Định hướng nâng cao năng lực cạnh tranh cho các ngân hàng thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập Quốc tế

- 1 - CHƯƠNG 1 : GIỚI THIỆU 1.1 Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu : Trong vòng hai thập kỷ trở lại đây, hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một xu thế tất yếu của thời đại, diễn ra mạnh mẽ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội. Trong xu thế đó, Việt Nam đã có những chủ động và đang từng bước tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế. Năm 1987 được đánh dấu là năm đầu tiên nước ta bắt đầu mở cửa kinh tế với việc ra đời của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Có

pdf86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1076 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Định hướng nâng cao năng lực cạnh tranh cho các ngân hàng thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập Quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thể xem đó là những bước chập chững đầu tiên của nước ta trên đường tiến ra thế giới. Đến nay, sau gần 20 năm mở cửa tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định với GDP năm 2004 tính theo giá thực tế đạt 713.071 tỷ đồng, tương đương 45,4 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt 552,9 USD/ người/ năm. Từ một nước thiếu đói, thường xuyên nhận viện trợ, Việt Nam đã trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ hai trên thế giới, cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp – dịch vụ – nông nghiệp. Từ tháng 07/1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của khối ASEAN, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do AFTA. Tháng 07/2000 ký hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ, và hiện đang trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, tham gia vào các quan hệ thương mại song phương và đa phương khác. Có thể nói rằng “thế nước và vận nước đang lên”, song cũng đặt chúng ta trong bối cảnh mới, điều kiện mới với những cơ hội nhưng chứa đầy những thách thức và khó khăn. Xét trên bình diện vĩ mô, việc hội nhập kinh tế quốc tế có thể mang lại nhiều lợi ích như phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn - 2 - nhân lực, thu hút được các nguồn đầu tư nước ngoài, có điều kiện tiếp cận, ứng dụng và phát triển được công nghệ tiên tiến, xây dựng được hệ thống tài chính – ngân hàng đủ mạnh để phục vụ hiệu quả cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, tích lũy được các kinh nghiệm về quản lý và điều hành vĩ mô. Bên cạnh đó, yêu cầu tất yếu của quá trình hội nhập và cạnh tranh là chúng ta phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý nhà nước, nhằm giảm thiểu và hạn chế rủi ro, tránh được những bất ổn và khủng hoảng kinh tế, đảm bảo phát triển bền vững và tối đa hoá lợi ích cho quốc gia trong quá trình hội nhập. Với những thành tựu đạt được trong gần hai thập kỷ qua, với những cơ hội và thách thức đặt ra cho nền kinh tế nước ta trong thời gian tới, hệ thống các NHTMVN với vai trò huyết mạch, là kênh huy động và cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế, đã có đóng góp to lớn cho những thành tựu trong quá khứ và sẽ phải tiếp tục thực hiện vai trò ấy trong tiến trình hội nhập của tương lai. Trong tiến trình đó, các NHTM nước ta chắc chắn có nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp cận các nguồn lực, công nghệ, thị trường, khả năng phát triển mở rộng, song sẽ đối mặt với những thách thức, rủi ro trong quá trình cạnh tranh đó. Với quy mô nguồn vốn tương đối thấp so với hệ thống NHTM các nước trong khu vực và thế giới, trình độ quản lý quốc tế còn nhiều hạn chế, hệ thống mạng lưới các chi nhánh ở nước ngoài còn ít ỏi, công nghệ áp dụng còn chưa theo kịp xu thế chung, dịch vụ cung ứng còn nghèo nàn, các tiêu chuẩn về kế toán kiểm toán chưa phù hợp với thông lệ quốc tế thì những thách thức cho hệ thống NHTM nước ta trong thời gian tới là rất lớn, khi mà nước ta đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế, từng bước thực hiện mở cửa thị trường tài chính – ngân hàng. Trên cơ sở đó, tác giả mạnh dạn nghiên cứu đề tài : “Định hướng nâng cao năng lực cạnh tranh cho các NHTMVN trong tiến trình hội nhập quốc tế”. Qua đó nhằm phân tích, nhận định đúng năng lực thực sự của các - 3 - NHTMVN so với đối thủ cạnh tranh trong tiến trình hội nhập, nhìn ra những điểm yếu để có hướng khắc phục, xác định những điểm mạnh để phát huy lợi thế so sánh, giúp các NHTMVN xây dựng cho mình chiến lược phát triển đồng bộ, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của ngành ngân hàng, tiếp tục có những đóng góp tích cực trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước. 1.2 Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu : Nhằm khẳng định lại vai trò của hệ thống NHTMVN đối với tiến trình phát triển kinh tế đất nước, đánh giá đúng các cơ hội, thách thức đối với hoạt động ngân hàng, phân tích một cách toàn diện và có chú trọng đến các tiêu điểm về thực trạng hiện tại của hệ thống NHTMVN. Việc phân tích dựa trên cơ sở các số liệu thông kê, báo cáo hàng năm của NHNN Việt Nam, NHNN Việt Nam – Chi nhánh TP.HCM. Ngoài ra, việc phân tích, đánh giá còn được thực hiện bằng cách thu thập ý kiến thông qua các cuộc hội thảo, các bài phỏng vấn và thực hiện phỏng vấn một số chuyên gia trong lĩnh vực ngân hàng. Trên cơ sở đó, đề ra các định hướng và kiến nghị có tính khả thi, nhằm củng cố và nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTMVN trong tiến trình hội nhập quốc tế, đảm bảo cho hệ thống NHTMVN duy trì được sức cạnh tranh, tạo ra những khả năng cho việc phát triển mở rộng, tiếp tục có được những đóng góp hiệu quả cho công cuộc phát triển đất nước. Để mục tiêu đó trở thành hiện thực, đòi hỏi các NHTMVN phải chủ động, nhận thức đúng đắn về các cơ hội, thách thức, tích cực chuẩn bị những điều kiện cần thiết để sẵn sàng tham gia vào quá trình hội nhập đó, và hơn hết là quá trình tự hoàn thiện để nâng cao hiệu quả hoạt động, giữ vững vai trò huyết mạch và động lực cho khả năng cạnh tranh, phát triển và hội nhập trên mọi mặt của đất nước. - 4 - 1.3 Nội dung và ý nghĩa của đề tài nghiên cứu : Với vấn đề và mục tiêu nghiên cứu được xác định ở trên thì nội dung nghiên cứu của luận văn gồm bốn phần, được chia thành bốn chương : Chương 1 : Giới thiệu. Mục đích của chương này là giới thiệu chung về đề tài nghiên cứu, sự cần thiết của đề tài nghiên cứu, mục tiêu và phương pháp nghiên cứu, nội dung và ý nghĩa của đề tài nghiên cứu, thể hiện những suy nghĩ, nhận định của tác giả trong việc xem xét, đánh giá năng lực cạnh tranh của các NHTMVN khi tham gia hội nhập. Chương 2 : Quá trình hình thành và vai trò của NHTM trong phát triển kinh tế. Chương này chủ yếu tập trung vào một số vấn đề có tính chất lý luận như quá trình hình thành NHTM, chức năng của NHTM, vai trò của NHTM trong phát triển kinh tế, đồng thời nhìn lại bối cảnh chung của ngành ngân hàng nước ta trong giai đoạn hiện nay, lấy đó làm cơ sở để phân tích chi tiết các khía cạnh, yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của NHTMVN ở chương tiếp theo. Chương 3 : Năng lực cạnh tranh của hệ thống NHTMVN trong giai đoạn hiện nay. Chương này tập trung vào một số vấn đề chính như các khuynh hướng ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng, xu hướng cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam, các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các NHTMVN. Việc phân tích, đánh giá dựa trên các dự báo kinh tế, trên cơ sở các số liệu, báo cáo của NHNN, của các NHTM, các số liệu báo cáo của các tổ chức tài chính quốc tế. Nội dung phân tích tập trung vào các vấn đề có tính chất nền tảng như năng lực quản lý và chất lượng nguồn nhân lực, trình độ và khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, sức mạnh và năng lực tài chính, khả năng phát triển mạng lưới chi nhánh… Qua đó, giúp chúng ta có nhận thức đúng về thực lực của hệ thống NHTMVN. - 5 - Chương 4 : Định hướng nâng cao năng lực cạnh tranh cho các NHTMVN. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng ở Chương 3, xác định lại những thuận lợi và khó khăn, những cơ hội và thách thức để đưa ra định hướng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các NHTMVN. Các giải pháp sẽ được xây dựng trên cơ sở phân tích những khó khăn, những lợi thế và tập trung vào những yếu tố mang tính chất nền tảng như đã phân tích ở Chương 3. Với nội dung nghiên cứu nêu trên, mục đích của luận văn nhằm góp phần vào việc đánh giá đúng năng lực thực tế của hệ thống NHTMVN, giúp các nhà quản lý ngân hàng có thêm kênh tham khảo, chủ động củng cố và nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngân hàng mình, góp phần vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh chung của hệ thống NHTMVN. Bên cạnh đó, cũng đưa ra các kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước, nên có những điều chỉnh thích hợp trong cơ chế chính sách, theo xu hướng phù hợp với các thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các NHTM, nâng cao hiệu quả, giúp củng cố và chuẩn bị tốt hơn những điều kiện cần thiết cho quá trình hội nhập, tăng cường đóng góp cho phát triển kinh tế đất nước. Mặc dù đã có những nỗ lực trong đầu tư nghiên cứu, song với những hạn chế về khả năng, thời gian nghiên cứu, khả năng tiếp cận các báo cáo không phổ biến của NHNN nên kết quả nghiên cứu của luận văn không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến chân thành của Quýthầy cô, Quýđồng nghiệp với mong muốn sẽ có được những đánh giá xác thực hơn, đề ra được những định hướng và giải pháp giàu tính thực tiễn hơn, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh cho hệ thống các NHTMVN, đóng góp hiệu quả cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. - 6 - CHƯƠNG 2 : QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ 2.1 Quá trình hình thành và phát triển NHTM : 2.1.1 Khái niệm về NHTM : NHTM ra đời trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa phát triển đến một trình độ nhất định. Qua một quá trình lâu dài hình thành, tồn tại và phát triển, hệ thống NHTM ngày càng được hoàn thiện và trở thành một định chế không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ và cung cấp các dịch vụ ngân hàng, NHTM có một vai trò to lớn trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế. Theo Pháp lệnh Ngân hàng ngày 23/05/1990 của Hội đồng Nhà nước (Việt Nam) thì “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”. Theo Luật các tổ chức tín dụng do Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12/12/1997 thì “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung chủ yếu nhận tiền gửi để cung cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán”. Mặc dù các khái niệm về NHTM có khác nhau qua các thời kỳ, khác nhau giữa các quan điểm, song có thể hiểu và nhìn nhận NHTM dưới góc độ sau : đó là loại ngân hàng thực hiện các giao dịch trực tiếp với các cá nhân, tổ chức kinh - 7 - tế, với hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi để cho vay, thực hiện chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh toán và cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên. 2.1.2 Quá trình hình thành và phát triển NHTM : Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đã hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp, gồm ngân hàng trung ương, đóng vai trò ngân hàng quản lý và hệ thống NHTM thực hiện chức năng kinh doanh, thu hút và cung cấp vốn, cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho các hoạt động