Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phương Tú là một xã thuộc huyện ứng Hoà - Hà Tây cách thủ đô 20km. Phương Tú gồm 6 thôn : Hậu Xá, Dương Khê, Nguyên Xá, Đông Phú, Phí Trạch, Ngọc Đông. Từ khi thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước hộ gia đình được giao đất lâu dài, ổn định để sản xuất và hộ gia đình trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, hợp tác xã nông nghiệp trở thành hợp tác xã dịch vụ đầu vào và đầu ra... phục vụ và tạo điều kiện cho sự phát triển của kinh tế hộ gia đình. Phư
76 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1382 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên đất trồng lúa sang sản xuất nông thuỷ sản khác ở xã Phương Tú - Ứng Hoà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơng Tú có nhiều khởi sắc đã phát huy tiềm năng đất đai, lao động sản xuất nông nghiệp phát triển, năng suất lúa tăng cao đảm bảo nhu cầu cho nhân dân trong xã và phát triển chăn nuôi đời sống về kinh tế, văn hoá cuả xã được tăng lên đáng kể.
Tuy nhiên trong thời kỳ kinh tế xã hội hiện nay đang phát triển theo nền kinh tế thị trường thì việc sản xuất ở đây chưa đáp ứng được hiệu quả cao nhất của đất. ở Phương Tú đất sản xuất có nhiều loại mỗi loại có ưu thế riêng để phát triển những loại cây trồng cho năng suất cao đất đạt hiệu quả cao nhất.
- Đối với đất cao tươí tiêu nước khó nhất là vụ xuân thì hiệu quả cây lúa sẽ kém hơn nhiều đối với sản xuất rau màu.
- Đối với đất trũng thường ngập nước thì hiệu quả của cây lúa thấp hơn so với việc sản xuất thuỷ sản.
Chính vì vậy việc chuyển đổi đất lúa của Phương Tú sang sản xuất nông thủy sản khác là cần thiết.
2. Mục tiêu của đề tài
2.1 Mục tiêu tổng quát
Với đề tài nghiên cứu " Định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên đất trồng lúa sang sản xuất nông thuỷ sản khác ở xã Phương Tú – ứng Hoà - Hà Tây" thì mục tiêu tổng quát là làm sáng tỏ cơ cở khoa học của những vấn đề kinh tế chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên địa bàn xã, nhằm mục đích tạo được một cơ cấu đất sản xuất phù hợp nhất tạo được hiệu quả sản xuất cao nhất.
2.2 Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá thực trạng đất nông nghiệp và cơ cấu cây trồng ở xã Phương Tú, rút ra những mặt được và chỉ ra những mặt hạn chế.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp chuyển đổi cơ cấu theo hướng nâng cao năng suất đất và hiệu quả sử dụng ruộng đất.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất trồng lúa sang sản xuất nông thuỷ sản khác.
Đề tài đứng trên góc độ của vấn đề kinh tế để nghiên cứu những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn chuyển đổi đất lúa sang sản xuất nông thuỷ sảng khác và ảnh hưởng của nó trong quá trình phát triển nông nghiệp theo cơ chế thỉ trường có sự quản lý của Nhà nước.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu vấn đề của một xã gồm 6 thôn thuộc xã Phương Tú - ứng Hoà - Hà Tây.
Thời gian nghiên cứu từ 1995 đến 2000.
3.3 Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài em dựa vào các phương pháp nghiên cứu của thầy cô bao gồm:
3.3.1 Phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng :
Đây là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng trên trạng thái động và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nó cho phép phân tích và đánh giá một cách khách quan các vấn đề nghiên cứu từ đó cho ta biết được những quan điển những lí thuyết chung về vấn đề nghiên cứu.
3.3.2 Phương pháp duy vật lịch sử
- Phương pháp này dựa trên những phạm trù khoa học về sản xuất vật chất và quy luật khách quan để nghiên cứu quá trình hình thành và vận động của các ngành sản xuất.
3.3.3 Phương pháp thống kê kinh tế
- Đây là phương pháp nghiên cứu kinh tế thông thường giúp cho việc điều tra, tổng hợp phân tích thống kê các tài liệu về thực trạng sử dụng đất nông nghiệp.
3.3.4 Phương pháp phân tích và tổng hợp
- Đây là phương pháp nghiên cứu các vấn đề kinh tế xã hội một cách xác thực thông qua phương pháp phân tích số liệu tổng hợp được từ đó cho ta những kết luận, nhận xét từ những bài học thực tiễn.
Chương I :
Một số lý thuyết và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu đất trồng lúa ở nước ta
I. cơ cấu cây trồng và đặc trưng của cơ cấu cây trồng.
1.Khái niệm về cơ cấu cây trồng
1.1 Khái niệm
Cơ cấu cây trồng được hiểu xuất phát từ thuật ngữ " cơ cấu" theo thuyết cấu trúc (Structuralism) và học thuyết tổ chức hữu cơ " organism" thì cơ cấu có thể hiểu như là một cơ thể được hình thành trong điều kiện môi trường nhất định ( hiểu theo nghĩa rộng ). Trong đó các bộ phận hay yếu tố của nó được cấu tạo có tính quy luật và hệ thống theo một trật tự và tỷ lệ thích ứng. Nội dung cốt lõi của nó là biểu hiện vị trí, vai trò của từng bộ phận hợp thành và có mối quan hệ tương tác lẫn nhau trong tổng thể. Một cơ cấu có thể được thay đổi để phù hợp với điều kiện khách quan nhất định . Suy rộng ra cơ cấu cây trồng có thể quan niệm trên cơ sở của khái niệm cơ cấu kinh tế nông thôn: " là tổng thể các mối quan hệ kinh tế trong khu vực nông thôn. Nó có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau theo những tỷ lệ nhất định về mặt lượng và liên quan chặt chẽ với chất, chúng tác động qua lại lẫn nhau trong không gian và thời gian nhất định, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, tạo thành một hệ thống kinh tế trong nông thôn - một bộ phận hợp thành không thể tách rời của hệ thống nền kinh tế quốc dân". Cơ cấu cây trồng còn là bộ phận chủ yếu của cơ cấu sản xuất nông nghiệp và cơ cấu kinh tế nông thôn ở nước ta. Sự phát triển của cơ cấu cây trồng còn tuỳ thuộc vào trình độ của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động xã hội. Quá trình phát triển của lực lượng sản xuất nói chung và cơ cấu cây trồng nói riêng tự nó đã xác lập những tỷ lệ theo các mối quan hệ tất yếu. C. Mác đã viết: " Trong sự phân công lao động xã hội thì con số tỷ lệ là một tất yếu không sao tránh khỏi một tất yếu thầm kín, yên lặng". Cơ cấu cây trồng có thể được hình thành từ nhiều nhóm, chẳng hạn cây lương thực có lúa, màu, đậu tương... cây công nghiệp dài ngày có chè, cà phê.... Cơ cấu cây trồng còn là một trong những nội dung chủ yếu của hệ thống canh tác nông nghiệp. Xét trong phạm vi các điều kiện canh tác thì cơ cấu cây trồng thể hiện thành phần các loại cây trồng được bố trí theo từng địa điểm và thời gian cụ thể. Vì thế xác định cơ cấu cây trồng còn là nội dung của công tác phân vùng sản xuất nông nghiệp. Muốn phát triển trồng trọt ở từng vùng đạt hiệu quả kinh tế cao trước hết phải xem xét việc bố trí cây trồng thích hợp nhất với điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của vùng. Do đó cấu trúc một cơ cấu cây trồng hợp lý không những phát triển được sản xuất một cách lợi nhất mà còn bảo vệ tốt đất đai và môi trường.
1.2 Yêu cầu cơ cấu cây trồng trong hệ thống canh tác
- Lợi dụng tốt các điều kiện thời tiết, khí hậu, đất đai nhằm tránh được các tác hại do thiên tai gây ra, hạn chế những ảnh hưởng của úng lụt, hạn hán, chua mặn mà vẫn không ngừng thâm canh, cải tạo đất.
- Lợi dụng triệt để những đặc tính sinh học tốt của cây trồng như : khả năng chống chịu các điều kiện ngoại cảnh, sâu bệnh, tính thích ứng rộng rãi, có tiềm năng cho năng suất cao và chất lượng sản phẩm tốt.
1.3 Yêu cầu cơ cấu cây trồng thể hiện về mặt kinh tế
- Đáp ứng cho việc tổ chức các vùng sản xuất chuyên canh có tỷ suất hàng hoá cao.
- Đảm bảo cho việc tổ chức các yếu tố đầu vào hợp lý, phát triển sản xuất đa dạng và kết hợp chặt chẽ giữa trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và chế biến.
Trong quá trình tái sản xuất bao gồm cả bốn khâu: sản xuất, phân phối, lưu thông và tiêu dùng thì cơ cấu cây trồng không thể dừng lại ở một khâu nào cả mà nó là một chuỗi liên tục, chi phối trong mối quan hệ tương tác lẫn nhau theo hướng hoàn thiện trong từng hoàn cảnh cụ thể. Cho đến nay, khái niệm về cơ cấu cây trồng vẫn còn là một vấn đề gây nhiều tranh cãi, song qua một thời gian dài nghiên cứu về lý luận cơ cấu cây trồng và vận dụng vào tính đặc thù của sản xuất nông nghiệp nước ta, nhiều nhà lý luận cũng như các chuyên gia chỉ đạo thực tiễn cũng có thể tạm nhất trí với nhau ở một số điểm chính của khái niệm có tính nguyên tắc về cơ cấu cây trồng. Tuy nhiên theo chúng tôi thì khái niệm cơ cấu cây trồng vừa theo nghĩa rộng và vừa có ý nghĩa trong phạm vi hẹp như đã trình bày ở trên là xác đáng hơn.
