như vậy, dưới các góc độ khác nhau cơ cấu kinh tế được phân thành nhiều loại như cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu vùng, cơ cấu đối ngoại, cơ cấu tích lũy… Mỗi loại cơ cấu phản ánh những nét đặc trưng của các bộ phận và qua cách mà chúng quan hệ với nhau trong quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân. Trong đó, cơ cấu ngành kinh tế là sự kết hợp giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế hoặc từng loại hình sản xuất, từng xí nghiệp trong nội bộ ngành, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số và chất lượng giữa các ngành với nhau. Nó có vai trò quan trọng nhất phản ánh tập trung nhất trình độ phát triển của phân công lao động xã hội và trình độ phát triển chung của lực lượng sản xuất, trực tiếp giải quyết mối quan hệ cung – cầu trên thị trường, đảm bảo sự phát triển cân đối của nền kinh tế. Liên Hợp Quốc đã thống nhất phân loại ngành theo ba khu vực: khu vực I – nông nghiệp, khu vực II – công nghiệp và khu vực III – dịch vụ. Các ngành này có mối quan hệ tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển trong quá trình hoạt động sản xuất. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình biến đổi cơ cấu kinh tế từ dạng này sang dạng khác phù hợp với sự phát triển của phân công lao động xã hội, sự phát triển của lực lượng sản xuất và các nhu cầu phát triển khác của xã hội. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế mang tính khách quan thông qua những nhận thức chủ quan của con người. Những tiêu chí cơ bản phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vĩ mô bao gồm: tỷ trọng của các phần tử cơ cấu của hệ thống (theo GDP, lao động) và các chỉ tiêu chất lượng (như năng suất lao động, tiêu hao điện năng trên một đồng GDP, tỷ lệ hộ đói nghèo, tỷ lệ người thất nghiệp…). Khi có sự tác động của con người, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu đã hình thành một số khái niệm: Điều chỉnh cơ cấu là quá trình chuyển dịch cơ cấu trên cơ sở thay đổi một số mặt một số yếu tố của cơ cấu, làm cho nó thích ứng với điều kiện khách quan từng thời kỳ, không tạo ra sự thay đổi đột biến, tức thời. Theo định nghĩa này thì điều chỉnh cơ cấu chỉ diễn ra sau một khoảng thời gian nhất định vì nó là một quá trình và sự phát triển của các ngành phải dẫn đến sự thay đổi mối quan hệ tương đối ổn định vốn có của chúng (ở thời điểm trước đó). Trên thực tế, sự thay đổi này là kết quả của quá trình: Xuất hiện thêm một số ngành mới hay mất đi một số ngành đã có, tức là có sự thay đổi về số lượng cũng như loại ngành trong nền kinh tế. Hay là sự tăng trưởng về quy mô với nhịp độ khác nhau của các ngành dẫn đến thay đổi cơ cấu. Cải tổ cơ cấu là quá trình chuyển dịch mang tính thay đổi về mặt bản chất so với thực trạng cơ cấu ban đầu, nhanh chóng tạo ra sự đột biến. Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, các chiến lược cơ cấu và việc điều chỉnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia không chỉ thuần túy được nhìn nhận dưới góc độ chuyển dịch ngành kinh tế trong phạm vi từng quốc gia mà còn phải tính tới sự hoạt động của mạng lưới sản xuất đa quốc gia. Do đó, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một nước sẽ phụ thuộc nhiều vào khả năng cạnh tranh để có được chỗ đứng vững chắc trên thị trường và sự linh hoạt để có thể ứng phó, thích nghi với những biến động trên thị trường thế giới. Cơ sở lý thuyết của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Lý thuyết các giai đoạn phát triển kinh tế của Rostow Rostow cho rằng quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia được chia thành 5 giai đoạn và ứng với mỗi một giai đoạn là một dạng cơ cấu ngành kinh tế đặc trưng thể hiện bản chất phát triển của giai đoạn ấy. Cụ thể: Giai đoạn 1: Xã hội truyền thống. Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là nền kinh tế thống trị bởi sản xuất nông nghiệp với năng suất lao động thấp do sản xuất chủ yếu bằng công cụ thủ công, tích lũy gần như là con số 0. Cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ này là cơ cấu nông nghiệp thuần túy. Giai đoạn 2: Chuẩn bị cất cánh. Đây được coi là thời kỳ quá độ giữa xã hội truyền thống và sự cất cánh với nội dung cơ bản là chuẩn bị những điều kiện tiên quyết để cất cánh: những hiểu biết khoa học – kỹ thuật đã bắt đầu được áp dụng vào sản xuất trong cả nông nghiệp và công nghiệp; Giáo dục được mở rộng và có những cải tiến phù hợp với những yêu cầu mới của sự phát triển; Nhu cầu đầu tư tăng lên đã thúc đẩy sự hoạt động của ngân hàng và sự ra đời của các tổ chức huy động vốn. Tuy vậy tất cả các hoạt động này chưa vượt qua được phạm vi giới hạn của một nền kinh tế truyền thống, năng suất thấp. Cơ cấu ngành là cơ cấu nông – công nghiệp. Giai đoạn 3: Cất cánh. Là giai đoạn trung tâm trong sự phân tích các giai đoạn phát triển của Rostow, thể hiện một đất nước bước vào giai đoạn phát triển hiện đại và ổn định. Những yếu tố cơ bản đảm bảo cho sự cất cánh là huy động được nguồn vốn đầu tư cần thiết, tỷ lệ tiết kiệm tăng, khoa học – kỹ thuật tác động mạnh vào nông nghiệp và công nghiệp. Công nghiệp giữ vai trò đầu tàu, có tốc độ tăng trưởng nhanh, đem lại lợi nhuận lớn. Cơ cấu ngành kinh tế đã là công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ. Giai đoạn 4: Trưởng thành. Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là tỷ lệ đầu tư tăng liên tục, lên tới 20% thu nhập quốc dân thuần túy; khoa học – kỹ thuật mới được áp dụng trên toàn bộ các mặt hoạt động kinh tế. Nhiều ngành công nghiệp mới, hiện đại phát triển, nông nghiệp được cơ giới hóa, nhu cầu xuất nhập khẩu tăng mạnh, sự phát triển kinh tế trong nước hòa đồng vào thị trường quốc tế. Cơ cấu ngành kinh tế là công nghiệp – dịch vụ - nông nghiệp. Giai đoạn 5: Tiêu dùng cao. Cơ cấu lao động đã thay đổi theo hướng tăng tỷ lệ dân cư đô thị và lao động có tay nghề, có trình độ chuyên môn cao. Cơ cấu ngành có dạng dịch vụ - công nghiệp. Có thể nói đứng trên góc độ mối quan hệ giữa sự chuyển dịch cơ cấu với quá trình phát triển thì Rostow đã chỉ ra một sự lựa chọn hợp lý về dạng cơ cấu ngành tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của mỗi quốc gia. Theo lý thuyết này hầu hết các nước đang phát triển và đang trong quá trình công nghiệp hóa nằm ở trong khoảng giai đoạn 2 và 3. Về mặt cơ cấu kinh tế, phải bắt đầu hình thành được những ngành công nghiệp chế biến có khả năng thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng. Ngoài ra, sự chuyển tiếp từ giai đoạn 2 sang giai đoạn 3 đi kèm với sự thay đổi của những ngành chủ lực, đóng vai trò đầu tàu. Do đó Rostow đã nhấn mạnh tới nhân tố mang tính quyết định của sự cất cánh là kỹ thuật mới được áp dụng, mà kỹ thuật mới thì bao giờ cũng được áp dụng vào ngành công nghiệp cụ thể. Ông đã gọi ngành công nghiệp cụ thể giữ vai trò đầu tàu này là ngành chủ đạo. Có nghĩa là, trong chính sách cơ cấu, cần xét đến trật tự ưu tiên phát triển những ngành, lĩnh vực có khả năng đảm trách vai trò đầu tàu kinh tế trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau. Mô hình kinh tế nhị nguyên Athur Lewis là người đầu tiên đưa ra mô hình này. Ông đã đưa ra giả thuyết nền kinh tế song song tồn tại hai khu vực với hai nhóm ngành. Khu vực kinh tế truyền thống, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, khu vực này có đặc trưng là rất trì trệ, năng suất lao động rất thấp và tình trạng dư thừa lao động. Do ruộng đất có hạn và trình độ lao động cũng như áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ ngày một tăng, nên trong nông nghiệp số lượng lao động giảm nhưng vẫn tăng sản xuất. Bộ phận lao động dư thừa này có nhu cầu việc làm rất lớn, sẵn sàng di chuyển đến khu vực khác có việc làm và thu nhập cao hơn hiện tại. Khu vực thứ hai là khu vực công nghiệp hiện đại, khu vực này có năng suất lao động cao, tích lũy lớn, tạo ra khả năng tự phát triển không phụ thuộc vào trình độ chung của nền kinh tế hiện tại. Do lao động dư thừa nên việc chuyển một phần lao động thặng dư từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp không gây ảnh hưởng gì đến sản lượng nông nghiệp. Bên cạnh đó, năng suất lao động cao và tiền công cao hơn nên khu vực công nghiệp thu hút lao động dư thừa từ khu vực nông nghiệp chuyển sang, và do lao động trong khu vực nông nghiệp quá dư thừa và tiền công thấp hơn nên các ông chủ công nghiệp có thể thuê mướn nhiều nhân công mà không phải tăng thêm tiền công, lợi nhuận của các ông chủ ngày càng tăng; giả định rằng toàn bộ lợi nhuận sẽ được đem tái đầu tư thì nguồn tích lũy để mở rộng sản xuất trong khu vực công nghiệp ngày càng tăng lên. Như vậy, có thể rút ra từ lý thuyết này một nhận định là để thúc đẩy sự phát triển, các quốc gia đang phát triển cần phải mở rộng khu vực công nghiệp hiện đại bằng mọi giá mà không quan tâm đến khu vực truyền thống. Sự tăng trưởng của khu vực công nghiệp tự nó sẽ thu hút hút hết lượng lao động dư thừa trong nông nghiệp chuyển sang và từ trạng thái nhị nguyên, nền kinh tế sẽ chuyển sang một nền kinh tế công nghiệp phát triển. Lý thuyết nhị nguyên của Lewis tiếp tục được nhiều kinh tế gia nổi tiếng (như G. Ranis, J Fei, Harris) khác tiếp tục nghiên cứu và phân tích. Luận cứ của họ xuất phát từ khả năng phát triển và tiếp nhận lao động của khu vực công nghiệp hiện đại. Khu vực này có nhiều khả năng lựa chọn công nghệ sản xuất, trong đó có công nghệ sử dụng nhiều lao động nên về nguyên tắc có thể thu hút hết lượng lao động dư thừa của khu vực công nghiệp. Nhưng việc di chuyển lao động được giả định là do chênh lệch về thu nhập giữa lao động của hai khu vực kinh tế trên quyết định (các tác giả giả định rằng thu nhập của lao động công nghiệp tối thiểu cao hơn 30% so với lao động trong khu vực nông nghiệp). Như vậy, khu vực công nghiệp chỉ có thể thu hút lao động nông nghiệp khi có sự dư thừa lao động nông nghiệp và chênh lệch tiền công giữa hai khu vực đủ lớn. Nhưng khi nguồn lao động nông nghiệp dư thừa ngày càng cạn dần thì khả năng duy trì sự chênh lệch về tiền lương này sẽ ngày một khó khăn. Ðến khi đó, việc tiếp tục di chuyển lao động nông nghiệp sang công nghiệp sẽ làm giảm sản lượng nông nghiệp và làm cho giá cả nông sản tăng lên, và kéo theo đó là mức tăng tiền công tương ứng trong khu vực công nghiệp. Sự tăng lương của khu vực công nghiệp này đặt ra giới hạn về mức cầu tăng thêm đối với lao động của khu vực này. Như thế, về mặt kỹ thuật, mặc dù khu vực công nghiệp có thể thu hút không hạn chế lượng lao động dư thừa từ khu vực nông nghiệp chuyển sang thì về mặt thu nhập và độ co giãn cung cầu thì khả năng tiếp nhận lao động từ khu