Định hướng và các giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian tới

1 MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT, BẢNG, BIỂU ĐỒ LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1.................................................................................................................3 THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN - MỘT KÊNH DẪN QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI.....................................................3 1.1. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN - MỘT KÊNH DẪN QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI............................................3 1.1.1 TTCK: Khái ni

pdf75 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1359 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Định hướng và các giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệm, đặc điểm, các thành phần tham gia TTCK, nguyên tắc hoạt động của TTCK, cơ cấu, chức năng và vai trò của TTCK, xu thế phát triển trên TTCK thế giới .......................................................................................3 1.1.2 Lý thuyết về đầu tư: ...............................................................................8 - 1.1.3 Các hình thức thu hút vốn ĐTNN trên TTCK.....................................10 1.2. NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NĐTNN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TTCK VIỆT NAM .................................................................................................11 1.2.1. Những tác động tích cực: .....................................................................12 1.2.2. Những tác động tiêu cực: .....................................................................13 1.3. KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC VỀ SỰ THAM GIA CỦA CÁC NĐTNN VÀO TTCK TRONG NƯỚC: ................................................................15 1.3.1. Ban đầu cho phép NĐTNN sở hữu một tỷ lệ cổ phần thích hợp trong các công ty niêm yết sau đó nâng dần lên ..........................................................16 1.3.2. Phát hành một loại cổ phiếu riêng cho NĐTNN giao dịch..................18 1.3.3. Cho phép đầu tư 100% vốn vào tất cả các công ty trong mọi lĩnh vực, nhưng hạn chế đối với một số ngành nghề đặc biệt quan trọng .........................19 1.3.4. Xây dựng một “danh sách theo ngành nghề các công ty không có đầu tư nước ngoài” ....................................................................................................20 1.3.5. Ban hành một tỷ lệ mua chứng khoán ban đầu của các NĐTNN cho đợt phát hành IPO. ..............................................................................................20 CHƯƠNG 2...............................................................................................................22 TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM THÔNG QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TRONG THỜI GIAN QUA (7/2000-8/2006) ....................................................................................................................................22 2.1. TỔNG QUAN TTCK VIỆT NAM: ............................................................22 2.1.1. Hàng hóa trên thị trường chứng khoán ................................................22 2.1.2. Hoạt động của các công ty chứng khoán .............................................25 2.2. TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO TTCK VIỆT NAM.......................................................................................................................26 2.2.1. Cơ sở pháp lý cho hoạt động của NĐTNN trên TTCK Việt Nam ......26 2.2.2. Các giai đoạn thu hút vốn ĐTNN trên TTCK Việt Nam.....................27 2.2.3. Sự tham gia của các tổ chức đầu tư nước ngoài vào TTCK ................41 2.2.4. Phân tích những tác động của giao dịch của NĐTNN đến TTCK Việt Nam.....................................................................................................................44 Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 2 2.3. NHỮNG YẾU TỐ CẢN TRỞ NĐTNN THAM GIA VÀO TTCK VIỆT NAM 45 2.3.1. Quy mô của TTCK Việt Nam còn nhỏ bé, chất lượng hàng hóa chưa cao 45 2.3.2. TTCK Việt Nam chưa hình thành các tổ chức định mức tín nhiệm....46 2.3.3. Hệ thống thông tin trên TTCK chưa được quan tâm đầy đủ ...............46 2.3.4. Hệ thống các văn bản pháp luật còn bất cập và chưa chặt chẽ, năng lực hoạch định chính sách còn yếu ...........................................................................47 2.3.5. Các thủ tục dành riêng cho các NĐTNN còn rườm rà và không mang tính khuyến khích. ..............................................................................................48 2.4. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ KHẢO SÁT SỰ ĐÁNH GIÁ VÀ QUAN ĐIỂM CỦA CÁC NĐTNN VỀ TTCK VIỆT NAM .........................................................50 2.4.1. Quy mô và cơ cấu đầu tư chứng khoán của các NĐTNN: ..................51 2.4.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định giao dịch của NĐTNN ............52 2.4.3. Tiêu chí đầu tư của các NĐTNN .........................................................54 2.4.4. Các trở ngại chính đối với việc đầu tư của NĐTNN vào TTCK Việt Nam 54 2.4.5. Thủ tục hành chính đối với NĐTNN ...................................................56 2.4.6. Về thông tin trên TTCK.......................................................................56 2.4.7. Về dịch vụ của các công ty chứng khoán ............................................57 CHƯƠNG 3...............................................................................................................58 ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO TTCK VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI ...........................................58 3.1. Chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010: ..............................58 3.1.1. Mục tiêu: ..............................................................................................58 3.1.2. Quan điểm và nguyên tắc phát triển TTCK.........................................58 3.1.3. Định hướng phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010: .....................59 3.2. Các giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào TTCK ...........................60 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về thị trường chứng khoán ....60 3.2.3. Khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần và niêm yết trên TTCK...................................................63 3.2.4. Khuyến khích doanh nghiệp niêm yết và phát hành chứng khoán ......65 3.2.5. Thực hiện việc giới thiệu, quảng bá Việt Nam và TTCK Việt Nam với các NĐTNN ........................................................................................................68 3.2.6. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với NĐTNN.....................................70 3.2.7. Đa dạng hóa thông tin và tạo chiều sâu về thông tin TTCK................70 3.2.8. Mở rộng phạm vi và nâng cao chất lượng hoạt động các công ty chứng khoán 71 3.2.9. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và đào tạo về chứng khoán: ............73 KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 3 CHƯƠNG 1: THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN - MỘT KÊNH DẪN QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI 1.1. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN - MỘT KÊNH DẪN QUAN TRỌNG ĐỐI VỚI THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI 1.1.1 TTCK: Khái niệm, đặc điểm, các thành phần tham gia TTCK, nguyên tắc hoạt động của TTCK, cơ cấu, chức năng và vai trò của TTCK, xu thế phát triển trên TTCK thế giới 1.1.1.1. Khái niệm về TTCK: TTCK là thuật ngữ dùng để chỉ cơ chế của hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán dài hạn như các loại cổ phiếu, trái phiếu và các công cụ tài chính khác như chứng chỉ quỹ đầu tư, công cụ phái sinh – hợp đồng tương lai, quyền chọn… 1.1.1.2. Đặc điểm của TTCK TTCK là thị trường vốn dài hạn, tập trung các nguồn vốn cho đầu tư và phát triển kinh tế, do đó có tác động rất lớn đến môi trường đầu tư nói riêng và nền kinh tế nói chung. Mặt khác, TTCK là một thị trường cao cấp, nơi tập trung nhiều đối tượng tham gia với các mục đích, sự hiểu biết và lợi ích khác nhau; các giao dịch các sản phẩm tài chính được thực hiện với giá trị rất lớn. Đặc tính đó khiến cho TTCK cũng là môi trường dễ xảy ra các hoạt động kiếm lợi không chính đáng thông qua các hoạt động gian lận, không công bằng, gây ra tổn thất cho các nhà đầu tư, tổn thất cho thị trường và cho toàn bộ nền kinh tế. Xuất phát từ vai trò quan trọng cũng như tính chất phức tạp của TTCK, việc điều hành và giám sát thị trường là vô cùng cần thiết để đảm bảo được tính hiệu quả, công bằng, lành mạnh trong hoạt động của thị trường, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các nhà đầu tư, dung hòa lợi ích của tất cả những người tham gia thị trường, tận dụng và duy trì được các nguồn vốn để phát triển kinh tế. Mỗi thị trường có cơ chế điều hành và giám sát thị trường riêng phù hợp với tính chất và đặc điểm của riêng nó. 1.1.1.3. Các thành phần tham gia trên TTCK: Các tổ chức và cá nhân tham gia TTCK có thể được chia thành 3 nhóm sau: Nhà phát hành Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 4 Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK. Nhà phát hành là người cung cấp chứng khoán – hàng hóa của TTCK. - Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu địa phương. - Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty. - Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng… phục vụ cho hoạt động của họ. Nhà đầu tư Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK. Nhà đầu tư có thể chia thành 2 loại: Nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư tổ chức. - Nhà đầu tư cá nhân: Là những người có vốn tạm thời nhàn rỗi, tham gia mua bán trên TTCK với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. - Nhà đầu tư tổ chức: hay còn gọi là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các tổ chức này thường có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Các nhà đầu tư chuyên nghiệp trên TTCK bao gồm các quỹ đầu tư, các ngân hàng, công ty tài chính, công ty chứng khoán, v.v. Nhà môi giới – Công ty chứng khoán Công ty chứng khoán là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành, môi giới, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán. 1.1.1.4. Nguyên tắc hoạt động của TTCK: Nguyên tắc cạnh tranh: Theo nguyên tắc này, giá cả trên TTCK phản ánh quan hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các nhà phát hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán theo mục tiêu của mình. Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 5 Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất, và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá. Nguyên tắc công bằng: Nguyên tắc này đảm bảo lợi ích cho tất cả những người tham gia thị trường. Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những quy định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm vào những quy định đó. Nguyên tắc công khai: Chứng khoán là các hàng hóa trừu tượng, người đầu tư không thể kiểm tra trực tiếp được các chứng khoán như các hàng hóa thông thường mà phải dựa trên cơ sở các thông tin có liên quan. Vì vậy TTCK phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Theo luật định, các bên phát hành chứng khoán có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, trung thực và kịp thời những thông tin có liên quan tới tổ chức phát hành, tới đợt phát hành. Công bố thông tin được tiến hành khi phát hành lần đầu cũng như theo các chế độ thường xuyên và đột xuất, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Sở Giao dịch Chứng khoán, các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên quan khác. Nguyên tắc này nhằm bảo vệ người đầu tư, song đồng thời nó cũng hàm ý rằng, một khi đã được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời và chính xác thì người đầu tư phải chịu trách nhiệm về các quyết định đầu tư của mình. Nguyên tắc trung gian: Theo nguyên tắc này, trên TTCK, các giao dịch được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư thường không mua trực tiếp của các nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh chứng khoán, các công ty chứng khoán mua bán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình. Nguyên tắc tập trung: Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 6 TTTCK phải hoạt động trên nguyên tắc tập trung. Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên Sở Giao dịch Chứng khoán và trên thị trường OTC, có sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước và các tổ chức tự quản. Các chứng khoán, hàng hóa của TTCK là các sản phẩm tài chính cao cấp nên việc giao dịch chúng đòi hỏi thị trường phải có những cơ sở vật chất nhất định chứ không thể diễn ra một cách tùy tiện. 1.1.1.5. Chức năng, vai trò của TTCK: Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi được họ đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của công ty, TTCK đã có những tác động quan trọng đối sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thông qua TTCK, chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn cho loại hàng hóa phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. Chính vì vậy, TTCK góp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc gia. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán Nhờ có TTCK mà các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khóan mà họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản (khả năng chuyển đổi thành tiền mặt) là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là một yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường. Đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 7 Thông qua giá chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra được môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô Các chỉ báo của TTCK phản ảnh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; và ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế TTCK được coi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế. 1.1.1.6. Phân loại TTCK: Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn: Căn cứ vào sự luân chuyển của các nguồn vốn thì TTCK được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. (i) Thị trường sơ cấp: Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành. Thị trường sơ cấp còn được gọi là thị trường cấp một hay thị trường cạnh tranh. (ii) Thị trường thứ cấp: Thị trường là nơi giao dịch các chứng khoán đã đươc phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành. Căn cứ vào tính chất tập trung của thị trường Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 8 Căn cứ vào tính chất tập trung của thị trường, TTCK được chia thành thị trường tập trung và thị trường phi tập trung. Tính chất tập trung ở đây là muốn nói đến việc các giao dịch được tổ chức tập trung tại một địa điểm vật chất nào đó. - Thị trường tập trung: là các Sở giao dịch chứng khoán hoặc Trung tâm Giao dịch chứng khoán. Tại đây các giao dịch được tập trung tại một địa điểm, các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép lệnh để hình thành nên phiên giao dịch chứng khoán. Chỉ có các loại chứng khoán đủ tiêu chuẩn niêm yết mới được giao dịch tại đây. - Thị trường phi tập trung (hay còn gọi là thị trường OTC – Over The Counter): là một thị trường có tổ chức, dành cho những chứng khoán không niêm yết trên thị trường tập trung. Thị trường OTC không có địa điểm giao dịch chính thức, thay vào đó các nhà môi giới kết nối các giao dịch qua mạng máy tính diện rộng giữa các công ty chứng khoán và trung tâm quản lý hệ thống. 1.1.2 Lý thuyết về đầu tư: Đầu tư chính là sự hi sinh giá trị chắc chắn ở thời điểm hiện tại để đổi lấy giá trị trong tương lai (khả năng không chắc chắn). Đầu tư có thể được tài trợ từ nguồn vốn trong nước gọi là đầu tư trong nước hoặc nguồn vốn đầu tư nước ngoài gọi là đầu tư nước ngoài (ĐTNN). ĐTNN là hình thức di chuyển vốn từ nước này sang nước khác để thực hiện dự án nào đó nhằm mục đích sinh lợi. Vốn đó có thể là vốn của một tổ chức tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB,... hoặc là vốn của một chính phủ viện trợ phát triển chính thức (ODA); vốn của các tổ chức phi chính phủ (NGO); vốn đầu tư tư nhân (FDI và FII). Vốn ĐTNN tồn tại ở nhiều dạng khác nhau và được đưa vào nước sở tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Có thể căn cứ vào nhiều tiêu thức để phân loại ĐTNN tuỳ theo mục đích nghiên cứu. Trong phạm vi đề tài, chúng tôi chỉ phân loại ĐTNN theo tiêu thức tính chất tham gia điều hành dự án, bao gồm: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, trong đó đi sâu nghiên cứu về đầu tư gián tiếp. (i) Đầu tư trực tiếp (Foreign Direct Investment – FDI): Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 9 Theo Luật Đầu tư do Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 thì đầu tư trực tiếp là “hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư”. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp: - Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, tự quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lãi lỗ. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế. - Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tùy theo tỷ lệ góp vốn của mình. Đối với nhiều khu vực, chủ đầu tư chỉ được thành lập 100% vốn nước ngoài trong một số lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia liên doanh với số cổ phần của bên nước ngoài nhỏ hơn hoặc bằng 49%; 51% cổ phần còn lại do nước chủ nhà nắm giữ. - Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghiệp, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý…là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được. - Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định và trong quá trình hoạt động, nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được. (ii) Đầu tư gián tiếp (Foreign Indirect Investment –FII): Luật Đầu tư được Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 định nghĩa về đầu tư gián tiếp như sau: “ Ðầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư”. Đầu tư gián tiếp nước ngoài có những đặc điểm sau: Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 10 - Phạm vi đầu tư có giới hạn vì các chủ đầu tư nước ngoài chỉ quyết định mua cổ phần của những doanh nghiệp làm ăn có lãi hoặc có triển vọng phát triển trong tương lai. - Số lượng cổ phần mà các nhà đầu tư nước ngoài được mua bị khống chế ở mức độ nhất định tùy theo quy định của từng quốc gia. - Chủ đầu tư nước ngoài không tham gia điều hành hoạt động doanh nghiệp, do đó bên tiếp nhận đầu tư có quyền chủ động hoàn toàn trong kinh doanh. - Tuy doanh nghiệp đầu tư không có khả năng, cơ hội tiếp thu công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý nhưng thay vào đó, doanh nghiệp có khả năng phân tán rủi ro kinh doanh trong những người mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp. 1.1.3 Các hình thức thu hút vốn ĐTNN trên TTCK 1.1.3.1. Phát hành chứng khoán trên TTCK trong nước: Do tính chất chuyên môn hóa trong mua bán các loại chứng khoán, TTCK được xem như là cơ sở hạ tầng tài chính để huy động các nguồn vốn đầu tư của các tổ chức và cá nhân nước ngoài, tạo nên nguồn vốn đầu tư trung và dài hạn cho nền kinh tế. Trong vòng những năm gần đây, đầu tư vốn quốc tế đã không còn tập trung xung quanh các công cụ truyền thống thông qua hệ thống tài chính trung gian nữa. Thay vào đó, đầu tư vào TTCK đã chiếm tới 80% chu chuyển vốn trên thị trường tài chính quốc tế, ĐTNN vào các nước đang phát triển thông qua TTCK đang tăng lên mạnh mẽ. Hiện nay, trên thế giới có hai xu hướng chủ yếu trong việc mở cửa cho các NĐTNN tham gia vào TTCK trong nước, đó là: Xu hướng thứ nhất, thu hút nhiều vốn đầu tư từ khắp nơi trên thế giới bằng cách cho phép nhà đầu tư được hoạt động kinh doanh chứng khoán mà không có bất cứ hạn chế nào nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Ở những nước này người nước ngoài có thể tự do mua bán cổ phiếu và nắm giữ 100% cổ phiếu của các công ty niêm yết. Luật pháp chứng khoán cũng không phân biệt người cư trú hay người không cư trú, không yêu cầu dự trữ và không kiểm soát ngoại hối. Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 11 Xu hướng thứ hai, thu hút có kiểm soát luồng vốn đầu tư nước ngoài. Đây là xu hướng phổ biến ở các nước đang phát triển ở châu Á. Lo ngại nền kinh tế có khả năng bị chi phối bởi các luồng vốn mạnh, ồ ạt của các NĐTNN chuyên nghiệp, luật pháp chứng khoán các nước này chỉ cho phép NĐTNN hoạt động hạn chế trên TTCK bằng cách hạn chế tỷ lệ sở hữu cổ phần trong các các công ty niêm yết và các công ty chưa niêm yết. Ngoài ra, giao dịch chứng khoán đối với NĐTNN còn bị ràng buộc bởi các quy định về nơi cư trú, luật ngân hàng và thủ tục mở tài khoản tại các công ty chứng khoán. 1.1.3.2. Phát hành chứng khoán trên thị trường tài chính quốc tế: Ưu điểm của phương thức này là huy động vốn trực tiếp, không phải thông qua các tổ chức tài chính trung gian nên chi phí sử dụng vốn thấp hơn các khoản vay tín dụng. Người đi vay có thể là doanh nghiệp hoặc chính phủ. Tuy vậy, việc tìm kiếm vốn trên thị trường tài chính quốc tế vẫn có nhiều khó khăn và thử thách, đặc biệt là các tiêu chuẩn tín nhiệm của chứng khoán để được chấp nhận giao dịch tại các thị trường tài chính quốc tế. Chứng khoán của các doanh nghiệp thường khó đạt được các tiêu chuẩn tín nhiệm nên các loại chứng khoán lưu hành trên thị trường tài chính quốc tế phổ biến là trái phiếu chính phủ. Ngoài ra, việc phát hành trái phiếu quốc tế cũng có những hạn chế nhất định. Một mặt, phải tuân thủ các thông lệ quốc tế, những thủ tục này rất phức tạp, đòi hỏi phải có những bước chuẩn bị kỹ càng; mặt khác, vấn đề có tính chất bất khả kháng là khi đến hạn nhà phát hành không được trì hoãn việc thanh toán nợ. Do đó, khi vay nợ, người đi vay phải xây dựng phương án đầu tư có khả năng sinh lời, đủ sức chịu đựng chi phí sử dụng vốn vay và tái tạo ngoại tệ, đảm bảo khả năng trả nợ trong tương lai. 1.2. NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA NĐTNN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TTCK VIỆT NAM Sự tham gia của NĐTNN vào thị trường có một ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của TTCK Việt Nam. Tác động của NĐTNN vào TTCK được thể hiện rất phong phú ở nhiều khía cạnh, và nói chung đều có những mặt tích cực và tiêu cực. Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 12 1.2.1. Những tác động tích cực: - Các NĐTNN tạo ra sự vận động của các dòng vốn đầu tư gián tiếp trên các TTCK, gắn liền với những biến động diễn ra trong nền kinh tế thế giới. Sự vận động của các dòng vốn này sẽ góp phần thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển hội nhập và quốc tế hóa TTCK Việt Nam. - Sự tham gia tích cực của các nhà đầu tư bao gồm cả trong nước và nước ngoài là nhân tố quan trọng hàng đầu để thúc đẩy sự phát triển của TTCK Việt Nam. Trong cơ cấu nhà đầu tư thì sự tham gia của NĐTNN đóng vai trò hết sức quan trọng, bởi vì các NĐTNN có nguồn lực tài chính rất lớn, có kỹ năng và kinh nghiệm hơn nhà đầu tư trong nước. Giao dịch của NĐTNN trên thị trường sẽ làm quy mô thị trường được mở rộng, bao gồm cả khối lượng giao dịch, giá trị giao dịch và giá trị thị trường. Đặc biệt, các tổ chức đầu tư nước ngoài còn là những nhà đầu tư rất chuyên nghiệp, bài bản, có chiến lược đầu tư dài hạn, giúp cho TTCK có sự tăng trưởng ổn định. Các giao dịch hàng ngày trên TTCK không phải lúc nào cũng có mặt các nhà ĐTNN, nhưng một khi các tổ chức đầu tư nước ngoài vào cuộc thì khối lượng giao dịch của họ lại khá lớn. Với những lợi thế nổi bật về kinh nghiệm và trình độ phân tích cũng như chính sách đầu tư bài bản, các nhà ĐTNN tổ chức thường mua chứng khoán với chiến lược lâu dài, chứ không phải mang tính chất buôn bán nhỏ lẻ kiếm lời thông thường. - Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) có tác động tích cực đến sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam. Nếu như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thường đưa vào các dự án 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh (trong đó bên Việt Nam thường chỉ chiếm thiểu số, trung bình khoảng 30%), tuy đóng góp nhiều cho tổng sản phẩm xã hội, làm tăng kim ngạch xuất khẩu và tạo nhiều việc làm nhưng lại không có tác động tích cực đến sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam; thì vốn FII thường rót vào các doanh nghiệp do người Việt Nam nắm quyền chi phối về quản lý, có thể giúp các doanh nghiệp trong nước tăng trưởng nhanh, tiến tới hình thành các tập đoàn đa quốc gia mang thương hiệu Việt Nam trong tương lai. Đã có nhiều điển hình thành công như Công ty Cổ phần Sữa Việt Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 13 Nam (Vinamilk), Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), Công ty Cổ phần Kinh Đô, Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh (REE) - những doanh nghiệp do người Việt Nam nắm quyền quản lý nhưng có sự tham gia của đông đảo công chúng đầu tư trong nước và các tổ chức tài chính nước ngoài. - Như là một tác động tương hỗ, sự hưởng ứng của các NĐTNN bước đầu cũng có một tác dụng thúc đẩy sự tham gia của các nhà đầu tư trong nước vào TTCK Việt Nam, một thị trường còn mới mẻ đối với họ. Các nhà đầu tư Việt Nam với vốn hiểu biết về chứng khoán còn hạn chế hẳn sẽ tin tưởng hơn vào TTCK Việt Nam khi thấy các NĐTNN tham gia bởi trong mắt họ đó chính là những người có kinh nghiệm đầu tư chứng khoán, khả năng phân tích dự báo tốt, và rất nhạy bén đối với các hoạt động đầu tư. Yếu tố tâm lý này rất quan trọng trong việc thu hút sự chú ý của nhiều nhà đầu tư tiềm năng trong và ngoài nước. Chỉ khi TTCK gây dựng được lòng tin đối với công chúng, các nhà đầu tư, các công ty trong và ngoài nước thì TTCK mới có thể phát triển được bởi chính họ là nhân tố để phát triển thị trường và là những người hưởng lợi từ sự phát triển ấy. - Với các NĐTNN tham gia vào TTCK Việt Nam, hành trang mà họ mang theo không chỉ là vốn mà còn cả kiến thức về chứng khoán, kinh nghiệm quản lý kinh doanh, kỹ năng nghiệp vụ tài chính, kinh nghiệm đầu tư. Đó chính là cái mà các công ty chứng khoán và các nhà đầu tư cá nhân có thể học hỏi tiếp thu để quản lý tốt hơn hoạt động kinh doanh chứng khoán cũng như các khoản đầu tư trên thị trường. 1.2.2. Những tác động tiêu cực: - Khác với thị trường hàng hóa bình thường, TTCK có tính “lỏng” cao và di chuyển vốn đầu tư nhanh chóng. Nếu như không có các quy định chế tài phù hợp, nhạy bén và linh hoạt trong xử lý các vấn đề phát sinh thì sẽ dẫn đến việc rút vốn ồ ạt ra khỏi thị trường, gây khủng hoảng trên TTCK dẫn đến khủng hoảng tài chính, kinh tế. - Mặt khác, cơ chế vận hành của TTCK đã tạo ra môi trường hết sức thuận lợi Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 14 cho hoạt động đầu cơ phát triển. Các nhà đầu cơ thường lợi dụng triệt để các yếu tố tiêu cực của thị trường CK để khai thác các mặt trái của nó và dẫn đến các giao dịch chứng khoán không công bằng. TTCK là nơi phản ánh nhanh nhất các thông tin về kinh tế, một khi TTCK bị chi phối bởi các nhà đầu cơ thì kết quả thông tin mà TTCK cung cấp sẽ bị xuyên tạc làm mất tính khách quan chính xác dẫn đến các quyết định sai lầm của người đầu tư và chính điều này làm cho nền kinh tế của một quốc gia sẽ phải gánh chịu những hậu quả nặng nề. Thực tế diễn ra trên thế giới đã cho thấy, các nước nhỏ, tiềm lực kinh tế còn hạn chế đã trở nên bất lực trước sự đầu cơ cá nhân của các nhà tài phiệt quốc tế. Các nhà đầu cơ rất có thể nhảy vào các TTCK nhỏ, có hệ thống kiểm soát chưa cao để thực hiện đầu cơ và thao túng giá cả trên thị trường, thậm chí làm cho TTCK sụp đổ. Ngoài ra hoạt động đầu cơ còn dẫn đến khả năng mất giá đồng bản tệ gây ra các hiện tượng lạm phát trong nền kinh tế mà Chính phủ không thể kiểm soát được. Thông qua hoạt động đầu cơ, các nhà đầu cơ có thể tiến hành các cuộc thôn tính công ty làm đảo lộn hoạt động của các công ty mà._. họ có đủ số phiếu cần thiết để nắm quyền kiểm soát công ty khiến cho các công ty mất đi định hướng kinh doanh ban đầu. Từ đó, các nhà đầu cơ có thể gây ra những thay đổi to lớn trong cơ cấu kinh tế quốc gia làm cho nền kinh tế phát triển không đồng đều và không toàn diện, có những khu vực kinh tế rất phát triển nhưng lại có các khu vực kinh tế khác không phát triển, đặc biệt là ở khu vực kinh tế có lợi nhuận thấp, dẫn đến nền kinh tế phát triển mất cân đối. - TTCK Việt Nam mới hình thành, việc từng bước mở cửa thu hút các NĐTNN là xu thế tất yếu của thời đại. Nhưng TTCK nước ta có quy mô rất nhỏ nên nếu quản lý thị trường không tốt thì các nhà đầu cơ rất dễ thực hiện đầu cơ, lũng đoạn thị trường, tác động xấu đến TTCK và nền kinh tế. Một trong những ảnh hưởng nghiêm trọng, đó là sự trói buộc, ảnh hưởng về chính trị khi các nhà đầu cơ nước ngoài thao túng nền kinh tế. - Khi niềm tin của các NĐTNN lung lay thì một vài người trong số họ sẽ ngay Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 15 lập tức rút vốn về bằng cách bán tống bán tháo những chứng khoán nợ, chứng khoán vốn mà họ sở hữu. Tình trạng này sẽ gây ra phản ứng dây chuyền đến các nhà đầu tư khác khiến các nhà đầu tư đó cũng nhanh chóng rút chạy để bảo toàn đồng vốn của mình.Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á là một ví dụ tiêu biểu của vấn đề này mà điển hình là trường hợp Thái Lan. Tại Thái Lan năm 1997, các NĐTNN ồ ạt rút vốn về nước khiến cho chứng khoán trên thị trường bị mất giá nhanh chóng, tạo ra áp lực mất giá đồng nội tệ. Tiếp sau Thái Lan, TTCK Hàn Quốc và một số nước khác cũng rơi vào trường hợp tương tự. Bài học kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng kinh tế là nếu số lượng NĐTNN càng đông thì khả năng họ rút vốn đồng loạt do một tác động nào đó có thể làm cho TTCK bị ảnh hưởng nghiêm trọng và làm cho luồng vốn đầu tư nước ngoài bị chảy ngược, gây nên suy thoái kinh tế và tác động xấu tới quá trình phát triển. Với Việt Nam, nợ nước ngoài chủ yếu là nợ của chính phủ từ nguồn ODA với thời hạn chính là trung và dài hạn, đầu tư chủ yếu của nước ngoài vào Việt Nam là đầu tư trực tiếp FDI nên chưa có tiền đề cho việc di chuyển, tháo vốn nóng, ngắn hạn ra khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay lượng vốn FII vào Việt Nam đã tăng nhanh, hiện tượng tháo vốn có thể diễn ra và không thể chủ quan. Tóm lại, việc tham gia của NĐTNN vào TTCK Việt Nam vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, điều quan trọng là phải làm thế nào để hạn chế được mặt tiêu cực và phát huy mặt tích cực một cách có hiệu quả nhất. Việc cho phép các NĐTNN tham gia trên TTCK Việt Nam là cần thiết, các nước trên thế giới đều mở cửa TTCK cho các NĐTNN tham gia và họ đã thành công. Việt Nam xây dựng TTCK muộn hơn so với phần lớn các nước trên thế giới, do vậy chúng ta có thuận lợi là có điều kiện học hỏi kinh nghiệm của các nước để từ đó đưa ra các biện pháp hạn chế các tác động không tốt của NĐTNN đến TTCK Việt Nam. 1.3. KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC VỀ SỰ THAM GIA CỦA CÁC NĐTNN VÀO TTCK TRONG NƯỚC: Trong giai đoạn xây dựng và vận hành TTCK, phần lớn các nước trên thế giới đều đưa ra những chính sách cho phép NĐTNN tham gia vào TTCK với hình thức và quy mô phù hợp với đặc điểm riêng của từng quốc gia. Vấn đề đặt ra không Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 16 phải có cho phép người nước ngoài đầu tư hay không mà là chính sách đối với NĐTNN ra sao, quản lý các NĐTNN như thế nào để phát huy được những mặt tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực đối với một thị trường mới bắt đầu hoạt động. Hiện nay có hai xu hướng mâu thuẫn nhau trong chính sách đối với các NĐTNN: một số nước muốn mở cửa TTCK để thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhằm thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển, một số nước lại lo ngại về sự lấn át, thâu tóm hay chi phối của nước ngoài trong quá trình phát triển TTCK và nền kinh tế nước mình. Ở mỗi nước tuỳ vào đặc điểm riêng của nền kinh tế và phương thức hoạt động của TTCK mà có những quy định riêng của mình. Do vậy, ban đầu chính sách của các quốc gia đối với các NĐTNN thường là hạn chế mức độ sở hữu chứng khoán của họ và hạn chế các hình thức ĐTNN, sau đó nâng dần tỷ lệ sở hữu cũng như hình thức đầu tư của họ vào TTCK trong nước. Đối với hình thức đầu tư gián tiếp của các NĐTNN vào TTCK trong nước, tựu trung lại có năm loại chính sách sau: 1.3.1. Ban đầu cho phép NĐTNN sở hữu một tỷ lệ cổ phần thích hợp trong các công ty niêm yết sau đó nâng dần lên Những năm 80 đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của các nước NICs và ASEAN. Nền kinh tế phát triển mạnh cùng với những chính sách thông thoáng nhằm thu hút nước ngoài đã làm cho việc di chuyển vốn từ các nước các TTCK phát triển mạnh như Mỹ, châu Âu vào Hàn Quốc, Đài Loan,... trở nên phổ biến. Hàn Quốc: Tại Hàn Quốc, thời gian đầu chỉ cho phép người đầu tư nước ngoài đầu tư gián tiếp thông