2. Vai trò và đặc trưng của cơ cấu cây trồng
2.1 Vai trò của cơ cấu cây trồng
Nước ta là một nước nông nghiệp trên 70% dân số sống tập trung ở nông thôn. Vì vậy đẩy mạnh việc phát triển nông nghiệp có ý nghĩa hết sức to lớn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trong sản xuất nông nghiệp thì ngành trồng trọt là chủ yếu, chiếm đến 75% giá trị tổng sản phẩm nông nghiệp. Đứng trên góc độ kinh tế - tổ chức thì chế độ trồng trọt bao gồm ba nội dung quan trọng.
Một là xác định cơ cấu đất đai để bố trí cây trồng cho phù hợp có nghĩa là hình thành một cơ cấu cây trồng hợp lý nhất. Hai là xác định nhu cầu về khối lượng và chủng loại sản phẩm để lựa chọn cây trồng thích hợp. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì đây là động lực quan trọng. Ba là xác định khả năng và biện pháp khai thác triệt để để các nguồn lợi tự nhiên cho sản xuất , tăng năng suất đất đai và sản lượng cho các loại cây trồng, nâng cao hiệu quả kinh tế của sản xuất.
Trong ba nội dung trên thì xác định cơ cấu cây trồng có ý nghĩa cơ bản và quan trọng nhất trong quá trình chuyển nền nông nghiệp từ độc canh lương thực sang nền nông nghiệp đa dạng, có nhiều nông sản hàng hoá phục vụ cho tiêu dùng và cho xuất khẩu, làm cơ sở vững chắc cho việc thực hiện thắng lợi công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Cơ cấu cây trồng còn là căn cứ để xây dựng các kế hoạch đầu tư vốn, sử dụng lao động và các loại tư liệu sản xuất nông nghiệp cũng như việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật một cách có hiệu quả và chủ động. Mặt khác trong điều kiện nhiều thành phần kinh tế trong nông nghiệp thì việc xác định một cơ cấu cây trồng hợp lý đạt hiệu quả là một đòi hỏi tất yếu đối với mỗi thành phần kinh tế sử dụng đất nông nghiệp ở nước ta. Tuy nhiên cơ cấu cây trồng không phải là một hệ thống tĩnh mà luôn luôn động. Việc nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở nước ta hiện nay vừa là nội dung trọng tâm của chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng một nền kinh tế hàng hoá, nhiều thành phần, vừa là biện pháp để phát triển nông nghiệp toàn diện và bảo vệ tốt nguồn tài nguyên đất đai. Có thể nói là một vấn đề cực kỳ quan trọng và hết sức bức xúc. Đương nhiên không thể chuyển đổi một cách ồ ạt, vội vã song cũng không thể chần chừ, chậm trễ. Mọi việc làm thiếu căn cứ khoa học đều gây thiệt hại không nhỏ làm cho hàng triệu nông dân và kìm hãm sự phát triển của nông nghiệp. Việc coi nhẹ vai trò của cơ cấu cây trồng nhiều khi còn phải trả giá quá đắt cho một thời gian khá dài của nền nông nghiệp lạc hậu và độc canh lương thực. Tất nhiên điều đó còn có sự ảnh hưởng của cơ chế tập quản lý tập trung, bao cấp nữa. Vì vậy chuyển đổi cơ cấu cây trồng có nghĩa là chuyển dịch theo quan điểm đổi mới của Đảng ta chứ không phải thay đổi hoàn toàn. Từ những năm 1975 miền Bắc nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên cơ sở bố trí lại mùa vụ đã đạt kết quả rất tốt. Chẳng hạn công trình nghiên cứu thay thế lúa chiêm trên một số diện tích bằng vụ lúa xuân và chuyển đổi vụ mà chính vụ bằng mùa sớm để phát triển thêm cây vụ đông đã mở ra một chế độ canh tác 3 vụ cho hàng vạn héc ta, tạo ra năng suất đất đai cao hơn hẳn, và việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng đã có bằng chứng sống động có sức thuyết phục cao đối với hàng triệu nông dân đồng bằng Bắc Bộ. Từ việc nghiên cứu cơ cấu cây trồng đặt ra cho các nhà lý luận cũng như các nhà quản lý những nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược trong bố trí sản xuất trồng trọt, đó là xác định cơ cấu cây trồng trước mắt và trong tương lai, phục vụ cho chiến lược phát triển nông nghiệp của nước ta trong quá trình xây dựng nền kinh tế đất nước theo con đường công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
2.2 Đặc trưng của cơ cấu cây trồng.
Cây trồng là một trong những đối tượng sản xuất có nhiều đặc trưng nhất vì nó vừa là đối tượng sản xuất vừa là đối tượng tác động chính. Bởi vậy chúng ta cần phải xem xét đặc trưng của cơ cấu cây trồng.
2.2.1 Cơ cấu cây trồng trước hết phản ánh rõ nét đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp luôn gắn liền với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, bởi vì cây trồng là đối tượng của sản xuất nông nghiệp. Bản thân các cây trồng là những cơ thể sống, chúng tồn tại, sinh trưởng, phát triển theo quy luật sinh học và chịu tác động trực tiếp của các yếu tố tự nhiên như đất, nước, khí hậu, thời tiết.... Dacwin và Mitchurin đã từng nhấn mạnh : " Cây trồng và ngoại cảnh là một khối thống nhất ". Vì vậy cơ cấu cây trồng được hình thành trước hết không thể bỏ qua điều có tính quy luật đó. Mặt khác tính quần thể của thực vật còn biểu hiện mối quan hệ sinh học trong việc bố trí sản xuất trồng trọt. Việc xác định cơ cấu cây trồng còn phải xuất phát từ những yếu tố đại lý và tập quán canh tác cũng như trình độ phát triển dân trí. Do đó phải dựa vào cơ sở của các phương án phân vùng quy hoạch nông nghiệp nhất định là việc hình thành các vùng chuyên canh cây trồng, có khối lượng nông sản hàng hoá lớn. Cần phải nhận thức rằng không thể dựa vào quan niệm sản xuất nhỏ, phân tán, manh mún để bố trí cây trồng một cách dàn trải, bất hợp lý mà phải dựa vào việc khai thác lợi thế của từng vùng, từng địa phương để bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý, lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm thước đo. Sản phẩm nông nghiệp nói chung và sản phẩm trồng trọt nói riêng phần lớn là sản phẩm thô, tồn tại dưới dạng nguyên liệu, vì vậy trong tổ chức sản xuất trồng trọt phải gắn liền với việc bố trí cơ cấu cây trồng với các thành tựu khoa học kỹ thuật trong bảo quản và chế biến để nâng cao giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm, mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho sản xuất.
2.2.2 Bản chất và sự biến đổi của cơ cấu cây trồng tuỳ thuộc vào trình độ của lực lượng sản xuất
Cơ cấu cây trồng còn hoang sơ và rất tự nhiên trong điều kiện cuộc sống của con người dựa vào hái lượm. Cơ cấu cây trồng mang tính độc canh tự cấp, tự túc, khép kín, kém hiệu quả trong điều kiện sản xuất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp và các ngành kinh tế khác chưa phát triển. Nông nghiệp nước ta nằm trong vùng có khí hậu đặc trưng nhiệt đới gió mùa, điều kiện khí hậu thời tiết thuận lợi cho việc gieo trồng quanh năm. Nhưng trong những năm qua, mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc bố trí hợp lý cơ cấu cây trồng, song trong suốt thời gian thực hiện cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, việc xác định cơ cấu cây trồng luôn bị lệ thuộc bởi các yếu tố chủ quan, định trước do đó sản xuất nông nghiệp còn mang đặc trưng nền nông nghiệp kém phát triển, nhiều vùng nông thôn vẫn trong tình trạng nghèo đói. Những năm gần đây, do thực hiện đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Nhà nước nước ta đã bước đầu khởi sắc và phát triển. Nhưng cơ bản vẫn còn mang dấu ấn của một nền nông nghiệp lạc hậu, độc canh cây lương thực. Vì vậy việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vẫn được xem xét từng bước cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, nhằm kết hợp chặt chẽ với điều kiện tự nhiên và lợi thế so sánh của từng vùng, từng địa phương. Mặt khác trình độ khoa học kỹ thụât cao cũng có tác động rõ rệt đến việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất trồng trọt, làm thay đổi cơ cấu cây trồng theo hướng chú trọng chất lượng và hiệu quả. Nhiều vùng chuyên canh cây trồng ở nước đã hình thành và phát triển, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và hàng hoá xuất khẩu như : chè, cà phê, cao su, mía đường, dâu tằm.v..v... Những tiến bộ của việc xác định cơ cấu cây trồng ngày càng hợp lý cũng thể hiện sự phát triên của lực lượng sản xuất trong nông nghiệp nước ta đang từng bước đạt trình độ cao hơn.
2.2.3. CCCT về cơ bản phản ảnh yêu cầu của sản xuất hàng hoá và thị trường, tuân theo sự phân công lao động xã hội, tính chất chuyên môn hoá sản xuất.
Nhu cầu sản xuất hàng hoá và thị trường là điều kiện quyết định sự biến đổi về chất của CCCT. Suy cho cùng thì nhu cầu về nông sản và môi sinh của xã hội càng cao thì càng thúc đẩy CCCT chuyển biến theo hướng tiến bộ. Từ những đặc trưng đó đòi hỏi khi xác định CCCT cần phải dựa vào nhu cầu thị trường nông sản, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của mỗi vùng, sự phân vùng quy hoạch nông nghiệp và phương hướng phát triển nông nghiệp trong từng thời kỳ, những tiến bộ kỹ thuật và điều kiện để ứng dụng vào sản xuất. Trong nền kinh tế hàng hoá thì thị trường là nơi kết thúc quá trình sản xuất. Sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào đều do thị trường quyết định. Trong quá trình tổ chức sản xuất ngành trồng trọt thì việc xác định CCCT tuân theo nguyên lý đó. Quá trình tái sản xuất trong nông nghiệp tuy diễn ra chậm chạp nhưng nó tuân theo những quy luật kinh tế khách quan vừa đảm bảo thu hồi vốn, vừa tiếp tục tái sản xuất mở rộng. Người nông dân chỉ có thể sản xuất cái mà thị trường cần chứ không phải cái mà họ có sẵn. Khi một loại nông sản nào đó thị trường không chấp nhận sẽ dẫn đến ứ đọng và ế thừa, không tiêu thụ được hoặc tiêu thụ với giá rẻ không đủ bù đắp chi phí đã bỏ ra. Bởi vậy, trong lĩnh vực trồng trọt, việc xác định CCCT trước hết phải tìm hiểu nhu cầu thị trường cả trong nước và ngoài nước về số lượng và chất lượng, chủng loại, giá cả. Trên cơ sở đó mà có sự bố trí sắp xếp sản xuất hợp lý đáp ứng nhu cầu thị trường, thúc đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng.
3. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng
Thực tiễn phát triển sản xuất nông nghiệp nói chung và CCCT nói riêng ngày càng chứng tỏ hơn các xu hướng sau đây:
3.1 Chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá
Xu hướng này phản ánh quy luật cung - cầu trong xã hội, có thể thấy rõ trên các khía cạnh:
- Nhu cầu ngày càng gia tăng về số lượng lẫn chất lượng của sản phẩm từ cây lương thực, thực phẩm và nhiều loại cây trồng khác.
- Thị trường cung - cầu của sản xuất trồng trọt ngày càng mang tính xã hội hoá và quốc tế hoá.
- Công nghiệp hoá và hiện đại hoá có quan hệ tương tác với nông nghiệp và ngày càng thêm chặt chẽ.
3.2 Chuyển dịch theo hướng một nền kinh tế phát triển và một nền nông nghiệp ổn định, bền vững.
Lịch sử phát triển của các nước trên thế giới đều cho thấy rõ:
- Vai trò của nông nghiệp có tác dụng rất to lớn và có khi có tính quyết định ở các giai đoạn đầu ở sự phát triển nền kinh tế quốc dân. Kinh nghiệm của các nước Châu á phát triển như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaixia đã đạt mức tăng trưởng kinh tế nhanh do đã tập trung xây dựng trước hết một nền móng phát triển vững vàng tại nông thôn. Các nước này đã đầu tư rất nhiều vào nông nghiệp và đã thành công không chỉ trong việc xoá đói giảm nghèo mà ngay cả các ngành phi nông nghiệp cũng tăng trưởng rất nhanh. Trong giai đoạn sau thì vai trò của nông nghiệp có khác trước, nhưng không có nghĩa là không quan trọng đối với một nền kinh tế phát triển.
- Ngày nay người ta càng nhận rõ vấn đề an toàn lương thực là đặc biệt quan trọng đối với mỗi quốc gia.
1.3.3 Cơ cấu cây trồng phát triển theo hướng bảo vệ môi trường sinh thái
Kinh tế phát triển, nhất là kinh tế hàng hoá luôn có mặt trái của nó, trong đó có sự tác hại đến môi trường, sự phá huỷ môi trường sinh thái là điển hình. Do đó cơ cấu cây trồng tiến bộ không thể không chú ý đến việc hạn chế sự tàn phá môi trường và hướng tới bảo vệ đa dạng, bền vững của môi trường sinh thía. Nói tóm lại xu hướng phát triển cơ cấu cây trồng cần thiết phải được thể hiẹn rõ mối quan hẹ giữa các phạm trù : sản xuất hàng hoá - nông nghiệp bền vững - nông nghiệp sinh thái.
II. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên đất trồng lúa sang sản xuất nông thuỷ sản khác.
1. Sự cần thiết phải chuyển dịch sang sản xuất thuỷ sản :
Trong những năm qua cùng với sự phát triển của nền kinh tế nước ta thì tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng như mức sống của bà con nông dân ngày được tăng lên, nhu cầu về nông sản phẩm đòi hỏi ngày một nhiều hơn cả về số lượng và chất lượng chính vì vậy sản xuất nông nghiệp đòi hỏi phải có sự biến đổi tích cực, để phù hợp với yêu cầu khách quan. Để đáp ứng đựơc nhu cầu ngày càng cao về nông sản phẩm thì chúng ta phải chuyển đổi cơ cấu cây trồng cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội làm cho thu nhập và mức sống của bà con nông dân ngày một tăng lên. Trong bữa ăn hàng ngày bây giờ thì vấn đề lương thực là thứ yếu mà chủ yếu trong bữa ăn thực phẩm là thức ăn quan trọng đòi hỏi phải nhiều chủng loại, chất lượng các chủng loại này cao, đáp ứng được về mức độ ngon miệng và đủ chất dinh dưỡng.
1.1 Điều kiện sản xuất thuỷ sản
Trên các chân ruộng lúa thì có nhiều loại khác nhau với các đặc điểm khác nhau tạo ra điều kiện sản xuất khác nhau của các chân ruộng đó, trong đó ta thấy có một số chân ruộng có thể kết hợp nuôi cá, đan xen với trồng lúa vừa đem lại sự đa dạng hoá sản phẩm trên đất lúa, vừa đem lại hiệu quả kinh tế cao. Những chân ruộng trũng thường xuyên ngập nước, canh tác lúa trên ruộng đó chủ yếu là vụ mùa vào tháng 1 và tháng 6 còn lại vụ kia thì canh tác gặp nhiều khó khăn, những chân ruộng luôn ngập úng cả hai vụ khi có mưa to. Như vậy, điều kiện sản xuất lúa sẽ khó khăn chi phí sản xuất sẽ lên cao dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp.
Đối với chân ruộng như vậy ta có thể chuyển sang sản xuất nuôi cá và trồng lúa kết hợp như các chân ruộng.
- Đối với chân ruộng sản xuất lúa bấp bênh, một vụ lúa thì nay chuyển sang sản xuất một vụ lúa cộng với một vụ cá.
- Đối với chân ruộng sản xuất bấp bênh cả hai vụ lúa nay đắp bờ kiên cố chuyển hẳn sang sản xuất nuôi cá.
1.2 Hiệu quả kinh tế
- Đối với diện tích hồ sẵn có thì việc phát triển sản xuất thuỷ sản sẽ làm cho giá trị sản xuất của ao hồ ngày càng nâng cao.
- Đối với diện tích lúa khi chuyển sang sản xuất thuỷ sản việc kết hợp 2 lúa 1 cá + vịt thì nhìn chung sản lượng lương thực không giảm đáng kể nhìn chung năng suất đạt 10 tấn/ha sản lượng cá đạt 2 tấn/ha + 200 con vịt như vậy ta thấy sản lượng cá và vịt sẽ tăng lên rất nhiều.
2. Sự cần thiết chuyển sang sản xuất nông sản khác
Ngoài sản xuất lúa thì trên đất trồng lúa, nhất là những chân ruộng cao thì chúng ta có thể sản xuất được rất nhiều những nông sản phẩn khác nhau đen lại hiệu của kinh tế cao hơn, và phù hơp với phong tục sản xuất của các địa phương, nâng cao thu nhập cho bà con nông dân.
2.1 Điều kiện phát triển sản xuất nông sản khác :
Nước ta có đặc điểm về tự nhiên đặc biệt là đất đai ngoài diện tích trũng, đất hai lúa, thì còn một số diện tích đất hai lúa nhưng chân ruộng tương đối cao có thể phát triển sản xuất cây vụ đông.
Đối diện tích đất cao thì việc sản xuất lúa sẽ gặp phải khó khăn trong việc tưới nước cho cây và năng suất lúa ở chân ruộng này không cao năng suất đạt trung bình 150 kg/ sào Bắc Bộ - 180 kg/ sào Bắc Bộ. Như vậy hiệu quả sản xuất sẽ không cao. Chính vì vậy cần phải chuyển sang sản xuất các loại sản phẩm khác.
Đối chân ruộng quá cao thì diện tích ở xã không nhiều nay ta chuyển sang sản xuất 1 vụ lúa và 1 vụ màu.
2.2 Hiêu quả kinh tế.
Xét về mặt hiệu quả kinh tế thì không thể phủ nhận được của các cây trồng khác.Nó vừa cho ta nhiều hơn về chủng loại hàng hoá và về giá trị của chúng
Về thị trường tiêu thụ sản phẩm này thì nhìn chung thị trường rất lớn bao gồm thị trường tiêu thụ tại chỗ và cung cấp cho thị trường tiêu thụ tại trong nước , cho các nhà máy chế biến nông sản trong nước, tiêu thụ tại thị trường nước ngoài nhất là các nước phát triển .
III. Tình hình phát triển chung về cơ cấu cây trồng ở thế giới và Việt Nam
1.Tình hình chung của thế giới
1.1 ở các nước công nghiệp
Đặc điểm nổi bật ở các nước này là chuyên môn hoá và tập trung hoá cao độ, sản xuất nông nghiệp nói chung và trồng trọt nói riêng có sự tác động rõ rệt và hiệu quả quả công nghiệp và các tiến bộ khoa học kỹ thuật. Cơ cấu cây trồng không đơn thuần vì mục đích để thu sản phẩm mà còn vì mục đích cải tạo môi trường sinh thái để phát triển nông nghiệp bền vững. Tuy nhiên cơ cấu cây trồng thường biến đổi, bị lệ thuộc và chịu sự chi phối của nền kinh tế thị trường và tính chất sản xuất hàng hoá cao độ.
1.2 Nhóm các nước phát triển
Nhìn chung đối với những nước này chưa giải quyết cơ bản mối quan hệ kinh tế - xã hội - môi trường sinh thái trong quá trình thiết lập các hệ thống công tác và bố trí cơ cấu cây trồng thích hợp. Tuy nhiên cũng đã hướng đến mục tiêu như ở các nước công nghiệp phát triển, đó là việc chuyên môn hoá và tập trung hoá ngày càng được thể hiện rõ nét. Tác động của công nghiệp, của khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ tuy chưa đạt trình độ như các nước công nghiệp phát triển song cũng đã đạt được những thành tựu tương đối nổi bật trong khuôn khổ cuộc cách mạng xanh và cách mạng sinh học. Hiện nay nói chung cơ cấu cây trồng vẫn bị cuốn hút theo kinh tế thị trường nhiều khi còn mang đậm nét truyền thống, tự nhiên, và đại đa số những nước này đang còn gặp nhiều khó khăn về vấn đề giải quyết lương lực.