vực nông nghiệp của khu vực công nghiệp là có hạn. Cơ cấu kinh tế theo lý thuyết cân đối liên ngành Mô hình đưa ra giả thuyết về phát triển tất cả các ngành hay phát triển cân đối giữa các ngành và nội bộ từng ngành. Những người ủng hộ quan điểm phát triển cân đối đều cho rằng phải phát triển đồng đều ở tất cả mọi ngành kinh tế quốc dân để nhanh chóng công nghiệp hóa và chuyển dịch cơ cấu. Luận cứ của họ như sau: * Trong quá trình phát triển, tất cả các ngành có liên quan mật thiết với nhau, "đầu ra" của ngành này là "đầu vào" của ngành kia và như vậy, sự phát triển đồng đều và cân đối chính là đòi hỏi sự cân bằng cung cầu trong sản xuất. * Sự phát triển cân đối giữa các ngành như thế giúp tránh được các ảnh hưởng tiêu cực của thị trường thế giới và hạn chế được mức độ phụ thuộc vào các nền kinh tế khác, qua đó tiết kiệm được nguồn ngoại tệ. * Một nền kinh tế dựa trên cơ cấu cân đối giữa tất cả các ngành là nền tảng vững chắc đảm bảo sự độc lập chính trị của các nước đang phát triển. Lý thuyết này khi đưa ra được các quốc gia đang phát triển đi theo con đường công nghiệp hóa hướng nội (công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu) rất ưa chuộng. Tuy nhiên, khi được áp dụng thực tế đã bộc lộ những yếu điểm như: Việc phát triển một cơ cấu kinh tế cân đối và hoàn chỉnh đã đẩy các nền kinh tế đến chỗ khép kín và tách biệt với thế giới bên ngoài, điều này đi ngược lại với xu thế quốc tế hóa và toàn cần hóa, không tận dụng được những lợi ích tích cực từ môi trường bên ngoài đem lại. Các nền kinh tế đang phát triển không đủ nguồn lực về nhân tài, vật lực để có thể thực hiện được những mục tiêu cơ cấu đặt ra. Lý thuyết phát triển ngành không cân đối hay “cực tăng trưởng” Nội dung của lý thuyết cho rằng: Một vùng không có sự phát triển đồng đều ở mọi điểm trên lãnh thổ của nó theo cùng một thời gian, mà có xu hướng phát triển mạnh ở một số điểm nào đó. Trong khi đó ở một số nơi khác chậm phát triển hơn hoặc bị trì trệ. Các điểm phát triển mạnh và nhanh này thường có ưu thế, lợi thế so với toàn vùng và được gọi là các cực tăng trưởng. Do đó, một cực tăng trưởng là một tập hợp các ngành có khả năng tạo ra động lực tăng trưởng cho nền kinh tế vùng lãnh thổ (chủ yếu là công nghiệp – dịch vụ). Thực chất đây là quá trình tập trung hóa lãnh thổ mà ở đó cực tăng trưởng là điểm có lợi thế nhờ vị trí địa lý thuận lợi, có kết cấu hạ tầng phát triển, thu hút được nhiều đầu tư. Vì vậy, lý thuyết chỉ ra không thể và không nhất thiết đảm bảo tăng trưởng bền vững bằng cách duy trì cơ cấu cân đối liên ngành đối với mọi quốc gia mà có thể phát triển nền kinh tế không cân đối, tập trung vào các ngành có điều kiện về nguồn lực. Từ đó tập trung vào một số ngành có khả năng nguồn lực trong nước và thuận tiện trong thu hút nguồn lực bên ngoài. Hay tạo ra “cực tăng trưởng” với các ngành có tác dụng đầu tàu, ứng dụng để chọn một số ngành mũi nhọn, tạo sự lan tỏa trong toàn nền kinh tế. Bởi những lý do như: * Việc phát triển không cân đối sẽ tạo ra kích thích đầu tư. Nếu cung bằng cầu trong tất cả các ngành thì sẽ triệt tiêu động lực đầu tư nâng cao năng lực sản xuất. Ðể phát triển được, cần phải tập trung đầu tư vào một số ngành nhất định, tạo ra một "cú hích" thúc đẩy và có tác dụng lôi kéo đầu tư trong các ngành khác theo kiểu lý thuyết số nhân, từ đó kéo theo sự phát triển của nền kinh tế. * Trong mỗi giai đoạn phát triển, vai trò "cực tăng trưởng" của các ngành trong nền kinh tế là không giống nhau. Vì vậy, cần tập trung những nguồn lực vốn đã khan hiếm cho một số lĩnh vực cụ thể trong một thời điểm nhất định. * Do trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hóa, các nước đang phát triển rất thiếu các nguồn lực sản xuất và không có khả năng phát triển cùng một lúc đồng bộ tất cả các ngành hiện đại. Vì thế, phát triển không cân đối gần như là một sự lựa chọn bắt buộc. Như vậy, vấn đề phát triển một cơ cấu không cân đối và mở cửa ra bên ngoài của lý thuyết này là chấp nhận sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, mà thường thì các quốc gia chậm phát triển chịu nhiều thiệt thòi hơn cho nên lúc đầu lý thuyết này không được các nước đang phát triển theo mô hình công nghiệp hóa hướng nội và phát triển cân đối mặn mà cho lắm nhưng càng về sau thì lý thuyết này càng được thừa nhận rộng rãi, nhất là từ sau sự thành công của các nước công nghiệp hóa mới (NICs). Từ thập niên 1980 trở lại đây, lý thuyết này đã được nhiều nước đang phát triển áp dụng với mô hình công nghiệp hóa mở cửa và hướng ngoại. Cơ cấu công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp Cơ cấu công nghiệp CCCN là tổng hợp những ngành công nghiệp hợp thành hệ thống công nghiệp và mối quan hệ tỷ lệ biểu hiện của mối liên hệ sản xuất giữa các ngành qua mối tác động qua lại biện chứng với nhau, trong những không gian và thời gian nhất định, trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định cả về mặt định lượng và định tính, cả về số lượng và chất lượng cũng như phương thức mà chúng hợp thành. CCCN được xem xét theo các mặt chủ yếu sau: Cơ cấu ngành kinh tế - kỹ thuật: là tổng hợp các ngành và mối liên hệ kinh tế - kỹ thuật giữa các ngành trong tổng thể CCCN. Cơ cấu thành phần kinh tế trong công nghiệp nói lên mối quan hệ giữa các thành phần, có ý nghĩa rất lớn đến việc quyết định trật tự phát triển công nghiệp cả về sự hình thành lẫn chuyển dịch CCCN. Cơ cấu vùng lãnh thổ: xét CCCN theo sự phân bố về không gian và vùng lãnh thổ. Nó thể hiện sự phân bố lực lượng sản xuất, sự phân công lao động trên các vùng lãnh thổ khác nhau và mối quan hệ giữa các vùng lãnh thổ này trong toàn ngành công nghiệp. Phân loại cơ cấu công nghiệp 2.2.1. Cơ cấu công nghiệp phân theo ngành kinh tế Theo phân ngành của Tổng cục thống kê, ngành công nghiệp được phân ra thành 3 ngành cấp 1 sau: Công nghiệp khai thác Công nghiệp chế biến Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước Trong đó: Nhóm ngành công nghiêp khai thác bao gồm: Khai thác than Khai thác quặng kim loại Khai thác dầu thô và khí tự nhiên Khai thác đá và mỏ khác Nhóm ngành công nghiệp chế biến bao gồm: Chế biến nông lâm, thủy sản Sản xuất sản phẩm hóa chất, dầu mỏ Sản xuất cơ khí, thiết bị điện và điện tử viễn thông Sản xuất sản phẩm kim loại và phi kim loại Sản xuất sản phẩm dệt may, da giày Sản xuất khác Nhóm sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước gồm Sản xuất và phân phối điện, khí đốt Sản xuất và phân phối nước 2.2.2. Cơ cấu công nghiệp theo thành phần kinh tế Phân loại theo thành phần kinh tế được dựa trên cơ sở chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất. Do đó CCCC bao gồm ba thành phần: Khu vực nhà nước Khu vực ngoài nhà nước Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 2.2.3. Cơ cấu công nghiệp theo vùng lãnh thổ CCCN nước ta được chia thành 7 vùng kinh tế lớn: Vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng Đông Bắc, vùng Tây Bắc, vùng Bắc Trung Bộ, vùng Duyên hải nam trung bộ, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ, vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Mỗi vùng có những điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội khác nhau nhưng có mối quan hệ thúc đẩy nhau cùng phát triển. Tối ưu hóa việc xây dựng cơ cấu kinh tế nói chung và CCCN trên địa bàn lãnh thổ nói riêng là yêu cầu không thể thiếu được của quá trình phát triển kinh tế xã hội từng vùng. 2.2.4. Cơ cấu công nghiệp theo trình độ công nghệ Theo tiêu chí của UNIDO (Liên hợp quốc), CCCN được phân thành 3 nhóm: Nhóm ngành công nghệ cao Nhóm ngành công nghệ trung bình Nhóm ngành công nghệ thấp Chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp 2.3.1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp Cơ cấu công nghiệp luôn thay đổi. Bản thân nó là một hệ thống động bởi sự vận động liên tục và sự thay đổi tương quan giữa các thành tố. Đó chính là sự thay đổi các ngành, nội bộ từng ngành, các vùng và các thành phần kinh tế. Do đó chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp là sự thay đổi CCCN cả trên khía cạnh các bộ phận cơ cấu ngành, vùng, thành phần, mối quan hệ giữa chúng cả về số lượng và chất lượng của cơ cấu để phù hợp với môi trường kinh tế tổng thể bảo đảm phát triển kinh tế bền vững. Nó là kết quả của quá trình: Xuất hiện thêm những ngành mới hay mất đi những ngành đã có, nghĩa là có sự thay đổi về số lượng cũng như loại ngành trong toàn ngành công nghiệp nói chung. Mối tương quan tốc độ phát triển trong nội bộ ngành công nghiệp dẫn tới sự thay đổi cơ cấu. Trong trường hợp này sự CDCCNCN là kết quả của sự phát triển không đồng đều trong nội bộ ngành công nghiệp. Và để đánh giá đúng quá trình CDCCNCN trong mỗi thời kỳ, trên mỗi vùng lãnh thổ phải xem xét đồng thời cả tốc độ tăng trưởng và quy mô phát triển ở điểm xuất phát. Thay đổi trong mối quan hệ tác động qua lại trong nội bộ ngành công nghiệp. Những sự thay đổi này thường liên quan tới công nghệ sản xuất sản phẩm hay khả năng thay thế cho nhau để đáp ứng nhu cầu của xã hội trong những điều kiện mới. Khi một phân ngành trong ngành công nghiệp ra đời hay phát triển, do có mối quan hệ với các ngành khác nên nó có thể tác động thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của ngành có liên quan. 2.3.2. Các mô hình chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp Trong lịch sử phát triển kinh tế, sự lựa chọn hướng CDCCNCN của các nước không hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên, có thể tổng quát lại theo bốn mô hình sau Mô hình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa theo cơ chế thị trường tự do – thường được gọi là mô hình công nghiệp hóa cổ điển – điển hình là nước Anh với một nền kinh tế hoạt động trên cơ sở chế độ tư hữu, thị trường tự phát phân phối mọi nguồn lực cơ bản. Do đó phương hướng và quy mô đầu tư chủ yếu do lợi nhuận chi phối. Trong tiến trình công nghiệp hóa đi tuần tự, từng bước bắt đầu từ công nghiệp dệt, rồi đến công nghiệp cơ khí và các ngành công nghiệp nhẹ khác, cuối cùng là công nghiệp nặng. Mô hình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa theo cơ chế thị trường có sự can thiệp tích cực của Chính phủ - điển hình là trường hợp của Nhật Bản. Chính phủ đã có những can thiệp trực tiếp vào việc lựa chọn đường lối phát triển kinh tế. Đặc điểm cơ bản trong cơ cấu phát triển công nghiệp là đầu tư trực tiếp của Chính phủ ưu tiên cho phát triển công nghiệp nặng, còn các công ty tư nhân vẫn chịu sự điều tiết của cơ chế thị trường, bất đầu từ công nghiệp dệt rồi đến ngành công nghiệp nhẹ và sau đó là ngành công nghiệp nặng. Mô hình công nghiệp hóa kiểu “rút ngắn” – hiện đại, điển hình là trường hợp của các nước NICs châu Á. Đường lối phát triển kinh tế của các nước này giống Nhật Bản ở chỗ hoạt động của nền kinh tế vừa do thị trường điều tiết, vừa có sự can thiệp tích cực của Chính phủ. Nhưng đặc điểm cơ bản nhất chi phối sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp đó là việc tận dụng lợi thế so sánh của đất nước trong từng thời kỳ để sản xuất sản phẩm xuất khẩu, kết hợp với vai trò bảo hộ của Chính phủ. Mô tả sự chuyển dịch này qua ba giai đoạn. Giai đoạn đầu, sản xuất hàng tiêu dùng thay thế nhập khẩu trong khi vẫn nhập các sản phẩm, bán thành phẩm của công nghiệp nặng. Tiếp theo, xuất khẩu các mặt hàng tiêu dùng dựa vào lợi thế so sánh về lao động, đồng thời phát triển công nghiệp nặng cần nhiều vốn để sản xuất sản phẩm trung gian, máy móc thiết bị để thay thế nhập khẩu. Đây được coi là giai đoạn thay thế nhập khẩu lần thứ hai. Cuối cùng là chuyển giao công nghệ sản xuất hàng tiêu dùng, đẩy mạnh công nghiệp có hàm lượng khoa học – công nghệ cao để xuất khẩu. Mô hình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa theo cơ chế kế hoạch tập trung. Trong mô hình này Chính phủ trực tiếp chỉ đạo các hoạt động thực tế. Công nghiệp hóa được thực hiện theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng với tốc độ cao ngay từ giai đoạn đầu của sự phát triển, tiếp theo mới là phát triển công nghiệp nhẹ. 2.