phát triển kinh tế. Để trở thành một hệ thống ngân hàng hoạt động chuyên nghiệp như ngày nay, các NHTM đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài, gắn liền với những chuyển biến của các giai đoạn lịch sử và các hình thái kinh tế trong suốt quá trình phát triển của nó. Hơn một ngàn năm trước công nguyên, khi mà các cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc liên tục xảy ra, xã hội ngập trong loạn lạc và cướp bóc, làm xuất hiện nhu cầu bảo vệ an toàn tiền bạc và các tài sản có giá khác, đảm bảo duy trì được giá trị của tiền bạc trong lưu thông. Nghề ngân hàng xuất hiện với các nghiệp vụ giản đơn ban đầu là nhận bảo quản tiền, đổi tiền để được trả thù lao. Cùng với sự phát triển của sản xuất, lưu thông và trao đổi hàng hóa, hoạt động của những người bảo quản, đổi tiền đã có những bước tiến mới. Đến những năm trước công nguyên đã bắt đầu xuất hiện hoạt động tín dụng, nhưng thực chất đó là các hoạt động cho vay nặng lãi. Thời kỳ này, đế chế La Mã trở nên lớn mạnh và giàu có, chính quyền cho phép các người hành nghề ngân hàng mở các quầy kinh doanh trên các hè phố tại các trung tâm kinh tế, thương mại. Phương tiện kinh doanh là những cái bàn dài, được chia làm nhiều ngăn để cất - 8 - giữ và bảo quản tiền, các sổ sách theo dõi các hoạt động kinh doanh. Thuật ngữ ngân hàng (tiếng La tinh là Banus, tiếng Pháp là Banque) xuất hiện từ đó. Giai đoạn từ sau công nguyên đến thế kỷ 16 các nghiệp vụ ngân hàng bắt đầu phát triển đa dạng và phong phú hơn. Các chủ ngân hàng bắt đầu ứng dụng các số hiệu tài khoản để ghi chép, theo dõi tiền gửi của các thân chủ, theo dõi các hoạt động cho vay và thu nợ. Cũng trong thời kỳ này, nghiệp vụ chuyển ngân (bảo tiêu), chiết khấu, bảo lãnh đã được thực hiện, tuy đơn giản hơn bây giờ nhưng đã mang lại những tiện ích cho hoạt động của thương nhân và xã hội. Từ sau thế kỷ 17 đến nay, cùng với sự phát triển của những con đường thương mại xuyên lục địa và những tiến bộ trong ngành hàng hải đã dần chuyển trung tâm thương mại thế giới từ Địa Trung Hải sang Châu Aâu và quần đảo Anh, nơi ngân hàng trở thành ngành kinh doanh hàng đầu. Chính giai đoạn này đã gieo mầm cho các cuộc cách mạng công nghiệp với yêu cầu về một hệ thống tài chính phát triển, đòi hỏi một sự mở rộng trong thương mại toàn cầu để tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp, xuất hiện các nhu cầu về phương thức thanh toán, tín dụng mới. Từ nữa cuối thế kỷ 18, khi các thuộc địa được thiết lập ở Bắc và Nam Mỹ, trung tâm của hoạt động ngân hàng được chuyển từ Châu Aâu sang Châu Mỹ. Sang thế kỷ 19, chính quyền một số bang ở Mỹ bắt đầu cho phép thành lập các công ty ngân hàng, các ngân hàng lớn, chuyên nghiệp, chủ yếu tập trung ở các trung tâm thương mại hàng đầu. Chính sự phát triển này cùng với cuộc chạy đua trong cạnh tranh giữa các ngân hàng đã từng bước hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp : ngân hàng phát hành (issuing bank), sau đó phát triển thành ngân hàng trung ương (central bank), thực hiện chức năng quản lý và hệ thống NHTM thực hiện các chức năng kinh doanh. Ngày nay, mô hình ngân hàng hai cấp đã được phát triển nhân rộng ra ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. - 9 - Qua lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống NHTM cho thấy, các NHTM được hình thành một mặt gắn liền với những yêu cầu khách quan của bối cảnh lịch sử và giai đoạn kinh tế nhất định, xuất phát từ những nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, một mặt xuất phát từ những áp lực cạnh tranh của các đơn vị kinh tế cùng ngành và nhu cầu tự hoàn thiện để nâng cao hiệu quả hoạt động. Bản chất của NHTM là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, có quan hệ mật thiết với những ngành kinh doanh khác và các mặt của hoạt động kinh tế – xã hội. Các NHTM phải tự chủ về tài chính, các hoạt động luôn hướng đến mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận chính đáng trên cơ sở chấp hành các quy định của pháp luật, thực hiện các nghĩa vụ với nhà nước và cộng đồng, nơi mà họ tiến hành các hoạt động kinh doanh. 2.2 Chức năng của NHTM : 2.2.1 Chức năng trung gian tài chính : Trong lịch sử hình thành của mình, các nghiệp vụ giản đơn mà các NHTM đã thực hiện là nhận bảo quản tiền và đổi tiền để được trả thù lao. Tuy nhiên, trong điều kiện ngày nay thì một trong những chức năng quan trọng và cơ bản nhất của các NHTM là thực hiện chức năng trung gian tài chính, trong đó chức năng trung gian tín dụng giữ vai trò then chốt, thể hiện rõ nét bản chất và chức năng chính yếu của các NHTM. Theo đó các NHTM sẽ đóng vai trò trung gian, huy động và tập trung các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội (tiền tiết kiệm, vốn tạm thời nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư, của các cá nhân, tổ chức kinh tế), biến nó thành nguồn tài chính tập trung để cung ứng tín dụng cho các đối tượng có nhu cầu sử dụng vốn, phục vụ cho các mục đích sản xuất kinh doanh, tiêu dùng cá nhân, thực hiện các hoạt động đầu tư ngắn và dài hạn, đảm bảo tạo ra sự phát triển bền vững với hiệu quả mang lại cao nhất. - 10 - Hình 2.1 : Chức năng trung gian tài chính của NHTM. Các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế, các đơn vị sự nghiệp… có vốn tạm thời nhàn rỗi. Các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế, các đơn vị sự nghiệp… có nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, tiêu dùng cá nhân. Tham gia vốn thực hiện các các hoạt động đầu tư ngắn hạn, đầu tư dài hạn. Cho vay Đầu tư Ngân hàng thương mại Tiền gửi tiết kiệm Mua kỳ phiếu, trái phiếu Hoạt động trung gian tín dụng (huy động và cho vay) đem lại phần lớn lợi tức cho các NHTM, nhưng nguồn lợi quan trọng thứ hai sau cho vay là lợi tức thu được từ các khoản đầu tư. Trong các hình thức đầu tư của NHTM thì đầu tư vào các loại chứng khoán như kỳ phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ là phổ biến nhất. Ngoài ra, các NHTM còn đầu tư vào các loại hình tài sản khác như bất động sản, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị. Ngoài mục tiêu nâng cao lợi nhuận, hoạt động đầu tư của các NHTM còn nhằm mục đích đa dạng hóa hoạt động, đa dạng hóa đầu tư, phục vụ cho các mục đích thanh khoản, vật ký quỹ cho các tài sản nợ ký thác. Mỗi ngân hàng đều có chính sách hoạt động, chiến lược phát triển riêng, song các yếu tố cơ bản quyết định mục tiêu trong vai trò trung gian tài chính của các NHTM là nhu cầu thanh khoản, lợi nhuận và sự sẵn sàng chấp nhận rủi ro của nhà quản trị. Với chức năng trung gian tài chính, các NHTM đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của toàn xã hội, giúp huy động được các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi để phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế. Đối - 11 - với các nước có nền kinh tế đang phát triển, hoạt động chủ yếu của các NHTM là huy động và cho vay thì chức năng trung gian tài chính, trong đó có trung gian tín dụng càng trở nên quan trọng và có ý nghĩa rất lớn trong công cuộc phát triển kinh tế của quốc gia đó. 2.2.2 Chức năng trung gian thanh toán : Cùng với sự phát triển của hệ thống thương mại quốc tế như ngày nay thì chức năng trung gian thanh toán của các NHTM có ý nghĩa và vai trò hết sức to lớn trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và mở rộng giao thương quốc tế. Với tầm hoạt động mang tính đa quốc gia, mạng lưới chi nhánh và quan hệ đại lý rộng khắp cho phép các NHTM đảm đương tốt chức năng trung gian thanh toán. Hình 2.2 : Chức năng trung gian thanh toán của NHTM. Các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế, các đơn vị sự nghiệp… Người thụ hưởng, người bán hàng, người cung cấp dịch vụ (các công ty, xí nghiệp, tổ chức, cá nhân…) Ngân hàng thương mại Lệnh chuyển tiền Giấy báo có hoặc thông báo nhận tiền Trong lịch sử phát triển kinh tế, khi chưa có hoạt động ngân hàng hoặc có nhưng chưa thực hiện chức năng trung gian thanh toán, thì các khoản giao dịch thanh toán giữa người mua và người bán được thực hiện trực tiếp cho nhau, do đó các hoạt động thương mại (mua bán và trao đổi hàng hóa) chỉ thực hiện trong phạm vi hẹp, các hoạt động thương mại quốc tế còn ít, chủ yếu được thực hiện ở quy mô nhỏ, tính hiệu quả không cao, chi phí di chuyển lớn, việc thẩm định uy tín của đối tác trở nên khó khăn, các hoạt động buôn bán luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro. - 12 - Khi các NHTM ra đời và thực hiện chức năng trung gian thanh toán thì dần dần các giao dịch thanh toán giữa các cá nhân, các tổ chức được thực hiện thông qua ngân hàng. Chức năng trung gian thanh toán của ngân hàng giúp cho các tổ chức, cá nhân sử dụng dịch vụ này tiết kiệm được chi phí di chuyển, hạn chế thanh toán tiền mặt, tiết kiệm được chi phí lưu thông cho bản thân và cho cả nền kinh tế, giảm được rủi ro so với việc sử dụng phương thức thanh toán truyền thống, giúp các cá nhân, tổ chức đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. 2.2.3 Chức năng cung cấp các dịch vụ ngân hàng : Ngày nay, hầu hết các NHTM đều thực hiện hai chức năng trung gian tài chính (trong đó có trung gian tín dụng) và chức năng trung gian thanh toán. Tuy nhiên, do nhu cầu phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh, các NHTM đã từng bước tạo lập và cung ứng nhiều dịch vụ đi kèm, mang lại những tiện ích thiết thực, góp phần nâng cao chất lượng các hoạt động kinh doanh. Có thể nói rằng, thành công của một ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào khả năng xác định chính xác các dịch vụ mà nền kinh tế có yêu cầu, đồng thời thực hiện cung cấp các dịch vụ đó kịp thời, hiệu quả và bán chúng với một mức giá cạnh tranh. Với một ngân hàng hiện đại thì việc cung cấp kịp thời các dịch vụ tiện ích là điều kiện cần thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động. Các dịch vụ đó có thể được chia làm hai nhóm, các dịch vụ truyền thống, có quá trình hình thành và phát triển lâu dài như hoạt động trao đổi tiền, chiết khấu thương phiếu, cho vay thương mại, bảo quản vật có giá, tài trợ các hoạt động của chính phủ, cung cấp tài khoản giao dịch, cung cấp các dịch vụ ủy thác…; và các dịch vụ mới phát triển gần đây như cho vay tiêu dùng, tư vấn tài chính, tư vấn đầu tư, quản lý tiền mặt, dịch vụ thuê mua thiết bị, cho vay dự án, bán các dịch - 13 - vụ bảo hiểm, cung cấp kế hoạch hưu trí, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư, môi giới chứng khoán… Hình 2.3 : Chức năng cung cấp các dịch vụ ngân hàng của NHTM. Ngân hàng thương mại Chức năng bảo hiểm Chức năng môi giới Chức năng đầu tư và bảo lãnh Chức năng tư vấn Chức năng tiết kiệm Chức năng lập kế hoạch đầu tư Chức năng trung gian tín dụng Chức năng trung gian thanh toán Chức năng quản lý tiền mặt Chức năng khác… Trong một nền kinh tế năng động, một xã hội phát triển và thịnh vượng thì nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngân hàng là rất lớn. Đối với các nước đang phát triển, có thể các nhu cầu này (trừ các nhu cầu về tín dụng) chưa nhiều, song trong định hướng phát triển lâu dài từ kinh nghiệm của các nước tư bản phát triển thì các nhu cầu này sẽ không ngừng phát triển theo tiến trình phát triển kinh tế – xã hội, doanh số và lợi nhuận của mảng hoạt động này sẽ dần chiếm tỷ trọng đáng kể và trở nên chính yếu trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. 