1.3 Nhóm các nước kém phát triển và có điều kiện tự nhiên không thuận lợi
Đối với những nước này việc xác định cơ cấu cây trồng chủ yếu là theo tính chất sản xuất tự nhiên, tự cấp, tự túc. Hiện có nhiều nước, đặc biệt là nước Châu Phi vẫn chưa tự túc được lương thực, nạn đói vẫn thường xuyên đe doạ. Điểm nổi bật ở những nước này là sản xuất nông nghiệp kém phát triển, hiệu quả kinh tế thấp, môi trường sinh thái bị phá hoại nghiêm trọng. Hình thức canh tác lạc hậu theo lối quảng canh, bóc lột đất đai và môi trường tự nhiên là chủ yếu. Việt Nam cũng là một trong những nước kém phát triển song đặc thù của Việt Nam thể hiện trong cơ cấu cây trồng mang đặc trưng của kinh tế lúa nước.
2. Tình hình phát triển cơ cấu cây trồng ở Việt Nam
* Trước cách mạng tháng 8 năm 1945
Cơ cấu cây trồng ở nước ta nhìn chung rất lạc hậu, thời kỳ nay do dân số ít, vấn đề đất đai không ở mức hạn hẹp, hình thức sản xuất chủ yếu là kiểu khai phá, lập ấp, xây dựng trại, mở mang đồng ruộng và canh tác chính là trồng lúa một vụ, sản xuất tự nhiên, tự cấp tự túc.
* Thời kỳ kháng chiến chống Pháp và Mỹ
Thời kỳ này về cơ bản nông nghiệp vẫn còn rất lạc hậu, nhiệm vụ sản xuất chủ yếu là tập trung giải quyết lương thực để phục vụ cho chiến đấu. Cơ cấu cây trồng cũng chủ yếu thiên hướng phát triển các loại cây lương thực gồm lúa và hoa màu, chú ý đến số lượng và xem nhẹ chất lượng. Tuy nhiên trong cơ cấu tổ chức bước đầu cũng hình thành những vùng chuyên canh như những vùng cây ăn quả ở Nghệ An, vùng chè ở một số tỉnh Trung du và vùng núi phía Bắc, vùng rau quanh các thành phố lớn Hà Nội, Hải Phòng. Trong sản xuất cũng đã được bước đầu áp dụng những thành tựu về khoa học kỹ thuật, đặc biệt là thâm canh cây trồng như giống mới, phân bón, chế độ tưới tiêu. Năng suất cây trồng nhờ đó đã tăng lên và có nhiều tiến bộ. Miền Bắc cũng đã làm tốt nhiệm vụ là hậu phương lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước toàn thắng.
* Từ năm 1975 đến nay
Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước, công tác quy hoạch nông nghiệp đã được tập trung đầu tư và được đặt ra là nhiệm vụ hàng đầu trong kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế nông nghiệp trên phạm vi cả nước. Việc nghiên cứu chuyển đổi cơ cấu cây trồng nhằm từng bước phá thế độc canh cây lúa đã được triển khai và thu được nhiều kết quả tốt. Hàng loạt các tiến bộ kỹ thuật mới trong nông nghiệp được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất.Tác dụng của các cây trồng mới, các biện pháp thâm canh và một số chính sách kinh tế ngày càng được nhiều địa phương, nhiều hộ nông dân và các tổ chức kinh tế hợp tác xã, nông trường quốc doanh khẳng định. Sự hình thành các vùng chuyên môn hoá khá rõ nét, chẳng hạn vùng cây lương thực tập trung ở hai vùng trọng điểm là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Cho đến nay việc phát triển sản xuất lương thực ở hai vùng này đã đảm bảo đủ lương thực và còn phần dự trữ và xuất khẩu hàng triệu tấn gạo/ năm. Ngoài việc tập trung cho vấn đề lương thực, trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta cũng đồng thời đẩy mạnh việc phát triển sản xuất các cây công nghiệp, cây ăn quả và các loại rau thực phẩm. Bước đầu tạo ra số lượng nông sản xuất khẩu hàng năm cho đất nước và giải quyết nguyên liệu cho công nghiệp chế biến trong nước phát triển. Cả nước đã hình thành trong những vùng chuyên canh quan trọng như chè, cà phê, cao su, quế, dâu tằm, mía, đường, điều,cam, quýt... Tuy nhiên xét trên phạm vi cả nước thì sự chuyển đổi cơ cấu cây trồng còn chậm chạp, tự phát chưa có những kết quả vững chắc trước những thử thách của cơ chế thị trường, nhiều loại cây trồng phát triển không ổn định. Mặt khác trong nhiều vùng kinh tế vẫn chưa giải quyết những vấn đề xã hội và bảo vệ tốt môi trường sinh thái.
3. Những kinh nghiệm rút ra
- Xác định cơ cấu cây trồng phải xuất phát từ những mối quan hệ hữu cơ của các yếu tố trong hệ thống nông nghiệp.
- Nền nông nghiệp Việt Nam so với một số nước trên thế giới có tính đặc thù riêng, rất đa dạng và phong phú. Phát triển sản xuất nông nghiệp không thể chỉ tập trung cho một ngành nào đó, lại càng không thể tách rời giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa sản xuất với lưu thông phân phối. Nếu chỉ tập trung cho trồng trọt mà xem nhẹ chăn nuôi thì chưa nói đến vấn đề thực phẩm mà ngay cả việc cung cấp nguồn phân hữu cơ cho cây trồng cũng không thể đáp ứng được và hiệu quả thâm canh của chính bản thân ngành trồng trọt cũng sẽ giảm đi. Thực tiễn trong những năm qua, việc xác định và bố trí cơ cấu cây trồng còn nặng tính chủ quan và áp đặt một cách tuỳ tiện, chưa chú ý đến những cân đối cần phải có. Các cây trồng hay các nhóm cây có mục đích kinh tế khác nhau chưa thể hiện sự hỗ trợ cho nhau cùng phát triển. Mặt các cơ cấu cây trồng cũng chưa lợi dụng tốt điều kiện tự nhiên , kinh tế - xã hội của từng địa phương hoặc từng vùng lãnh thổ. Trong đó đáng chú ý là ở nhiều vùng có ưu thế về khí hậu, thời tiết, đất đai có thể bố trí tập đoàn cây con có giá trị kinh tế cao và cho năng suất khá như : Tây Nguyên và một số huyện miền núi Quảng Nam - Đà Nẵng có thể phát triển mạnh cà phê, mía, đường, cây ăn quả.... Một nhà thổ nhưỡng học đã nói : Một loại đất thì thích nghi với một và chỉ một loại đất mà thôi. Trong tổ chức sản xuất ngành trồng trọt và xác định cơ cấu cây trồng hiện nay do tác động của cơ chế thị trường việc tìm lời giải cho bài toán trồng cây gì, diện tích bao nhiêu và ở đâu đang là bài toán hóc búa chưa được giải quyết thoả đáng. Đương nhiên từ một nền sản xuất hàng hoá trong quá trình tìm lời giải cho bài toán trên không thể tránh khỏi những mặt hạn chế. Song việc quy hoạch, định hướng hay nói cách khác là tầm nhìn chiến lược về phát triển một nền nông nghiệp hàng hoá, đa dạng kết hợp với chuyên môn hoá, tập trung hoá phải được xác định trên cơ sở những căn cứ khoa học. Trong những năm gần đây cùng với xu thế đổi mới của cả nước, nông nghiệp cũng đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, trong đó việc chuyển đổi c._.ơ cấu cây trồng theo những định hướng chiến lược đã được thể hiện rất rõ. Một số cây trồng đã phát huy thế mạnh và đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu như mía đường Lam Sơn - Thanh Hoá, dâu tằm Lâm Đồng, cà phê Đắc Lắc,Buôn Ma Thuột, chè Bắc Thái, Hà Giang, Vĩnh Phú, lương thực đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông cửu Long...
- Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng cũng như trong qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một qúa trình mang tính khách quan và tính lịch sử, tính ổn định tương đối trên cơ sở vận động và liện hệ biện chứng của các yếu tố cây trồng, con người và tự nhiên theo xu hướng ngày càng hoàn thiện, hợp lý và hiệu quả.Cơ cấu cũ chuyển đổi dần sang cơ chế mới rồi trải qua một quá trình sản xuất và lưu thông cơ cấu mới laị trở nên bất hợp lý tiếp tục chuyển sang một cơ cấu mới hơn, phù hợp hơn. Cứ như thế vận động của cơ cấu cây trồng luôn luôn nhằm đáp ứng những yêu cầu và đòi hỏi của nền kinh tế và sự phát triển của xã hội. Quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở một vùng hoặc một tiểu vùng sinh thái diễn ra nhanh hay chậm tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó phải kết đến sự tác động trực tiếp và rất quan trọng của chủ thể lãnh đạo và quản lý. Những chủ thể đó hoàn toàn có thể chủ động cho quá trình chuyển đổi diễn ra nhanh hơn theo hướng vì lợi ích của chính con người và xã hội.
Chương II :
Thực trạng chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên Đất trồng lúa sang sản xuất nông thuỷ sản khác.
ở xã Phương tú - ứng Hoà - Hà Tây
I. Đặc điểm Kinh tế - xã hội của xã phương tú
1. Điều kiện tự nhiên
1.1 Vị trí địa lý
Phương Tú là một xã nằm ở phía Đông Nam của Huyện ứng Hoà, trung tâm xã cách thị trấn Vân Đình ( huyện lỵ ứng Hoà ) 3 km theo đường tỉnh lộ 75 và cách thị xã Hà Đông 29 km cũng trên trục lộ 75 và số 22.