qua các quỹ đầu tư, quỹ tín thác. Đối với hoạt động đầu tư trực tiếp, nhà nước quy định mức trần, mức trần này tăng dần lên theo sự phát triển của thị trường, nhưng vẫn giữ nguyên việc hạn chế đối với một số ngành quan trọng như quân sự, bưu chính viễn thông, điện lực,... Các quy định về quản lý đầu tư nước ngoài ở Hàn Quốc thay đổi gắn liền với sự phát triển của thị trường theo từng giai đoạn: - Từ năm 1985 đến năm 1987: Chính phủ cho phép người nước ngoài đầu tư Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 17 gián tiếp vào chứng khoán Quỹ tín thác. - Tháng 12/1988: Hoàn chỉnh kế hoạch mở cửa thị trường vốn. Theo kế hoạch này, bắt đầu từ tháng 12/1992, người nước ngoài được phép sở hữu 10% số cổ phiếu của một công ty chứng khoán trong nước. - Năm 1992: Cho phép người nước ngoài đầu tư với mức giới hạn tối đa là 10% và sau đó được nâng lên là 55% số cổ phiếu của một công ty. - Năm 1998: Bỏ mức giới hạn tối đa, lý do là chính phủ muốn tăng cường thu hút nước ngoài sau khủng hoảng tài chính châu Á. - Sau thời kỳ phải gánh chịu những hậu quả trầm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á, nền kinh tế Hàn Quốc đã được tái cơ cấu và nhanh chóng phục hồi. Cũng chính vào thời gian này, TTCK Hàn Quốc đã quy định tỷ lệ sở hữu khá rộng đối với các NĐTNN. Theo đó, các cá nhân và tổ chức nước ngoài được phép mua tới 100% cổ phiếu đang lưu hành của bất cứ công ty niêm yết nào. Tuy nhiên, cũng có một số ngoại lệ được áp dụng trên thị trường. Thái Lan: Tại Thái Lan, chính phủ cũng quy định một tỷ lệ khống chế sở hữu công ty niêm yết. Các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức được sở hữu không quá 49% vốn cổ phần của một công ty và 25% vốn cổ phần của một định chế tài chính Thái Lan. Một số công ty có thể tự ý được phép áp đặt các tỷ lệ sở hữu dành cho người nước ngoài thấp hơn hoặc bằng tỷ lệ quy định của nhà nước. Nói chung, người đầu tư nước ngoài tại Thái Lan khá thất vọng vì các công ty thường hay hạn chế những cổ đông nước ngoài. Tuy nhiên, NĐTNN không phải thực hiện bất cứ thủ tục xin phép nào trước khi thực hiện giao dịch mua bán chứng khoán. Sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, Thái Lan đã mở rộng tỷ lệ sở hữu cổ phiếu tại các công ty niêm yết của người nước ngoài lên 100%. Ấn Độ: Tại Ấn Độ, NĐTNN là tổ chức được sở hữu không quá 10% số cổ phiếu của một công ty niêm yết, và tổng số các nhà đầu tư được sở hữu không quá 24% số cổ phiếu (riêng một số ít công ty được phép sở hữu tới 30%). Mức sở hữu trái phiếu tối đa đối với tổ chức đầu tư nước ngoài là 30% (trừ trường hợp có giấy phép đặc biệt Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 18 của Sở giao dịch trái phiếu Ấn Độ). Cá nhân đầu tư nước ngoài không được mua trực tiếp cổ phiếu hoặc trái phiếu của các tổ chức phát hành Ấn Độ. Đài Loan: Tại Đài Loan, chính phủ ban hành mức sở hữu tối đa cổ phiếu công ty niêm yết đối với người nước ngoài. Chính phủ không cho phép cá nhân nước ngoài đầu tư trực tiếp vào chứng khoán mà chỉ được sở hữu những chứng khoán của Quỹ đầu tư. Tổ chức đầu tư nước ngoài được phép sở hữu chứng khoán trên TTCK Đài Loan nếu có ít nhất 5 năm kinh nghiệm về đầu tư và vốn ít nhất 500 triệu USD. Tuy nhiên, họ chỉ có quyền sở hữu không quá 10% chứng khoán của một công ty đã niêm yết. Nếu công ty niêm yết là công ty liên doanh với nước ngoài thì tổ chức đầu tư nước ngoài có thể sở hữu tối đa là 40% số cổ phiếu của công ty đó. 1.3.2. Phát hành một loại cổ phiếu riêng cho NĐTNN giao dịch Tại Trung Quốc, TTCK phi tập trung đã được hình thành ngay từ năm 1984 do nhu cầu giao dịch các loại chứng khoán trong dân chúng tăng rất cao. Đến tháng 11/1990, Sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải và tháng 7/1991 Sở giao dịch chứng khoán Thâm Quyến đã chính thức được thành lập nhằm đưa các hoạt động giao dịch chứng khoán vào khuôn khổ quản lý của Nhà nước. Ngay từ thời gian đầu thành lập thị trường, Trung Quốc đã mở cửa cho đầu tư gián tiếp nước ngoài bằng cách quy định cổ phiếu loại B dành riêng cho các NĐTNN, còn cổ phiếu dành cho nhà đầu tư trong nước là cổ phiếu loại A. Các NĐTNN được phép mua 100% cổ phiếu B của bất cứ công ty nào niêm yết trên TTCK Trung Quốc. Bất kỳ nhà đầu tư nào sở hữu trên 5% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một công ty niêm yết đều phải công bố tỷ lệ sở hữu với cơ quan quản lý. Trước khi thực hiện hoạt động giao dịch chứng khoán tại TTCK Trung Quốc, các NĐTNN phải thực hiện các thủ tục xin mã số giao dịch nhà đầu tư tại Trung tâm lưu ký chứng khoán. Tuy nhiên, số cổ phiếu loại B niêm yết trên 2 thị trường ít hơn nhiều so với số cổ phiếu loại A. Do đó, cơ hội dành cho các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài ở Trung Quốc là khá hạn chế. Ngoài việc mở cửa TTCK cho các NĐTNN, Trung Quốc còn cho phép các công ty chứng khoán nước ngoài hoạt động tại thị trường nước này cũng như khuyến Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 19 khích các công ty chứng khoán và công ty niêm yết trong nước mở rộng phạm vi hoạt động chứng khoán ra nước ngoài. Chính vì vậy, loại cổ phiếu H, N, L đã ra đời. Cổ phiếu H được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Hồng Kông, cổ phiếu N được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán New York, còn cổ phiếu L thì được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán London. So với các quốc gia trong khu vực, có thể nói đây là một bước hội nhập khá sớm của TTCK Trung Quốc. Rõ ràng, việc phát hành riêng một loại cổ phiếu cho người đầu tư nước ngoài đã giúp chính phủ Trung Quốc kiểm soát chặt chẽ hơn việc đầu tư nước ngoài trên TTCK, cũng như một phần trao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp trong việc tự cơ cấu nguồn vốn cho nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của mình bằng cách phát hành một tỷ lệ cổ phiếu B thích hợp trong tổng lượng cổ phiếu phát hành trên thị trường, nhằm thu hút được số vốn cần thiết mà không bị sự kiểm soát của nước ngoài. Việc niêm yết các cổ phiếu H, N và L trên TTCK nước ngoài không chỉ thu hút nguồn vốn nước ngoài mà còn tạo ra sự quan tâm của các NĐTNN đối với Trung Quốc, tạo nên danh tiếng và khả năng quốc tế hóa các công ty Trung Quốc và thúc đẩy mạnh mẽ khả năng cạnh tranh của các công ty Trung Quốc trên thị trường thế giới. 1.3.3. Cho phép đầu tư 100% vốn vào tất cả các công ty trong mọi lĩnh vực, nhưng hạn chế đối với một số ngành nghề đặc biệt quan trọng Trong xu thế toàn cầu hóa và mở cửa, hầu hết các nước đều cho phép các NĐTNN sở hữu 100% số cổ phiếu của các công ty niêm yết trên TTCK. Tuy nhiên, đối với một số ngành nghề, lĩnh vực quan trọng có ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, quốc phòng, kinh tế của đất nước thì một mặt vẫn thu hút vốn đầu tư nước ngoài, mặt khác, vẫn duy trì một tỷ lệ sở hữu lớn của Nhà nước hoặc cá nhân trong nước Australia: Tại Australia, nói chung các NĐTNN, các cá nhân hay tổ chức có thể mua tới 100% cổ phiếu của bất kỳ công ty niêm yết nào. Bên cạnh đó, một số ngoại lệ được áp dụng như sau: Đối với các công ty trong lĩnh vực truyền thông, một NĐTNN được sở hữu tối đa 15% tổng số cổ phiếu, giới hạn tổng cộng cho các Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 20 NĐTNN là 20%; đối với các công ty trong lĩnh vực in ấn, tỷ lệ này tương ứng là 25% và 30%; chính phủ nước ngoài không được sở hữu cổ phiếu truyền thông; trong lĩnh vực ngân hàng, NĐTNN được sở hữu tối đa là 10% tổng số cổ phiếu; đối với các công ty sản xuất và phân phối gas, các NĐTNN được sở hữu tối đa từ 5% đến 15%. Singapore: Tại Singapore, cá nhân và tổ chức đầu tư nước ngoài có thể mua 100% tổng số cổ phiếu của bất kỳ công ty niêm yết nước ngoài, trừ lĩnh vực ngân hàng và báo chí, NĐTNN chỉ được sở hữu từ 40% đến 49% tổng số cổ phiếu. Riêng cổ phiếu của công ty Singapore Press Holdings, một nhà đầu tư cá nhân nước ngoài chỉ được sở hữu tối đa là 3%. Trước khi mua một lượng cổ phần lớn của một ngân hàng hoặc công ty tài chính, NĐTNN phải được sự chấp thuận của cơ quan quản lý ngoại tệ Singapore. 1.3.4. Xây dựng một “danh sách theo ngành nghề các công ty không có đầu tư nước ngoài” Những năm 60, Philippines có một TTCK rất sôi động, quy mô còn lớn hơn cả TTCK Hong Kong. Chính phủ Philippines cũng quy định cổ phiếu loại B là cổ phiếu dành riêng cho NĐTNN. NĐTNN được phép sở hữu 100% cổ phiếu loại B, trừ những công ty thuộc “Danh sách công ty không có đầu tư nước ngoài” thuộc một số ngành quan trọng như quốc phòng, sản xuất và phân phối độc dược. 1.3.5. Ban hành một tỷ lệ mua chứng khoán ban đầu của các NĐTNN cho đợt phát hành IPO. Tại Bangladesh, các cá nhân và tổ chức đầu tư nước ngoài được phép mua 100% tổng số cổ phiếu của bất kỳ công ty niêm yết nào. Tuy nhiên, các NĐTNN chỉ có thể đăng ký mua tối đa là một phần ba khối lượng phát hành của một đợt IPO. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam: Có thể thấy quá trình vận động thu hút vốn đầu tư vào TTCK của các nước khác nhau đều theo một xu hướng là mức độ mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào TTCK phụ thuộc vào nhu cầu vốn của nền kinh tế nói chung cũng như tình hình phát triển của thị trường chứng khoán nói riêng. Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 21 Trong quá trình xây dựng TTCK, các nước đang phát triển không nên ngăn cản đầu tư nước ngoài mà phải tạo ra một khuôn khổ để TTCK hoạt động trong tầm kiểm soát, phải chuẩn bị các công cụ của kinh tế thị trường để hoạt động của TTCK đi vào quỹ đạo. Khi xây dựng TTCK, vấn đề an ninh kinh tế phải được đặt lên hàng đầu. Nếu nền kinh tế còn non trẻ thì Nhà nước cần phải bảo hộ để tránh những cơn bão “vốn” xuất xứ từ bên ngoài nước ập đến nhanh và thao túng cả thị trường vốn trong nước. Khi TTCK đã phát triển ổn định, hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ, thị trường đồng bộ thì quy chế dành cho người nước ngoài sẽ được nới lỏng, khi đó, thị trường trở nên hấp dẫn và sôi động hơn hẳn, số lượng nhà đầu tư nước ngoài sẽ ngày càng gia tăng. Cuối cùng, xu hướng mở cửa hoàn toàn thị trường, tức các NĐTNN có thể sở hữu 100% vốn của các công ty niêm yết, là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, cần quy định rõ ràng danh mục các ngành nghề mà NĐTNN không được phép đầu tư. Qua việc nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chúng ta có thể rút ra được một số bài học sau: - Trong tiến trình chung của quá trình phát triển, TTCK đóng vai trò quan trọng trong việc huy động vốn cho nền kinh tế. Bên cạnh việc phát huy nội lực, Việt Nam cần khuyến khích sự tham gia của các NĐTNN nhằm thu hút những nguồn vốn lớn mà trong nước chưa đáp ứng được, trình độ công nghệ và kinh nghiệm cho sự phát triển kinh tế nói chung và TTCK nói riêng. - Cần quản lý hoạt động của NĐTNN nhằm vừa khuyến khích các nhà đầu tư, vừa đảm bảo sự phát triển ổn định của thị trường, tránh việc rút vốn ồ ạt, gây xáo trộn thị trường. - Đối với việc sở hữu cổ phiếu của các công ty niêm yết: ban đầu cho phép NĐTNN sở hữu hạn chế cổ phiếu của các công ty niêm yết, sau đó mở rộng dần tỷ lệ sở hữu đáp ứng nhu cầu phát triển của thị trường. Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 22 CHƯƠNG 2 TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM THÔNG QUA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TRONG THỜI GIAN QUA (7/2000 - 8/2006) 2.1. TỔNG QUAN TTCK VIỆT NAM: Sau hơn 6 năm hoạt động, TTCK Việt Nam đã dần định hình và có những bước phát triển nhất định. Bắt đầu với 2 công ty niêm yết vào phiên giao dịch đầu tiên 28/07/2000, tính đến ngày 10/08/2006, TTGDCK Tp. HCM có 47 công ty niêm yết với tổng giá trị niêm yết theo mệnh giá là 7.830 tỷ đồng, tổng giá trị thị trường là 42.580 tỷ đồng; 695 loại trái phiếu với tổng giá trị niêm yết 107.400 tỷ đồng; 1 loại chứng chỉ quỹ đầu tư với tổng giá trị niêm yết là 300 tỷ đồng và tổng giá trị thị trường là 615 tỷ đồng. Tổng giá trị thị trường của các chứng khoán niêm yết tại TTGDCK Tp.HCM là 150.925 tỷ đồng, chiếm hơn 4% GDP năm 2005. UBCKNN cũng đã cấp phép thành lập cho 20 công ty chứng khoán, 6 công ty quản lý quỹ đầu tư và 5 ngân hàng lưu ký. Ngày 28/11/2003, Chính phủ đã ban hành nghị định 144/2003/NĐ-CP về chứng khoán và TTCK thay thế cho nghị định 48/1998/NĐ-CP trước đây. Nghị định này được xây dựng trên quan điểm khuyến khích đầu tư và xây dựng vốn nên đã có những cải cách đáng kể bằng cách áp dụng một hệ thống các tiêu chuẩn và điều kiện niêm yết linh hoạt hơn. Nghị định mở rộng việc bán chứng khoán ra công chúng và cho phép đa dạng hoá các loại hình đầu tư để khuyến khích các nhà đầu tư từ các nhà đầu tư nhỏ lẻ đến các nhà đầu tư có tổ chức trên TTCK. 2.1.1. Hàng hóa trên thị trường chứng khoán Cùng với sự gia tăng về số lượng, chất lượng các loại hình dịch vụ và tiện ích phục vụ người đầu tư cũng ngày càng được nâng cấp và đa dạng hóa. Các mô hình đầu tư mới như quỹ đầu tư chứng khoán, hợp đồng mua lại trái phiếu, cổ phiếu có kỳ hạn… cũng đã bắt đầu xuất hiện trên thị trường, làm phong phú thêm hàng hóa để người đầu tư lựa chọn. 2.1.1.1. Thị trường cổ phiếu Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 23 Tính đến hết tháng 8/2006, các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa là nguồn cung ứng cổ phiếu chủ yếu cho nền kinh tế Việt Nam. Trong số 47 công ty cổ phần hiện tại niêm yết trên TTCK thì có tới 36 công ty là các doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa với tỷ lệ cổ phần do Nhà nước nắm giữ trung bình là gần 30%. Phần lớn các công ty niêm yết đều có vốn điều lệ dưới 100 tỷ đồng, chỉ có 12 công ty có vốn từ 100 tỷ đồng trở lên. Trong 8 tháng đầu năm 2006, UBCKNN đã cấp giấy phép niêm yết cho 11 công ty với tổng số vốn điều lệ là 2.719 tỷ đồng. Giá cổ phiếu trên thị trường đã có nhiều biến động từ tháng 3 đến tháng 8/2006. Nếu như trong giai đoạn từ đầu tháng 2/2006 đến cuối tháng 4/2006, chỉ số VN INDEX tăng mạnh, đạt mức cao nhất từ trước đến nay là 632,69 điểm vào phiên giao dịch ngày 25/4/2006 thì giai đoạn từ tháng 5 đến giữa tháng 7/2006, thị trường lại đảo chiều, giá cổ phiếu giảm liên tục, VN INDEX chạm mức thấp nhất trong suốt 5 tháng là 399,8 điểm vào ngày 02/08/2006. Từ tháng 8 đến tháng 10/2006, thị trường đã hồi phục trở lại và chỉ số VN INDEX khá ổn định xoay quanh 500 điểm. Từ năm 2005 đến nay, đã có rất nhiều các công ty niêm yết thực hiện việc phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định tại Nghị định 144/2003/NĐ-CP như REE, NKD, GIL, PNC, AGF, BBC, SAV, TS4, SAM, BT6, HAP, HAS,... Các công ty niêm yết hầu hết đều kinh doanh có hiệu quả, doanh thu và lợi nhuận tăng đều qua các năm, đặc biệt là các công ty có quy mô lớn như VNM, STB, REE, SAM, BMP, KDC, TYA, GMD.... Tình hình thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin của các công ty cũng có nhiều tiến bộ đáng kể. Hầu hết các công ty đều xây dựng quy chế công bố thông tin nội bộ. Việc nộp báo cáo định kỳ của các công ty niêm yết được đầy đủ và đều đặn hơn. Tuy nhiên do việc công bố thông tin đối với các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn là một nghiệp vụ mới và công tác quản trị công ty chưa được hiệu quả nên nói chung công tác công bố thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Nhiều thông tin bất thường lại chưa được công bố kịp thời hay bị che dấu khiến các nhà đầu tư thiếu tin tưởng. Bảng 1: Quy mô niêm yết của cổ phiếu trên TTGDCK TP.HCM Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 24 Chỉ tiêu 31/12/2000 31/12/2001 31/12/2002 31/12/2003 31/12/2004 31/12/2005 10/8/2006 Số lượng cổ phiếu niêm yết 5 0 20 22 26 32 47 Tốc độ tăng - 100% 100% 10% 18% 23% 47% KLCP niêm yết (CP) 32.117.840 82.129.560 182.092.900 294.093.980 427.680.371 619.430.571 782.963.092 Tốc độ tăng - 156% 122% 62% 45% 45% 26% GTCP niêm yết (tỷ đồng) 321,18 821,30 1.820,93 2.940,94 4.276,80 6.194,31 7.829,63 Tốc độ tăng 156% 122% 62% 45% 45% 26% Nguồn: TTGDCK TP. HCM 2.1.1.2. Thị trường trái phiếu: Tính đến ngày 10/08/2005, toàn thị trường có 695 loại trái phiếu với tổng giá trị niêm yết là 107.400 tỷ đồng. Tuy nhiên, do phương thức phát hành sơ cấp nên việc giao dịch của các loại trái phiếu này vẫn còn nhiều bất cập. Số lượng người nắm giữ trái phiếu ít, chủ yếu tập trung vào các tổ chức tài chính, cộng thêm lãi suất thiếu linh hoạt, thiếu các tổ chức tạo lập thị trường và các nhà đầu tư có tổ chức nên giao dịch của trái phiếu Chính phủ và trái phiếu địa phương ở thị trường thứ cấp không sôi động, tính thanh khoản thấp và không phát huy được vai trò chủ đạo định hướng cho thị trường công cụ nợ. Bảng 2: Quy mô niêm yết của trái phiếu trên TTGDCK TP.HCM qua các năm Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 25 Chỉ tiêu 31/12/2000 31/12/2 001 31/12/2 002 31/12/20 03 31/12/20 04 31/12/20 05 10/8/2006 Số lượng trái phiếu niêm yết 13 49 143 207 323 695 Tốc độ tăng 277% 192% 45% 56% 115% Khối lượng trái phiếu niêm yết (TP) 11.830.7 00 28.893.3 80 42.713. 380 116.543.3 80 217.529. 680 394.894.0 80 1.074.007. 690 Tốc độ tăng 144% 48% 173% 87% 82% 172% Giá trị trái phiếu niêm yết (tỷ đồng) 1.183,07 2.889,34 4.271,34 11.654,34 21.752,9 7 39.489,41 107.400,7 7 Tốc độ tăng 144% 48% 173% 87% 82% 172% Nguồn: TTGDCK TP. HCM 2.1.2. Hoạt động của các công ty chứng khoán Công ty chứng khoán là định chế tài chính trung gian hoạt động trên TTCK, là cầu nối giữa các doanh nghiệp và nhà đầu tư. Từ 6 công ty thành viên ở giai đoạn ban đầu lúc thị trường mới hoạt động thì đến nay, đã có 15 công ty chứng khoán được cấp phép hoạt động. Nhìn chung, trung bình mỗi năm có từ 1-2 công ty chứng khoán mới ra đời. Số công ty chứng khoán mới này cùng với các công ty chứng khoán cũ đã thu hút cho thị trường một lượng ngày càng đông đảo các nhà đầu tư. Cơ cấu tổ chức và bộ máy hoạt động của các công ty chứng khoán ngày càng được củng cố và hoàn thiện. Nhiều công ty chứng khoán đã mở rộng sàn giao dịch, thiết lập các trang Web liên tục cập nhật thông tin về thị trường, hiện đại hóa dịch vụ cung cấp thông tin, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có thể tiếp cận các đầu tư ở mọi nơi. Các dịch vụ giá trị gia tăng như liên kết tài khoản với ngân hàng, báo giá chứng khoán qua điện thoại, theo dõi giao dịch chứng khoán trực tuyến, đặt lệnh giao dịch qua điện thoại, Internet… được các công ty chứng khoán đưa vào áp dụng ngày càng nhiều, đem lại lợi ích thiết thực cho nhà đầu tư. Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 26 Tiềm lực về vốn và nguồn nhân lực của các công ty chứng khoán cũng không ngừng gia tăng, góp phần nâng cao năng lực hoạt động của thị trường. Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn, một trong những công ty chứng khoán hàng đầu, hiện có mức vốn điều lệ là 500 tỷ đồng, tăng hơn 83 lần so với mức vốn điều lệ ban đầu tại thời điểm thành lập vào năm 2000 là 6 tỷ đồng. Rất nhiều công ty chứng khoán tiến hành tăng vốn để nâng cao tiềm lực tài chính, có điều kiện để mở rộng các loại hình kinh doanh chứng khoán như tự doanh và bảo lãnh phát hành. Chẳng hạn, Công ty Chứng khoán Thăng Long tăng vốn 9 tỷ đồng lên 31 tỷ đồng; Công ty chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tăng vốn từ 50 tỷ đồng lên 100 tỷ đồng; Công ty Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển tăng vốn từ 50 tỷ đồng lên 200 tỷ đồng; Công ty Chứng khoán Ngân hàng Á Châu tăng vốn từ 43 tỷ đồng lên 100 tỷ đồng. Công ty Chứng khoán Bảo Việt cũng đang có kế hoạch tăng vốn từ 50 tỷ đồng lên 150 tỷ đồng. Hiện nay các công ty chứng khoán đều đã triển khai và phát triển trong chừng mức nhất định tất cả các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, bao gồm môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư. Các dịch vụ tư vấn phát hành, tư vấn niêm yết của công ty chứng khoán cũng ngày càng trở nên chuyên nghiệp hơn. Từ năm 2005, hoạt động bảo lãnh phát hành đã được triển khai mạnh ở một số công ty chứng khoán lớn như Công ty Chứng khoán Bảo Việt, Công ty Chứng khoán Sài Gòn. 2.2. TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO TTCK VIỆT NAM 2.2.1. Cơ sở pháp lý cho hoạt động của NĐTNN trên TTCK Việt Nam Các văn bản pháp lý liên quan đến NĐTNN trên TTCK Việt Nam đang trong thời gian hiệu lực gồm có: - Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 về chứng khoán và TTCK. - Quyết định 36/2003/QĐ-TTg ngày 11/3/2003 về Quy chế góp vốn, mua cổ phần của NĐTNN trong các doanh nghiệp Việt Nam. - Quyết định 238/2005/QĐ-TTg ngày 29/09/2005 của Thủ tướng Chính phủ Về Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 27 tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam. - Thông tư số 90/2005/TT-BTC ngày 17/10/2005 của Bộ Tài chính Hướng dẫn thi hành Quyết định số 238/2005/QĐ-TTg ngày 29 tháng 9 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam. - Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16.11.2004 về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần. - Thông tư 100/2004/TT-BTC ngày 20.10.2004 hướng dẫn thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp đối với lĩnh vực chứng khoán. - Thông tư 72 /2006/TT-BTC ngày 10.08.2006 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung Thông tư 100/2004/TT-BTC ngày 20.10.2004 hướng dẫn thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp đối với lĩnh vực chứng khoán. - Quyết định 1550/2004/QĐ-NHNN và Thông tư số 03/2004/TT-NHNN ngày 25.5.2004 hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với việc góp vốn, mua cổ phần của NĐTNN trong các doanh nghiệp Việt Nam - Quyết định 83/2004/QĐ-BTC ngày 11.11.2004 về Quy chế thành lập và hoạt động của Văn phòng đại diện tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam. 2.2.2. Các giai đoạn thu hút vốn ĐTNN trên TTCK Việt Nam Giao dịch chính thức đầu tiên của người nước ngoài qua TTCK Việt Nam được thực hiện vào năm 2001. Và cho đến nay khối lượng và giá trị giao dịch của các NĐTNN vẫn không ngừng tăng lên, tác động không nhỏ đến sự tăng trưởng của TTCK Việt Nam. Tính đến hết ngày 10/08/2006, NĐTNN nắm giữ tổng cộng 192.601.959 cổ phiếu, chiếm 24,6% tổng số cổ phiếu niêm yết trên thị trường và 11.692.220 chứng chỉ quỹ đầu tư, chiếm 38,97% tổng số chứng chỉ quỹ niêm yết. Giá trị thị trường cổ phiếu do NĐTNN nắm giữ là 11.829 tỷ đồng, chứng chỉ quỹ đầu tư là 615 tỷ đồng, tổng cộng là 12.444 tỷ đồng, tương đương 777 triệu USD. Có thể chia tình hình giao dịch của NĐTNN thành 4 giai đoạn: - Giai đoạn thứ nhất - từ 28/7/2000 đến 30/3/2001: TTCK mới hình thành, Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 28 không có giao dịch của NĐTNN. - Giai đoạn thứ hai - từ 02/04/2001 đến 08/08/2003: TTCK có nhiều biến động, NĐTNN bắt đầu tham gia thị trường nhưng quy mô rất nhỏ. - Giai đoạn thứ ba – từ 11/8/2003 đến 21/10/2005: Đây là giai đoạn mà tỷ lệ sở hữu tối đa theo quy định đối với NĐTNN đã được tăng lên 30%, so với 20% trước đây. Giai đoạn này chứng kiến sự tham gia khá sôi động của các NĐTNN. - Giai đoạn từ 24/10/2005 đến nay: Giá trị giao dịch và khối lượng giao dịch của NĐTNN có sự tăng trưởng mạnh mẽ, bao gồm cả mua lẫn bán. Hai lý do chính dẫn đến hiện tượng này bao gồm sự tăng trưởng về cả chất lẫn lượng của TTCK Việt Nam và quy định mới trong tỷ lệ sở hữu tối đa của NĐTNN (tăng từ 30% lên 49%). 