2.3 Vai trò của NHTM trong phát triển kinh tế : Khi kinh tế hàng hoá càng phát triển thì quan hệ cung cầu càng trở nên phổ biến trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội. Quan hệ cung - 14 - cầu về vốn có vai trò quan trọng trong thúc đẩy và phát triển kinh tế, thúc đẩy các mối quan hệ khác phát triển. Do yêu cầu điều tiết các mối quan hệ cung cầu về vốn, đòi hỏi phải có một tổ chức trung gian để tập hợp các khoản cung về vốn và phân phối các khoản cầu về vốn. Chính vì thế, trong nền kinh tế xuất hiện một ngành kinh doanh đặc biệt đó là kinh doanh tiền tệ, được đảm trách bởi những đơn vị chuyên hoạt động trong lĩnh vực này, đó là các NHTM. Từ các chức năng cơ bản của NHTM cho thấy, NHTM là tổ chức tài chính trung gian rất quan trọng của nền kinh tế. Khi nền kinh tế càng phát triển thì các dịch vụ ngân hàng càng đi sâu vào đời sống xã hội. Phần lớn người dân đều chịu tác động của NHTM cho dù họ là người gửi tiền, người đi vay, hay đơn giản họ đang làm việc cho một tổ chức có vay vốn và sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. Ngày nay, ngân hàng là người cho vay chủ yếu đối với hàng triệu hộ tiêu dùng (cá nhân, hộ gia đình), hàng triệu tổ chức kinh tế, tổ chức kinh tế – xã hội (công ty, xí nghiệp, các tổ chức đoàn thể) và với hầu hết các cơ quan chính quyền (tỉnh, thành phố, thậm chí cả chính phủ). Đối với các cá nhân, tổ chức hoạt động kinh doanh thì NHTM là nơi cung cấp tín dụng cơ bản, phục vụ nhu cầu vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh như mua và dự trữ hàng hóa, trả lương cho người lao động, ứng vốn cho các đối tác… và khi cần các thông tin về tài chính, lập kế hoạch tài chính, tư vấn đầu tư, tìm hiểu thị trường, họ thường tìm đến ngân hàng để nhận được những thông tin cần thiết. Với chức năng là một trung gian tài chính, các NHTM đã tham gia và thực hiện các hoạt động đầu tư thông qua thị trường chứng khoán, gián tiếp cung cấp vốn cho các tổ chức kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn cho chính phủ, các chính quyền địa phương. Trong vài thập kỷ trở lại đây, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, NHTM là một trong những thành viên quan trọng nhất trên thị trường trái phiếu do chính phủ, các chính quyền địa phương phát hành để tài trợ cho các - 15 - công trình xã hội như trường học, bệnh viện, đường xá, sân bay, bến cảng, hệ thống điện, nước, vận tải công cộng, hỗ trợ xuất khẩu thông qua các chương trình khuyến khích phát triển của chính phủ. Theo báo cáo của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) năm 2003, năng lực tài chính – ngân hàng mà đặc biệt là trình độ phát triển và khả năng cạnh tranh của hệ thống NHTM là một trong các chỉ tiêu cơ bản đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia, trình độ phát triển và khả năng hội nhập kinh tế của quốc gia đó. Một trong những giải pháp để thúc đẩy và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia là phát triển mạnh mẽ các dịch vụ tài chính – ngân hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các NHTM trong tiến trình hội nhập quốc tế. Cùng với những cải cách kinh tế, cải cách trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng đã làm nên những thay đổi đáng kể bộ mặt kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây. Kinh tế Việt Nam đã liên tục tăng trưởng và duy trì ở mức cao, trở thành một trong những nước có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Cải cách và nâng cao hiệu quả hoạt động cho hệ thống ngân hàng, góp phần nâng cao hiệu quả thị trường tài chính đang là mục tiêu hết sức quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế và tiến trình hội nhập của Việt Nam. Xin lấy lời ông Stephen Green – Tổng Giám đốc Ngân hàng Hồng Kông và Thượng Hải (HSBC), nhân dịp đến thăm và dự khai trương chi nhánh Hà Nội, chi nhánh lớn thứ hai của tập đoàn tại Việt Nam để khẳng định lại vai trò của hệ thống ngân hàng nói chung và của các NHTM nói riêng trong phát triển kinh tế : “Rất quan trọng cho bất kỳ nền kinh tế nào nếu có một hệ thống ngân hàng vững chãi và mạnh mẽ, một hệ thống có thể chống đỡ được mọi sự dao động bất thường không thể tránh khỏi của dòng lưu thông tiền tệ và có thể chủ định được lượng tiền đưa vào lưu thông”. - 16 - 2.4 Bối cảnh chung của ngành ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay : Nền kinh tế nước ta đã trải qua gần 20 năm đổi mới, chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong gần 20 năm ấy chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều mặt. Những thành tựu đó được đặt trong tiến trình hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế thế giới. Nhìn lại những thành tựu đạt được trong bối cảnh chung như vậy, nước ta vẫn là nước nghèo, lạc hậu, nằm ở nhóm dưới của các nước đang phát triển. Chúng ta đang cần phải có những nỗ lực vượt bậc với những giải pháp đồng bộ từ nhiều phía, để có được những bước đi dài, tiến bộ, theo kịp những nước có trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới. Ngành ngân hàng Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh đó, đã 13 năm chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp, đã tách hoạt động ngân hàng chính sách ra khỏi chức năng kinh doanh của các NHTM. Cuối năm 2004, trên cả nước đã có 5 NHTMNN, 25 NHTMCP đô thị, 12 NHTMCP nông thôn, 5 ngân hàng liên doanh, 28 chi nhánh NHNNg, 44 văn phòng đại diện NHNNg, 5 công ty tài chính, 9 công ty cho thuê tài chính và một hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân rộng khắp trên cả nước. Hệ thống NHTM ở nước ta cũng đã trải qua khoảng thời gian từ 5-7 năm thực hiện chấn chỉnh và tái cơ cấu. Các NHTMCP đã được chấn chỉnh, xử lý, sắp xếp lại, những ngân hàng yếu kém đã được giải thể, thu hồi giấy phép hoạt động, sáp nhập với các NHTMCP khác, hoặc chuyển từ hình thức NHTMCP đô thị sang NHTMCP nông thôn. Các NHTMNN cũng đang trong quá trình cơ cấu lại cả về mặt tổ chức hoạt động và khả năng tài chính, đẩy nhanh quá trình xử lý nợ tồn đọng, được cấp bổ sung vốn điều lệ bằng ngân sách nhà nước. Chỉ tính riêng trong năm 2004, các NHTMNN đã được cấp bổ sung 3.294,9 - 17 - tỷ đồng vốn điều lệ, nâng tổng số vốn điều lệ cấp bổ sung cho các NHTMNN lên 12.641,2 tỷ đồng. Qua thời gian chấn chỉnh, kết quả hoạt động kinh doanh của các NHTM nước ta đã được nâng lên một cách rõ rệt cả về chất lẫn về lượng. Hệ thống ngân hàng đã dần hội nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế, có quan hệ hợp tác với nhiều nước, nhiều tổ chức quốc tế và khu vực, dần dở bỏ các rào cản trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng, tạo ra sự tin cậy cho các nhà đầu tư nước ngoài vào môi trường đầu tư tại Việt Nam. Dù đã có nhiều nỗ lực song chặng đường gian nan của các NHTMVN vẫn còn phía trước, còn nhiều việc phải làm để có thể tham gia sòng phẳng vào môi trường cạnh tranh quốc tế. Về môi trường kinh doanh : Hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam nằm trong bối cảnh nền kinh tế đang chuyển đổi, môi trường pháp lý chưa đồng bộ, chưa tiệm cận được với các quy định và chuẩn mực quốc tế. Quá trình hội nhập sẽ đưa các NHTMVN vào guồng cạnh tranh gay gắt với các chi nhánh, NHNNg tại Việt Nam, những đối thủ ưu việt về trình độ quản lý, trình độ công nghệ, năng lực tài chính, quy mô hoạt động. Chúng ta đang nói về quá trình hội nhập quốc tế của ngành ngân hàng, nhưng rất có thể trong thập niên đầu của thế kỷ này, quá trình hội nhập chỉ diễn ra một chiều, khả năng mở rộng hoạt động của các NHTMVN ra thị trường thế giới sẽ có nhiều khó khăn. Về trình độ quản lý và phát triển nguồn nhân lực : Mặc dù đã giành nhiều quan tâm trong vấn đề phát triển nguồn nhân lực, song cách thức quản lý và trình độ đội ngũ lao động chưa theo kịp yêu cầu của ngân hàng hiện đại. Trình độ công nghệ thông tin, trình độ ngoại ngữ rất yếu so với các nước trong khu vực. Vấn đề này càng trở nên nghiêm trọng hơn ở các NHTMNN do những bất cập trong cơ chế quản lý, hiện tượng chảy máu chất xám diễn ra phổ biến và nằm ngoài khả năng kiểm soát của những nhà quản trị điều hành trực tiếp. Rủi - 18 - ro về đạo đức ở các ngân hàng này là rất lớn, cần có những định hướng và biện pháp cụ thể để giải quyết vấn đề này. Năng lực tài chính : Trong thời gian qua các NHTMVN đã không ngừng nỗ lực trong phát triển quy mô nguồn vốn kinh doanh, nhưng nhìn chung năng lực tài chính của hệ thống các NHTMVN ._.vẫn còn yếu. Vốn tự có, vốn điều lệ còn thấp, trong khi đó hoạt động kinh doanh vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro trong hoạt động tín dụng. Với điều kiện như vậy, khả năng huy động vốn và đầu tư tín dụng sẽ có nhiều hạn chế, hạn chế trong khả năng phát triển mở rộng, hạn chế trong quá trình đổi mới và hiện đại hóa công nghệ ngân hàng. Trình độ công nghệ : Xuất phát điểm trình độ kinh tế nước ta thấp và trình độ công nghệ ngân hàng cũng trong điều kiện như vậy. Đổi mới và hiện đại hóa công nghệ đòi hỏi phải song hành với tiềm lực tài chính và trình độ nguồn nhân lực, song đây là là những vấn đề mà các NHTMVN vừa thiếu lại vừa yếu. Đặc điểm này đã làm cho các NHTMVN còn nặng với các sản phẩm dịch vụ truyền thống, chất lượng dịch vụ không cao, công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát gặp nhiều khó khăn. Nếu không khéo chúng ta sẽ rơi vào vòng lẩn quẩn của lạc hậu. Đứng trước thềm hội nhập, ngành ngân hàng nước ta còn tồn tại rất nhiều khó khăn nhưng lại mở ra những vận hội to lớn. Trong quá trình đó, sức ép cạnh tranh và yêu cầu đổi mới là rất cấp thiết, song chúng ta cũng có những lợi thế nhất định đối với thị trường trong nước, như khả năng am hiểu thị trường, am hiểu tập quán kinh doanh, khả năng phát triển mạng lưới, chiếm lĩnh thị trường, được sự hỗ trợ từ nhiều phía và có một quá trình chuẩn bị tương đối lâu dài. - 19 - CHƯƠNG 3 : NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 3.1 Lý luận về cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng : 3.1.1 Khái niệm về cạnh tranh : Trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, chúng ta đã nói rất nhiều, bàn nhiều về cạnh tranh, cạnh tranh trong nội tại nền kinh tế, cạnh tranh với các đối thủ đến từ bên ngoài, cạnh tranh để tồn tại phát triển, cạnh tranh để tự hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động, cạnh tranh để củng cố và tăng cường các lợi ích kinh tế. Lịch sử phát triển kinh tế đã chỉ ra rằng, nguồn gốc của cạnh tranh xuất phát từ hai điều kiện cơ bản nhất, đó là phân công lao động xã hội và tính đa nguyên chủ thể lợi ích kinh tế. Điều này đã làm xuất hiện các cuộc đấu tranh giành giật lợi ích kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa, cung cấp dịch vụ cũng như các tổ chức trung gian, thực hiện phân phối lại các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Cuộc đấu tranh đó dựa trên sức mạnh về tài chính, kỹ thuật công nghệ, chất lượng đội ngũ lao động, quy mô hoạt động của từng chủ thể. Đối lập với cạnh tranh là độc quyền. Nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành ngân hàng nói riêng đã qua đi rồi thời độc quyền. Kể từ khi mở cửa hội nhập kinh tế, chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, đã bắt đầu xuất hiện cạnh tranh trong nội bộ nền kinh tế, nội bộ ngành, dần xuất hiện yếu tố cạnh tranh nước ngoài và mang tính quốc tế. Mặc dù vẫn còn những hạn chế nhất định đối với các tổ chức nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng, song chúng ta đã ý thức rằng hội nhập quốc tế là một hiện thực và tất yếu, chúng ta đang nỗ lực tham gia các tổ chức, hiệp hội kinh tế quốc - 20 - tế, chuẩn bị các điều kiện để từng bước thực hiện các cam kết song phương và đa phương. Do đó, sức cạnh tranh ngày càng lớn, càng khốc liệt, cạnh tranh để duy trì và tăng