Phía Bắc giáp Liên Bạt và một phần tiếp giáp huyện Phú Xuyên
Phía Đông tiếp giáp thị trấn Trung Tú
Phía Tây tiếp giáp thị trấn Vân Đình
Phía Nam tiếp giáp xã Tảo Dương và xã Hoà Lân.
Đặc biệt, từ xã Phương Tú đi theo trục đường tỉnh lộ số 75 đến đường quốc lộ số 1 tại điểm Cầu Giẽ chỉ có 12km.
1.2 Địa hình
Xã Phương Tú nằm ở trung tâm của vùng chiêm trũng ngập úng trước đây. Cốt đất trung bình là 2,5m, điểm thấp nhất có cốt - 0,8m. Địa hình tương đối bằng phẳng. Độ dốc chạy từ Tây sang Đông và từ Bắc xuống Nam.
1.3 Thuỷ văn
Địa bàn xã Phương Tú nằm trong lưu khu của nhánh sông Vân Đình và các mương A2 - 8 và A2 - 10. Các nhánh mương A2 - 8 và A2 - 10 vừa có chức năng tưới và tiêu cho toàn bộ khu vực. Vụ Đông Xuân mức nước sông Vân Đình dâng lên tới cao trình 3,2 m ( 2,2 - 4,5 m ). Nằm trong hệ thống công trình phân lũ sông Hồng và sông Đáy nên trong vụ mùa, hệ thống kênh mương thuỷ lợi ở đây luôn chỉ được phép duy trì mực nước nhỏ hơn hoặc bằng 2,5 m. Yếu tố này đã hạn chế một phần khả năng phục vụ tưới của hệ thống thuỷ lợi với sản xuất nông nghiệp.
1.4 Thời tiết khí hậu
Theo số liệu của Đài khí tượng thuỷ văn Hà Tây ( thị xã Hà Đông ) thì diễn biến khí hậu thời tiết của vùng qua nhiều năm như bảng tran sau :
Biểu 1 : Số liệu về khí hậu thời tiết trong khu vực tỉnh Hà Tây ( trạm Hà Đông )
Chỉ tiêu
Tháng
BQ năm
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Nhiệt độ BQ
(0 C)
15,7
16,2
19,8
23,5
26,8
28,5
29,1
28,3
27,0
24,4
20,8
17,4
23,1
Độ ẩm KK
(%)
85,0
85,0
88,0
89,0
86,0
84,0
82,0
86,0
86,0
84,0
81,0
80,0
85,0
Lượng mưa (mm)
21,0
18,5
23,5
89,2
159
283
310
289
275
229
86,0
38,0
1821
Nguồn số liệu: Viện kinh tế NN & PTNT.
Nhiệt độ bình quân 23,10 C ( 15,70 - 29,10 C ), nhiệt độ cao nhất trong các tháng 6,7,8. Tổng lượng mưa trung bình nhiều năm là 1821 mm. Lượng mưa tập trung nhiều nhất là 6 tháng mùa mưa ( từ tháng 5 đến tháng 10 ), bằng 855 lượng mưa cả năm. Đây là thời điểm trước đây xảy ra úng ngập cục bộ khi có mưa lớn kéo dài. Các địa phương trong vùng thường xuyên phải đối phó với việc tiêu úng trong mùa mưa cũng như chống hạn trong vụ sản xuất Đông để đảm bảo cho cây trồng, con nuôi sinh trưởng và phát triển thuận lợi. Ngày nay, nhờ có hệ thốn thuỷ lợi hoàn chỉnh nên hộ nông dân có thể đầu tư thâm canh tăng vụ, tăng hệ số sử dụng đất, tăng năng suất cây trồng và con nuôi, nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp.
1.5 Nông hoá thổ nhưỡng
Theo số liệu điều tra khảo sát nông hoá thổ nhưỡng năm 1994 thì thành phần cơ giới đất ở đây có hai loại chính là :
+ Đất thị nhẹ trung bình, chiếm 10% diện tích đất nông nghiệp
+ Đất thịt nặng chiếm 90% diện tích
Phân loại theo lý tính của đất thì chủ yếu bao gồm 2 loại chính là : đất chua nhẹ ( pHKcl = 5,1 - 6, 0 ) chiếm khoảng 38% diện tích; đất chua vừa ( pHKck = 4,6 -5,0 ) chiếm 62% diện tích. Phân tích độ mùn cho thấy gần 70% diện tích đất nông nghiệp ở đây có độ mùn khá cao nhưng lại nghèo nàn dễ tiêu. Nhìn chung, đây là vùng đất canh tác đã được cải tạo và đầu tư khá nhiều năm. Bằng các hệ thống công trình thuỷ lợi tự tiêu kết hợp với các trạm bơm động lực đã khắc phục cơ bản vấn đề ngập kiểu " chiêm khê, mùa thối" trước kia. Đất đai ngày càng màu mỡ, tơi xốp, độ phì tăng, độ pH trung bình 5 - 6 tỉ lệ mùn cao, mức độ giây hoá trung bình. Đất nông nghiệp phù hợp với nhiều loại cây trồng và nếu đầu tư thâm canh sẽ có hiệu quả cao.
2. Điều kiện kinh tế - xã hội
2.1 Đơn vị hành chính
Xã Phương Tú có 6 đơn vị hành chính cấp thôn, gồm :
(1) Thôn Hậu Xá (2 ) Thôn Dương Khê
(3) Thôn Nguyễn Xã (4 ) Thôn Động Phí
(5) Thông Phí Trạch (6) Thông Ngọc Động
Mỗi thôn có một chức danh trưởng thôn có chia ra các đơn vị xóm theo khu vực dân cư. Hiện nay, mỗi thôn có một Hợp tác xã nông nghiệp. 100% các hộ gia đình nông dân tình nguyện tham gia HTXNN và đều là xã viên của HTXNN.
2.2 Dân số - lao động
Đến thời điểm 12/2000, toàn xã có 2499 hộ gia đình, 11.148 khẩu và 4995 lao động, trong đó lao động nữ là 2673 người ( chiếm 52,8%). Tỷ lệ tăng dân số hàng năm có giảm đến năm 2000 là 1,08% và lao động tăng 0,85.
Biểu 2 : Diễn biến lao động của xã Phương Tú trong 10 năm
( 1991 - 2000 )
Năm
Chỉ tiêu
ĐV
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Nhân khẩu
Người
9754
10118
10339
10521
10900
10999
11099
10978
11138
11258
T/Lệ tăng DS
%
3,51
3,73
2,18
1,76
3,60
0,91
0,91
-1,09
1,46
1,08
Lao động
Người
4562
4637
4980
4960
4914
4991
5049
5025
5039
5045
T/Lệ tăng LĐ
%
1,22
1,64
7,40
-0,40
-093
1,57
1,16
-0,48
0,28
0,01
Nguồn số liệu: Thống kê xã
Trong các thời điểm năm 1994, 1995 và 1997 có sự biến động về cơ học ( chuyển dân đi vùng KTM ) về dân số nên nhân khẩu và lao động đều giảm so với năm trước. Mật độ và mức tăng dân số và lao động ở các thôn trong xã cơ bản tương tự nhau.
Biểu 3 : Số liệu về dân số và lao động 12/2000 phân theo các thôn
Số TT
Thôn
Số hộ
( Hộ )
Số khẩu
( Người )
Tr. đó khẩu Nhà nước
( Người )
Tổng số LĐ
( Người )
1
Hậu Xá
467
2010
1980
860
2
Dương Khê
400
1613
1506
620
3
Nguyễn Xá
326
1446
1426
704
4
Động Phí
470
1997
1984
933
5
Phí Trạch
407
2058
2056
971
6
Ngọc Động
419
2024
2015
857
7
Khối cơ quan
10
110
0
100
Cộng
2499
11258
10967
5045
Nguồn số liệu: thống kê xã
Như vậy trong xã dân số của xã được phân bốtương đối đồng đềủ các thôn, ở các thôn số lao động cũng không chênh lệch nhau nhiều, đIũu này giúp cho xã có một bộ mặt kinh tế đồng đIũu giữa các thôn, các khu dân cư trong xã.
Biểu 4 : Cơ cấu sử dụng lao động trong các ngành kinh tế ở xã Phương Tú
Ngành kinh tế
1998
1999
2000
SLLĐ ( ng)
%
SLLĐ ( ng)
%
SLLĐ ( ng)
%
Nông nghiệp
4344
87,4
4343
87,1
4350
86,5
Tiểu thủ công nghiệp
369
7,4
373
7,5
402
8,0
Dịch vụ
106
2,1
123
2,5
119
2,4
Hành chính sự nghiệp
150
3,0
146
2,9
159
3,2
Tổng cộng
4969
100
4985
100
5030
100
Nguồn số liệu: Thống kê xã
Như vậy, thông qua biểu cơ cấu sử dụng lao động trên ta thấy được trong những năm qua nhìn chung lao động trong nông nghiệp của xã Phương Tú vẫn chiếm chủ yếu và tỷ lệ này tương đối cao trong vòng 3 năm tỷ lệ này tuy đã giảm nhưng rất ít chỉ giảm được 0,9%, điều này cho thấy phần lớn đại đa số bà con trong xã là chủ yếu sản xuất nông nghiệp cho nên vấn đề đặt ra ở đây là làm sao tạo được những điều kiện thuận lợi nhất cho nhân dân nơi đây tách ra khỏi đồng ruộng, tạo công ăn việc làm cho bà con nông dân. Bằng cách đẩy mạnh các ngành sản xuất khác như tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ để thu hút nguồn lao động nhàn rỗi khi mùa màng xong xuôi. Trong những năm qua về cơ cấu lao động của hai ngành này không có gì thay đổi, điều này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển chung của xã hội cũng như sự phát triển kinh tế của xã Phương Tú.