2.2.2.1. Giai đoạn thứ 1: Từ 28/07/2000 đến 30/03/2001: Giai đoạn này kéo dài 101 phiên, kể từ ngày khai trương thị trường đến ngày 30/03/2001. Trong suốt cả giai đoạn này không hề có một giao dịch nào của NĐTNN được thực hiện. Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là vào lúc này, TTCK Việt Nam còn quá non trẻ và quy mô của thị trường quá nhỏ. Tính đến ngày 30/03/2001, thị trường mới chỉ có 5 loại cổ phiếu với tổng số lượng cổ phiếu niêm yết là 41.117.840 cổ phiếu và giá trị vốn hóa thị trường 2.001.428.784 đồng. Tính thanh khoản thấp của thị trường cũng là một trong những nguyên nhân khiến NĐTNN tỏ ra dè dặt. Trong các phiên giao dịch, mặc dù tất cả các cổ phiếu đều được đặt mua với số lượng rất lớn, nhưng hầu như có rất ít cổ phiếu được bán ra. Chính vì vậy giá trị giao dịch trung bình 1 phiên trong giai đọan này chỉ đạt 2,5 tỷ đồng. Tuy chưa tham gia giao dịch trên thị trường nhưng NĐTNN cũng đã có những tác động tích cực tới TTCK Việt Nam. Điều này thể hiện rõ nét ở vai trò của một số quỹ đầu tư chứng khoán, thông qua một số đối tác Việt Nam để mua cổ phiếu của các công ty cổ phần hóa trên thị trường sơ cấp, đồng góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá trình niêm yết của một số công ty. Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 29 Bảng 3: Tình hình giao dịch cổ phiếu toàn thị trường giai đoạn 28/07/2000 - 31/3/2001 Chỉ tiêu Đơn vị tính Giá trị Số phiên giao dịch Phiên 101 Tổng GTGD toàn thị trường Triệu đồng 257.034 GTGD toàn thị trường TB 1 phiên Triệu đồng 2.545 Tốc độ tăng trưởng tổng GTGD toàn thị trường % 103,31% Tổng KLGD toàn thị trường Cổ phiếu 7.602.410 KLGD toàn thị trường TB 1 phiên Cổ phiếu 75.271 Tốc độ tăng trưởng của KLGD toàn thị trường % 102,38% Nguồn._.n, Luật Ngân hàng, Pháp lệnh Kế toán - Thống kê…và các văn bản hướng dẫn Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư để tạo tính đồng bộ cho thị truờng, bảo vệ cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài khi tham gia vào TTCK. Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 62 3.2.2. Đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp và khuyến khích cổ phần hóa kết hợp với niêm yết Mục đích của việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực hoạt động sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh trên thị trường và quan trọng hơn cả là tạo ra hàng hóa cho TTCK. Một thị trường chỉ có thể hình thành và phát triển khi có hàng hóa và nhu cầu mua bán hàng hóa đó. TTCK chỉ có thể hoạt động khi có các loại chứng khoán lưu hành và nhu cầu mua bán chúng. Do đó có thể coi quá trình cổ phần hóa như là quá trình sản xuất ra các hàng hóa chứng khoán này. Điều quan trọng là gắn tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp với việc phát hành cổ phiếu ra công chúng và niêm yết trên TTCK. Đến nay, tốc độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước vẫn còn chậm do quy trình ra quyết định trong quá trình cổ phần hóa còn dài và phức tạp, nhất là giai đoạn xác định giá trị doanh nghiệp. Mặc dù các văn bản pháp luật về cổ phần hóa như Nghị định 187/2004/NĐ-CP và Thông tư 126/2004/TT-BTC đều có những quy định cụ thể về thời gian thực hiện các giai đoạn của quy trình cổ phần hóa như thời gian xác định doanh nghiệp không quá 6 tháng kể từ thời điểm có quyết định cổ phần hóa, thời gian hoàn tất bán cổ phần không quá 4 tháng kể từ thời điểm được phê duyệt giá phương án cổ phần hóa, nhưng trên thực tế, giai đoạn xác định giá trị doanh nghiệp lại kéo dài rất lâu, có khi hơn 1 năm.. Vì vậy, Chính phủ cần có những biện pháp, những quy định mang tính cưỡng chế các bộ, ngành, tổng công ty, các địa phương và các doanh nghiệp nhà nước trong diện cổ phần hóa phải đảm bảo tiến độ cổ phần hóa. Bên cạnh đó, cần có các chế tài nghiêm khắc đối với các đối tượng này, nhất là các đơn vị chủ quản. Cần ưu tiên cổ phần hóa trước các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn và vị thế dẫn đầu thị trường trong các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông, điện lực,... nhằm tạo ra nguồn hàng chất lượng cao cho TTCK. Tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp lớn diễn ra khá chậm do các cơ quan hữu quan tỏ ra khá thận trọng ngay từ giai đoạn lựa chọn tổ chức định giá và tư vấn cổ phần hóa. Tuy nhiên, cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng và đánh giá hợp lý những Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 63 lợi ích đối với nền kinh tế, đối với TTCK và đối với chính doanh nghiệp nếu những doanh nghiệp này có thể sớm hoàn tất cổ phần hóa và tham gia ngay vào TTCK. Trước những đòi hỏi cấp bách phải tăng nguồn cung cho TTCK, ngày 04/08/2005, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ký quyết định số 2592/QĐ-BTC Về việc ban hành quy trình kết hợp cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước với niêm yết/đăng ký giao dịch cổ phiếu tại các Trung tâm giao dịch chứng khoán. Quy trình này hướng dẫn khá tỉ mỉ, cụ thể các bước thực hiện từ khâu ra quyết định cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đến giai đoạn xác định giá trị doanh nghiệp, xây dựng phương án cổ phần hóa, bán cổ phần cho đến khi hoàn tất cổ phần hóa. Trên thực tế, đến hết tháng 10/2006, nghĩa là sau hơn một năm kể từ ngày có hiệu lực, vẫn chưa có doanh nghiệp nào thực hiện cổ phần hóa kết hợp niêm yết/đăng ký giao dịch cổ phiếu theo quy trình này. Rõ ràng, ngoài việc xây dựng một cơ sở pháp lý để doanh nghiệp nhà nước ngay sau khi cổ phần hóa có thể tham gia vào TTCK, việc thay đổi cách nhìn nhận của các doanh nghiệp nhà nước đối với TTCK không phải là điều dễ dàng. Bộ Tài chính và Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cũng cần xem xét nguyên nhân tại sao các văn bản pháp luật vẫn chưa thực sự đi vào cuộc sống, phải chăng vì các doanh nghiệp vẫn chưa biết đến những quy định này? Kể từ ngày 01/01/2007, Nghị định 144/2003 sẽ bị bãi bỏ, do đó quyết định 2592 cũng sẽ không còn hiệu lực. Vì vậy, trong quá trình soạn thảo các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán, cần đưa vào những quy định về kết hợp cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước kết hợp với niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán. 3.2.3. Khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần và niêm yết trên TTCK Từ đầu năm 2004, việc cổ phần hóa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI) đã được triển khai thí điểm theo Nghị định số 38/2003/NĐ-CP ngày 15/04/2003 của Chính phủ. Tính đến nay, Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận chuyển đổi cho 12 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần. Sau khi chuyển đổi, các doanh ngiệp Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 64 FDI đều có sự phát triển ổn định. Đặc biệt, đã có 4 doanh nghiệp được niêm yết tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán TP.HCM, gồm có: Công ty Cổ phần Dây và Cáp điện Taya (TYA), Công ty Cổ phần Gạch men Chang Yih (CYC), Công ty Cổ phần Full Power (FPC), Công ty Cổ phần Thực phẩm Quốc tế Interfoods (IFS) và 1 doanh nghiệp được đăng ký giao dịch tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội là Công ty Cổ phần Công nghiệp Tung Kuang. Hầu hết các doanh nghiệp FDI chuyển đối đều có quy mô khá, tình hình kinh doanh tốt và nhiều tiềm năng tăng trưởng. Sự tham gia của các doanh nghiệp này vào TTCK đã góp phần làm tăng tính sôi động của thị trường và tạo niềm tin cho công chúng đầu tư, đặc biệt là các NĐTNN về quyết tâm mở cửa của nhà nước Việt Nam. Chính vì vậy, việc tiếp tục triển khai chuyển đổi cho các doanh nghiệp FDI là hết sức cần thiết trong thời gian tới để thu hút sự tham gia của các NĐTNN. Sau khi Luật Đầu tư bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/07/2006, Nghị định 38/2003/NĐ-CP đã không còn hiệu lực thi hành. Cho đến nay, văn bản mới hướng dẫn việc chuyển đổi doanh nghiệp FDI thành công ty cổ phần vẫn chưa được ban hành, trong khi hàng hóa trên TTCK vẫn còn khá ít ỏi. Đây là một vấn đề khá bức xúc đối với nhiều doanh nghiệp FDI có nhu cầu chuyển đổi, niêm yết và huy động vốn trên TTCK cũng như đối với các nhà đầu tư trên thị trường. Để giải quyết được vấn đề này, trước hết các cơ quan chức năng cần đánh giá lại kết quả chuyển đổi của 12 doanh nghiệp FDI trong 2 năm vừa qua để có sự điều chỉnh phù hợp trong các quy định. Văn bản mới cần quy định cụ thể thời gian xét duyệt hồ sơ đăng ký chuyển đổi và thời gian cấp giấy phép đầu tư điều chỉnh, tránh trường hợp các cơ quan thẩm định hồ sơ kéo dài thời gian xét duyệt. Kết quả thí điểm chuyển đổi một số doanh nghiệp FDI vừa qua cho thấy, thời gian thực hiện chuyển đổi, phát hành và niêm yết của các doanh nghiệp này kéo dài rất lâu, chủ yếu do những kéo dài trong việc xét duyệt phương án chuyển đổi, báo cáo kết quả chuyển đổi và xét duyệt hồ sơ niêm yết. Chẳng hạn, Công ty Cổ phần Dây và Cáp điện Taya bắt đầu xây dựng phương án chuyển đổi từ cuối năm 2003, nộp phương án vào tháng 4 năm 2004 nhưng đến tháng 10 năm 2004, phương án chuyển đổi của Công ty mới được Bộ Kế Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 65 hoạch và Đầu tư chấp thuận. Sau đó, Công ty tiến hành chào bán cổ phiếu và đến tháng 10 năm 2005, Công ty mới được cấp Giấy phép đầu tư điều chỉnh. Mặt khác, việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng của các doanh nghiệp FDI chuyển đổi cũng nên quy định cụ thể tại các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán nhằm đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất cao của hệ thống văn bản pháp luật. Để khuyến khích các doanh nghiệp FDI phát hành cổ phiếu và sau đó là niêm yết, cần cho phép các công ty thực hiện bảo lãnh phát hành đối với cổ phiếu do doanh nghiệp FDI phát hành lần đầu. 3.2.4. Khuyến khích doanh nghiệp niêm yết và phát hành chứng khoán Mức độ phát triển TTCK được phản ánh bởi quy mô của các nhà đầu tư, lượng hàng hoá và tính thanh khoản của các chứng khoán trên thị trường. Quy mô vốn của các nhà đầu tư càng lớn, số lượng các nhà đầu tư có tên tuổi càng nhiều, càng