cường lợi ích kinh tế, cạnh tranh để tự hoàn thiện mình, đảm bảo cho quá trình tồn tại và phát triển lâu dài, hướng tới hoạt động với phạm vi và quy mô đa quốc gia, thực hiện tốt các nhiệm vụ kinh tế và sứ mệnh chính trị của đất nước. Một doanh nghiệp, một tổ chức kinh tế muốn xác định được xu hướng cạnh tranh, loại hình cạnh tranh, phương thức cạnh tranh của ngành mình đang hoạt động thì việc đầu tiên là phải xác định các khuynh hướng ảnh hưởng đến cạnh tranh, xu hướng vận động của nền kinh tế, xu hướng vận động của ngành và được đặt trong mối tương quan chung của định hướng phát triển quốc gia, xu hướng phát triển của thế giới, từ đó có được những nhận thức đúng đắn để xác định đối thủ cạnh tranh của mình là ai, tiềm lực và lợi thế của họ là gì… Trên cơ sở đó, hoạch định cho mình định hướng và xây dựng phương thức cạnh tranh thích hợp, đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu đề ra. 3.1.2 Các khuynh hướng ảnh hưởng tới cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng 3.1.2.1 Quá trình toàn cầu hóa kinh tế dẫn đến quá trình toàn cầu hóa hoạt động ngân hàng : Thực tế cho thấy toàn cầu hóa kinh tế là một động lực mạnh mẽ thôi thúc tiến trình hội nhập của các quốc gia, đặc biệt là việc hội nhập trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Trong quá trình đó, các NHTM đã không ngừng mở rộng quy mô hoạt động, mở rộng đối tượng khách hàng bằng cách vươn tới những thị trường xa hơn, vượt ra ngoài khuôn khổ quốc gia. Một trong những tiêu chuẩn để đánh giá mức độ hội nhập và khả năng phát triển của NHTM là tính đa quốc gia trong phạm vi hoạt động kinh doanh. Vì lẽ đó, nhiều chi nhánh của các NHTM - 21 - đã được mở ra trên khắp các châu lục, nhiều vụ hợp nhất, sáp nhập đã diễn ra giữa các NHTM, quy mô trung bình của các NHTM bắt đầu tăng lên đáng kể. Xu hướng các NHTM lớn, giàu tiềm lực tài chính đang tìm mọi cách thâm nhập, thôn tính các NHTM nhỏ ở những quốc gia, nơi mà họ đến để tìm kiếm các cơ hội kinh doanh. Đây được xem là giải pháp chủ yếu trong việc thâm nhập thị trường cung cấp dịch vụ ngân hàng ở các nước đang phát triển của các ngân hàng lớn, tạo ra tính đa quốc gia trong hình thức sở hữu của các NHTM. Chính xu hướng phi quản lý hoá, sự giảm bớt các quy định, các hàng rào kiểm soát của các chính phủ đã đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Những lợi ích mang lại từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã giúp cho các NHTM năng động hơn, cạnh tranh mạnh mẽ hơn. Phạm vị cạnh tranh từ lâu đã không còn giới hạn trên phạm vi quốc gia mà diễn ra ở khắp các châu lục. Trong cuộc chơi này, các NHTM ở các nước tư bản phát triển, có quy mô lớn, mạnh về tiềm lực tài chính, giàu kinh nghiệm trong cạnh tranh quốc tế sẽ có nhiều lợi thế hơn so với các ngân hàng ở các nước đang phát triển, nguy cơ bị thôn tính của các ngân hàng ở những quốc gia này dễ xảy ra hơn, song nó cũng tạo ra những động lực nhất định để các ngân hàng có quy mô vừa và nhỏ ý thức hơn trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động, nâng vị thế của ngân hàng mình lên tầm cao mới. 3.1.2.2 Đòi hỏi của khách hàng trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ : Xu hướng quốc tế hoá hoạt động ngân hàng đã đặt các NHTM trước áp lực rất lớn của sự cạnh tranh, không những phải cạnh tranh với chính nó mà còn phải cạnh tranh với các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác như các công ty tài chính, các quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm, bưu điện… Xu hướng này ảnh hưởng rất lớn đến cở sở khách hàng của các ngân hàng và tương lai của nó. Trong hoạt động kinh doanh, hầu hết các ngành kinh tế nói chung và lĩnh vực tài chính – - 22 - ngân hàng nói riêng đều lấy khách hàng làm đối tượng và mục tiêu phục vụ, họ đã không ngừng nỗ lực trong việc đổi mới và xây dựng mô hình phục vụ hướng tới khách hàng, thỏa mãn tối đa các nhu cầu của khách hàng dựa trên các giới hạn chi phí cho phép. Do đó, những đòi hỏi của khách hàng trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ đã ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của các NHTM. Đời sống kinh tế ngày càng phát triển, thu nhập của người dân ngày càng cao, nhu cầu và đòi hỏi của họ đối với các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng ngày càng phải hoàn thiện, giá trị gia tăng mang lại từ các sản phẩm và dịch vụ đó ngày càng nhiều. Chúng ta có thể nhìn thấy vấn đề này từ một thực tế, ví dụ như tốc độ đô thị hóa nhanh, số lượng người lao động trẻ học tập và làm việc tại các đô thị lớn ngày càng nhiều, nhu cầu về nhà ở và phương tiện đi lại tăng, đòi hỏi các NHTM phải có những sản phẩm được thiết kế phù hợp để đáp ứng các yêu cầu này. Hay như tuổi thọ bình quân của người dân ngày càng tăng, tỷ lệ dân số già ngày càng nhiều, xuất hiện các nhu cầu lên kế hoạch tài chính và hưu trí cho người lớn tuổi. Rõ ràng với các nhu cầu như vậy, đòi hỏi các ngân hàng phải nhạy cảm, thấu hiểu và đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của khách hàng. Trong điều kiện thị trường tài chính phát triển như ngày nay đã làm xuất hiện nhiều kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp. Họ có quyền lựa chọn phương thức và kênh huy động vốn sao cho chi phí sử dụng vốn là thấp nhất, hướng tới mục tiêu tối đa hoá các lợi ích kinh tế. Nhiều doanh nghiệp lớn, là những khách hàng hoạt động kinh doanh tốt và vay vốn lớn của các ngân hàng, trong những năm gần đây đã từ bỏ phương thức huy động vốn bằng cách vay trực tiếp để tự huy động vốn thông qua các thị trường phi ngân hàng như thị trường chứng khoán, thị trường mở. Sự thay đổi đó không những làm giảm doanh thu trong hoạt động cho vay mà còn làm thay đổi cơ cấu doanh mục của các ngân hàng. Các khoản cho vay lớn, chất lượng cao trên sổ sách giảm dần, các khoản - 23 - cho vay nhỏ lẻ, chất lượng thấp, rủi ro cao tăng lên. Các NHTM cần phải có những giải pháp để hạn chế những rủi ro do xu hướng này mang lại như tăng cường chất lượng và hiệu quả thẩm định các khoản vay, phát triển thêm nhiều dịch vụ và sản phẩm mới để tăng thu và giảm thiểu rủi ro. 3.1.2.3 Những thay đổi mang tính cách mạng trong công nghệ ngân hàng : Đáp ứng sự hiểu biết và đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng, sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục dịch vụ tài chính của các NHTM đã được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ những thay đổi mang tính cách mạng trong công nghệ ngân hàng. Từ nhiều năm trở lại đây, các NHTM đã và đang xúc tiến quá trình ứng dụng các hệ thống tự động với độ tin cậy cao, để thay thế cho các hệ thống vận hành dựa trên lao động thủ công, đặc biệt trong lĩnh vực nhận tiền gửi, thanh toán bù trừ, hệ thống máy rút tiền tự động, hệ thống xử lý, thống kê và tổng hợp các giao dịch hàng ngày. Những thay đổi trong công nghệ ngân hàng không những mang lại sự nhanh chóng và tiện ích trong công tác thu hút và đáp ứng tốt các nhu cầu khách hàng mà còn giúp các NHTM hạn chế được sự tăng cao trong chi phí hoạt động. Các NHTM đang ngày càng sử dụng nhiều vốn và chi phí cố định vào các thiết bị và phương tiện hiện đại để dần thay thế con người trong những lĩnh vực có giao dịch lớn. Dù vậy, trong một số lĩnh vực hoạt động của các NHTM, đặc biệt là sự tồn tại một tỷ lệ lớn khách hàng vẫn ưa chuộng hình thức cung cấp dịch vụ thông qua con người, yếu tố con người vẫn duy trì được vai trò rất lớn và mang tính quyết định trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Có thể nói rằng sự phát triển công nghệ đã giúp cho các NHTM có được những bước đi dài trong đột phá nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu của khách hàng, phục vụ tốt hơn cho công tác thống kê, phân tích hiệu quả các hoạt - 24 - động kinh doanh. Song những tiến bộ của công nghệ chỉ có thể phát huy, tạo ra những lợi thế vượt trội khi có sự quản lý và kiểm soát hiệu quả của con người. 3.1.2.4 Sự gia tăng nhanh chóng danh mục dịch vụ ngân hàng : Như chúng ta thấy, những đòi hỏi của khách hàng trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ đã gây sức ép trong việc đa dạng hóa danh mục dịch vụ của các NHTM. Trong những năm gần đây các NHTM đã không ngừng mở rộng và làm phong phú danh mục dịch vụ tài chính để thoả mãn các nhu cầu của khách hàng. Dưới áp lực cạnh tranh đang ngày càng gia tăng của các tổ chức tài chính khác (như công ty tài chính, bảo hiểm, bưu điện…), sự hiểu biết và đòi hỏi cao hơn của khách hàng, cũng như những tiến bộ và thay đổi nhanh chóng của công nghệ đã góp phần không nhỏ trong việc đa dạng hóa danh mục dịch vụ tài chính. Các sản phẩm, dịch vụ cung cấp được thiết kế chuyên biệt, mang nhiều tiện ích và phù hợp với từng nhóm khách hàng có những đặc điểm tương đồng nhau. Đối với những nước đang phát triển, trình độ phát triển của lĩnh vực tài chính ngân hàng còn thấp như Việt Nam thì sự gia tăng nhanh chóng danh mục dịch vụ tài chính ngân hàng được thể hiện rõ nét như ứng dụng các công cụ tài chính phái sinh (quyền chọn vàng, quyền chọn ngoại tệ), phát triển các sản phẩm dịch vụ cá nhân như cho vay mua nhà, phương tiện di chuyển dưới hình thức trả góp, phát triển hệ thống máy rút tiền tự động (ATM), phát triển dịch vụ thu hộ tiền điện nước, điện thoại thông qua hệ thống thanh toán tự động. Sự phát triển này chịu áp lực rất lớn từ đòi hỏi nâng cao chất lượng dịch vụ của khách hàng và được hỗ trợ tích cực từ những cải tiến công nghệ hiện đại. 3.1.2.5 Sự gia tăng chi phí vốn trong hoạt động ngân hàng : Một trong những nguồn vốn cơ bản, chiếm tỷ trọng lớn, ảnh hưởng trọng yếu đến kết quả hoạt động kinh doanh của các NHTM là nguồn huy động tiết - 25 - kiệm và tài khoản tiền gửi khách hàng. Sự gia tăng cạnh tranh từ các lĩnh vực tài chính phi ngân hàng như các công ty bảo hiểm, quỹ hỗ tương, công ty chứng khoán… đã làm cho khách hàng có nhiều sự lựa chọn hơn, các NHTM trở nên khó khăn hơn trong việc thu hút các nguồn tiền gửi này. Một trong những giải pháp để “lập lại trật tự” mà các NHTM thường áp dụng là tăng lãi suất tiền gửi để thu hút khách hàng. Phương thức này làm tăng chi phí bình quân thực tế từ các tài khoản tiền gửi, các nguồn huy động tiết kiệm. Có thể nói rằng khách hàng của các NHTM ngày càng được giáo dục tốt hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn, các tài khoản tiền gửi từ các NHTM có thể dễ dàng bị lôi kéo bởi các đối thủ cạnh tranh, thu nhập của những khoản tiền gửi liên tục thay đổi theo điều kiện thị trường. Thêm vào đó, để đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng, các chính phủ yêu cầu các ngân hàng cần có nhiều vốn chủ sở hữu hơn, đây là một trong những nguồn vốn đắt đỏ do yêu cầu tỷ suất lợi nhuận mang lại từ các cổ đông để tài trợ cho các tài sản của mình. Một trong những tiêu chí để đánh giá xếp hạng các NHTM là tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, cũng áp lực cho các NHTM phải duy trì tỷ lệ này theo chuẩn mực tối thiểu của thông lệ quốc tế, điều đó làm cho chi phí sử dụng vốn của các NHTM không ngừng tăng lên. Để duy trì được hiệu quả hoạt động, buộc các NHTM phải tìm cách cắt giảm chi phí như tinh giảm nhân công, thay thế các thiết bị lỗi thời bằng hệ thống xử lý hiện đại, nâng cao khả năng cạnh tranh bằng cách tăng thu nhập trả cho công chúng gửi tiền. Tuy vậy, việc gia tăng chi phí vốn nêu trên cũng bị giới hạn trong những chừng mực nhất định, phụ thuộc rất lớn vào diễn biến và tỷ suất sinh lợi bình quân của nền kinh tế. - 26 - 3.2 Xu hướng cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam : 3.2.1 Những điều kiện khách quan đòi hỏi hệ thống NHTMVN phải nhanh chóng nâng cao năng lực cạnh tranh : 3.2.1.1 Lợi ích của ngành ngân hàng Việt Nam khi tham gia hội nhập quốc tế Không phải ngẫu nhiên mà chúng ta nói rằng, hội nhập quốc tế là con đường bắt buộc và duy nhất để phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta. Luận điểm này xuất phát từ thực tiễn khách quan và những chủ động trong định hướng phát triển đất nước. Hội nghị lần thứ 29 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới tổ chức tại Davos, Thụy Sỹ từ ngày 28 tháng 01 đến ngày 02 tháng 02 năm 1999 đã khẳng định : “toàn cầu hoá không còn là một xu thế nữa mà đã trở thành một thực tế”. Chủ trương hội nhập, tham gia các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới của Việt Nam, đặc biệt là gia nhập WTO đã được Bộ Chính trị khẳng định tại Nghị quyết 07/NQ-TW ngày 27/11/2001 “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh…”. Lợi ích của hội nhập quốc tế không chỉ là vấn đề đặt ra với Việt Nam mà là với tất cả các quốc gia trên thế giới. Quá trình hội nhập cho phép các nền kinh tế, các tổ chức tài chính – ngân hàng phân phối hiệu quả các nguồn lực, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống ngân hàng và các trung gian tài chính khác. Thông qua quá trình hội nhập quốc tế sẽ thúc đẩy quá trình cải cách, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực tài chính – ngân hàng cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Gây sức ép với các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc dở bỏ các quy định mang tính trói buộc, làm trì trệ khối NHTMNN, những tổ chức có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế ở nước - 27 - ta thời gian qua. Giúp các nhà hoạch định chính sách có tầm nhìn và tư duy tốt hơn trong công tác quản lý vĩ mô và xây dựng chiến lược phát triển. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng sẽ mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế về các vấn đề tài chính – tiền tệ, các diễn biến kinh tế, xu hướng vĩ mô, chiến lược vi mô. Qua đó có điều kiện để các NHTMVN quảng bá thương hiệu, nâng cao uy tín và vị thế cạnh tranh trên trường quốc tế. Cũng từ đó, các NHTMVN có điều kiện tranh thủ các dòng vốn đầu tư quốc tế để củng cố và nâng cao sức mạnh tài chính, tranh thủ trình độ công nghệ và kinh nghiệm quản lý quốc tế từ những nước phát triển, tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách ngân hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh. Thông qua hội nhập, các NHTMVN có điều kiện mở rộng các hoạt động kinh doanh quốc tế, thúc đẩy quá trình chuyên môn hóa sâu rộng các nghiệp vụ ngân hàng, khả năng tăng cường các biện pháp giám sát và kiểm soát rủi ro. Tham gia hội nhập quốc tế sẽ có thêm điều kiện đào tạo đội ngũ cán bộ ngân hàng, có cơ hội học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn. Qua hội nhập, các NHTMVN được tiếp cận với các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tiên tiến, ứng dụng các quy trình nghiệp vụ hiện đại, nâng cao kỹ năng phân tích và xét duyệt các khoản tín dụng, giảm thiểu rủi ro trong các hoạt động kinh doanh. 3.2.1.2 Các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia : Quá trình hội nhập quốc tế sẽ mở ra các cơ hội hợp tác, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, chia sẽ thông tin với các nước về các vấn đề tài chính – tiền tệ, tranh thủ tiếp thu công nghệ, kỹ năng quản lý ngân hàng hiện đại, tiếp cận được các thông lệ và môi trường kinh doanh quốc tế, mang lại những cơ hội nâng cao hiệu quả và phát triển mở rộng, qua đó nâng cao uy tín và vị thế của hệ thống NHTMVN. Cho đến nay, nước ta đã ký chính thức hơn 100 hiệp định thương mại - 28 - song phương và cũng ngần ấy hiệp định khuyến khích đầu tư và chống đánh thuế hai lần với các nước và vùng lãnh thổ, có quan hệ thương mại với hơn 160 quốc gia và nền kinh tế, hiện là thành viên của ASEAN, ASEM, APEC và sắp tới là WTO. Hội nhập kinh tế quốc tế đang từng bước trở thành hiện thực đối với nền kinh tế Việt Nam. Tích cực chuẩn bị những điều kiện hội nhập, từng bước mở cửa nền kinh tế là việc cấp thiết phải làm trong chiến lược phát triển quốc gia. Tất cả các cá nhân, tổ chức, các thành phần kinh tế không phân biệt hình thức sở hữu phải ý thức được sức ép cạnh tranh, xây dựng cho mình chiến lược phát triển hợp lý và đặt trong bối cảnh cạnh tranh chung của nền kinh tế, từ đó chủ động hơn trong việc chuẩn bị cho mình những điều kiện cần thiết nhằm phù hợp với yêu cầu của xu thế mới. ™ Một số cam kết liên quan đến lĩnh vực tài chính – ngân hàng mà Việt Nam tham gia trong khuôn khổ Hiệp định khung về hợp tác thương mại dịch vụ của các nước ASEAN (AFAS), bắt đầu thực hiện từ năm 2008 : - Xây dựng môi trường pháp lý của lĩnh vực ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế. - Không hạn chế số lượng nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng. - Không hạn chế tổng giá trị các giao dịch về dịch vụ ngân hàng. - Không hạn chế về tổng các hoạt động tác nghiệp hay tổng số lượng dịch vụ ngân hàng. - Không hạn chế về tổng số người được tuyển dụng của các tổ chức tài chính nước ngoài. - Không có biện pháp hạn chế hay yêu cầu phải mang một hình thức pháp nhân nào cụ thể. - 29 - - Không hạn chế việc tham gia vốn góp của các bên nước ngoài dưới hình thức tỷ lệ phần trăm tối đa số cổ phiếu nước ngoài được nắm giữ. ™ Các cam kết về lĩnh vực tài chính – ngân hàng theo Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ : Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (gọi tắt là BTA) được ký kết tại Washington ngày 13/07/2000, được hạ viện Hoa Kỳ thông qua ngày 03/10/2001, và được tổng thống Hoa Kỳ G.W.Bush ký ngày 16/12/2001. Hiệp định này cũng được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 28/11/2001 bằng Nghị quyết phê chuẩn Hiệp định. Ngày 10/12/2001, Bộ trưởng thương mại hai nước Việt Nam – Hoa Kỳ đã trao đổi công hàm phê chuẩn Hiệp định, đánh dấu ngày chính thức có hiệu lực của BTA. Hiệp định này bao gồm 07 chương, 72 điều và 09 phụ lục, quy định chi tiết về các cam kết mở cửa thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, thương mại điện tử và thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm của hai nước. BTA là một biểu hiện rõ nét về tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam vào hệ thống kinh tế thế giới, góp phần làm chuyển biến tích cực nền kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việc từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, chấp nhận và tuân thủ các cam kết chung trong thương mại quốc tế sẽ là nền tảng nâng cao sức cạnh tranh, tạo ra những cơ sở khai thác hợp lý tiềm lực nền kinh tế, phục vụ hiệu quả cho quá trình phát triển ổn định, lâu dài. Ngoài BTA, Việt Nam đang trong quá trình xúc tiến các thủ tục gia nhập tổ chức thương mại lớn nhất trong hệ thống thương mại toàn cầu, đó là Tổ chức thương mại thế giới (WTO), quy tụ hơn 150 thành viên chính thức và 40 quan sát viên từ khắp các châu lục. Sau chuyến công du thành công của Thủ tướng Việt Nam – Phan Văn Khải đến Hoa Kỳ vào tháng 07 năm 2005, Việt Nam đã có - 30 - được sự hậu thuẫn và cam kết mạnh mẽ từ phía Hoa Kỳ trong việc gia nhập WTO, triển vọng Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO vào cuối năm 2005 là rất lớn. Khi trở thành thành viên chính thức của WTO, thì những cam kết của Việt Nam mang tính rộng rãi hơn, không chỉ rộng rãi đối với các nước mà còn rộng rãi về quy mô, lĩnh vực cam kết. Lúc đó việc mở cửa kinh tế của Việt Nam không chỉ mang tính song phương với Hoa Kỳ theo các quy định tại BTA mà còn đối với tất cả các nước là thành viên của WTO. Theo các bảng chào trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, thì tiến trình mở cửa kinh tế của Việt Nam không chậm hơn các cam kết đã được thỏa thuận trong BTA, thậm chí các nhà đàm phán nước ngoài còn yêu cầu Việt Nam mở cửa hơn nữa thị trường dịch vụ, trong đó có lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Đây là một trong những khó khăn khiến việc đàm phán song phương với Hoa Kỳ, đối tác có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong WTO vẫn chưa thể kết thúc, trong khi đó thời gian của năm 2005 không còn nhiều. Mặc dù đến thời điểm hiện tại Việt Nam chưa gia nhập WTO, nhưng chúng ta có thể lấy những cam kết trong BTA làm mốc, xác định tiến trình chậm nhất mà Việt Nam phải thực hiện theo các cam kết mở cửa khi gia nhập WTO, trong đó có lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Lấy đó làm cơ sở để phân tích những ảnh hưởng và xu hướng cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng thời gian tới, làm cơ sở để các NHTM có những nhận thức tích cực, chuẩn bị tốt những điều kiện ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh, đảm bảo cho quá trình tồn tại, duy trì và mở rộng các lợi ích kinh tế, góp phần thực hiện tốt mục tiêu phát triển quốc gia. • Cam kết về các hình thức pháp lý của tổ chức tín dụng (TCTD) Hoa Kỳ hoạt động tại Việt Nam : - 31 - - Thực hiện ngay khi BTA có hiệu lực (ngày 10/12/2001) : được thành lập các chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ với điều kiện : phải nộp đơn xin phép; vốn do ngân hàng mẹ cấp tối thiểu là 15 triệu USD; ngân hàng mẹ có văn bản bảo đảm chịu mọi trách nhiệm và cam kết của chi nhánh tại Việt Nam. - Trong thời hạn 09 năm kể từ khi BTA có hiệu lực : các ngân hàng Hoa Kỳ có thể thành lập liên doanh với đối tác Việt Nam, trong đó phần vốn của phía đối tác Hoa Kỳ không thấp hơn 30% nhưng không vượt quá 49% vốn pháp định của liên doanh. - Sau 09 năm kể từ khi BTA có hiệu lực : các ngân hàng Hoa Kỳ được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ tại Việt Nam. - Sau 03 năm kể từ ngày BTA có hiệu lực : dành cho phía Hoa Kỳ chế độ đối xử quốc gia đầy đủ đối với quyền tiếp cận ngân hàng trung ương trong các hoạt động tái chiết khấu, swap, forward. - Chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ không được lập các điểm giao dịch phụ thuộc. • Cam kết về lộ trình thực hiện các dịch vụ ngân hàng và tài chính cho phía Hoa Kỳ được hoạt động tại Việt Nam : Theo Phụ lục G mục ii.VI.B – BTA, các dịch vụ ngân hàng và tài chính mà các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ được phép hoạt động kinh doanh tại Việt Nam bao gồm các điểm từ (a) đến (k), kể cả tham chiếu và phân tích tín dụng, tư vấn và nghiên cứu đầu tư, tư vấn về chiến lược và cơ cấu công ty. Có thể nói rằng, các ngân hàng Hoa Kỳ được thực hiện hầu hết các dịch vụ ngân hàng mà các ngân hàng trong nước được thực hiện nhưng có một số dịch vụ còn bị hạn chế theo thời gian. Trong đó đáng chú ý là hạn chế về việc nhận tiền gửi bằng Đồng - 32 - Việt Nam, một hạn chế đã kiềm hãm đáng kể khả năng hoạt động của các ngân hàng Hoa Kỳ nói riêng và các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài nói chung. Bảng 3.1 : Những quy định về việc nhận tiền gửi bằng Đồng Việt Nam của một chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ kể từ khi BTA có hiệu lực. Năm thứ Hạn chế nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ các pháp nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng Hạn chế nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ các thể nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng 1 50% (vốn pháp định chuyển vào) 50% (vốn pháp định chuyển vào) 2 100% 100% 3 250% 250% 4 400% 350% 5 600% 500% 6 700% 650% 7 900% 800% 8 Đối xử quốc gia đẩy đủ. 900% 9 1000% 10 Đối xử quốc gia đầy đủ. (Nguồn : Phụ lục G mục ii phần VI.B, BTA) 3.2.2 Đối thủ cạnh tranh của các NHTMVN : Xét về lâu dài, đối thủ cạnh tranh của các NHTMVN bao gồm các ngân hàng tham gia vào thị trường tài chính – ngân hàng ở Việt Nam và các ngân hàng hoạt động ở các thị trường, nơi mà các NHTMVN sẽ tham gia hoạt động trong tương lai. Tuy nhiên, có một thực tế hiện nay là hầu hết các NHTMVN hiện đang hoạt động chủ yếu dựa vào thị trường trong nước, đến cuối năm 2004 chưa có NHTM trong nước nào mở được chi nhánh ở nước ngoài, và việc này dường như vẫn còn rất xa vời với hầu hết các NHTM ở nước ta. Do đó, cạnh tranh và hoạt động hiệu quả trên “sân nhà” sẽ là nền tảng vững chắc cho những bước tiến ra thị trường quốc tế trong tương lai. - 33 - Nội dung nghiên cứu của phần này chủ yếu tập trung xem xét, đánh giá các đối thủ cạnh tranh của các NHTMVN tại thị trường trong nước. Từ đây có thể nhận diện được đối thủ cạnh tranh trước mắt và chủ yếu của các NHTMVN, đó là các NHTM trong nước, các chi nhánh NHNNg, các ngân hàng liên doanh đang và sẽ hoạt động tại Việt Nam, các ngân hàng 100% vốn nước ngoài sẽ vào hoạt động tại Việt Nam trong thời gian tới, đặc biệt là sau khi Việt Nam thực hiện các cam kết mở cửa lĩnh vực tài chính – ngân hàng trong tiến trình hội nhập quốc tế, cụ thể là thực hiện các cam kết theo BTA, các cam kết theo WTO mà Việt Nam dự kiến tham gia vào cuối năm 2005 hoặc chậm hơn là vào đầu năm 2006. 