2.3 Tình hình sử dụng đất đai
Tổng diện tích tự nhiên của xã Phương Tú là 10,53 km2.Trong giai đoạn 10 năm ( 1991 - 2000 ) diện tích đất đai của toàn xã không có gì biến động đáng kể, cơ cấu các loại đất cũng thay đổi không nhiều. Đất nông nghiệp chiếm 73,8% diện tích tự nhiên. Trên địa bàn xã không có đất chuyên lâm nghiệp. Mặt nước ao hồ có khả năng nuôi trồng thuỷ sản là 22ha, bằng 2,1% diện tích. Đất thổ cư ổn định trong phạm vi trên dưới 5,4% diện tích. Đất chuyên dùng các loại( giao thông, thuỷ lợi, XDCB công cộng... ) chiếm tỷ trọng khá lớn ( 17,4%). Đất khác chỉ có 1,3%. Như vậy, ở Phương Tú không có khả năng tăng diện tích.
Biểu 5 : Cơ cấu loại đất của xã Phương Tú
ĐVT : ha
Số TT
Loại đất
Năm
1993
1998
1999
2000
DT
%
DT
%
DT
%
DT
%
Tổng diện tích đất TN
1053,4
100
1053,4
100
1053,4
100
1053,4
100
1
Đất nông nghiệp
788,8
74,88
778,8
73,94
777,2
73,80
774,0
73,47
2
Đất lâm nghiệp
0
0
0
0
0
0
0
0
3
Mặt nước
22,0
2,10
24,0
2,28
24,2
2,29
24,6
2,34
4
Đất thổ cư + vườn
56,8
5,39
58,4
5,55
58,0
5,51
58,0
5,51
5
Đất chuyên dùng
173,8
16,50
178,8
16,97
180,0
17,09
182,8
17,35
6
Đất khác
12,0
1,14
13,4
1,27
14,0
1,33
14,0
1,33
Nguồn số liệu: Thống kê xã
Như vậy diện tích gieo trồng ở Phương Tú không thể tăng bằng khai hoang mà chỉ có thể bằng các biện pháp thâm canh tăng vụ.
Đất sản xuất nông nghiệp của xã được chia ra như sau:
Biểu 6 : Cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp chia theo vụ sản xuất và chủ thể quản lý
ĐVT :ha
Thôn
Tổng DT đất NN
Chia theo
Số vụ SX/1 năm
Chia theo chủ thể quản lý sử dụng
2 vụ
3 vụ
Đất hộ quản lý
HTX quản lý
Đất được giao
Đất cấp sổ đỏ
Đất 5%
DT
%
DT
%
DT
%
DT
%
DT
%
DT
%
DT
%
Hậu Xá
107,379
14,34
53,379
12,11
54,000
17,53
103,860
15,52
97,715
15,26
6,145
21,22
3,519
4,42
Dương Khê
123,357
16,47
63,957
14,51
59,400
19,28
107,601
16,08
101,69
15
5,911
20,41
15,756
19,77
Nguyên Xá
105,197
13,39
74,237
16,84
30,960
10,05
93,816
14,02
89,820
88
3,996
13,18
11,381
14,28
Động Phí
128,340
17,14
81,828
18,56
46,512
15,10
121,390
18,14
115,98
14,03
5,404
18,66
6,950
8,2
Phí Trạch
143,144
19,12
72,968
16,55
70,176
27,78
125,076
18,96
119,29
18,22
5,780
19,95
18,068
22,67
Ngọc Động
138,577
18,51
91,577
20,77
47,0
18,40
117,443
17,55
115,71
18,63
1,728
5,6
21,134
26,52
UBND xã
2,880
0,003
2,880
0,6
0,0
0
0,0
0
0,0
18,07
0,0
0
2,880
3,61
Tổng
748,874
100
440,826
100
308,048
100
669,186
100
640,222
100
28,964
100
79,688
100
Nguồn số liệu : thống ke xã
Phương Tú trước đây vốn là vùng chiêm trũng, ngay trong các năm 1995 và 1996 bị mất mùa do mưa kéo dài gây ngập úng. Nhưng đến thời điểm hiện nay nhờ có hệ thống các công trình thuỷ lợi đã được Nhà nước hỗ trợ đầu tư xây dựng, đặc biệt là năm 2001 sẽ thi công thêm một trạm bơm tiêu nữa tại xã Liên Bạt thì về cơ bản đã đảm bảo chủ động tiêu úng bằng động lực, khắc phục được tình trạng ngập úng cục bộ khi mưa lớn kéo dài (trừ khi có quyết định của Chính phủ mở ống xả nước phân lũ ). Hệ thống các công trình thuỷ lợi này cũng đảm bảo khả năng chủ động tưới cho cây trồng nông nghiệp ở đây trong mọi thời vụ. Toàn bộ diện tích đều đang trồng nông nghiệp ở đây trong mọi thời vụ. Toàn bộ diện tích đều trồng cấy 2 - 3 vụ. Riêng diện tích ruộng 3 vụ chiếm 41,0% diện tích tính chung trong toàn xã những diện tích này chủ yếu là những chân ruộng cao .Trong đó tỷ lệ này cao nhất ở Hậu Xá là 50% sau đó là ở Phí Trạch 49%, Dương Khê là 48,0%, còn lại đều trong khoảng 29,0 - 36,0%. Diện tích ruộng giao cho hộ gia đình sản xuất theo số đo chiếm 89,3%, số còn lại do ban quản trị HTX và UBND xã tổ chức cho đấu thầu.
2.4 Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và kinh doanh
+ Giao thông : Đường tỉnh lộ số 75 đi xuyên dọc xã với chiều dài hơn 5km, qua địa phận của 5 trong 6 thôn trong xã ( trừ địa phận thôn Phí Trạch cách đường này 100m ). Trên cơ sở trục đường 75, xã Phương Tú đã phát triển một hệ thống giao thông nông thôn khá tốt. Hầu hết 38 km chiều dài các tuyến đường trong thôn đã được đổ bê tông hoặc lát gạch nghiêng, có hệ thống cống rãnh tiêu thoát nước hoàn chỉnh. Các trục đường chính từ đường 75 đến trung tâm thôn và ra khu đồng lớn đều có nền cứng, một số tuyến đã được rải cấp phối và thiết kế cho phép ô tô trọng tải 5 - 10 tấn đi lại được. Trên các đường nhánh ô tô loại nhỏ và xe công nông kéo máy tuốt, máy xát gạo có thể dễ dàng đi đến từng hộ gia đình. Hệ thống giao thông như vậy rất thuận lợi cho việc vận chuyển vật tư sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, tạo điều kiện cho việc đầu tư thâm canh nông nghiệp.
+ Thuỷ lợi : Trong những năm gần đây, địa bàn Phương Tú được hưởng lợi từ hệ thống các công trình thuỷ lợi tưới tiêu của cả vùng, bao gồm : kênh cấp I chủ lực là sông Nhuệ và sông Vân Đình. Các kênh tưới cấp II : I2 - VĐ7 và tiêu qua các kênh A2 - 8 và A2 - 10. Hiện tại trong đại bàn xã Phương Tú đang có 6 trạm bơm động lực, hoạt động phục vụ tưới tiêu : trạm bơm tưới Hậu Xá hai máy x 1000m3/h, trạm bơm tưới đầu kênh I2 - VĐ7 có hai máy x 2000m3/h, trạm bơm tưới Nguyên Xá có 1 máy x 1000m3/h, trạm bơm tiêu Động Phí có 2 máy x 1000m3/h, trạm bơm tiêu Phí Trạch bốn máy x 1000m3/h, và trạm bơm tưới tiêu hỗn hợp Ngọc Động công suất 3 máy x 2500m3/h. Trong đó riêng trạm Ngọc Động do công ty khai thác các công trình thuỷ lợi ứng Hoà quản lý, còn lại các trạm khác đều do các HTX NN trực tiếp quản lý và khai thác. Toàn xã vẫn còn khoảng 160 ha ruộng của các HTX Hậu Xá, Dương Khê, Nguyễn Xá và Động Phí chưa có khả năng chủ động tưới tiêu nước thì đầu năm 2001 đang thi công một trạm bơm tiêu ở ven kênh A2 - 8. Hệ thống kênh tưới cấp III xuống nội đồng của các HTX NN dài hơn 18 km đang hoạt động tốt. Hiện nay các HTX đã thực hiện kiên cố hoá bằng mặt bê tông được 5.277 m ( bằng 29% ). Như vậy, đến nay 100% diện tích ruộng canh tác của Phương Tú đã được đảm bảo tưới tiêu chủ động. Tuy nhiên, do địa hình không bằng phẳng, đồng ruộng vẫn còn chia thành nhiều mảnh manh mún nên trong thực tế các diện tích thấp trũng không hoàn toàn thực hiện việc tưới tiêu theo khoa học được. Năng suất hai vụ lúa và hiệu quả đầu tư thâm canh lúa ở các diện tích thấp trũng này còn bị hạn chế so với các diện tích ruộng cao.
+ Các cơ sở hạ tầng khác phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt : Hệ thống điện lưới khá hoàn thiện đến mọi cụm dân cư và địa bàn sản xuất. Toàn xã hiện có 10 trạm hạ thế, nhưng do nhu cầu tiêu thụ điện phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất ngày càng tăng thêm công suất và lắp thêm trạm mới để tránh tình trạng quá tải dễ gây sự cố.
+ Trạm y tế : Để chăm lo sức khoẻ cho ngươì dân có các trạm y tế thông sơ cứu và cấp thuốc thông thường. Trạm y tế có y sĩ khám, điều trị bệnh và tổ chức đôn đốc công tác vệ sinh phòng bệnh, kế hoạch hoá gia đình tại địa phương.
+ Trường học : Các thôn đều tổ chức nhà trẻ. Mỗi thôn có trường tiểu học dành cho các cháu từ mẫu giáo đến lớp 3. Toàn xã có một trường cấp I ( lớp 4 - 5 ) và một trường cấp II đặt tại trung tâm xã. 99% trẻ em trong độ tuổi được đến trường học. Xã Phương Tú đã hoàn thành phổ cập giao dục trung học cơ sở. Học sinh đi học trung học phổ thông ( cấp III ) phải đến trường tại thị trấn Vân Đình cách xã 3 km. Trong các trường học đều có khu sân chơi thể thao cho thiếu niên, học sinh rèn luyện sức khỏe.