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp CDCCNCN chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố, việc phân tích các yếu tố này sẽ cho phép tìm ra được một cơ cấu ngành công nghiệp hợp lý. Trong đó tập trung xem xét những yếu tố cơ bản sau: Tiến bộ khoa học công nghệ và trình độ phát triển kết cấu hạ tầng Tiến bộ khoa học công nghệ thúc đẩy sự phân công lao động xã hội càng sâu sắc, sự phân hóa công nghiệp diễn ra càng._. mạnh và CCCN càng phức tạp. Do đó nó có ảnh hưởng sâu sắc đến việc hình thành và CDCCNCN. Khoa học công nghệ phát triển sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp tác động đến toàn bộ nền kinh tế, làm thay đổi tỷ trọng và vị trí của ngành cũng như trong nội bộ ngành. Dưới tác động của khoa học công nghệ phần sản xuất vật chất ngày càng giảm, phần sản xuất phi vật chất ngày càng tăng. Trong sản xuất vật chất, đầu vào vật chất ngày càng giảm, đầu vào trí tuệ ngày càng tăng, quá trình sản xuất ra một sản phẩm mới được rút ngắn và đây chính là cơ sở quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành nói chung và CCCN nói riêng, cụ thể tác động của khoa học công nghệ đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển một số ngành hiện đại như dầu khí, điện tử, làm thay đổi quy mô tốc độ phát triển của các ngành chế biến, dịch vụ. Sự ảnh hưởng của nhân tố tiến bộ khoa học công nghệ đến CCCN phụ thuộc vào chính sách khoa học công nghệ của đất nước. Việc thực hiện chính sách này là điều kiện vận dụng nhân tố tiến bộ khoa học công nghệ vào việc thúc đẩy CDCCNCN. Song song với tiến bộ khoa học công nghệ thì kết cấu hạ tầng cũng có vai trò rất quan trọng đối với mỗi xã hội, tạo điều kiện cho sản xuất lưu thông, nâng cao mức sống của nhân dân. Trình độ phát triển của kết cấu hạ tầng của nền kinh tế là điều kiện quan trọng đẩy nhanh tốc độ và quy mô của sự đổi mới CCCN. Sự phát triển ngành công nghiệp phải dựa trên cơ sở khai thác tốt kết cấu hạ tầng hiện có. Ngược lại trình độ phát triển của kết cấu hạ tầng sẵn có tạo ra tiền đề cũng như khả năng thực tế để thực hiện một CCCN có hiệu quả hoặc có thể cản trở quá trình CDCCNCN. Thị trường Thị trường tác động trực tiếp đến việc hình thành và CDCCNCN của mỗi giai đoạn, mỗi vùng lãnh thổ. Hạt nhân cơ bản của nền công nghiệp là các doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp phải hướng ra thị trường, xuất phát từ quan hệ cung cầu của thị trường để hoạch định kế hoạch kinh doanh cho mình. Thị trường tác động đến cả đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp. Trong nền sản xuất hàng hóa hiện nay, thị trường vừa là nơi thực hiện tái sản xuất, vừa là khâu trung gian cần thiết liên hệ giữa sản xuất với tiêu dùng, đảm bảo cho sự vận động không ngừng của quá trình tái sản xuất xã hội. Mục đích của sản xuất là nhằm thỏa mãn một nhu cầu cụ thể nào đó của thị trường. Chính nhu cầu thị trường mang tính chất quyết định đầu vào, đầu ra của sản xuất, tác động tới quy mô, số lượng, chất lượng cũng như sự ra đời, mất đi, phát triển hay suy thoái của một ngành nào đó và tác động tới sự chuyển dịch cơ cấu ngành. Thị trường luôn là yếu tố quyết định cho sự phát triển kinh tế và đặc biệt nó sẽ ảnh hưởng tới việc hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế. Như vậy, một CCCN hiệu quả phải trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của thị trường, được thị trường chấp nhận. Chính sự phát triển của ngành công nghiệp lại tạo ra nhu cầu mới cần đáp ứng, cứ như thế kéo theo sự ra đời hoặc thúc đẩy ngành nghề khác phát triển tạo nên CDCCNCN. Vốn đầu tư Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngành nhất là ngành công nghiệp theo hướng CNH - HĐH luôn phải đi liền với công tác đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, đầu tư để phát triển ngành mũi nhọn, kết hợp với thu hút và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn, bên cạnh đó luôn cần có một lượng vốn tương ứng để phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ và có vốn để đầu tư và nghiên cứu, triển khai. Do đó vốn đầu tư là một nhu cầu cần thiết cho sự phát triển và CDCCNCN một cách hiệu quả nhất. Nguồn nhân lực Đây là một nguồn lực quan trọng không thể thiếu để phát triển kinh tế nói chung, công nghiệp nói riêng. Trước hết dân số và mức sống dân cư tạo thành thị trường nội địa to lớn mà các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phải phát triển mạnh để đáp ứng nhu cầu. Thứ nữa trình độ dân trí, khả năng tiếp thu kỹ thuật mới của lao động tạo thành cơ sở quan trọng để phát triển các ngành có kỹ thuật cao phù hợp với xu hướng hội nhập, toàn cầu hóa ngày nay. Cuối cùng phải kể đến các làng nghề truyền thống của từng vùng được coi là một lợi thế về lao động đã và đang được bảo tồn và phát triển trong qúa trình CDCCNCN. Chính sách phát triển công nghiệp Những định hướng chiến lược và vai trò quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước luôn tác động mạnh mẽ tới việc hình thành cơ cấu ngành. Do cơ cấu ngành công nghiệp là biểu hiện tóm tắt những nội dung, mục tiêu và định hướng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nên Nhà nước tuy không trực tiếp sắp đặt các ngành nghề, quy định các tỷ lệ của cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp nhưng vẫn có sự tác động gián tiếp bằng những chính sách và đinh hướng phát triển để thực hiện mục tiêu đáp ứng nhu cầu xã hội. Trong nhiều trường hợp nếu phó mặc cho sự điều tiết của thị trường thì việc hình thành cơ cấu ngành theo mục tiêu đã định sẽ khó có thể thực hiện được, nhưng những định hướng thiếu cơ sở khách quan hoặc sự can thiệp quá sâu của Nhà nước trong quá trình thực hiện đều dẫn đến việc hình thành cơ cấu ngành kém hiệu quả. Nhà nước tạo môi trường thể chế để khuyến khích động viên hoặc tạo áp lực để các nhà đầu tư vận động theo định hướng đã định. Do đó Nhà nước luôn đưa ra chính sách và hoạch định chiến lược phát triển công nghiệp nhằm thực hiện hệ thống các mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. Một định hướng đúng sẽ đưa công nghiệp phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp Các xu hướng lớn về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trên thế giới Hiện nay trên thế giới đang diễn ra những xu hướng chuyển dịch khá rõ nét về kinh tế, xã hội toàn cầu. Điển hình như: Xu hướng mini hóa với sự ra đời của hàng loạt các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Xu hướng hình thành các tập đoàn xuyên quốc gia hay các tập đoàn khổng lồ của khu vực. Xu hướng sản xuất công nghiệp thân thiện với môi trường. Đây chắc chắn là xu hướng mà các quốc gia đang hướng tới trong thời gian tới. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp Việt Nam CDCCNCN là một quá trình tất yếu vừa mang tính khách quan, ngẫu nhiên vừa thể hiện sự định hướng có chủ đích của chủ thể. Quá trình này ở Việt Nam cũng vậy, nó không chỉ là ý đồ chủ quan của các định hướng mang tính áp đăt mà còn là sự nhận thức khách quan trong bối cảnh hội nhập khu vực và quốc tế trên cơ sở nguồn lực hiện có. Xu hướng ở Việt Nam thể hiện ở những nét lớn sau: Thứ nhất, lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng ngay trong giai đoạn đầu. Nguồn vốn của công nghiệp hóa hoàn toàn dựa vào trong nước, thông qua thực hiện chế độ tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng, các khoản thu từ kinh tế quốc doanh. Thứ hai, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, về công nghiệp đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, tiếp tục xây dựng một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng. Cuối cùng là xu hướng đã trở thành trào lưu phổ biến của các nước đang phát triển - lựa chọn công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả. Cơ cấu ngành tập trung vào phát triển mạnh việc sản xuất các sản phẩm trong nước để thay thế sản phẩm phải nhập ngoại cùng với phát triển các ngành phục vụ xuất khẩu trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh trọng quan hệ ngoại thương của mỗi quốc gia để thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường nước ngoài. 