3.2.2.1 Đối thủ cạnh tranh trong nước : Với việc thừa nhận và xây dựng nền kinh tế theo cơ chế thị trường thì các NHTMCP trong nước đã ra đời, xoá bỏ dần thế độc quyền của các NHTMNN. Đến thời điểm hiện nay, các NHTMCP đã có những bước phát triển nhanh chóng, đóng góp một phần quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế ở nước ta. Đến cuối năm 2004, trên cả nước có 25 NHTMCP đô thị và 12 NHTMCP nông thôn. Sự hình thành và phát triển của các NHTMCP là nhân tố chính và động lực chủ yếu thúc đẩy cạnh tranh trong nội bộ ngành ngân hàng ở nước ta, đặc biệt là nhân tố tác động làm cho các NHTMNN thay đổi cơ chế hoạt động, có cái nhìn tích cực hơn về thị trường, đổi mới tư duy phục vụ khách hàng và không ngừng nỗ lực nâng cao chất lượng hoạt động. Sự phát triển và lớn mạnh nhanh chóng của khối NHTMCP ở Việt Nam thời gian gần đây đã trở thành một lực lượng mới, triển vọng và thực sự có khả năng trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Quy mô nguồn vốn, thị phần huy động, thị phần cho vay, tỷ suất lợi nhuận của khối ngân hàng này đã tăng mạnh trong thời gian qua. Lực lượng này đã, đang và sẽ cạnh tranh mạnh mẽ với các NHTMNN, từng bước giành được những thị phần đáng kể trong các lĩnh vực mà - 34 - trước đây được xem là “đặc quyền” của các NHTMNN như thanh toán quốc tế, tài trợ dài hạn… Bà Phan Bích Vân, Phó Tổng Giám đốc Sacombank nhận định “Trong vòng 3 đến 5 năm tới chúng tôi sẽ phát triển nguồn vốn ngang bằng với các NHTMNN hiện nay”. Có thể nói rằng cạnh tranh nội bộ ngành ngân hàng, cạnh tranh giữa các NHTM trong nước đang ngày càng trở nên quyết liệt hơn. 3.2.2.2 Đối thủ cạnh tranh nước ngoài : Theo các cam kết quốc tế song phương và đa phương mà Việt Nam đã tham gia ký kết, dự kiến ký kết và bắt buộc phải thực hiện trong thời gian tới bao gồm các cam kết theo BTAø, các cam kết gia nhập WTO, thì sau năm 2010 mọi hạn chế về hoạt động kinh doanh, hạn chế về hình thức pháp lý đối với NHNNg hoạt động tại Việt Nam sẽ được dở bỏ. Đối thủ cạnh tranh của các NHTMVN trong tương lai sẽ được tự do kinh doanh, tự do huy động và cung cấp các dịch vụ ngang bằng với các NHTMVN, hình thức hoạt động sẽ bao gồm ngân hàng con 100% vốn nước ngoài, chi nhánh NHNNg, ngân hàng liên doanh, văn phòng đại diện… Mặc dù hiện nay nước ta chưa cho phép thành lập các các ngân hàng 100% vốn nước ngoài, nhưng đến cuối năm 2004 trên cả nước đã có 28 chi nhánh NHNNg, 5 ngân hàng liên doanh và 44 văn phòng đại diện. Những nhà đầu tư này chủ yếu đến từ Hoa Kỳ, Châu Aâu, Châu Á, những nước tư bản có nền tài chính phát triển, có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh đa quốc gia và cạnh tranh qu._.n, thị phần huy động, thị phần cho vay, thị phần thanh toán quốc tế, tỷ suất lợi nhuận bình quân của từng khối và của cả hệ thống ngân hàng. NHNN cần có những thống kê, báo cáo chính xác, kịp thời và công bố rộng rãi những báo cáo đó để các NHTM có thể nắm bắt, đối chiếu, so sánh, xác định được vị thế, từ đó có những điều chỉnh thích hợp để nâng cao khả năng cạnh tranh. Việc tiếp cận với nguồn số liệu thống kê nêu trên, lâu nay luôn là vấn đề khó khăn đối với các nhà quản lý ngân hàng, những người làm công tác nghiên cứu. Điều đó tạo ra sự bất cân xứng thông tin không cần thiết, có thể làm phát sinh tiêu cực. Các NHTM không có được cơ sở để định vị và đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng mình. Đã đến lúc xóa bỏ sự bất cân xứng đến mức vô lý đó. Tiếp tục nâng cao vai trò và chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng (CIC) : Thời gian qua, CIC đã hỗ trợ các NHTM rất nhiều trong việc hạn chế các rủi ro liên quan đến các hoạt động kinh doanh, đặc biệt là rủi ro liên quan đến hoạt động tín dụng, hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho các NHTMVN trong giai đoạn hiện nay. Dù đã có nhiều nỗ lực nhưng các thông tin mà CIC cung cấp chỉ dừng lại ở tình hình quan hệ tín dụng của doanh nghiệp tại các NHTM mà chưa có các thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh, thông tin về các đơn vị thành viên của doanh nghiệp, các thông tin liên quan đến các tranh chấp, uy tín của của doanh nghiệp với các đối tác kinh doanh, các thông tin liên quan đến các rủi ro có thể ảnh hưởng đến khả năng tài chính của doanh nghiệp. Cần phải tăng cường công tác thu thập và lưu trữ thông tin, phải bảo mật tuyệt đối mọi thông tin tiếp nhận từ các NHTM và đối tác khác. Hãy xây dựng CIC thành chỗ dựa tin cậy cho các NHTM, đảm bảo cho việc cung cấp thông tin - 71 - được thông suốt trong cả nước, thông tin cung cấp phải chính xác, kịp thời, giúp các NHTM có được nhận định sâu sát khi ra các quyết định kinh doanh. Dở bỏ những rào cản trong điều hành kinh doanh của các NHTMNN : Cần phải nhanh chóng tháo gỡ những hạn chế, tăng quyền chủ động cho các NHTMNN về các vấn đề chi phí quản lý, chi phí lương, thưởng. Tiền lương phản ảnh đúng hiệu quả công việc của người lao động sẽ có tác dụng khuyến khích nhân viên tăng cường khả năng làm việc, nâng cao trình độ nghiệp vụ và ý thức trách nhiệm hơn với công việc. Rõ ràng đây là vấn đề rất quan trọng, quyết định chất lượng đội ngũ lao động, ảnh hưởng rất lớn đến năng suất và hiệu quả kinh doanh. Song song với quá trình đó, tiếp tục quan tâm để tháo gỡ những khó khăn khác của các NHTMNN do cơ chế gây ra, đặc biệt là trong vấn đề tái cơ cấu tổ chức, những lúng túng trong quá trình cổ phần hóa. 4.3.2 Các giải pháp về phía các NHTM : 4.3.2.1 Nhanh chóng củng cố và nâng cao năng lực tài chính : Thực tế hiện nay là khả năng tài chính, quy mô nguồn vốn của hệ thống NHTMVN là tương đối mỏng. Do đó, việc nhanh chóng tăng vốn tự có, tăng vốn điều lệ có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng, từng bước nâng tỷ trọng vốn tự có so với tổng nguồn vốn lên trên mức tối thiểu 8% theo thông lệ quốc tế. Trong điều kiện thực tế hiện nay có thể áp dụng một số giải pháp sau : Đối với các NHTMNN, có thể kiến nghị với chính phủ dùng nguồn vốn ngân sách để bổ sung vốn điều lệ, tăng vốn kinh doanh. Tuy nhiên, trong điều kiện nguồn vốn ngân sách còn hạn hẹp, có thể thực hiện tăng vốn bằng cách giữ lại lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh hàng năm. Bên cạnh đó, có thể đề xuất, kiến nghị các giải pháp xử lý nợ tồn đọng, xử lý các tài sản không sinh lợi, các - 72 - tài sản thuộc quyền quản lý của ngân hàng nhưng khả năng sinh lợi không cao để bổ sung vốn kinh doanh. Một giải pháp nữa để tăng vốn cho các NHTMNN là thông qua phát hành trái phiếu chính phủ, tài trợ từ nguồn vay nợ nước ngoài. Nếu như công cụ trái phiếu chính phủ chưa có tác dụng làm tăng sức mạnh tài chính tức thời cho các ngân hàng mà phải đợi đến khi các trái phiếu này đáo hạn (thường là sau 5-7 năm) thì giải pháp vay nợ nước ngoài lại mạnh mẽ và mang tính đột phá. Tuy nhiên, việc sử dụng các công cụ này cần phải có những cân nhắc, đáp ứng những yêu cầu cân đối vĩ mô của nền kinh tế như khả năng cân đối ngân sách, cân đối cán cân thanh toán, cán cân vốn, nguồn ngoại tệ và những thay đổi về tỷ giá. Thêm một giải pháp rất có ý nghĩa đối với các NHTMNN trong việc đẩy nhanh quá trình tăng vốn là lành mạnh hóa tài chính ngân hàng, xin chủ trương và nhanh chóng xúc tiến các thủ tục cổ phần hóa. Bán bớt cổ phần theo tỷ lệ cho phép để tăng vốn, mở ra khả năng huy động vốn bằng việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu thông qua thị trường chứng khoán. Đây là giải pháp có thể được sử dụng thường xuyên và lâu dài trong chiến lược phát triển quy mô vốn chủ sở hữu đối với các ngân hàng hoạt động theo hình thức công ty cổ phần. Giải pháp này cũng đã được các ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu Việt Nam thực hiện như Sacombank, ACB, và sắp tới sẽ có một số ngân hàng khác. Tuy nhiên, một điều cần lưu ý khi bán cổ phần cho các nhà đầu tư là nên chọn những nhà đầu tư có uy tín và kinh nghiệm trong lĩnh vực ngân hàng, qua đó có thể giúp chúng ta học hỏi được các kinh nghiệm quản lý ngân hàng hiện đại. Ví dụ, Sacombank đã rất thành công với việc bán cổ phần cho ANZ, IFC và Dragon Capital; ACB cũng có những thành công tương tự khi bán cổ phần cho IFC, Dragon Capital và Connaught Investor… - 73 - Một trong những giải pháp có tính khả thi trong việc tăng vốn chủ sở hữu cho các NHTMVN là sáp nhập các NHTM có quy mô nhỏ lại với nhau, sáp nhập các NHTM nhỏ vào các NHTM có quy mô lớn hơn. Xu hướng này đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới và hình thành nên những tập đoàn tài chính ngân hàng khổng lồ như vụ sáp nhập giữa Chase Mahattan Bank và Chemical Bank, Bank of America và National Bank ở Mỹ, Vereinsbank và Hypobank ở Đức, Bank of Tokyo và Misubishi Bank ở Nhật Bản. Xu hướng này cũng đã diễn ra mạnh mẽ ở khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997, cụ thể NHTW Malaysia đã cho phép vụ sáp nhập 54 định chế tài chính thành 10 tổ chức tài chính mạnh hơn, có quy mô nguồn vốn lớn hơn. Việt Nam cũng đã trải qua một quá trình tái cơ cấu, sắp xếp lại hệ thống NHTM để nâng cao năng lực tài chính, như vụ sáp nhập NHTMCP Nông thôn Tây Đô vào NHTMCP Phương Đông, sáp nhập NHTMCP Nông thôn Cái Sắn (Cần Thơ) vào NHTMCP Phương Nam, sáp nhập NHTMCP Nông thôn Tân Hiệp (Kiên Giang) vào NHTMCP Đông Á… Các NHTMCP có quy mô nguồn vốn nhỏ, khả năng tăng vốn và phát triển mở rộng khó khăn nên xem xét và tính đến giải pháp này vì lợi ích lâu dài. Các NHTMNN được cổ phần hóa cũng như các NHTMCP hiện tại có hoạt động kinh doanh hiệu quả, từng bước áp dụng các chuẩn mực quốc tế vào trong các hoạt động ngân hàng. Tham gia niêm yết ở thị trường chứng khoán trong nước và ở một số thị trường tài chính lớn của khu vực và thế giới như Singapore, New York nhằm tăng cường quảng bá thương hiệu, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài, chuẩn bị cho khả năng huy động vốn từ những thị trường này, đặc biệt khi các quy định về tỷ lệ cổ phần của các NHTM Việt Nam mà các cá nhân, tổ chức nước ngoài được phép nắm giữ bị dở bỏ, lúc đó các thị trường này sẽ là nơi hứa hẹn cho việc “tăng lực” của các NHTM trong nước. - 74 - 4.3.2.2 Cải tiến công nghệ, đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng : Các NHTMVN