chứng tỏ thị trường có nhiều triển vọng. Hàng hoá trên thị trường đa dạng cho thấy TTCK hoạt động hiệu quả và ngày càng có nhiều công ty cần vốn và muốn huy động vốn qua kênh chứng khoán. Lượng vốn luân chuyển lớn chứng tỏ khả năng thanh khoản của thị trường cao. Chính những điểm này là cơ sở tạo ra lòng tin của các nhà ĐTNN về khả năng sinh lợi của thị trường và đi đến quyết định đầu tư. Phát triển nguồn cung cho TTCK bao gồm: tăng số lượng các công ty niêm yết, tăng quy mô vốn của các công ty niêm yết, nâng cao chất lượng hàng hóa trên thị trường. Các giải pháp cụ thể để phát triển nguồn cung trên TTCK bao gồm: - Cải cách thủ tục hành chính liên quan đến việc đăng ký niêm yết: ƒ Rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục hành chính: Hiện nay, một doanh nghiệp có nhu cầu niêm yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh sẽ cần khoảng hơn 4 tháng để thực hiện khá nhiều công đoạn: thuê tổ chức tư vấn, tổ chức đại hội đồng cổ đông để thông qua chủ trương niêm yết, lập hồ sơ đăng ký niêm yết, nộp và giải trình hồ sơ với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, nhận giấy phép niêm yết, thông báo ra công chúng, làm thủ tục đăng ký giao dịch và đăng ký lưu ký, và cuối cùng là chính thức giao dịch. Trong thời gian hơn 4 tháng này thì có đến hơn 2 Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 66 tháng thực hiện thủ tục hành chính với cơ quan quản lý nhà nước, trong đó, giai đoạn kéo dài nhất chính là giai đoạn chờ Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước xem xét hồ sơ (45 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ, hợp lệ). Để có thể phát triển quy mô thị trường theo đúng lộ trình vạch ra tại Chiến lược phát triển TTCK đến năm 2010, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cần rút ngắn thời gian phê duyệt hồ sơ. Để làm được điều này, Uỷ ban cần có chiến lược phát triển nhân sự theo hướng tăng số lượng cán bộ thẩm định và tuyển dụng cán bộ có kinh nghiệm và trình độ nghiệp vụ cao cũng như có kế hoạch đào tạo nâng cao chất lượng cán bộ. Mặt khác, việc nghiên cứu để rút ngắn tối đa thời gian thực hiện quy trình đăng ký giao dịch, đăng ký lưu ký tại các Trung tâm Giao dịch Chứng khoán và Trung tâm Lưu ký Chứng khoán cũng rất cần thiết. ƒ Hạn chế tối đa những giấy tờ trùng lắp hoặc không cần thiết: Một trong những nguyên nhân làm kéo dài quá trình xét duyệt hồ sơ đăng ký niêm yết là việc Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước thường xuyên yêu cầu doanh nghiệp phải nộp thêm những giấy tờ ngoài quy định tại Nghị định 144/2003 và Thông tư 59/2004 hướng dẫn về việc niêm yết. Điều này không những làm chậm trễ tiến độ niêm yết của doanh nghiệp mà còn có thể ảnh hưởng đến niềm tin của doanh nghiệp đối với các cơ quan quản lý nhà nước về TTCK. - Các điều kiện niêm yết cần linh hoạt hơn: Theo quy định tại Nghị định 144/2003 và các văn bản hướng dẫn, khi xin phép niêm yết, doanh nghiệp phải nộp báo cáo tài chính 2 năm liên tục trước năm xin phép và báo cáo này phải được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận; đồng thời ý kiến kiểm toán phải thể hiện chấp nhận toàn bộ, nếu chấp nhận có ngoại trừ thì các khoản mục ngoại trừ không vượt quá 10% vốn chủ sở hữu. Đây thực sự là những quy định bó buộc, cản trở việc niêm yết của các doanh nghiệp lớn, có hoạt động kinh doanh hiệu quả. Nên chăng, quy định về tổ chức kiểm toán được chấp thuận chỉ áp dụng cho năm Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 67 tài chính liền kề năm doanh nghiệp xin đăng ký niêm yết. Bên cạnh đó, cần quy định rõ ràng các khoản mục ngoại trừ nào vẫn được chấp nhận để tránh gây tranh cãi. - Tiếp tục thực hiện chính sách ưu đãi thuế đối với các công ty niêm yết: Để khuyến khích các doanh nghiệp tham gia niêm yết, các biện pháp ưu đãi về thuế nên được xem xét giữ lại hoặc chuyển sang ưu đãi bằng một hình thức khác. Ngày 08/09/2006, Bộ Tài chính đã có công văn số 10997/BTC-CST, theo đó, kể từ ngày 01/01/2007, toàn bộ chính sách ưu đãi thuế đối với các công ty niêm yết sẽ bị bãi bỏ. Bộ Tài chính cũng đã tuyên bố sẽ từng bước bãi bỏ chính sách ưu đãi thuế đối với các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa. Như vậy đối với khá nhiều doanh nghiệp chưa thể niêm yết trong năm 2006, đây thực sự là một cản trở vì đối với họ lợi ích trước mắt đến từ việc niêm yết là được giảm thuế đã không còn nữa. Trong khi đó những lợi ích khác như khả năng huy động vốn với giá rẻ thì không phải doanh nghiệp nào cũng tận dụng được và việc huy động vốn có thành công hay không còn phụ thuộc vào các yếu tố khách quan của thị trường. Mặt khác, sau khi niêm yết, các doanh nghiệp phải chịu rất nhiều áp lực do phải tuân thủ chặt chẽ các quy định hiện hành trên TTCK, việc công khai, minh bạch tài chính sẽ gây bất lợi trong cạnh tranh khi đối thủ biết rõ thông tin của doanh nghiệp… - Đối với các doanh nghiệp nhà nước tiến hành cổ phần hóa kết hợp niêm yết, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cần có sự hỗ trợ tối đa, bao gồm: ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể, giảm thiểu thời gian xét duyệt hồ sơ, quy định linh hoạt hơn về các điều kiện niêm yết, đặc biệt là các điều kiện liên quan đến kiểm toán. - Nghiên cứu để từng bước triển khai thị trường giao dịch các loại chứng khoán phái sinh như quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, quyền chọn,.... để đa dạng hóa các loại chứng khoán trên thị trường và giúp nhà đầu tư có những công cụ phòng ngừa rủi ro khi đầu tư. Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 68 - Khuyến khích các công ty niêm yết phát hành cổ phiếu huy động thêm vốn thông qua việc đơn giản hóa các thủ tục cấp phép. Bộ Tài chính và Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cần có những quy định riêng đối với việc phát hành thêm cổ phiếu của công ty niêm yết theo hướng nới lỏng hơn so với các công ty chưa niêm yết trên tất cả các khía cạnh từ điều kiện phát hành, các loại hồ sơ cần nộp cho đến thời gian phê duyệt hồ sơ. Lý do là, hồ sơ của các công ty này đều đã được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước thẩm định khi phê duyệt niêm yết, thông tin của các công ty này đều được các cơ quan quản lý thường xuyên cập nhật do các quy định về công bố thông tin định kỳ, bất thường và theo yêu cầu. Vì vậy, nếu các quy định về việc phát hành của các công ty niêm yết và các công ty chưa niêm yết là như nhau thì sẽ bất hợp lý. Một thực tế đang diễn ra hiện nay là, khi xin phép phát hành cổ phiếu, các công ty niêm yết cũng phải thực hiện tất cả các thủ tục như các công ty chưa niêm yết. Đây là một điều bất hợp lý, làm kéo dài thời gian phát hành và ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó ảnh hưởng đến giá cổ phiếu và tình hình chung của thị trường. - Nâng cao chất lượng hàng hoá trên thị trường bằng việc thu hút được các công ty lớn, hoạt động hiệu quả và có uy tín lên niêm yết. Muốn thực hiện được điều này, bên cạnh chính sách tiếp thị hiệu quả, Chính phủ cần yêu cầu các bộ, ngành thống nhất chủ trương niêm yết các doanh nghiệp lớn ngay từ giai đoạn cổ phần hóa để có được những bước đi thích hợp, kịp thời. 3.2.5. Thực hiện việc giới thiệu, quảng bá Việt Nam và TTCK Việt Nam với các NĐTNN - Tổ chức các buổi hội thảo, hội nghị hoặc xúc tiến đầu tư bằng hình thức tổ chức sự kiện ở Việt Nam và nước ngoài để giới thiệu cơ hội đầu tư vào Việt Nam, thành phần tham dự sẽ là các cơ quan quản lý TTCK ở các nước và các tổ chức đầu tư nước ngoài tiềm năng. Để các sự kiện này thực sự phát huy hiệu quả, các cơ quan hữu quan cần phối hợp với các công ty chuyên tổ chức sự kiện có uy tín trong nước và nước ngoài. Kinh nghiệm thành công của Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 69 những hội thảo trước đây do một số công ty quản lý quỹ tổ chức đã cho thấy cần nhân rộng mô hình này để thu hút sự chú ý của các NĐTNN đối với TTCK Việt Nam. - Quảng bá Việt Nam và TTCK Việt Nam trên các phương tiện truyền thông nước ngoài, đặc biệt là các cơ quan báo chí chuyên về tài chính và đầu tư. Bên cạnh đó, thông qua các diễn đàn đầu tư, các tổ chức xúc tiến đầu tư, kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài, các quỹ đầu tư tham gia vào TTCK Việt Nam. - Tận dụng kênh thông tin sẵn có và rất hữu hiệu là các NĐTNN đang đầu tư trực tiếp hay gián tiếp vào Việt Nam – những người đã có những hiểu biết sâu sắc về Việt Nam và đã gặt hái nhiều thành công trên thị trường Việt Nam - để giới thiệu Việt Nam với các NĐTNN tiềm năng. Đặc biệt, hiện nay trên TTCK Việt Nam đã xuất hiện nhiều tổ chức tài chính lớn hàng đầu thế giới, có uy tín và tiếng nói trong giới đầu tư tài chính quốc tế. Thiết nghĩ, các cơ quan hữu quan từ Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán cho đến các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ nên phối hợp với các tổ chức này để thực hiện việc tiếp thị cho TTCK Việt Nam. - Các cơ quan quản lý TTCK Việt Nam cần mở rộng mối quan hệ hợp tác với các cơ quan quản lý TTCK ở các nước phát triển cũng như các thị trường mới nổi, một mặt để học tập kinh nghiệm và tìm kiếm những hỗ trợ về kỹ thuật, tài chính, pháp lý, mặt khác để góp phần giúp TTCK Việt Nam được biết đến trên quy mô toàn cầu. - Nâng cấp về mặt kỹ thuật và cải tiến nội dung các trang web của các tổ chức hoạt động trên TTCK, kể cả trang web của các công ty niêm yết. Nội dung các trang web cần được cập nhật liên tục với ít nhất 2 ngôn ngữ Anh, Việt. Thông tin đưa lên trang web cần đầy đủ và có hệ thống để nhà đầu tư có thể tra cứu một cách dễ dàng. - Ủy ban Chứng khoán, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán cần phối hợp với các công ty chứng khoán để gửi tài liệu giới thiệu tổng quan về TTCK cũng Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 70 như các báo cáo và thông tin định kỳ về diễn biến giao dịch thị trường, thông tin về các công ty niêm yết, thị trường OTC cho các tổ chức đầu tư nước ngoài tiềm năng. 3.2.6. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với NĐTNN - Đơn giản hóa các thủ tục hành chính đối với các NĐTNN, loại bỏ những giấy tờ rườm rà, không cần thiết trong quá trình thực hiện thủ tục xin mã số kinh doanh chứng khoán, thủ tục mở tài khoản góp vốn tại ngân hàng của NĐTNN. Các cơ quan chức năng cần có sự cố gắng tối đa để các NĐTNN luôn cảm thấy mình được đối xử công bằng với các nhà đầu tư trong nước. - Chính phủ cần sớm công bố danh sách các ngành nghề hạn chế người nước ngoài đầu tư, nâng tỷ lệ của nhà đầu tư nước ngoài vào trong các công ty cổ phần không nằm trong danh sách hạn chế đầu tư. - Bộ tài chính nên quy định mức phí tối đa của các công ty chứng khoán, ngân hàng lưu ký nước ngoài về các loại phí thu của NĐTNN như phí lưu ký, phí thanh toán, phí môi giới, phí nhận cổ tức, phí xin mã số kinh doanh chứng khoán theo hướng ưu đãi hơn để thu hút sự tham gia của nhiều NĐTNN, nhất là các nhà đầu tư cá nhân. 3.2.7. Đa dạng hóa thông tin và tạo chiều sâu về thông tin TTCK Hoạt động thông tin là một trong những công cụ quan trọng giúp cho TTCK hoạt động lành mạnh, hiệu quả và kịp thời, góp phần đưa TTCK tiến đến hội nhập với khu vực và thế giới. Để cải tiến hệ thống thông tin trên TTCK, cần thực hiện các giải pháp sau: - Các thông tin và ấn phẩm chính thức trên thị trường như Bản tin TTCK, thông tin trên website của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, bản cáo bạch và báo cáo tài chính của các công ty niêm yết, các văn bản pháp luật về chứng khoán và TTCK cần được thể hiện bằng cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh nhằm tạo điều kiện cho các NĐTNN được tiếp cận kịp thời và đầy đủ thông tin của thị trường. Nếu có thể, các ấn phẩm nói trên nên được dịch ra nhiều thứ tiếng như Anh, Hoa, Nhật, Pháp,... để phục Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 71 vụ cho các nhà đầu tư đa quốc tịch như hiện nay. Để làm được điều này, các cơ quan quản lý cần thành lập một bộ phận chuyên trách NĐTNN để xây dựng các ấn phẩm bằng tiếng nước ngoài cũng như tiếp nhận những phản hồi của NĐTNN để có những điều chỉnh phù hợp về chính sách. - Ngoài các thông tin dạng “thô” nói trên, các nhà đầu tư trên thị trường, trong đó có các NĐTNN thực sự rất cần những thông tin đã được phân tích và thể hiện ý kiến tư vấn của các nhà môi giới. Trách nhiệm của các công ty chứng khoán là cung cấp các báo cáo phân tích tổng quan nền kinh tế, tổng quan thị trường chứng khoán, phân tích một số ngành quan trọng trong nền kinh tế và phân tích các loại chứng khoán trên thị trường. Hiện nay, vấn đề này vẫn chưa được đầu tư đúng mức do nhiều công ty chứng khoán gặp khó khăn trong việc tìm kiếm các chuyên gia có trình độ và kinh nghiệm. - Nâng cấp trình độ công nghệ của TTCK: đầu tư các thiết bị hiện đại để đổi mới hoàn toàn hệ thống giao dịch của TTGDCK, các công ty chứng khoán theo hướng giao dịch tự động trên internet, không qua sàn; đầu tư nâng cấp các trang web liên quan đến TTCK để tăng dung lượng và tốc độ truy cập. 3.2.8. Mở rộng phạm vi và nâng cao chất lượng hoạt động các công ty chứng khoán Công ty chứng khoán là một chủ thể đóng vai trò rất quan trọng trên TTCK. Các công ty chứng khoán không những là cầu nối giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp mà trình độ phát triển của công ty chứng khoán còn thể hiện trình độ phát triển của TTCK, tạo ấn tượng đầu tiên của nhà đầu tư đối với TTCK. Ở các nước có TTCK phát triển, công ty chứng khoán là nhà môi giới và tư vấn đầu tư chuyên nghiệp với đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm và trình độ cao. Trong khi đó, hiện nay trên TTCK Việt Nam đang tồn tại một thực trạng là hoạt động môi giới của các công ty chứng khoán không có chiều sâu do chỉ dừng lại ở việc nhận và xử lý lệnh mua bán cho khách hàng. Nguyên nhân chính là do đa số nhà đầu tư trên thị trường là nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ, không có trình độ chuyên sâu về tài chính và chứng khoán. Sự tập trung vào hoạt động môi giới cho nhà đầu tư cá nhân đã dẫn đến tình trạng thiếu Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 72 các công ty chứng khoán được đầu tư chiều sâu cho hoạt động môi giới và tư vấn đầu tư, làm cho chất lượng dịch vụ cung cấp cho các nhà đầu tư, đặc biệt là NĐTNN bị ảnh hưởng. Vì vậy, TTCK rất cần những công ty chứng khoán có chiến lược phát triển khách hàng là tổ chức (trong đó có tổ chức nước ngoài), có sự đầu tư chiều sâu để nâng cao chất lượng hoạt động môi giới, có khả năng cung cấp các dịch vụ giá trị gia tăng cho khách hàng. Trong tương lai, cùng với sự bùng nổ của làn sóng đầu tư gián tiếp tại Việt Nam, khuynh hướng kinh doanh này của các công ty chứng khoán có nhiều hứa hẹn sẽ thành công. Vì vậy các công ty chứng khoán nên xem xét vấn đề này. Theo quy định của pháp luật hiện hành, các công ty chứng khoán chỉ được phép cung cấp dịch vụ môi giới đối với các chứng khoán niêm yết. Trong trường hợp các chứng khoán chưa niêm yết, các công ty chứng khoán chỉ được phép bảo quản hoặc lưu trữ cổ phiếu. Trong khi đó, thị trường cổ phiếu chưa niêm yết lại có quy mô lớn gấp nhiều lần thị trường niêm yết, các nhà đầu tư, trong đó các NĐTNN, cũng rất mong muốn có địa điểm giao dịch chính thức cũng như có tổ chức môi giới được cấp phép để giảm thiểu rủi ro khi mua bán trên thị trường này. Để thúc đẩy hoạt động kinh doanh của các công ty chứng khoán, trước hết, các cơ quan quản lý nên xem xét việc cho phép các công ty chứng khoán thực hiện dịch vụ môi giới cho các chứng khoán chưa niêm yết, thành lập sàn giao dịch cổ phiếu chưa niêm yết tại các công ty chứng khoán. Đối với một công ty chứng khoán, để có được nhiều khách hàng là các tổ chức đầu tư nước ngoài, yếu tố quan trọng đầu tiên chính là sự phát triển của hoạt động bảo lãnh phát hành tại công ty chứng khoán đó. Vì khi đẩy mạnh họat động này, công ty chứng khoán sẽ có nguồn cổ phiếu phát hành rất dồi dào để chào bán cho các nhà đầu tư là khách hàng của mình. Mặt khác, các tổ chức tài chính nước ngoài thường có nhu cầu mua cổ phiếu với số lượng lớn và với một mức giá xác định hơn là phải tham gia đấu giá. Hoạt động bảo lãnh phát hành của công ty chứng khoán sẽ đáp ứng được nhu cầu này, do cổ phiếu do công ty chứng khoán bảo lãnh thường được chào bán riêng lẻ cho một số ít nhà đầu tư. Đến thời điểm hiện tại, hoạt Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 73 động bảo lãnh phát hành của các công ty chứng khoán vẫn chưa thực sự phát triển, các đợt bảo lãnh phát hành lớn chỉ do một vài công ty chứng khoán lớn đảm nhận, những công ty chứng khoán còn lại hầu như chưa thực hiện được hợp đồng nào. Một trong những nguyên nhân chính là công ty chứng khoán không được phép bảo lãnh đối với việc phát hành lần đầu ra công chúng của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa. Để khuyến khích hoạt động bảo lãnh phát hành, các văn bản pháp luật về cổ phần hóa cần kết nối với Luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn, cụ thể là công ty chứng khoán được phép bảo lãnh cổ phần phát hành lần đầu của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. 3.2.9. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và đào tạo về chứng khoán: Đến thời điểm hiện tại, đơn vị duy nhất có chức năng đào tạo các chứng chỉ về chứng khoán và TTCK là Trung tâm Nghiên cứu Khoa học và Đào tạo Chứng khoán, trực thuộc Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. Do những hạn chế về số lượng giảng viên nên con số học viên của mỗi khóa đào tạo của đơn vị này chỉ dừng lại ở mức vài trăm người. Trong khi đó, nhu cầu được đào tạo những kiến thức cơ bản và chuyên sâu về TTCK lại rất lớn, trước hết là nhu cầu của các nhà đầu tư đang tham gia thị trường (hơn 50.000 người) và rất nhiều nhà đầu tư tiềm năng đang quan tâm đến TTCK. Quan trọng hơn cả là nhu cầu đào tạo cho đội ngũ cán bộ lên tới hàng ngàn người của các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ và các cơ quan quản lý nhà nước để đáp ứng được mục tiêu phát triển của thị trường. Để đáp ứng được yêu cầu này, cần phát triển Trung tâm NCKH & ĐTCK thành một Viện nghiên cứu về TTCK có quy mô lớn, ngoài việc đầu tư cho đội ngũ giảng viên chính thức, cơ quan này cần có biện pháp thu hút hơn nữa sự cộng tác của các chuyên gia đang công tác trên các lĩnh vực khác nhau của TTCK. Công tác đào tạo cán bộ ở nước ngoài cũng cần được coi trọng để xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập của TTCK Việt Nam. Vì vậy, trước tiên cần phải tăng chỉ tiêu cho ngành học Tài chính - Chứng khoán ở các chương trình du học bằng ngân sách nhà nước. Sau đó, các cơ quan quản lý nhà nước cần tiếp tục thực hiện các chương trình đào tạo ngắn hạn cán bộ ở Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 74 nước ngoài và triển khai đào tạo dài hạn từ 2 năm trở lên cho cán bộ ngành chứng khoán thông qua việc hợp tác với các tổ chức nước ngoài. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính và Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cần phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo để xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo chuyên ngành chứng khoán ở cấp độ đại học và sau đại học. Để tăng cường hiệu quả đào tạo, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ có thể cử các chuyên gia có trình độ và kinh nghiệm của mình để hỗ trợ việc giảng dạy ở trường đại học. Chương trình học cần có sự gắn kết chặt chẽ giữa lý thuyết và thực hành, trong quá trình học sinh viên có thể thực tập tại các công ty chứng khoán hay Sở Giao dịch Chứng khoán, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán. Các cơ quan quản lý cũng cần chú trọng hơn nữa việc tuyên truyền về TTCK. Mặc dù thời gian gần đây, công tác tuyên truyền về TTCK được thực hiện khá tốt thông qua việc cập nhật các tin tức thị trường và thực hiện các chương trình chuyên đề trên các phương tiện thông tin đại chúng, tuy nhiên, để việc tuyên truyền thực sự phát huy hiệu quả, trước tiên cần phổ biến những kiến thức cơ bản về chứng khoán và TTCK cho các tầng lớp nhân dân. Báo viết, đài phát thanh, đài truyền hình sẽ là những kênh thông tin hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, các cơ quan hữu quan nên tổ chức các buổi giới thiệu về TTCK ở các doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan chính trị xã hội, các địa phương ở cấp quận, huyện,... Các công ty chứng khoán cũng nên cung cấp cho các nhà đầu tư tài liệu giới thiệu về TTCK với nội dung dễ hiểu, súc tích và đầy đủ. Ngoài ra, các công ty chứng khoán cũng có thể tổ chức các lớp học cơ bản về TTCK cho các nhà đầu tư mới, qua đó nâng cao trình độ hiểu biết chung của dân chúng về TTCK. Giải pháp tiếp theo là các cơ quan quản lý nhà nước cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về TTCK cũng như vấn đề thu hút đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam. TTCK Việt Nam tuy sinh sau đẻ muộn nhưng có được lợi thế là những người đi sau, được tiếp nhận công nghệ quản lý và vận hành của những nước đi trước. Để vận dụng thành công những kinh nghiệm của các nước đi trước, chúng Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 75 ta cần phải nghiêm túc nghiên cứu tiến trình, những bước đi của họ, từ đó tổng kết và rút ra bài học cho chúng ta, đồng thời áp dụng linh hoạt vào tình hình thực tiễn của đất nước. Cuối cùng, cần tăng cường hợp tác quốc tế giữa Việt Nam với các nuớc trong khu vực và thế giới để tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm, dần dần áp dụng các chuẩn mực quốc tế vào thị trường Việt Nam, từng bước đưa TTCK hòa vào tiến trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán Tóm lại, để thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam cần thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa Chính phủ và các ban ngành, các doanh nghiệp tạo ra một cơ chế và động lực thúc đẩy TTCK Việt Nam phát triển đúng với đường lối mà Đảng và Nhà nước đề ra nhiệm vụ cho ngành chứng khoán. Đó là huy động nguồn vốn để phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta sớm trở thành một nước công nghiệp. Học viên: Trần Hương Mỹ - Lớp TCDN&KDTT Cao học 12 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA1246.pdf
Tài liệu liên quan