4. Chiến lược phát triển công nghiệp tác động tới chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp 4.1. Chiến lược xuất khẩu sản phẩm xơ chế Đây là một chiến lược phát triển hướng ngoại, dựa vào nguồn tài nguyên phong phú của đất nước để phát triển sản xuất và xuất khẩu sản phẩm sơ chế. Chính phủ thực hiện chính sách miễn giảm thuế đối với nhập khẩu thiết bị, hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng…Chiến lược này đã có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế do tăng nguồn thu ngoại tệ nhưng lại làm cho nền kinh tế phụ thuộc vào thị trường quốc tế. 4.2. Chiến lược phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu Tư tưởng cơ bản của chiến lược tập trung phát triển mạnh sản xuất các loại hàng hóa, đặc biệt là hàng tiêu dùng. Sự phát triển này nhằm khai thác nguồn lực sẵn có để thỏa mãn các nhu cầu cơ bản và cấp thiết trong nước, mở rộng thị trường cho phát triển sản xuất, tạo thêm việc làm, tiết kiệm ngoại tệ… Tuy nhiên chiến lược này có một số hạn chế vì một số lý do sau: thứ nhất, chính sách bảo hộ chậm được sửa đổi gây nên sự ỷ lại của các nhà sản xuất, thứ hai, dung lượng thị trường không lớn tạo nên cản trở cho sự phát triển sản xuất; thứ ba, khả năng vươn ra thị trường nước ngoài bị hạn chế vì hàng hóa kém sức cạnh tranh; thứ tư, tình trạng thiếu hụt ngoại tệ không được giải tỏa vì khối lượng tư liệu sản xuất phải nhập khẩu tăng lên. 4.3. Chiến lược phát triển công nghiệp hướng về xuất khẩu Tư tưởng cơ bản của chiến lược hướng về xuất khẩu là phát huy lợi thế so sánh để phát triển mạnh một số ngành phục vụ xuất khẩu. Cơ sở xuất phát của chiến lược này là thuyết lợi thế so sánh của D.Ricardo và xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế, mở rộng phân công lao động quốc tế. Trong quá trình đầu của công nghiệp hóa các nước đang phát triển thường tập trung vào khai thác và sản xuất sản phẩm thô (công nghiệp khai khoáng) để xuất khẩu sang các nước công nghiệp phát triển với tư cách là nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nhằm phát huy lợi thế về tài nguyên phong phú, lao động dồi dào và giá nhân công rẻ. Tuy nhiên, sự phát triển này gặp một số trở ngại sau như: cầu sản phẩm thô trên thị trường quốc tế tăng chậm; điều kiện trao đổi bất lợi cho nước nghèo, giá nguyên liệu tăng chậm, giá sản phẩm chế biến tăng nhanh; quá chú trọng tới định hướng xuất khẩu dẫn tới bị lệ thuộc vào thị trường bên ngoài. Sự ưu đãi cho các ngành xuất khẩu còn tạo ra sự chênh lệch về trình độ phát triển và mức thu nhập dân cư giữa các ngành và vùng xuất khẩu với các ngành và vùng phục vụ nhu cầu nội địa. Sự thành công của chiến lược hướng về xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào các chính sách vĩ mô của nhà nước, trong đó là: chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách khuyến khích xuất khẩu, chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, xây dựng các khu công nghiệp tập trung, đặc biệt là các khu chế xuất. 4.4. Chiến lược ưu tiên phát triển công nghiệp nặng Công nghiệp nặng là ngành sản xuất tư liệu sản xuất để trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. Đây là ngành có chu kỳ xây dựng dài, chiếm dụng nhiều vốn, chậm phát huy hiệu quả vì thế khi thực hiện dễ rơi vào khuynh hướng coi thường nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. 4.5. Chiến lược ưu tiên phát triển công nghiệp nhẹ Ưu tiên phát triển công nghiệp nhẹ có thể áp dụng rộng rãi ở nhiều nơi do công nghiệp nhẹ cần đầu tư ít vốn, chu kỳ ngắn, chu chuyển vốn nhanh tạo ra tỷ suất lợi nhuận cao lại thu hút được nhiều lao động. Do đó phát triển công nghiệp nhẹ có lợi cho việc giải quyết việc làm, cải thiện đời sống, thúc đẩy phát triển kinh tế trong thời gian ngắn. 4.6. Chiến lược phát triển tổng hợp kinh tế - xã hội Các chiến lược công nghiệp hóa truyền thống khi đi vào thực hiện thường mang đến nhiều hạn chế và bất cập. Do vậy thực hiện chiến lược phát triển tổng hợp kinh tế - xã hội sẽ vừa thỏa mãn nhu cầu cơ bản, giảm nghèo khổ, tăng cường cơ hội việc làm cho người lao động trong đó có chú trọng đến phát triển nông nghiệp và khu vực nông thôn, khắc phục được những nhược điểm của các chiến lược công nghiệp trước. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH CÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA Những vấn đề cơ bản về công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt Nam Vai trò của công nghiệp và công nghiệp hóa với phát triển kinh tế - xã hội Trong thực tiễn phát triển kinh tế của các quốc gia đều khẳng định vai trò chủ đạo của công nghiệp. Đây là ngành cung cấp công cụ lao động, nguyên, nhiên, vật liệu cho toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế cũng như cung cấp vật phẩm tiêu dùng cho đời sống nhân dân và hàng hóa xuất khẩu. Ngược lại, công nghiệp cũng là ngành tiêu thụ sản phẩm của các ngành khác và của chính bản thân các ngành công nghiệp với nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển công nghiệp tạo ra các mối liên kết cũng như các điều kiện cơ bản để thúc đẩy sự phát triển. Với các nước phát triển tỷ trọng công nghiệp chiếm trên 40% tổng thu nhập của đất nước. Sự tác động của công nghiệp vào hoạt động kinh tế và đời sống xã hội là một quá trình, với công nghiệp ngày càng hiện đại hơn sẽ làm biến đổi toàn diện nền kinh tế - xã hội, đưa nền kinh tế từ nông nghiệp lạc hậu lên công nghiệp hiện đại, quá trình này được gọi là công nghiệp hóa. Năm 1963, trong kỳ họp thứ ba của tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc (UNIDO) đã đưa ra khái niệm quy ước về công nghiệp hóa: “Công nghiệp hóa là một quá trình phát triển kinh tế, trong đó một bộ phận nguồn lực ngày càng tăng của đất nước được huy động để xây dựng cơ cấu kinh tế đa ngành, với kỹ thuật hiện đại để sản xuất tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng có khả năng đảm bảo sự tiến bộ tăng trưởng cao cho toàn bộ nền kinh tế và đảm bảo sự tiến bộ về kinh tế - xã hội”. Đối với Việt Nam công nghiệp hóa chính là con đường đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Không phải mới đây mà trong lịch sử dân tộc Việt Nam đã có những sự kiện gắn liền với ý tưởng CNH – HĐH đất nước. Với nền kinh tế như nước ta về cơ bản vẫn là sản xuất nhỏ, trình độ lao động còn lạc hậu, lao động thủ công là chính, năng suất lao động thấp đặc biệt là ở khu vực nông thôn thì CNH - HĐH là con đường tất yếu mà dân tộc Việt Nam phải trải qua để tiến lên. Công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới năm 1986, cùng với việc từng bước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng các năng lực sản xuất, đổi mới cơ chế quản lý, chuyển dịch cơ cấu kinh tế để ngày càng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước ta đã xác định ngày càng rõ quan điểm mới về CNH – HĐH. Cuối thế kỷ 20, Đảng và Nhà nước coi sự nghiệp CNH – HĐH ở nước ta là một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội. Đại hội Đảng VIII đã xác định: “Mục tiêu của CNH – HĐH là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. Bước vào thế kỷ 21, bối cảnh trong nước và quốc tế tiếp tục có những thay đổi nhanh chóng, toàn cầu hóa và hội nhập sâu rộng, Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX năm 2001 của Đảng nhận định: “Thế kỷ 21 sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”. Trong bối cảnh đó nhận thức của Đảng ta về CNH – HĐH đất nước cũng có bước đổi mới quan trọng, cho rằng quá trình này có thể được rút ngắn. Do đó, tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX nhấn mạnh: “Chúng ta phải tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH – HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, phát triển mạnh các ngành kinh tế và sản xuất các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức”. Cho đến nay, nước ta đã và đang thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001 – 2010, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2006 – 2010. Những kết quả đạt được trong thời gian qua sẽ tạo tiền đề quan trọng cho chặng đường CNH – HĐH đến năm 2020 đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Sự cần thiết khách quan của chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa Căn cứ vào xu thế phát triển kinh tế quốc tế, khắc phục cơ cấu công nghiệp còn lạc hậu cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp. Trong những năm tới, kinh tế quốc tế tiếp tục chuyển mạnh sang các ngành kinh tế tri thức, công nghệ cao, tuy nhiên tiềm lực của nền kinh tế nước ta chưa đủ mạnh, quy mô nhỏ bé, công nghệ lạc hậu, yếu tố hiện đại trong CCCN chưa được quan tâm đúng mức. Sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp Việt Nam còn rất yếu, sản phẩm công nghiệp hầu hết có hàm lượng công nghệ và tri thức chưa cao, giá trị gia tăng thấp. Trong khi đó các ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, cơ cấu công nghiệp chưa hợp lý điển hình ở cơ cấu công nghiệp nông thôn và công nghiệp thành thị, cơ cấu công nghiệp chế biến, chế tạo và khai thác sản xuất nguyên liệu mất cân đối. Đây chính là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng phát triển không bền vững và hiệu quả thấp của ngành công nghiệp nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung. Chính vì vậy, việc CDCCNCN là một yếu tố tất yếu, cần thiết để thúc đẩy nền kinh tế phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp là mục tiêu và biên pháp để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta hiên nay Với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp đồng thời xây dựng được một nền công nghiệp hiện đại thì bản thân ngành công nghiệp cần phải có sự thay đổi cả về chất và lượng ở nhiều mặt như khoa học kỹ thuật, trình độ quản ký … và đặc biệt là trong cơ cấu của ngành công nghiệp. Vì vậy muốn phát triển ngành công nghiệp theo mục tiêu đã định, tạo nền tảng cho việc phát triển các ngành khác thì cần thiết phải đẩy mạnh CDCCNCN trong các mối quan hệ tương tác trong nội bộ ngành công nghiệp, hay giữa các thành phần kinh tế, và giữa các vùng thực hiện CNH – HĐH. Một cơ cấu công nghiệp hợp lý góp phần tăng khả năng phát huy lợi thế so sánh của Việt Nam Một trong những nhân tố ảnh hưởng tới CDCCNCN là các nguồn lực và lợi thế so sánh của đất nước. Đó là tài nguyên thiên nhiên, dân số và lao động hay vị trí địa lý, những yếu tố đảm bảo cho công nghiệp phát triển bền vững và có hiệu quả. Việt Nam với lợi thế rất lớn về nguồn tài nguyên phong phú với nhiều khoáng sản, kim loại quý là điều kiện thuận lợi cho các ngành công nghiệp chế biến và khai thác phát triển, hay với vị trí địa lý thuận lợi tạo khả năng phát triển các hoạt động trung chuyển, tái xuất khẩu và chuyển khẩu hàng hóa qua các vung lân cận, là nguồn lực xem xét để xác định CCCN trên địa bàn lãnh thổ. Do đó cần phải phát huy có hiệu quả các nhân tố này để đưa công nghiệp Việt Nam chuyển dịch sang một thời kỳ mới. Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp là yêu cầu khách quan của quá trình hội nhập Xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa đã trở thành một trong những xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Trong những năm tới, xu hướng này phát triển nhanh chóng cả theo chiều rộng và chiều sâu, tạo cơ hội cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nhận chuyển giao công nghệ, tiếp thu kỹ năng tổ chức sản xuất, quản lý kinh doanh, mở rộng thị trường, phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hiện nay, Việt Nam đã tham gia vào ASEAN, APEC… và tổ chức thương mại thế giới WTO đánh dấu các bước hội nhập quan trọng của nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế toàn cầu. Do đó để tranh thủ cơ hội nhằm phát huy tối đa lợi thế so sánh, tiềm năng của đất nước, củng cố và duy trì vai trò và vị trí của đất nước trên trường quốc tế, bảo vệ lợi ích và giữ gìn bản sác dân tộc cần phải xây dựng chiến lược phát triển công nghiệp một cách đúng đắn, tạo ra một cơ cấu hợp lý và hiệu quả nhất. KINH NGHIỆM CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH CÔNG NGHIỆP TẠI MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO TỈNH THANH HÓA 1. Kinh nghiệm ở tỉnh Nghệ An Nghệ An là một tỉnh miền Trung, có vị trí địa lý – kinh tế quan trọng trong giao lưu kinh tế Bắc – Nam, diện tích vùng biển rộng, với đầy đủ tiềm năng và thế mạnh để phát triển công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn làm giàu cho địa phương. Cùng mục tiêu phấn đấu trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020, với địa lý vị trí tương tự như nhau, đường lối phát triển công nghiệp của tỉnh Nghệ An sẽ là kinh nghiệm cho tỉnh Thanh Hóa. Trước tiên có thể nói rằng kết cấu hạ tầng thiết yếu ở Nghệ An đã “đi trước một bước” để đáp ứng nhu cầu đầu tư, phát triển các ngành kinh tế công nghiệp trên địa bàn. Đồng thời, tỉnh đã đưa ra những định hướng, chiến lược phát triển công nghiệp phù hợp trước hết nhằm khai thác tốt nhất tiềm năng của địa phương, tập trung vào đầu tư phát triển những ngành công nghiệp ưu tiên, mũi nhọn vừa sử dụng hiệu quả tối đa nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, đa dạng, cơ sở vật chất kỹ thuật sẵn có của địa phương vừa tận dụng nguồn lao động dồi dào. Bên cạnh đó không quên từng bước tin học hóa mọi hoạt động kinh tế -xã hội đưa Nghệ An trở thành trung tâm công nghiệp điện tử, tin học của vùng Bắc Trung Bộ từng bước thực hiện CDCCNCN tiến dần tới nền kinh tế tri thức. Nghệ An thực hiện ưu tiên đầu tư cho tám nhóm ngành công nghiệp, bao gồm: công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, thực phẩm; sản xuất vật liệu xây dựng; chế biến khoáng sản; sợi may; điện; cơ khí và hóa dầu; công nghiệp công nghệ cao; hóa chất. Đặc biệt đối với các dự án đầu tư thuộc nhóm ngành công nghiệp ưu tiên sẽ được hưởng chính sách ưu đãi trong đầu tư của tỉnh bao gồm: hỗ trợ san lấp mặt bằng, giá thuê đất và đào tạo lao động. Riêng hỗ trợ san lấp mặt bằng, tỉnh khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn san lấp mặt bằng, sau khi san lấp xong sẽ được tỉnh hỗ trợ 50% chi phí san lấp mặt bằng trên cơ sở thiết kế, dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt và theo số liệu quyết toán thực tế được Sở Tài chính thẩm tra nhưng không quá các mức: một tỷ đồng cho các dự án có tổng vốn đầu tư từ 15 đến 50 tỷ đồng, 2 tỷ đồng cho dự án từ 50 đến 200 tỷ đồng, 3 tỷ đồng cho dự án từ 200 đến 300 tỷ đồng, 4 tỷ đồng cho dự án hơn 300 tỷ đồng. Kinh nghiệm ở tỉnh Vĩnh Phúc Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc luôn xác định phát triển công nghiệp luôn là một trong mười chương trình lớn của tỉnh. Từ thực tế phát triển công nghiệp của tỉnh cho thấy xây dựng quy hoạch, lựa chọn ngành nghề chủ đạo là những tiền đề và định hướng cho phát triển công nghiệp. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh, Sở Công nghiệp Vĩnh Phúc đã xây dựng Quy hoạch phát triển lưới điện nhằm đáp ứng đủ nhu cầu về điện cho phát triển công nghiệp và đời sống nhân dân, đồng thời triển khai xây dựng Quy hoạch phát triển công nghiệp đến năm 2010 và tầm nhìn tới năm 2020 trong đó việc quy hoạch chi tiết các khu, cụm công nghiệp tập trung được đặc biệt chú trọng. Trong chiến lược phát triển công nghiệp, việc lựa chọn các ngành công nghiệp chủ đạo có ý nghĩa rất quan trọng. Vĩnh Phúc đã tập trung cho phát triển công nghiệp cơ khí, trong đó phát triển mạnh công nghiệp lắp ráp ô tô, xe máy làm tiền đề thúc đẩy các ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển, đưa ngành chế tạo ô tô, xe máy trở thành ngành công nghiệp chủ đạo của tỉnh tiêu biểu cho nhóm các doanh nghiệp này là Công ty Honda Việt Nam và công ty Toyota. Kinh nghiêm ở Vĩnh Phúc còn tập trung phát huy nội lực, khai thác ngoại lực. Nhờ khai thác tốt nội lực trong 5 năm qua trên địa bàn tỉnh đã có hơn 1000 doanh nghiệp trong nước được thành lập trong đó có khoảng 40% doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Vĩnh Phúc cũng đặc biệt chú trọng khai thác các nguồn lực từ bên ngoài nhất là đầu tư nước ngoài. Tính đến tháng 9/2008 toàn tỉnh đã có trên 500 dự án trong và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp với tổng số vốn đăng ký trên 3 tỷ USD, trong đó có trên 100 dự án có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Cùng với đẩy mạnh phát triển công nghiệp tập trung, việc phát triển công nghiệp nông thôn và khôi phục, phát triển các làng nghề ở Vĩnh Phúc được chú trọng. Một điểm mới của tỉnh so với các tỉnh khác là có đội ngũ khuyến công viên ở các xã. Những khuyến công viên này là những người trực tiếp sản xuất ở các làng nghề nên họ hiểu được việc khôi phục, phát triển làng nghề ở thôn, xã mình là rất quan trọng, biết mình cần làm gì, cần đề xuất với cơ quan quản lý nhà nước chính sách gì… từ đó góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Nhờ xác định được vai trò của làng nghề TTCN và bằng các biện pháp hỗ trợ cụ thể một số làng nghề ở Vĩnh Phúc đã được khôi phục và phát triển như làng mộc Thanh Lãng, làng gốm Hương Canh, làng đan lát Triệu Đề, ươm tơ Vĩnh Tường… Như vậy, tỉnh Vĩnh Phúc đã và đang thực hiện một số giải pháp có thể tham khảo để áp dụng tại Thanh Hóa như: Một là tổ chức thực hiện tốt Quy hoạch phát triển Công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020 và các quy hoạch chuyên ngành tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đầu tư sớm đi vào hoạt động. Hai là tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghiệp tập trung, coi thành phần FDI là động lực quan trọng cho phát triển công nghiệp, ưu tiên phát triển công nghiệp nông thôn, TTCN và làng nghề với những bước đi thích hợp, nâng cao năng lực hoạt động của trung tâm khuyến công. Ba là tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về công nghiệp trên địa bàn, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm phục vụ nhân dân tôt hơn, tích cực tham gia tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh Thanh Hóa Thanh hóa là một tỉnh đông dân, lại là một trong rất ít tỉnh của Việt Nam có cả 3 vùng sinh thái là trung du miền núi, đồng bằng và ven biển, có nguồn tài nguyên rừng, biển, đất đai, khoáng sản đa dạng và phong phú thuận lợi cho phát triển công nghiệp nhất là công nghiệp xi măng, vật liệu xây dựng, sản xuất điện năng, công nghiệp chế biến. Đặc biệt phát triển các ngành công nghiệp gắn với cảng nước sâu Nghi Sơn khi mà khu kinh tế Nghi Sơn đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập với quy mô trên 18.000 ha nhằm xây dựng Nghi Sơn thành một khu vực phát triển năng động, một trọng điểm phát triển ở phía Nam của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, đồng thời là cầu nối giữa vùng trong cả nước, tạo động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thanh Hóa và các tỉnh lân cận. Muốn làm được điều đó, cùng với việc rút kinh nghiệm qua quá trình phát triển công nghiệp ở Nghệ An cũng như Vĩnh Phúc bài học cho tỉnh Thanh Hóa vô cùng quan trọng là không để tiếp diễn tình trạng lợi thế về nguyên liệu địa phương trở thành bất lợi, khó khăn cho đầu tư và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trước mắt và lâu dài, nguyên liệu được sản xuất và khai thác tại địa phương vẫn là yếu tố quan trọng để giải quyết việc làm, đời sống của hàng triệu người dân nhất là ở miền núi, vùng sâu và ven biển của tỉnh. Do còn nhiều yếu kém, hạn chế đối với nguyên liệu được canh tác hoặc khai thác trong Tỉnh, cần lập lại quy trình quản lý mới, đi đồng bộ từ khâu quy hoạch, canh tác, khai thác đến tiêu thụ, lưu thông, sử dụng, chế biến sản phẩm. Về môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh Tỉnh cũng cần rút kinh nghiệm qua các khâu như: Trong điều hành quản lý Nhà nước, việc nâng cấp, hoàn thiện môi trường quản lý Nhà nước để có quy trình quản lý rõ ràng, minh bạch, giảm chồng chéo giữa các ngành là yêu cầu cấp thiết trong đó trung tâm là nguyên tắc “một đầu mối” quản lý. Nên giao cho các Sở quản lý Nhà nước chuyên ngành (Nông nghiệp, Công nghiệp, Thủy sản, Du lịch…) nhiệm vụ “đầu mối” quản lý đầu tư dự án và phát triển sản xuất của các cơ sở sản xuất thuộc phạm vi ngành, còn các Sở chức năng khác như Sở kế hoạch và đầu tư, Tài chính … thực hiện chức năng cân đối chung toàn Tỉnh, tổng hợp, phối hợp với các Sở chuyên ngành, không trực tiếp can thiệp sâu, làm thay chức năng của các Sở chuyên ngành. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH CÔNG NGHIỆP TỈNH THANH HÓA GIAI ĐOẠN 2000 – 2009 BỐI CẢNH KHÁCH QUAN TÁC ĐỘNG ĐẾN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH CÔNG NGHIỆP CỦA TỈNH Đặc điểm về điều kiện tự nhiên và tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa Điều kiện tự nhiên và nguồn nhân lực Vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên Vị trí địa lý: Thanh hóa là tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ, cách thủ đô Hà Nội khoảng 153 km về phía Nam, có tọa độ địa lý từ 19o18 – 22o00 vĩ độ Bắc và 104o22 – 106o04 kinh độ Đông; phía Bắc giáp 3 tỉnh Sơn La, Hòa Bình và Ninh Bình; phía Nam giáp tỉnh Nghệ An; phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn của nước CHDC nhân dân Lào; phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ. Tỉnh Thanh Hóa có 27 đơn vị hành chính gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 24 huyện, với tổng diện tích tự nhiên 11.134,73 km2; dân số trung bình năm 2007 khoảng 3,7 triệu người, chiếm 3,4% diện tích và 4,3% dân số cả nước. Về vị trí địa lý kinh tế, chính trị Thanh Hóa có nhiều điểm nổi bật như: Nằm ở cửa ngõ giao lưu giữa Bắc Bộ với Trung Bộ và Nam Bộ, giữa vùng KTTĐ Bắc Bộ với vùng KTTĐ Trung Bộ, đồng thời nằm trên các tuyến giao lưu quan trọng của hệ thống đường quốc tế và quốc gia như tuyến đường sắt Thống Nhất, quốc lộ 1A, quốc lộ 10, đường Hồ Chí Minh xuyên suốt vùng Trung du Miền núi của tỉnh, có đường 217 nối Thanh Hóa với tỉnh Hủa Phăn của Lào… nên có nhiều điều kiện để phát triển. Thanh Hóa có đường biên giới chung với nước CHDCND Lào dài trên 190 km, có cửa khẩu Na Mèo được quy hoạch xây dựng thành Khu kinh tế cửa khẩu thời kỳ 2008 – 2015 (Quyết định số 52/2005/QĐ – CP của Chính phủ) đây là lợi thế lớn để Thanh Hóa phát triển kinh tế cửa khẩu, mở rộng hợp tác và giao lưu thương mại quốc tế thông qua hệ thống các tuyến đường xuyên á trong khu vực. Trong lương lai vùng KTTĐ Bắc Bộ có khả năng sẽ được mở rộng không gian về phía Nam (đến Thanh Hóa) tạo cơ hội để Thanh Hóa thu hút đầu tư phát triển nhanh hơn. Đặc biệt Thanh Hóa có khu kinh tế Nghi Sơn, tại đây ngoài Khu liên hợp lọc hóa dầu (công trình trọng điểm quốc gia), khu cảng Nghi Sơn tương lai sẽ là cảng nước sâu lớn ở phía Bắc, nhiều công trình kinh tế lớn khác sẽ được xây dựng mở ra cơ hội phát triển mới, tạo bước đột phá trong tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và CDCCNCN nói riêng của tỉnh. Đặc điểm địa hình tỉnh Thanh Hóa đa dạng, có hướng thấp dần từ Tây sang Đông và chia thành ba vùng rõ rệt: Vùng núi và trung du; vùng đồng bằng chiếm 17,1% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, tương đối bằng phẳng nhiều tiếm năng cho phát triển công nghiệp; vùng ven biển thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cảng và phát triển dịch vụ vận tải sông, biển. Tài nguyên thiên nhiên chính: Thanh hóa là._.