cần phải xác định rằng một trong những tiêu chí rất cơ bản trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh, đáp ứng một cách tốt nhất những chuyển đổi và phát triển của nền kinh tế là tích cực đổi mới, ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin vào trong hoạt động ngân hàng. Thống đốc NHNN đã chỉ rõ : “Trong bước đường phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam, hiện đại hóa hoạt động ngân hàng là một trong những nội dung chủ yếu và xuyên suốt của bước đi”. Và điều này càng có ý nghĩa hơn khi chúng ta đang trong giai đoạn mở rộng kinh doanh, phát triển mạng lưới chi nhánh, nỗ lực tăng cường các tiện ích trong từng sản phẩm dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Công nghệ là yếu tố không thể thiếu trong các nỗ lực phát triển, là cơ sở để đa dạng hóa và hiện đại hóa các dịch vụ ngân hàng, là công cụ quản lý rất hữu hiệu với tính kịp thời và độ chính xác cao. Nếu chúng ta lao theo các mục tiêu phát triển mở rộng mà không đầu tư cho công nghệ thông tin một cách tương xứng, không những làm giảm tốc độ chu chuyển vốn, hạn chế khả năng mở rộng các nghiệp vụ mới mà còn làm cho đội ngũ nhân viên tiếp tục phình ra. Và khi thực hiện tái cơ cấu để nâng sức cạnh tranh, giải quyết đội ngũ lao động dôi dư luôn là vấn đề “đau đầu” đối với tất cả các tổ chức kinh tế. Biết rằng việc đầu tư đổi mới công nghệ là rất tốn kém trong điều kiện quy mô nguồn vốn kinh doanh còn nhiều hạn hẹp, nhưng đó là hướng đi tất yếu và điều bắt buộc phải làm để đảm bảo thành công trên con đường phát triển. Quá trình phát triển và ứng dụng công nghệ phải có sự chuẩn bị trước về nhân lực, đảm bảo khả năng tiếp thu và quản lý tốt công nghệ, đặc biệt là phải kiểm soát được công nghệ, đảm bảo tốt công tác an ninh mạng, có đủ khả năng ngăn chặng các xâm nhập từ bên ngoài, tránh tình trạng rớt mạng, hiện tượng tê - 75 - liệt thống mạng, hệ thống máy ATM ở một số ngân hàng như thời gian vừa qua. Phải tạo và giữ được lòng tin của khách hàng khi tham gia sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. Việc xây dựng các chiến lược tăng trưởng dựa trên cơ sở hiện đại hóa, đa dạng hóa các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng. Do đó, các NHTM cần phải tích cực và chủ động trong việc đầu tư phát triển công nghệ, phù hợp với định hướng chung của NHNN trong chiến lược hiện đại hoá ngành ngân hàng. Việc đổi mới công nghệ nên tập trung vào dịch vụ ngân hàng bán lẻ, các dịch vụ ứng dụng công nghệ thông tin, như hệ thống máy rút tiền tự động (ATM), Internet banking, Home banking, Mobile banking, hệ thống tài khoản và kế toán khách hàng, đẩy nhanh tốc độ phát triển của hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt, đảm bảo tính an toàn và chính xác trong các giao dịch. Tập trung vào ứng dụng các dịch vụ ngân hàng hiện đại, cải tiến và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng truyền thống. Tích cực xúc tiến các thủ tục, nhanh chóng tham gia vào hệ thống thanh toán liên ngân hàng, hệ thống chuyển tiền điện tử của NHNN để tăng cường các tiện ích và nhanh chóng trong các hoạt động thanh toán. Tích cực mở rộng và hiện đại hóa hệ thống thanh toán quốc tế (SWIFT), hệ thống thanh toán nội bộ, từng bước tiến tới tự động hóa các giao dịch ngân hàng trên cơ sở các trang thiết bị hiện đại và công nghệ tiên tiến. Đẩy nhanh quá trình ứng dụng công nghệ để cùng với NHNN tạo ra những tiền đề, hình thành thị trường tiền tệ sơ cấp và tiến tới phát triển thị trường tiền tệ thứ cấp. Phát triển mạnh các công cụ phái sinh, công cụ phòng ngừa rủi ro thị trường, phát triển thêm nhiều dịch vụ mới như bao thanh toán (factoring), thẻ tín dụng, sec du lịch, quản lý vốn đầu tư, môi giới tiền tệ, lưu trữ - 76 - và ủy thác… Tuyên truyền giới thiệu những ứng dụng và tiện ích của các sản phẩm này, thu hút ngày càng nhiều khách hàng tham gia thị trường. Tìm giải pháp phối hợp giữa các NHTM để tạo nên các liên minh trong quá trình hiện đại hóa các hoạt động ngân hàng, tiết kiệm chi phí đầu tư như liên minh thẻ do Vietcombank đứng đầu thu hút hàng chục ngân hàng tham gia, liên minh thẻ giữa Sacombank và ANZ. Việc tạo ra các liên minh như vậy không những giúp các ngân hàng tiết kiệm chi phí đầu tư, tập trung nguồn lực cho các hoạt động khác mà còn tạo ra những tiện ích cho khách hàng, tránh tình trạng đầu tư manh mún, nhỏ lẻ và thiếu đồng bộ như hiện nay. 4.3.2.3 Phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, nâng cao trình độ quản lý : Xu thế phát triển và cạnh tranh ngân hàng ngày nay, nếu công nghệ được xem là yếu tố tạo ra sự đột phá thì nguồn nhân lực được xem là yếu tố nền tảng, luôn có vai trò quan trọng và gắn liền với các chiến lược phát triển của ngân hàng. Hay nói cụ thể hơn, yếu tố nguồn nhân lực luôn gắn liền với những thành công, thất bại của ngân hàng. Muốn thành công, các NHTM phải có những chú trọng và quan tâm thực sự đến yếu tố con người, xem đó là thứ “vũ khí” không thể thiếu trong “cuộc chiến” cạnh tranh quốc tế. Hãy hướng lợi ích của người lao động theo lợi ích của tổ chức, gắn liền với lợi ích của tổ chức, tạo nền tảng để giải quyết những vấn đề tiếp theo. Phải xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực thực sự hiệu quả. Chất lượng nguồn nhân lực phải là yếu tố tiên phong hay ít ra cũng phải đạt chuẩn “phù hợp” với yêu cầu của từng giai đoạn phát triển. Phải có sự chuẩn bị tích cực về con người trong các giai đoạn phát triển mở rộng, khả năng tiếp thu và kiểm soát các công nghệ hiện đại. Phải xây dựng cho được lực lượng quản lý nòng cốt, mỗi vị trí nòng cốt có ít nhất một vị trí sẵn sàng kế thừa trong trường - 77 - hợp cần thiết. Sự chuẩn bị này một mặt cho phép chúng ta luôn có sự chủ động về nguồn nhân lực, mặt khác duy trì được môi trường, động lực cạnh tranh, tinh thần không ngừng học hỏi, khả năng đào tạo và phát triển nhân viên mới. Đây là một vấn đề cần được quan tâm thường xuyên, điều này đặc biệt có ý nghĩa với các NHTMNN đang trong tình trạng chảy máu chất xám như hiện nay. Chú trọng việc tuyển dụng các chuyên gia giàu kinh nghiệm trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, công nghệ thông tin. Những người được tuyển dụng phải có trình độ chuyên môn, trình độ nghiệp vụ cao, phải năng động và nhiệt tình với công việc. Quan tâm đến công tác tuyển dụng và đào tạo các cán bộ trẻ, từng bước bổ sung cán bộ giỏi. Phải thanh lọc và thay thế những nhân viên, những nhà quản lý yếu kém, không đáp ứng được yêu cầu công việc và các mục tiêu đề ra. Đối với những nhân viên trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm thì đòi hỏi phải có khả năng phát triển trong tương lai, ham học hỏi, có tinh thần cầu tiến, phẩm chất đạo đức tốt, hạn chế được những rủi ro trong công việc, đặc biệt là các nhân viên công tác ở những vị trí nhiều cám dỗ như nhân viên tín dụng, nhân viên ngân quỹ. Xây dựng chế độ đãi ngộ hợp lý thông qua thu nhập, cơ hội thăng tiến nghề nghiệp, môi trường làm việc văn minh hiện đại. Hãy thực hiện trả lương theo vị trí công việc, hãy để cho hiệu quả công việc quyết định tiền lương của người lao động. Xóa bỏ ngay cơ chế cào bằng, trả lương theo thâm niên, trả lương theo bằng cấp. Xây dựng cơ chế tiền lương tương xứng với điều kiện đời sống xã hội, đủ hấp dẫn để thu hút nguồn nhân lực từ các đối thủ cạnh tranh, thu hút sự lựa chọn nghề nghiệp của các bạn trẻ có năng lực, hay ít ra cũng phải hạn chế đến mức tối thiểu dòng chảy chất xám bất lợi cho ngân hàng mình. Phải nhìn nhận một thực tế “có thực mới vực được đạo”, xem đó là một trong những giải pháp để hạn chế rủi ro về đạo đức, xây dựng lòng tin với công chúng. Bên - 78 - cạnh đó, các cơ hội đề bạt, thăng tiến phải được “chia đều” cho tất cả các nhân viên, xây dựng trên cơ sở cạnh tranh công bằng. Việc đề bạt thăng tiến phải dựa trên trình độ năng lực, tư chất đạo đức, kỹ năng làm việc, khả năng phát triển trong tương lai và những thành tích công tác ở quá khứ. Việc đề bạt phải thực sự vì hiệu quả công việc, chấm dứt tình trạng đề bạt dựa trên các “mối quan hệ”, dựa trên các “ê kíp bè phái”. Các NHTMNN nên kiến nghị mạnh mẽ với Chính phủ, NHNN và các bộ ngành liên quan dở bỏ những hạn chế trong vấn đề tiền lương. Xây dựng cơ chế tiền lương cạnh tranh so với các NHTMCP, các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài, để “làm theo năng lực, hưởng theo lao động” không còn là khẩu hiệu suông, đã làm trì trệ khối NHTMNN trong một thời gian dài. Cơ chế tiền lương đảm bảo gắn liền quyền lợi của người lao động với tổ chức, hạn chế những “xung đột về quyền lợi” giữa ngân hàng với người lao động, giữa ngân hàng và những nhà quản lý, ngăn chặn tình trạng hy sinh quyền lợi tổ chức để tư lợi cá nhân. Đây là vấn đề cần quan tâm trong chiến lược phát triển, đặc biệt trong công tác quản trị rủi ro ngân hàng. Đầu tư nhiều cho công tác đào tạo và tái đào tạo. Trình độ nền tài chính – ngân hàng nước ta còn thấp, làm tốt công tác đào tạo và tái đào tạo giúp chúng ta phát triển được trình độ nghiệp vụ, tiếp cận được với các sản phẩm dịch vụ và công nghệ của ngân hàng hiện đại, không ngừng nâng cao trình độ quản lý. Chú trọng việc đào tạo và tái đào tạo cho cán bộ làm công tác tín dụng, nâng cao chất lượng thẩm định và xét duyệt các khoản tín dụng. Tăng cường công tác học tập và nâng cao trình độ ngoại ngữ, giúp hạn chế những rào cản trong quá trình tiếp nhận các nguồn thông tin, các tài liệu hiện đại về lĩnh vực ngân hàng, mang lại những hiệu quả và sự tự tin cần thiết khi tham gia các quá trình thu thập thông tin, thương lượng, đàm phán. Có như vậy, chúng ta mới mong có đủ khả - 79 - năng phát triển mạng lưới kinh doanh ra thị trường thế giới, hòa nhập được với các thông lệ và xu thế cạnh tranh quốc tế, khắc phục được những yếu kém cố hữu của các NHTMVN. Làm tốt công tác quản trị nguồn nhân lực, tuyển dụng nguồn nhân lực có chất lượng, sử dụng nguồn nhân lực một cách hiệu quả, có chính sách đãi ngộ tương xứng cùng với môi trường làm việc hiện đại, tự nó sẽ nâng cao tính cạnh tranh trong công việc và hình thành nên cơ chế “tự giám sát” rất hiệu quả, giúp nâng cao công tác quản trị rủi ro trong các hoạt động ngân hàng. 4.3.2.4 Phát triển mạng lưới chi nhánh, tăng cường công tác marketing : Một trong những yếu kém của hệ thông NHTMVN là mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch còn khá mỏng. Ví dụ như Vietcombank, một ngân hàng được đánh giá là hàng đầu Việt Nam thì số lượng chi nhanh cấp một cũng xấp xỉ ở mức 28 chi nhánh, thấp xa so với số lượng tỉnh thành trên cả nước hiện nay. Trong chiến lược hướng đến phát triển kinh doanh bán lẻ, các NHTM phải chú trọng nhiều hơn đến việc phát triển mạng lưới chi nhánh, các phòng giao dịch, các điểm tiết kiệm và thu đổi ngoại tệ, tăng cường công tác marketing, quảng bá các sản phẩm, các tiện ích của dịch vụ ngân hàng đến rộng rãi các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế. Việc phát triển mở rộng mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch sẽ giúp các NHTMVN nhanh chóng chiếm được thị trường trong nước, chuẩn bị tích cực cho quá trình hội nhập. Với mạng lưới chi nhánh rộng khắp các tỉnh thành sẽ giúp các ngân hàng tăng cường khả năng huy động các nguồn vốn còn nhàn rỗi, phát triển các sản phẩm dịch vụ cá nhân, một trong những lĩnh vực giàu tiềm năng nhưng lại bỏ ngõ trong một thời gian dài. Khi kinh tế càng phát triển, thu nhập - 80 - bình quân đầu người càng tăng lên thì nhu cầu các sản phẩm dịch vụ ngân hàng phục vụ đối tượng khách hàng này sẽ càng tăng cao. Một đặc điểm nữa