+ Hệ thống loa truyền thanh : Hệ thống loa truyền thanh được nối thông từ UBND xã đến trụ sở các HTX NN và đến các loa công cộng đặt tại các khu dân cư. Hệ thống loa này dùng để phát thanh thời sự, thông báo các tin tức hoạt động và các chủ trương chỉ đạo của xã, thôn và HTX, bộ phận khuyến nông hướng dẫn thời vụ và các biện pháp kỹ thuật nông nghiệp đến mọi người dân.
+ Điện thoại : UBND xã và các trụ sở HTX NN đều có máy điện thoại cố định để có liên hệ ở địa phương, trong nước và quốc tế.
+ Chợ nông thôn : Phương Tú có một chợ đặt tại trung tâm xã. Chợ họp cả ngày, rất thuận tiện cho việc mua bán, trao đổi các vật tư, nông sản hàng hoá.
+ Bến xe : Đường tỉnh lộ 75 đi qua trung tâm xã. Tại trung tâm có điểm đỗ xe khách và thường xuyên có nhiều tuyến xe khách, xe vận tải qua lại nối liền xã tới huyện lỵ đi Hà Đông, Hà Nội và cả với tuyến đường quốc lộ số I đi Bắc - Nam.
+ Khu dân cư : Toàn xã có 8 khu dân cư ( trong đó có 6 khu dân cư cũ và hai xóm mới thuộc 2 thôn Nguyễn Xá và Ngọc Động ), 1 khu trung tâm xã nằm trên đất thuộc 2 thôn Nguyễn Xá và Dương Khê. Trong mỗi điểm dân cư đều có khu vực trung tâm thôn, đây là nơi đặt trụ sở thôn và HTXNN, nhà trẻ, trường học, trạm y tế, các quầy bán lẻ hàng hoá vật tư....
Tóm lại : Xã phương Tú là một xã điển hình của vùng thôn thôn đồng bằng sông Hồng đầu tư xây dựng cở sở hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân khá tốt. Các yếu tố này không chỉ tạo điều kiện thúc đẩy thâm canh sản xuất và cải thiện đời sống của người dân trong hiện đại mà còn là tiền đề thuận lợi cho qua trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
2.5 Kết quả sản xuất nông nghiệp qua một số năm
Trong những năm qua nhờ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật nhờ kinh nghiệm sản xuất nên năng suất và sản lượng của một số cây trồng vật nuôi chính ở xã Phương Tú không ngừng tăng lên đem lại cho đời sống cho bà con nông dân ngày một tăng lên.
Biểu 7 : Diện tích, năng suất và sản lượng cây trồng con nuôi trong SXNN
TT Cây trồng
ĐVT
1995
1996
1997
1998
1999
2000
1
Lúa
D/ tích
Ha
707,5
718
699,8
707,4
716,3
720,8
N/Suất
Tạ/ha
87,38
76,83
81,76
97,1
100,3
100,7
S/Lượng
Tấn
6182
5516
5722
68,69
7184
7258
2
Ngô
D/ tích
Ha
153
164
132,5
140,4
187,2
252
N/Suất
Tạ/ha
37
24,7
29,2
29,2
30,6
33,2
S/Lượng
Tấn
566,1
405,1
386,9
410,0
572,8
836,6
3
K/Lang
D/ tích
Ha
43,2
48,5
34,2
19,8
40,7
29,2
N/Suất
Tạ/ha
97
88,9
76,6
92,2
106,8
107,5
S/Lượng
Tấn
419,0
431,2
262,0
182,6
434,7
313,9
4
K/tây
D/ tích
Ha
10,8
47,3
18,7
45,4
37,8
29,3
N/Suất
Tạ/ha
125
119,4
125
123,7
123,4
138
S/Lượng
Tấn
135,0
564,8
233,8
561,6
466,5
404,3
5
Lạc
D/ tích
Ha
2,2
2,2
2,2
2,2
1,4
0
N/Suất
Tạ/ha
15,2
8,3
8,3
11,1
11,1
0
S/Lượng
Tấn
3,3
1,8
1,8
2,4
1,6
0
6
Đ/tương
D/ tích
Ha
86,4
11,5
21,9
45,7
56,9
48,6
N/Suất
Tạ/ha
11,1
13,7
7,4
9,7
11,3
12,5
S/Lượng
Tấn
959
15,8
16,2
44,3
64,3
60,8
7
Lợn
S/Lượng
Con
4404
6850
6669
7288
6552
8570
Thịt hơi
Tấn
308
445
433,5
473,7
425,9
552,8
8
Trâu
S/Lượng
Con
158
130
128
134
98
105
9
Bò
S/Lượng
Con
992
868
661
653
543
600
10
Gà
S/Lượng
Con
30656
28600
18030
36131
52100
66500
11
Vịt
S/Lượng
Con
23860
31000
23620
30500
37000
46000
S/Lượng gia cầm
Tấn
81,6
80,1
61,2
93,3
124,7
167,5
Trứng
Quả
651
598
963
645
686
1260
12
Nuôi thả cá
Ha
22,0
22,0
22,0
22,0
22,0
22,0
13
S/Lượng cá thịt
Tấn
40
36
45
61
70
80
Nằm trong vùng đồng bằng Sông Hồng, Phương Tú là một xã kinh tế hiện tại vẫn là thuần nông. Các cây trồng chủ yếu trong nông nghiệp là cây lúa, ngô đông, khoai tây, khoai lang, lạc, đậu tương và rau đậu các loại. Chăn nuôi các con gia súc thông thường như trâu, bò, lợn, gia cầm các loại. Diện tích và năng suất các cây trồng, con nuôi ở Phương Tú thể hiện trong biểu 7.
Từ năm 1995 đến năm 2000, diện tích cây lúa tương đối ổn định, có tăng một ít ( 20ha ) nhưng năng suất tăng lên rất nhiều.Trong 6 năm (từ năm 1995 đến 2000 ) năng suất lúa tăng thêm 13 tạ/ha, bình quân tăng 2,15 tạ/ ha/năm. Cây ngô ( chủ yếu là ngô đông ) diện tích tăng gần gấp đôi, nhưng năng suất lại không tăng. Khoai tây cả diện tích và năng suất tăng nhưng số lượng không đáng kể. Các cây khoai lang, lạc, đậu tương... năng suất giao động không nhiều, diện tích lại có xu thế giảm qua các năm. Trong chăn nuôi, số lượng đàn lợn tăng khá nhanh, năm 2000 số đầu con gần gấp hai lần năm 1995, sản lượng thịt hơi tăng 80%. Đàn trâu, bò đều giảm số đầu con vì trước đây nuôi trâu bò chủ yếu để cày kéo, nay khâu làm đất chủ yếu bằng cơ giới.
Trong nông nghiệp thì trồng trọt vẫn là nguồn thu lớn nhất và chủ yếu vẫn là từ sản xuất hai vụ lúa. Bằng sử dụng giống mới và áp dụng các biện pháp thâm canh nên năng suất và sản lượng lúa tăng liên tục qua các năm. Sản lượng lương thực tăng chủ yếu là tăng sản lượng thóc. Năm 1996 bị thiên tai mưa bão gây úng cục bộ làm mất mùa, toàn xã chỉ thu hoạch được 5.516 tấn thóc và 699 tấn màu quy thóc. Năm 1997 sản lượng thóc tăng 205 tấn, sản lượng màu quy thóc lại giảm 25 tấn. Từ năm 1998 sản lượng lương thực tăng nhanh và ổn định. Năm 1998 sản lượng lương thực tăng 18,5%, riêng thóc tăng 20,0% so với năm 1997. Năm 1999 so với năm 1998 các chỉ số này là 10,5% và 9,8%. Cơ cấu giống lúa có sự thay đổi khá tích cực theo hướng tăng tỷ lệ diện tích cấy các giống lúa cao sản ( như Khang Dân, Q5, lúa lai...) giảm diện tích lúa giống cũ, nhưng lại tăng diện tích các giống lúa chất lượng tốt, có giá bán cao ( như nếp, tẻ thơm, Bắc thơm... )
Biểu 8 : Tổng thu và sản lượng lương thực qua các năm
TT
Hạng mục
ĐV
1995
1996
1997
1998
1999
2000
1
Tổng thu
Tr.đ
21379
19742
21883
28730
33463
37060
2
Tỉ lệ tăng hàng năm
%
--
-7,7
10,8
31,3
16,5
10,7
3
SL lương thực
Tấn
6649
6215
6195
7338
8112
8671
4
Tỉ lệ tăng năm trước
%
--
-6,5
-0,3
18,5
10,5
6,9
5
Sản lượng thóc
Tấn
6185
5516
5721
6868
7540
7727
6
Tỉ lệ tăng hàng năm
%
--
-10,8
3,7
20,0
9,8
2,5
Nguồn số liệu:Thống kê xã.
Cơ cấu giống con nuôi chưa có chuyển biến nhiều. Con lợn hướng nạc, bò lai sind đã được đưa vào nuôi thử nghiệm nhưng chưa được áp dụng trong diện rộng.
Mức độ cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp: trên 80% diện tích ruộng của Phương Tú được làm đất bằng máy kéo trong cả 3 vụ chiêm, mùa và vụ đông. Việc làm đất do các tổ máy kéo của HTX NN đảm nhiệm nên việc điều phối thời gian và chất lượng đều đảm bảo. Diệt cỏ bằng cách phun thuốc diệt cỏ. Như vậy, trong 1 quy trình sản xuất lúa hiện nay chỉ sử dụng lao động chân tay trong các khâu cấy, xới xáo sục bùn, phun thuốc BCTV và cắt lúa. Tính ra trên 1 sào Bắc bộ cấy lúa hiện nay chỉ cần 5 - 6 công lao động chân tay. Vụ tới, một số hộ đầu tư máy gặt nữa thì số công lao động sử dụng sẽ có khả năng còn ít hơn.