át được 80 - 90% diện tích ở các đô thị loại II, III và 50 - 60% diện tích các đô thị loại IV và V. Đối với các KCN tập trung, xây dựng hệ thống thoát nước thải và các trạm xử lý riêng cho từng khu, đảm bảo toàn bộ nước thải (cả nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp) đều được xử lý cục bộ đạt tiêu chuẩn Việt Nam hiện hành trước khi thải ra hệ thống thoát nước chung, hoặc sử dụng tuần hoàn cho các mục đích khác. Tiểu thủ công nghiệp và làng nghề Khôi phục và phát triển các nghề, làng nghề truyền thống ở khắp các địa phương trong tỉnh. Khuyến khích phát triển các làng nghề mới theo hướng tạo ra những cơ sở sản xuất vệ tinh quy mô nhỏ và vừa trong mối liên kết nhiều tầng với công nghiệp quy mô lớn ở các khu vực tập trung công nghiệp. Trước mắt, đẩy mạnh việc thực hiện các dự án khôi phục, nhân rộng và phát triển các ngành nghề tiêu biểu của tỉnh như: Nghề chiếu cói và các sản phẩm từ cói (Nga Sơn, Tx. Sầm Sơn, Nông Cống...); Nghề thêu ren (Thành phố Thanh Hóa, Thị xã Sầm Sơn, các huyện Nông Cống, Thiệu Hóa, Tĩnh Gia, Quảng Xương, Hậu Lộc...): Nghề dệt lụa (Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Yên Định, Vĩnh Lộc, Triệu Sơn, Quảng Xương, Hoằng Hóa, Hậu Lộc...), dệt thổ cẩm (Ngọc Lặc và dọc đường Hồ Chí Minh); Nghề mây tre đan (các xã đồng bằng, ven biển và một số xã miền núi thấp); Nghề làm đồ mỹ nghệ, trang sức bằng đá (Đông Sơn và dọc Quốc lộ 1A) và các nghề thủ công mỹ nghệ, chế biến đồ gỗ, chế biến thảo dược... Trong giai đoạn 2011 – 2020 nhiều xã sẽ có một hay nhiều nhóm sản phẩm nghề độc đáo. Định hướng phát triển các Khu, cụm công nghiệp tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2011 – 2020 Từ nay đến năm 2020 tiếp tục đầu tư xây dựng đồng bộ và từng bước hiện đại hóa kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp đã hình thành, đẩy mạnh xúc tiến đầu tư để nâng cao tỷ lệ lấp đầy các khu công nghiệp trên địa bàn, đẩy nhanh việc đầu tư theo chiều sâu và mở rộng quy mô các khu công nghiệp hiện có, kết hợp xây dựng một số khu công nghiệp khác. Định hướng trong giai đoạn 2011 - 2020 sẽ hình thành và phát triển các khu công nghiệp sau: * Khu công nghiệp Lễ Môn: Diện tích là 87,6 ha. Xúc tiến đầu tư, đẩy nhanh tiến độ lấp đầy và hoàn thiện hạ tầng KCN. Định hướng phát triển KCN Lễ Môn trở thành một KCN sạch để bảo vệ cảnh quan môi trường trung tâm tỉnh tại các khu vực thành phố Thanh Hóa và thị xã du lịch Sầm Sơn với các ngành công nghiệp sạch, công nghiệp có hàm lượng khoa học cao. * Khu công nghiệp Bỉm Sơn. Giai đoạn 2011 – 2020 nâng tổng diện tích lên 1.000 ha, tỷ lệ lấp đầy KCN lên trên 70%. Các ngành công nghiệp dự kiến thu hút vào khu công nghiệp gồm: công nghiệp cơ khí, công nghiệp xi măng, công nghiệp VLXD, công nghiệp dệt may, da giầy, thực phẩm và công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng khác. * Khu công nghiệp Lam Sơn. Diện tích sau năm 2010 mở rộng KCN lên 300 ha. Tiếp tục phát triển ngành công nghiệp chế biến nông – lâm – thủy sản đi đôi vơi việc xây dựng vùng nguyên liệu một cách có quy hoạch làm cơ sở gọi đầu tư dự án. Ngoài các cơ sở công nghiệp hiện có dự kiến sẽ thu hút các ngành công nghiệp khác như: công nghiệp VLXD, cơ khí, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp hàng tiêu dùng… * Khu công nghiệp Đình Hương: Diện tích ban đầu 28 ha, sau năm 2010 đã mở rộng lên 330 ha trên cơ sở sát nhập khu công nghiệp Đình Hương và cụm công nghiệp Tây Bắc ga, nâng tỷ lệ lấp đầy KCN lên trên 70% vào năm 2020. * Các khu công nghiệp tại Khu kinh tế Nghi Sơn: Tại Khu kinh tế Nghi Sơn sẽ hình thành và phát triển một số khu, cụm công nghiệp được xác định là giữ vai trò động lực, hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong khu vực Bắc miền trung. Định hướng của tỉnh là xây dựng Nghi Sơn thành khu kinh tế tổng hợp liên vùng, có nội dung hoạt động rộng, đa chức năng với Khu liên hợp lọc hóa dầu, khu đóng mới và sửa chữa tàu biển Nghi Sơn, trung tâm nhiệt điện Nghi Sơn, khu nhà máy xi măng Nghi Sơn, KCN Nghi Sơn, tập trung phát triển vào các ngành công nghiệp lọc hóa dầu và sau hóa dầu, công nghiệp cơ khí chế tạo động cơ, đóng tàu, tự động hóa, công nghiệp chế biến thực phẩm công nghệ cao trong đó ưu tiên thu hút các ngành công nghiệp có công nghệ tiên tiến, không gây ảnh hưởng tới môi trường, từ đó hình thành các ngành công nghiệp mũi nhọn, tạo ra những sản phẩm có chất lượng và cạnh tranh cao. * Khu công nghiệp Tây Nam Thanh Hóa: bố trí tại xã Thanh Kỳ, trên tuyến đường ngang Bãi Trành-Nghi Sơn với diện tích 300 ha. Các dự án dự kiến thu hút vào KCN gồm công nghiệp chế biến nông lâm sản, khoáng sản và sản xuất VLXD… Đây sẽ là KCN có vai trò hạt nhân để hình thành trung tâm công nghiệp và đô thị của vùng Tây Nam tỉnh. Ngoài ra, tỉnh đã tiến hành nghiên cứu, triển khai hình thành thêm một số KCN như KCN Ngọc Lặc, KCN Thạch Quảng – Thạch Thành... đã, đang và sẽ trở thành nhân tố thúc đẩy phát triển công nghiệp tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới. Ngoài các KCN trên, Thanh Hóa còn định hướng phát triển các cụm công nghiệp, cụm làng nghề quy mô nhỏ và vừa ở các huyện thị trong tỉnh, từng bước hình thành hệ thống các KCN, cụm công nghiệp, cụm làng nghề, tạo các cực tăng trưởng bền vững. Phấn đấu đến 2020 tất cả các xã đồng bằng và khoảng 50% số xã miền núi có cụm làng nghề, thực hiện phát triển công nghiệp nông thôn, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH – HĐH. Định hướng phát triển công nghiệp theo vùng lãnh thổ Trước những yêu cầu phát triển trong giai đoạn tới, căn cứ vào điều kiện tự nhiên và đặc điểm dân cư, kinh tế xã hội của tỉnh, từ nay đến năm 2020, định hướng phát triển công nghiệp tỉnh Thanh Hóa theo 3 vùng kinh tế: Vùng Đồng bằng Vùng có địa hình bằng phẳng, dân cư đông đúc, kết cấu hạ tầng khá phát triển… nên có nhiều điều kiện để phát triển kinh tế tổng hợp. Vì vậy hiện nay vùng đang giữ vai trò quan trọng mang tính động lực trong phát triển kinh tế của tỉnh, đồng thời là đầu mối giao lưu kinh tế giữa tỉnh với các địa phương khác trong nước. Định hướng phát triển công nghiệp của vùng đến năm 2020 là: Phát triển công nghiệp theo hướng hình thành và phát triển các khu cụm công nghiệp tập trung với các ngành chủ lực như đóng mới và sửa chữa phương tiện vận tải đường bộ, đường sắt, công nghiệp chế biến lương thực và thực phẩm, xi măng, công nghiệp nhẹ, điện tử tin học, các ngành công nghệ cao. Đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp, nâng cao tỷ lệ lấp đầy các KCN hiện có như: KCN Lễ Môn, KCN Bỉm Sơn, KCN Lam Sơn, KCN Đình Hương... Đồng thời, phát triển các cụm công nghiệp, TTCN và công nghiệp làng nghề ở nông thôn để giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, góp phần thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Vùng ven biển Đây là vùng có tiềm năng rất lớn để phát triển kinh tế tổng hợp, đặc biệt là kinh tế biển, phát triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp cơ bản, công nghiệp VLXD, du lịch và dịch vụ… đồng thời là cửa ngõ của tỉnh cũng như của vùng Bắc Trung Bộ để giao thương với khu vực và quốc tế. Trong giai đoạn 2011 – 2020, hướng phát triển của vùng là: Tập trung mọi nguồn lực để đầu tư phát triển mạnh và toàn diện vùng ven biển. Đầu tư phát triển nhanh kết cấu hạ tầng Khu kinh tế Nghi Sơn và đô thị mới Nghi Sơn theo quy hoạch để thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào phát triển trong vùng. Phát triển mạnh các ngành công nghiệp có lợi thế gần cảng và các ngành công nghiệp cơ bản. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các KCN và các dự án công nghiệp lớn như xi măng Nghi Sơn, xi măng Công Thanh, nhiệt điện Nghi Sơn, nhà máy đóng mới và sữa tàu biển Nghi Sơn... Chuẩn bị điều kiện để sớm hoàn thiện Khu liên hợp lọc hoá dầu Nghi Sơn và các cơ sở sản xuất sản phẩm sau hóa dầu. Vùng Trung du Miền núi Đây là vùng có nhiều khó khăn do điều kiện địa hình phức tạp, cơ sở hạ tầng kém phát triển và trình độ dân trí còn thấp. Tiềm năng phát triển chủ yếu của vùng là kinh tế rừng, phát triển cây công nghiệp, công nghiệp chế biến nông lâm sản, khai thác, chế biến khoáng sản... Hướng phát triển của vùng đến năm 2020 như sau: Phát triển trồng rừng sản xuất theo hướng thâm canh gắn với công nghiệp chế biến gỗ, lâm sản. Hình thành các vùng rừng nguyên liệu tập trung quy mô lớn cung cấp cho công nghiệp giấy và chế biến gỗ xuất khẩu. Xây dựng các vùng chuyên canh cây công nghiệp có lợi thế như cao su, mía, dứa và các vùng chăn nuôi tập trung cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp phù hợp với tiềm năng thế mạnh của từng khu vực như công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản (quặng Crôm, quặng sắt), sản xuất VLXD…, công nghiệp điện năng (thủy điện vừa và nhỏ); công nghiệp chế biến nông lâm sản (sản xuất giấy, bột giấy, chế biến gỗ ván ép, ván sàn xuất khẩu, chế biến thịt, chế biến cao su, mía đường, sản xuất thức ăn gia súc…). Xây dựng một số khu cụm công nghiệp, cụm làng nghề nông thôn với quy mô phù hợp gắn với việc bố trí lại dân cư và các điểm đô thị mới dọc theo tuyến đường Hồ Chí Minh. Mục tiêu Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp tỉnh Thanh Hóa theo hướng tăng mạnh các ngành công nghiệp cơ bản, công nghiệp chế tác.... Đến năm 2020 về cơ bản Thanh Hóa có một nền công nghiệp vững chắc với cơ cấu hiện đại. Trong giai đoạn 2011 – 2020: Tăng trưởng GDP công nghiệp – xây dựng đạt trên 21,5%/năm (giai đoạn 2011 – 2015 đạt 21,4% và giai đoạn 2016 – 2020 đạt 21,6%/năm), trong đó riêng ngành công nghiệp đạt 22 – 23%/năm. Tỷ trọng công nghiệp – xây dựng trong cơ cấu kinh tế năm 2020 chiếm 49 – 