là trong thời gian qua, các NHTMVN chưa quan tâm nhiều đến công tác marketing. Cần phải đưa marketing lên tuyến đầu trong nhận thức và hành động, xem marketing là chức năng kinh doanh mũi nhọn, chiến lược marketing đúng đắn là tiền đề cho sự thành công của chiến lược kinh doanh. Các NHTMVN cần thiết phải xây dựng cho mình bộ phận marketing chuyên nghiệp, tuyển chọn và đào tạo nhân viên có đủ tư duy và kỹ năng trong lĩnh vực marketing. Nhiệm vụ của bộ phận này là nghiên cứu, dự báo thị trường; định hướng phát triển sản phẩm, kỹ năng chăm sóc khách hàng; xác định khách hàng mục tiêu, khách hàng tiềm năng trên cơ sở định hình các phân khúc thị trường; xây dựng cụ thể quy trình tiếp cận – khởi xướng – phát triển – duy trì – kết thúc quan hệ với khách hàng. Hoạt động marketing phải được cụ thể bằng việc xây dựng mục tiêu, chiến lược hành động và đánh giá thực hiện mục tiêu. Một trong những hoạt động marketing hiệu quả của các NHTM là xây dựng năng lực tài chính vững mạnh, xếp hạng về uy tín cao trên thị trường tài chính quốc tế. Hoạt động marketing phải đem những tiện ích của dịch vụ ngân hàng đến gần với công chúng hơn. Marketing có thể được tiến hành dưới nhiều hình thức như thông qua các chương trình quảng cáo, khuyến mãi, thông qua những tiện ích của sản phẩm mang đến cho khách hàng, thông qua cung cách và thái độ phục vụ khách hàng, lấy khách hàng làm trung tâm của các hoạt động kinh doanh. Việc nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, thái độ của nhân viên trong giao tiếp với khách hàng có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng, quyết định rất lớn đến khả năng thu hút và xây dựng lòng tin với khách hàng. Bên cạnh đó các yếu tố về ngoại hình, trang phục của nhân viên cũng có vai trò - 81 - tương tự trong nỗ lực thu hút khách hàng, đặc biệt là các nhân viên giao dịch trực tiếp với khách hàng. Công tác marketing không chỉ thực hiện với thị trường trong nước mà còn phải thực hiện ở nước ngoài thông qua các phương tiện truyền thông, các văn phòng đại diện, hệ thống ngân hàng đại lý, nhằm củng cố và khẳng định hơn nữa niềm tin đối với khách hàng. Một số NHTMVN đang dự kiến sẽ mở chi nhánh tại các trung tâm tài chính lớn của khu vực và thế giới trong thời gian tới cũng không nằm ngoài mục đích mang hình ảnh của ngân hàng ra thị trường thế giới, chuẩn bị cho việc phát triển quy mô và mạng lươi hoạt động, xây dựng nền tảng cho việc thu hút nguồn vốn, công nghệ, trình độ quản lý ở những thị trường này trong những giai đoạn tiếp theo. 4.3.2.5 Các giải pháp khác : Trong hoạt động kinh doanh hàng ngày, các NHTM phải đối diện với rất nhiều loại rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất. Trong các loại rủi ro đó, đáng quan tâm nhất là rủi ro tín dụng, vì hầu hết các NHTMVN vẫn còn nặng các hoạt động kinh doanh truyền thống, đang từng bước xóa bỏ tình trạng “độc canh” tín dụng. Hơn 70% lợi nhuận của các NHTM được mang lại từ hoạt động tín dụng, do đó an toàn và hiệu quả của hoạt động tín dụng có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả chung của ngân hàng. Cần thiết phải tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, kiểm soát nội bộ, xây dựng quy trình xét duyệt tín dụng hướng tới mục tiêu tối thiểu rủi ro, cả về rủi ro năng lực thẩm định và rủi ro đạo đức, đảm bảo đạt được các mục tiêu kinh doanh đặt ra. Phải thực sự quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác tín dụng. Chế độ lương bổng, thu nhập phải được xem xét thỏa đáng và có tính cạnh tranh. Ngân hàng phải thực sự là người “trả lương” cho nhân viên mình, đừng để khách hàng làm thay việc này cho chúng ta. - 82 - Cải tiến mô hình tổ chức theo hướng gia tăng các tiện ích cho khách hàng, nâng cao công tác quản trị rủi ro, nâng cao hiệu quả hoạt động. Trong thời kỳ chuyển đổi hiện nay, một số NHTM lớn đã chú trọng nhiều hơn đến thị trường bán lẻ. Dù vậy, trong mô hình tổ chức, quy trình xét duyệt của phần lớn các ngân hàng trong nước vẫn đồng nhất giữa bán lẻ với bán buôn, dẫn đến khả năng hạn chế rủi ro cho hoạt động bán buôn chưa được cải thiện đáng kể, trong khi đó hoạt động bán lẻ vẫn chưa đảm bảo tính kịp thời, khách hàng sử dụng dịch vụ bán lẻ vẫn cảm thấy ngân hàng chưa thực sự thông thoáng. Do đó, các ngân hàng cần phải có sự phân biệt và xây dựng quy trình thích hợp cho hoạt động bán lẻ và bán buôn, đảm bảo vừa đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng quản trị rủi ro, vừa đảm bảo tính kịp thời, hiệu quả trong kinh doanh. Tóm lại, những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các NHTMVN nêu trên chỉ là những giải pháp nền tảng, mang tính chất định hướng. Điều cần thiết là tự thân các NHTM phải đánh giá đúng thực lực của ngân hàng mình, nhìn nhận thấu đáo các vận hội và thách thức, định cho mình một chiến lược phát triển cụ thể dựa trên các lợi thế so sánh, khả năng khơi dậy các tiềm lực trong tương lai. Và chúng ta biết rằng “Không có bất kỳ một lý thuyết hay bất kỳ một mô hình kinh tế nào là khuôn mẫu, là mực thước cho sự thành công chắc chắn trong kinh doanh… Kiến thức kinh tế là hành trang chia đều cho tất cả mọi người. Điều còn lại thuộc về bản lĩnh, năng lực, lòng dũng cảm, đôi khi là một chút may mắn nữa”. - 83 - KẾT LUẬN Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường tất yếu và bắt buộc đối với Việt Nam trên bước đường phát triển. Chúng ta đang tham gia vào các tổ chức, hiệp hội kinh tế trên thế giới như ASEAN, ASEM, APEC, ký Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ, và sắp tới là tham gia vào một hệ thống thương mại lớn nhất toàn cầu – WTO. Hội nhập sẽ mở ra cho chúng ta không ít cơ hội nhưng cũng đầy rẫy những cam go, thách thức. Ngành ngân hàng Việt Nam cũng được đặt trong bối cảnh chung như vậy. Chúng ta có xuất phát điểm thấp, vừa trải qua một quá trình cơ cấu và sắp xếp lại, dù đã có những thành công nhất định, nhưng nhìn chung những yếu tố mang tính nền tảng của cạnh tranh vẫn còn nhiền hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu của ngân hàng hiện đại. Trong tiến trình mở cửa ngành ngân hàng, các NHTMVN có nhiều lợi thế cạnh tranh ở thị trường trong nước, song hội nhập quốc tế không chỉ là giành thắng lợi trên sân nhà mà phải vươn ra thị trường thế giới, phải ý thức tự hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động. Dự báo sau năm 2010, khi tất cả các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các ngân hàng Hoa Kỳ, được đối xử bình đẳng với các NHTM trong nước thì mức độ cạnh tranh tại thị trường trong nước sẽ trở nên mạnh mẽ hơn. Cuộc cạnh tranh giữa các NHTM trong nước chủ yếu ở phân khúc thị trường dịch vụ cho khối doanh nghiệp vừa và nhỏ, các thành phần kinh tế do khu vực tư nhân quản lý. Cạnh tranh giữa NHTM trong nước với các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu ở phân khúc thị trường các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các dịch vụ thanh toán quốc tế, các ngành kinh doanh có thương quyền mạnh, nhu cầu vốn lớn như hàng không, hàng hải, bưu chính viễn thông. - 84 - Để có thể cạnh tranh tốt ở thị trường trong nước, tạo nền tảng và cơ sở vững chắc để vươn ra thị trường nước ngoài, đòi hỏi hệ thống NHTMVN phải thực sự có nhiều nỗ lực trong việc củng cố, nâng cao năng lực tài chính, nâng cao trình độ quản lý và chất lượng nguồn nhân lực, ứng dụng các công nghệ hiện đại, phát triển hơn nữa mạng lưới kinh doanh. Để những nỗ lực này đạt được kết quả tốt đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ từ nhiều phía, đặc biệt là sự phối hợp, hỗ trợ từ các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc sữa đổi, bổ sung những quy định liên quan đến vấn đề chính sách, điều hành vĩ mô. Chính phủ, NHNN cần phải có những quan tâm, tháo gỡ kịp thời những khó khăn liên quan đến hoạt động kinh doanh của các NHTM, đặc biệt là những vướng mắc trong cơ chế, chính sách đối với các NHTMNN. Chúng ta đang trong nỗ lực CNH-HĐH đất nước, ngành ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong quá trình đó. Hiệu quả hoạt động của ngành ngân hàng sẽ quyết định rất lớn đến tiến trình phát triển kinh tế – xã hội. Cải thiện sức cạnh tranh, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động cho ngành ngân hàng là nhiệm vụ tối quan trọng của cơ quan quản lý Nhà nước, là mục tiêu chủ đạo của các nhà quản trị, các nhà điều hành trực tiếp NHTM. Biết rằng, để thành công cần phải có những tác động tích cực của nhiều yếu tố, song phải khẳng định rằng quyết tâm của ban lãnh đạo ngân hàng là vấn đề then chốt. Một ban lãnh đạo năng động, luôn tìm kiếm cái mới, đủ bản lĩnh để không phiêu lưu nhưng đầy quả cảm là cốt lõi cho sự thành công. Và chiến thắng cuối cùng sẽ thuộc về người quyết tâm chiến thắng. - 85 - TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Paul H. Allen (2003), Tái lập ngân hàng, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 2. Nguyễn Bá Chiến, Hoàng Ngọc Giao (chủ biên) (2002), Việc thực thi Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3. Phạm Lan Anh (2000), Quản lý chiến lược, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, TP.HCM. 4. Bạch Thụ Cường (2002), Bàn về cạnh tranh toàn cầu, Nxb Thông tấn, Hà Nội. 5. Nguyễn Đăng Dờn (2004), Tiền tệ ngân hàng, Nxb Thống kê, TP.HCM. 6. Trần Huy Hoàng (2003), Quản trị ngân hàng thương mại, Nxb Thống kê, TP.HCM. 7. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ ngân hàng các năm 2000, 2001, 2002, 2003, 2004, Hà Nội. 8. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – Chi nhánh TP.HCM, Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ ngân hàng các năm 2000, 2001, 2002, 2003, 2004, TP.HCM. 9. Phan Thanh Phố (2005), Việt Nam với tiến trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 10. Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam, Toàn văn Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, địa chỉ Website : www.na.gov.vn. 11. Peter S. Rose (2004), Quản trị ngân hàng thương mại, Nxb Tài chính, Hà Nội. - 86 - 12. Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng (2003), Cơ chế điều hành lãi suất thị trường tiền tệ của ngân hàng trung ương, Nxb Thống kê, Hà Nội. 13. Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng (2003), Hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm đổi mới hoạt động ngân hàng trong điều kiện hội nhập quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội. 14. Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng (2003), Những thách thức của ngân hàng thương mại Việt Nam trong cạnh tranh và hội nhập quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội. 15. Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng (2002), Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng ở Việt Nam trong điều kiện thực hiện Hiệp định thương mại Việt – Mỹ và hội nhập quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội. 16. Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng (2003), Giải pháp xử lý nợ xấu trong tiến trình tái cơ cấu NHTM Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội. 17. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (2003), Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Nxb Giao thông Vận tải, Hà Nội. 18. Ngoài những tài liệu tham khảo nêu trên còn có một số kênh tham khảo khác như, những nhận định của các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng, các bài viết của một số tác giả trên các tạp chí, báo điện tử, báo phát hành hằng ngày… ---------Z›Y--------- ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA1244.pdf
Tài liệu liên quan