Ngoài ra sản xuất nông nghiệp ra, một số hộ nông dân trong xã Phương Tú cũng có thêm một số nghề theo tính chất truyền thống, cụ thể như :
+ Các thôn Ngọc Động, Dương Khê có nghề nuôi cá ao, cá ruộng với tay nghề khá cao. Trong giai đoạn kinh tế tập thể tập trung các khu ruộng trũng ở các thôn này đều được tổ chức nuôi cá ruộng đạt kết quả khá cao. Ngày nay, khi giao khoán ruộng cho hộ tự chủ sản xuất thì ngay các khu ruộng trũng cũng phải chia thành nhiều mảnh nhỏ, không thể tổ chức nuôi cá ruộng kết hợp với lúa được. Do vậy, ngoài việc thu xếp sản xuất nông nghiệp tại hộ gia đình, có khá nhiều lao động nuôi cá lành nghề ở Ngọc Động đã ra đến Hà Nội, Hà Đông để nhận thầu nuôi cá trong các hồ lớn để thu lợi nhuận.
+ Thôn Phí Trạch lại thiên về phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp tranh thủ lúc nông nhàn. Hiện nay toàn thôn có đến 50 hộ trên tổng số 419 hộ ( 12,0% ) có tổ chức làm nghề đan lát mây tre đan xuất khẩu, thu hút hơn 370 lao động trẻ, tạo công ăn việc làm, giảm tệ nạn xã hội.
+ ở các thôn đều có một số hộ kết hợp làm nông nghiệp với hoạt động dịch vụ. Trong đó các thôn Hậu Xá, Nguyên Xá, Đông Phí, Dương Khê có nhiều hộ làm công việc buôn bán các hàng hoá tiêu dùng, vật tư nông nghiệp, cơ khí sửa chữa... Doanh thu của các ngành nghề này ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong giá trị sản xuất của địa phương. Cơ cấu sử dụng lao động cũng bắt đầu có chuyển dịch theo hướng tích cực là giảm lao động nông nghiệp, tăng lao động TTCN và dịch vụ, tuy chưa đáng kể.
Biểu 9 : Cơ cấu giá trị sản xuất của các ngành kinh tế của xã Phương Tú
Ngành kinh tế
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Nông nghiệp
86,72
82,56
80,62
78,72
75,70
70,25
CN & XD
7,57
9,48
10,05
12,29
15,00
18,27
Dịch vụ
5,71
7,96
9,33
8,99
9,30
11,48
Tổng cộng
100
100
100
100
100
100
Nguồn số liệu: thống kê xã
2.6 Thu nhập và mức sống của nông dân
Theo Thống kê cũng như kết quả khảo sát cho thấy 90% số hộ sống bằng sản xuất nông nghiệp là chính. Đất thổ cư của mỗi hộ bình quân chỉ có từ 100 - 250m2, nhìn chung đại bộ phận các hộ đều đã xây dựng được nhà cấp 4 mái ngói hoặc mái bằng, tương đối kiên cố. Các hộ đều có sân phơi khá rộng, có giếng khoan lấy nước sinh hoạt. Giá trị sản lượng thu được tính bình quân 1 nhân khẩu hàng năm đều có tăng nhưng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội. Đặc biệt, mức lương thực bình quân nhân khẩu của Phương Tú khá cao, năm 2000 đạt 764 kg/người, năm 1996 bị thiên tai mất mùa vẫn đạt 565kg/ người.
Như vậy, Phương Tú luôn có khả năng đảm bảo an ninh lương thực và có nguôn nông sản hàng hoá chủ yếu là thóc gaọ. Khối lượng lương thực hàng hoá chiếm 2/3 sản lượng thóc gạo sản xuất hàng năm. Nhưng vì giá lương thực hiện nay quá thấp, gần bằng hoặc ngang so với giá thành sản xuất nên hiệu quả kinh tế không cao, mức thu cao nhất là năm 2000 đạt 3,254 triệu đồng/ người, nếu tính bình quân cả các khoản chi phí trung gian vào khoảng 30% ( Phương Tú chưa thống kê riêng các khoản chi phí trung gian như mua gióng, phân vô cơ , thuốc BVTV, thuỷ lơi phí, xăng dầu, điện, thức ăn công nghiệp cho gia súc, vật liệu khác... ) thì thu nhập bình quân mới đạt 2,27 triệu đồng, quy ra với tỷ giá USD bình quân lúc đầu năm 2000 là 14.000 VNĐ/USD thì cũng mới chỉ đạt 182,9 USD / người/ năm.
Biểu 10 : Giá trị sản lượng lương thực bình quân qua các năm
TT
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
1
GTSL/BQ 1 nhân khẩu
1000đ
1936
1795
1998,5
2544,4
3022,6
3254,0
2
Tỉ lệ TH so KH đề ra
%
95,0
77,3
107,4
107,4
107,4
103,7
3
Lương thực/ người
Kg
610
565
563
658
728
764
Nguần số liệu:Thống kê xã
Số hộ đã mua sắm được phương tiện nghe nhìn ( máy thu hình, máy thu thanh ) chiếm tỉ lệ trên dưới 50% tổng số hộ trong xã, sắm phương tiện đi loại cơ giới ( xe gắn máy, ô tô.... ) khoảng 15% số hộ. Nhìn chung mức sống của nông dân ngày càng được cải thiện, tuy nhiên so với yêu cầu đặt ra cho sự phát triển kinh tế xã hội và cải thiện mức sống nông thôn trong giai đoạn hiện nay thì vẫn chưa đáp ứng được.
II. Thực trạng cơ cấu cây trồng vật nuôi ở xã Phương Tú
1. Cơ cấu cây trồng theo nhóm cây
Sản xuất trồng trọt của xã Phương Tú trong nhiều năm qua thì chủ yếu tập trung sản xuất cây lương thực mặc dù năng suất cây trồng tăng cao nhưng hiệu quả kinh tế chưa được tối ưu thu nhập và mức sống chung của bà con nông dân thuần nông còn thấp. Trong tổng số diện tích gieo trồng cây hàng năm thì cây lương thực vẫn chiếm tỷ trọng cao xét về xu thế thì tỷ trọng cây lương thực trong năm qua không có gì thay đổi. Điều này thể hiện đây là một xã thuần nông.
Biểu 11 : Diện tích và cơ cấu của các nhóm cây
Nhóm cây trồng
1995
1997
1998
2000
DT
(ha)
Tỷ trọng (%)
DT
Tỷ trọng (%)
DT
Tỷ trọng (%)
DT
Tỷ trọng (%)
1.Cây hàng năm
1003,1
100
887,5
100
915,2
100
10313
100
- Cây lương thực
903,7
90
866,5
91
867,6
94,8
1002
97
- Cây thực phẩm
10,8
9,8
18,8
88
45,4
5,0
29,3
3
- Cây CN ngắn ngày
2,2
0,2
2,2
0,2
2,2
0,2
0
0
2. Cây lâu năm
0
0
0
0
0
0
0
0
Cây ăn quả
0
0
0
0
0
0
0
0
Nguồn số liệu: Thống kê xã
Đối với cây lương thực qua bảng biểu trên thì ta thấy về diện tích có biến đổi tăng lên cả tuyệt đối lẫn tương đối, điều này thể hiện sự tăng về số lượng đến qua các năm 95, 97, 98, 2000 là 90% đ97,6% đ 94,8% đ 97% cây lương thực ở đây chủ yếu bao gồm phần nhiều là lúa còn lại là ngô và khoai lang chủ yếu phục vụ nhu cầu sinh hoạt của nhân dân trong vùng.
Đối với diện tích cây thực phẩm nhìn chung những năm qua đã thay đổi đáng kể nhất là những năm 97, 98 diện tích tăng lên từ 10,2ha năm 1995 tăng lên 18,8ha năm 1997 lên 45,4 ha năm 1998 và 19,8 ha năm 2000 như vậy có thể nói diện tích cây lương thực những năm qua đã tăng theo chiều hướng tích cực. Cây thực phẩm ở đây chủ yếu là bí xanh, rau các loại đáp ứng nhu cầu tiêu dùng phục vụ cuộc sống của bà con trong vùng, một phần được bà con đem ra thị trấn Vân Đình để tiêu thụ để tăng thêm nhu nhập. Mặc dù vậy nhưng do nhu cầu lương thực trong bữa ăn vẫn còn lớn nên diện tích này vẫn tiếp còn đang chậm và có dấu hiệu giảm khi tiến hành sản xuất giống lúa thiên về chất lượng thì năng suất lúa sẽ giảm và diện tích trồng cây thực phẩm này giảm.
Đối với diện tích cây công nghiệp ngắn ngày thì xã Phương Tú chủ yếu là trồng trọt lại với diện tích khá nhỏ chỉ có 2,2 ha trong năm qua điều này nó thể hiện đây là vùng trũng nên chỉ có thể gieo trồng lúa mà phát triển cây công nghiệp ngắn ngày là rất khó do điều kiện đất đai không cho phép, năng suất của cây lúa thấp nên trong năm 2000 thì toàn xã đã bỏ dần diện tích cây công nghiệp ngắn ngày hay là cây lạc để chuyển sang sản xuất cây lương thực khác.
Đối với cây ăn quả và cây lâu năm thì toàn xã nhìn chung là không phát triển diện tích dùng để trồng cây ăn quả hầu như không có lý do này là do diện tích vường của hộ nông dân rất hạn chế, diện tích thổ cư bình quân mỗi hộ chỉ đạt 100 - 250 m2 điều này làm cho hệ thống cây ăn quả và cây lâu năm ở xã phát triển rất kém.
Cơ cấu diện tích gieo trồng các nhóm cây chỉ mới phản ánh về mặt số lưọng và quy mô các nhóm cây trồng của xã. Song phát triển trồng trọt thì mục tiêu quan trọng của nhóm cây trồng phải đạt được những kết quả cụ thể và giá và sản lượ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29757.doc