50%, trong đó công nghiệp chiếm 33,5 – 40% Tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp khoảng 17,5 – 18,5% Tăng trưởng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghiệp từ 11,9% /năm đến 12,9%/năm. III. GIẢI PHÁP ĐẨY NHANH QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH CÔNG NGHIỆP TỈNH THANH HÓA GIAI ĐOẠN 2011 – 2020 THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA Tăng cường nâng cao hiệu quả tổ chức quản lý, điều hành của Nhà nước đặc biệt là trong công tác quy hoạch và quản lý vốn đầu tư Về công tác quy hoạch, chính quyền tỉnh tiếp tục đầu tư xây dựng và hoàn thiện hệ thống các quy hoạch phát triển nội bộ từng ngành công nghiệp. Cải cách có hiệu quả thủ tục hành chính tạo hành lang pháp lý thông thoáng về cơ chế chính sách, nội dung, quy trình điều hành quản lý Nhà nước về công nghiệp trong địa bàn tỉnh nhất là thủ tục đăng ký sản xuất kinh doanh, thủ tục đầu tư, thuê đất. Đồng thời quản lý Nhà nước về công nghiệp – TTCN trên địa bàn theo một đầu mối thống nhất, từ đó xác định vai trò, trách nhiệm chính của UBND cấp huyện, xã về phát triển công nghiệp vừa và nhỏ, ngành nghề TTCN, các cụm công nghiệp, cụm làng nghề, nâng cao năng lực quản lý, trình độ nhận thức, hiểu biết về công nghiệp – TTCN và công nghiệp nông thôn. Kiện toàn, bổ sung đội ngũ cán bộ chuyên trách quản lý công nghiệp trên địa bàn huyện, xã. Hoàn thiện cơ chế quản lý vốn đầu tư thống nhất giữa các Sở, ban, ngành trên địa bàn tỉnh và trung ương. Củng cố và kiện toàn các cơ quan chức năng liên quan đến việc phân bổ và sử dụng vốn đầu tư nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ hoạch định chiến lược cho đầu tư phát triển công nghiệp, cấp phát và quản lý các nhiệm vụ đầu tư, quyết toán công trình, phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn. Bên cạnh đó, nhằm khác phục tình trạng nhiều khâu trung gian là cơ sở gây nên tình trạng phân tán, thất thoát vốn và chậm tiến độ thì toàn bộ lượng vốn đã có kế hoạch đầu tư cho các dự án công nghiệp thuộc địa phương nào nên giao cho địa phương đó quản lý, giám sát, phân bổ và sử dụng theo dự án đầu tư đã được các Bộ, ngành hữu quan thẩm định để có hiệu quả hơn. 2. Các giải pháp huy động đầu tư Để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế và phát triển ngành công nghiệp với tốc độ cao, dự báo nhu cầu vốn đầu tư phát triển trên địa bàn đến năm 2020 như sau: Bảng 3.3.1 : Dự báo vốn đầu tư tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2011 -2020 Chỉ tiêu 2010 2015 2020 1. Tổng GDP (tỷ đ.giá hh) 34.544 82.259 211.661 - Nông, lâm nghiệp 8.335 12.767 21.342 - Công nghiệp - XD 14.040 39.182 109.915 - Dịch vụ 12.169 30.310 80.404 2. Hệ số ICOR (lần) 2011-2015 2016-2020 2011-2020 Toàn bộ nền kinh tế 3,2 3,4 3,4 - Nông, lâm nghiệp 2,8 3,0 2,8 - Công nghiệp - XD 3,5 3,7 3,6 - Dịch vụ 3,0 3,2 2,9 3. Vốn ĐT (tỷ đ.giá hh) 2011 - 2015 2016 - 2020 2011 - 2020 Toàn bộ nền kinh tế 115.691 336.317 452.009 - Nông, lâm nghiệp 9.556 19.807 29.363 - Công nghiệp - XD 65.996 196.285 262.282 - Dịch vụ 40.139 120.225 160.364 Ghi chú: (*) Giai đoạn 2011-2020 ước tính vốn đầu tư cho 70% phần GDP tăng thêm, còn 30% GDP tăng thêm là do các yếu tố: cơ chế chính sách khoa học-công nghệ và các công trình xây dựng trong giai đoạn trước tạo ra. Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thanh Hóa đến 2020 Như vậy, tổng nhu cầu vốn đầu tư của tỉnh cả thời kỳ 2011 - 2020 dự báo khoảng 452 ngàn tỷ đồng (giá hiện hành), trong đó nhu cầu vốn đầu từ cho ngành công nghiệp khoảng 265 ngàn tỷ đồng. Đây là một khối lượng vốn rất lớn, đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ và tích cực để thu hút mọi nguồn vốn có thể, đồng thời có kế hoạch sử dụng tiết kiệm và hợp lý nhằm đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư phát triển của nền kinh tế. Xác định các dự án công nghiệp, công trình, các địa bàn ưu tiên và quy mô ưu tiên để gọi vốn đầu tư của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh vào phát triển sản xuất công nghiệp. Sử dụng vốn đầu tư đúng mục đích theo dự án thông qua đấu thầu, giảm tình trạng lãng phí, thất thoát vốn nhất là trong khâu thi công xây dựng. Nâng cao chất lượng và đổi mới các hoạt động tài chính ngân hàng trên địa bàn. Tạo các cơ chế phù hợp để mở rộng hình thức tự bổ sung vốn của các doanh nghiệp và thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân và vốn đầu tư nước ngoài. Khuyến khích các ngân hàng, các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, đặc biệt là các Tập đoàn tài chính lớn tầm cỡ khu vực và quốc tế mở chi nhánh và văn phòng đại diện trên địa bàn tỉnh. Từng bước hình thành thị trường vốn trên địa bàn, đơn giản hoá các thủ tục cấp phát nhằm cải thiện môi trường vốn đầu tư. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát vốn đối với các doanh nghiệp; phát triển các loại hình dịch vụ hỗ trợ đầu tư. Đối với nguồn vốn NSNN: Thanh Hóa là một tỉnh nghèo, chưa có tích luỹ nên nguồn vốn đầu tư từ NSNN được coi là nguồn chủ yếu. Do vậy cần phải có cơ cấu nguồn thu ngân sách phải bảo đảm được nhu cầu vốn cho công nghiệp. Như vậy, một mặt Nhà nước cần quan tâm dành nguồn vốn ngân sách và tín dụng ưu đãi để hỗ trợ đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trong tỉnh, các dự án công nghiệp trọng điểm trên địa bàn nhằm thực hiện đúng tiến độ, mặt khác tỉnh cần tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và có các biện pháp khuyến khích tiết kiệm cho đầu tư phát triển công nghiệp để tăng tỷ lệ tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Đối với nguồn vốn huy động từ các doanh nghiệp và nhân dân: trong thời gian tới, nguồn vốn này sẽ giữ vai trò ngày càng quan trọng trong sự phát triển ngành công nghiệp tỉnh Thanh Hóa. Để huy động cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo thông thoáng trong lĩnh vực đầu tư; tăng cường liên doanh, liên kết với các địa phương ngoài tỉnh, đồng thời có các biện pháp khuyến khích nhân dân và các doanh nghiệp bỏ vốn vào xây dựng, mở rộng sản xuất kinh doanh trên địa bàn. Tiếp tục đề nghị Trung ương ban hành các chính sách ưu đãi đối với các tỉnh thuộc phạm vi Nghi quyết 37 TW và Nghị quyết 39 TW của Bộ chính trị như: miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn, giảm thuế xuất nhập khẩu, giảm tiền thuê đất... đối với mọi tổ chức cá nhân trong tỉnh, trong nước và ngoài nước đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Đối với nguồn vốn nước ngoài (gồm 2 nguồn chính là vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI): Nguồn vốn này không chỉ tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển trên địa bàn mà còn là cơ hội để đổi mới công nghệ, đào tạo cán bộ kỹ thuật và mở rộng thị trường. Tỉnh cần đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá các thế mạnh của địa phương ra nước ngoài, quảng bá vị trí, vai trò và khả năng thu hút đầu tư vào các khu kinh tế động lực, các khu, cụm công nghiệp trọng điểm... Có chính sách khuyến khích (ưu tiên cho thuê các lô đất tốt, hỗ trợ vốn...) đối với các doanh nghiệp đầu tư xây dựng hạ tầng các khu cụm công nghiệp, khu kinh tế nhất là vào khu kinh tế Nghi Sơn. Kết hợp nhiều hình thức liên doanh liên kết trong đó có cả hình thức 100% vốn nước ngoài. Tỉnh cần chuẩn bị năng lực nội tại để đón nhận, lựa chọn và tham gia bình đẳng trong quan hệ hợp tác, đầu tư với bên ngoài. 3. Giải pháp đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và đáp ứng đất đai xây dựng các cơ sở sản xuất công nghiệp Về hạ tầng KCN, cụm công nghiệp: tỉnh khắc phục một phần tình trạng yếu kém về cơ sở hạ tầng bằng cách hỗ trợ một phần chi phí giải phóng mặt bằng và san lấp theo quy định hiện hành. Gắn kết chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp, TTCN với phát triển kết cấu hạ tầng và quá trình đô thị hoá trên từng địa bàn. Xây dựng hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ngoài hàng rào KCN, cụm công nghiệp tập trung vào các hạng mục quan trọng như đường giao thông, điện, cấp thoát nước, xử lý chất thải, nhà ở và dịch vụ công cộng cho người lao động. Trong giai đoạn 2011 – 2020, giải quyết đồng bộ vấn đề hạ tầng cơ sở sản xuất trong và ngoài hàng rào KCN trước khi xây dựng cơ sở sản xuất trong KCN. Khuyến khích địa phương xây dựng hạ tầng cụm nghề xã, hạ tầng làng nghề bằng các nguồn nội lực với sự hỗ trợ thêm của Nhà nước. Về hạ tầng kỹ thuật xã hội: Riêng đối với hệ thống giao thông đường bộ, đường sông, đường biển phải bảo đảm tính liên hoàn, liên kết trong toàn vùng, giữa các địa phương trong tỉnh. Xây dựng magnj lưới giao thông nội vùng nguyên liệu nông lâm sản trọng điểm phục vụ cho công nghiệp chế biến, thực hiện đầu tư từng bước để khai thác triệt để hệ thống vận tải đường sông, xây dựng các cảng, bến sông kết hợp sửa chữa phương tiện thủy nhỏ tại các địa điểm thuận lợi như Cửa Lạch Trường, Cẩm Thủy, Mục Sơn... Đồng thời, sử dụng quỹ đất hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững. Chuyển đổi một phần quỹ đất nông nghiệp sang phi nông nghiệp, huy động tối đa diện tích đất chưa sử dụng nhằm phục vụ cho mục đích xây dựng kết cấu hạ tầng, các cơ sở sản xuất công nghiệp phục vụ cho phát triển công nghiệp. 4. Giải pháp về thị trường và phát triển vùng nguyên liệu phục vụ nhu cầu sản xuất công nghiệp Để tiềm năng địa phương trở thành lợi thế mạnh trực tiếp phục vụ phát triển kinh tế công nghiệp, giải quyết khâu đầu vào cho các cơ sở sản xuất công nghiệp nhất là công nghiệp chế biến và công nghiệp khai thác, Thanh Hóa cần tập trung phát triển một số loại nguyên liệu chủ lực, đảm bảo cung cấp đủ theo yêu cầu chế biến tập trung, chế biến phân tán và nhu cầu khác. Xây dựng vùng nguyên liệu và tổ chức vận động người canh tác thực hiện canh tác đúng quy hoạch, tiêu thu sản phẩm công nghiệp chế biến theo đúng hợp đồng đã ký. Tăng cường điều tra cơ bản, đánh giá một cách đầy đủ tiềm năng các mỏ khoáng sản để xây dựng kế hoạch khai thác phù hợp và hiệu quả. Bên cạnh khâu đầu vào, các cấp chính quyền tỉnh cũng tập trung giải quyết khâu đầu ra cho ngành công nghiệp của tỉnh. Tỉnh cần thực hiện tăng cường vai trò, tác động xúc tiến thương mại, phát triển, củng cố mối quan hệ chặt chẽ theo ngành dọc với các Bộ, ngành của Trung ương để nắm bắt được thông tin nhanh nhạy nhất về các biến động thị trường trong nước và quốc tế, cùng với xu thế mới trong phát triển công nghiệp. Trong giai đoạn 2011 – 2020, tập trung xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa để các doanh nghiệp có khả năng tiếp thị sản phẩm và nghiên cứu thị trường cũng như hoạt động quảng cáo để quảng bá thương hiệu và sản phẩm công nghiệp của tỉnh trong phạm vị cả nước và thế giới khắc phục những yếu kém, thiếu sót trong giai đoạn trước từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên địa bàn. Tiến hành điều tra đầy dủ về khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp Thanh Hóa. Thành lập Quỹ hỗ trỡ xuất khẩu ngành hàng, cùng với việc hình thành các Hội theo ngành nghề công nghiệp – TTCN. 5. Giải pháp đào tạo, phát triển nguồn nhân lực Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đồng thời đó cũng là chiến lược về con người. Để phát triển nguồn nhân lực tỉnh cần giải quyết đồng bộ mối quan hệ qua lại lẫn nhau trên cả ba mặt chủ yếu: Giáo dục đào tạo nguồn nhân lực; Sử dụng nguồn nhân lực và tạo việc làm. Trong đó giáo dục đào tạo bao gồm cả giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục hướng nghiệp; Đào tạo nhân lực bao gồm giáo dục chuyên nghiệp, dậy nghề, tái tạo nguồn nhân lực hiện có. Sử dụng nguồn nhân lực và tạo việc làm là bố trí việc làm phù hợp với khả năng nhằm mang lại năng suất lao động, hiệu quả công việc cao nhất. Dự báo đến năm 2020, số lao động trong độ tuổi của tỉnh Thanh Hóa sẽ là 3 triệu người. Đây là nguồn lực rất quan trọng để đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp của tỉnh trong thời gian tới, tuy nhiên đó cũng là áp lực lớn đối với vấn đề giải quyết việc làm. Để đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh cần thực hiện đồng bộ các giải pháp như: Tăng cường đào tạo lực lượng cán bộ có trình độ cao (tiến sỹ, thạc sỹ). Mở rộng các hình thức đào tạo, dạy nghề, trong đó tập trung vào các ngành nghề như: xây dựng, khai khoáng, sản xuất VLXD, cơ khí chế tạo, điện, hóa dầu, ngoại ngữ, tin học, chế biến nông, lâm thuỷ sản, quản lý kinh tế... bằng nhiều hình thức, kể cả chính quy, tại chức, ngắn hạn, dài hạn.. Phối hợp với các doanh nghiệp tổ chức đào tạo và tuyển dụng lao động của địa phương. Tăng cường năng lực đào tạo của các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp trên địa bàn, tiến tới thành lập trường đại học đa ngành để mở rộng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển của tỉnh và cả Bắc Trung Bộ. Chú trọng đầu tư cho các trung tâm dạy nghề, trang bị tốt về phương tiện và cơ sở vật chất, củng cố đội ngũ cán bộ giảng dạy, nâng cao khả năng đào tạo. Khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề cho lực lượng lao động của tỉnh. Tiếp tục đẩy mạnh liên kết giữa cơ sở đào tạo của tỉnh với các trung tâm đào tạo, dạy nghề ở Hà Nội để mở rộng quy mô và các hình thức đào tạo cho lực lượng lao động của tỉnh. Ưu tiên đào tạo công nhân lành nghề, cán bộ kỹ thuật có trình độ cao. Chú trọng nâng cao trình độ ngoại ngữ để tiếp cận với khoa học kỹ thuật mới. Mở rộng dạy nghề, truyền nghề bằng nhiều hình thức thích hợp. Có chính sách khuyến khích các nghệ nhân truyền nghề và hỗ trợ học nghề cho lực lượng lao động. Chính sách cấp học bổng cho những người nghèo có năng lực học tốt, cho các đối tượng chính sách xã hội. Tổ chức tốt các hình thức xúc tiến, hỗ trợ và giới thiệu việc làm trong các ngành công nghiệp cho lực lượng lao động của tỉnh, nhất là lực lượng lao động trẻ. Coi trọng công tác giáo dục đào tạo ở các địa phương miền núi. Xây dựng chính sách ưu tiên đặc biệt trong đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở công nghiệp ở vùng biên giới, vùng cao đặc biệt khó khăn để đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất công nghiệp trên địa bàn. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện luật lao động. Hoàn thiện cơ chế bảo hiểm xã hội, chăm sóc sức khỏe cho người lao động, trợ cấp xã hội, vận động nhân dân thực hiện tôt công tác kế hoạch hóa gia đình. 6. Giải pháp về khoa học – công nghệ Một trong những vấn đề mấu chốt để nâng cao hiệu quả sản xuất và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm là không ngừng đổi mới công nghệ. Do vậy cần coi trọng công tác khoa học công nghệ, trước hết tập trung vào các khâu trọng yếu, các chương trình phát triển và ứng dụng, đưa tiến bộ khoa học và công nghệ hỗ trợ phát triển. Các giải pháp về khoa học- công nghệ đòi hỏi phải gắn với các giải pháp về vốn đầu tư, về phát triển nguồn nhân lực tạo ra nhóm giải pháp cơ bản nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực vào thực hiện phát triển ngành công nghiệp của tỉnh. Cụ thể Trong vốn xây dựng cơ bản của NSNN cần dành một tỷ lệ thích đáng tùy theo từng ngành cho đổi mới công nghệ, đảm bảo tốc độ tăng chi phí cho đổi mới công nghệ cao hơn tốc độ tăng đầu tư cơ bản chung. Bên cạnh đó cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư khoa học và công nghệ. Dành một phần vốn đầu tư cho việc tăng cường các cơ quan làm dịch vụ khoa học công nghệ (đo lường, kiểm tra sản phẩm…). Tiếp tục thực hiện các chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư áp dụng các công nghệ mới, tiên tiến vào sản xuất như: miễn thuế đối với phần vốn của doanh nghiệp dành cho đổi mới công nghệ. Miễn giảm thuế có thời hạn cho các doanh nghiệp sản xuất thử. Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ đổi mới và hiện đại hóa công nghệ, áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Đa dạng hoá các nguồn vốn nhằm tăng lượng đầu tư cho công tác triển khai đổi mới công nghệ trong lĩnh vực công nghiệp của tỉnh. Đối với ngành công nghiệp giai đoạn 2011 – 2020 Thanh Hóa cần tăng cường công tác nghiên cứu và chuyển giao công nghệ chế biến nông lâm sản, khai thác và chế biến khoáng sản, cơ khí chế tạo, sản xuất VLXD, vật liệu mới... đáp ứng nhu cầu phát triển của địa phương. Áp dụng công nghệ chế biến tiên tiến để nâng cao chất lượng, tăng giá trị và sức cạnh tranh của sản phẩm, nhất là đối với các sản phẩm có lợi thế của tỉnh như: các sản phẩm gỗ, mía, dứa, rau, quả, hàng thuỷ sản... Chuyển giao công nghệ và hỗ trợ kỹ thuật để phát triển các làng nghề, các nghề TTCN. Nghiên cứu sản xuất các sản phẩm từ vật liệu mới hỗn hợp, vật liệu composite, vật liệu giữ ẩm cho cây trồng... Thực hiện các biện pháp để phát triển mạnh nguồn nhân lực cho khoa học-công nghệ, tăng cường lực lượng khoa học cho cấp cơ sở. Có chính sách đặc biệt để thu hút các cán bộ khoa học về công tác tại Thanh Hóa và chuyển giao công nghệ cho tỉnh. 7. Giải pháp đầu tư phát triển công nghiệp gắn với bảo vệ môi trường, phát triển bền vững, thân thiện với môi trường Môi trường và bảo vệ môi trường đang là vấn đề quan tâm của mọi địa phương nói chung và Thanh Hóa nói riêng do đó chính quyền tỉnh cần dành một tỷ lệ đầu tư thích đáng tạo hành lang xanh bao quanh các khu vực nhà máy, KCN. Tạo điều kiện thuận lợi, đồng thời yêu cầu các cơ sở sản xuất tập trung vào các KCN, cụm công nghiệp nơi có điều kiện xử lý tập trung nguồn phế thải. Đầu tư nhiều hơn cho công nghiệp xử lý chất thải, xây dựng quy chế quản lý chất thải, quản lý nguồn gây ô nhiễm, tính đúng tính đủ các chi phí về bảo vệ môi trường trong các dự án đầu tư công nghiệp mới. Đầu tư tăng cường cơ sở vật chất cho các bộ phận quan trắc và phân tích môi trường. Củng cố và kiện toàn biên chế bộ máy quản lý môi trường ngang tầm với nhiệm vụ và yêu cầu của thời kỳ CNH – HĐH. Đồng thời thực hiện tố công tác đánh giá tác động môi trường, thục hành tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Đến năm 2020, tỉnh hướng tới chuyển dịch cơ cấu công nghiệp ngày càng hiện đại với việc phát triển các ngành công nghệ cao, công nghệ sạch, thân thiện với môi trường. KẾT LUẬN Qua quá trình phân tích và tìm hiểu thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa ta có thể thấy rõ được tầm quan trọng của chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp trong quá trình thực hiện CNH – HĐH hiện nay, tạo ra bước chuyển biến căn bản về chất, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp nhanh, vững chắc gắn liền với yếu tố hiện đại, theo hướng công nghệ cao, nhằm đem lại giá trị kinh tế lớn, nhận biết các ngành có lợi thế so sánh trong giai đoạn trước mắt và tương lai đang thực sự trở thành vấn đề hết sức cần thiết trong việc phát huy hiệu quả thế mạnh, lợi thế của từng vùng, tùng ngành, góp phần tạo nên sự tăng trưởng mạnh của ngành công nghiệp Thanh Hóa nói riêng và các tỉnh khác nói chung trong những năm tới. Vì vậy, để đạt được mục tiêu cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020 do Đảng và chính quyền tỉnh đề ra, ngoài sự quyết tâm trong công tác chỉ đạo của chính quyền các cấp, sự nỗ lực của nhân dân tỉnh Thanh Hóa thì quá trình thực hiện luôn cần phải gắn với sự định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp giai đoạn 2011 – 2020. Bên cạnh đó, đề nghị Chính phủ và các Bộ ngành Trung ương quan tâm ưu tiên nguồn vốn đầu tư từ ngân sách, tín dụng Nhà nước và nguồn vốn ODA để đầu tư dứt điểm các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng, các dự án và công trình trọng điểm trên địa bàn phục vụ cho phát triển công nghiệp tỉnh Thanh Hóa. Đây là một đề tài rộng, với kiến thức của em còn hạn chế nên trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong được thầy, cô giáo, các cán bộ chuyên môn đóng góp ý kiến và chỉ bảo để bài viết được hoàn thiện hơn nữa. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Niên giám thống kê tỉnh Thanh Hóa năm 2000 – 2004 Niên giám thống kê tỉnh Thanh Hóa 2008 – Nhà xuất bản thống kê Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Sở công nghiệp, “Quy hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2006 – 2010, dự báo đến năm 2020 (điều chỉnh)”. Sở kế hoạch và đầu tư Thanh Hóa, “Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 – 2010 tỉnh Thanh Hóa”. Chuyên đề đánh giá tác động của bối cảnh quốc tế và trong nước đối với phát triển kinh tế tỉnh Thanh Hóa. Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2006), “Thanh Hóa tiềm năng và cơ hội đầu tư”, Nhà xuất bản Thanh Hóa. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020. Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thanh Hóa năm 2010 Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2007. Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp năm 2008. Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn năm 2020. Giáo trình “Kinh tế phát triển” - chủ biên GS.TS Vũ Thị Ngọc Phùng - NXB lao động – xã hội (2006). Giáo trình “Kế hoạch hóa phát triển” – chủ biên PGS.TS Ngô Thắng Lợi – NXB Đại học Kinh tế quốc dân. Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2010. Các Website: www.mpi.gov.vn www.vietnamplus.vn www.thanhhoa.gov.vn www.vietbao.vn www.cpv.org.vn www.baothanhhoa.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25675.doc
Tài liệu liên quan