Chương I
Thị trường tiêu thụ sản phẩm và vai trò của thị trường đối với tiêu thụ sản phẩm
I . Thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
1. Khái niêm về thị trường
Thị trường hình thành , tồn tại và phát triển gắn liền với sự phát triẻn của nền sản xuất hàng hoá . Sản xuất hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra để bán , để trao đổi . Trong kiểu tổ chức kinh tế này , toàn bộ quá trình sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng , sản xuất cái gì sản xuất ch
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1441 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Định hướng & giải pháp phát triển thị trường Tiêu thụ sản phẩm của Công ty Cao su Sao Vàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o ai và sản xuất như thế nào đều thông qua việc bán , mua , thông qua hệ thông thị trường và do thị trường quyết định .
Cơ sở của sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá là phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa người sản xuất này và người sản xuất khác , do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định . Phân công lao động xã hội khiến mỗi người chỉ sản xuất một hay một vài sản phẩm nhất định Song nhu cầu sản xuất và tiêu dùng đòi hỏi họ phải có mối liên hệ trao đổi sản phẩm với nhau , phụ thuộc vào nhau đồng thời , quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất , đã tách biệt những người sản xuất về kinh tế , người sản xuất này muốn sử dụng sản phẩm của người sản xuất khác thì phải trao đổi sản phẩm lao động cho nhau . Sản phẩm lao động trở thành hàng hóa và được đem bán hay trao đổi tại thị trường.
Có thể nói rằng thị trường là một phạm trù kinh tế của sản xuất hàng hoá . Lúc đầu người ta hiểu rằng thị trường là nơi mà người mua và người bán gặp nhau để trao đổi hàng hoá theo quan điểm cũ về thị trường thì thị trường là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán hàng hoá , đặc trưng ở đây là cả 3 yếu tố người mua , người bán , hàng hoá phải cùng được xuất hiện tại một không gian và địa điểm cụ thể , tại một địa điểm xác định . Nhưng khi sản xuất hàng hoá ngày càng trở nên phát triển , nền kinh tế hiện đại có sự phân công lao động ngày càng sâu sắc , trong đó mỗi người chuyên sản xuất một thứ gì đó , nhận tiền thanh toán và mua hàng hóa cần thiết từ số tiền đó . Như vậy trong nền kinh tế hiện đại có rất nhiều thị trường các nhà sản xuất tìm đến .
Thị trường tiêu thụ hàng hóa của một doanh nghiệp là thị trường đầu ra của doanh nghiệp , như ta đã biết thị trường của doanh nghiệp bao gồm thị trường đầu vào và thị trường đầu ra ( thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp ) , một doanh nghiệp muốn tồn tại thì việc làm tốt 2 công tác đầu vào và đầu ra giữ v ai trò vô cùng quan trọng
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là nơi diễn ra hoạt động mua bán hàng hóa giữa doanh nghiệp và người mua hàng hóa ở đó doanh nghiệp đóng vai trò là người bán
Như vậy ta có thể định nghĩa thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp như sau :
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là một quá trình , trong đó người bán là doanh nghiệp và người mua là khách hàng của doanh nghiệp tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và số lượng sản phẩm , là nơi diễn ra các hoạt động mua bán bằng tiền giữa doanh nghiệp và người mua sản phẩm của doanh nghiệp trong một thời gian nhất định.
2 . Các bộ phận cấu thành nên thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
2.1. Cầu của thị trường
Cầu phản ánh số lượng mà người tiêu dùng muốn mua và có khả năng thanh toán với một giá cả nhất định , ở một thời điểm nhất định , hay nói cách khác , cầu là nhu cầu có khả năng thanh toán .
Ta nhận thấy giữa cầu và nhu cầu có mối liên hệ với nhau , song chúng không đồng nhất với nhau . Có thể có nhu cầu vể hàng hóa , song không có tiền đảm bảo giá cả nhất định của hàng hóa đó thì sẽ không xuất hiện cầu .
Giữa cầu và số lượng hàng hóa đưa ra thị trường để thoả mãn nhu cầu có tỷ lệ nghịch . Nếu số lượng sản phẩm đưa ra thị trường ngày càng tăng thì mức độ cấp thiết của sản phẩm đưa ra thị trường ngày càng giảm . Do vậy , trong nền kinh tế thị trường phạm trù cầu luôn có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng , nó là cơ sở cho mọi chiến lược kinh doanh và kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp .
2.2.Cung hàng hoá
Cung hàng hoá là số lượng hàng hóa mà doanh nghiệp mang ra bán trên thị trường theo một mức giá nhất định . Giữa cung hàng hoá và sản xuất có mối quan hệ với nhau , nhưng chúng không phải là một . Cụ thể là có nhập khẩu mà cung trên thị trường lớn hơn sản xuất .
Cung hàng hóa của doanh nghiệp là một loại cung vĩ mô do doanh nghiệp tự dự trữ hoặc mua từ bên ngoài .
2.3. Giá cả thị trường
Giá cả thị trường là mức giá cả thực tế mà người ta dùng để mua và bán hàng hoá trên thị trường , hình thành ngay trên thị trường . Giá cả thị trường là biểu hiện bằng tiền của hàng hoá trên thị trường .
Cung cầu về số lượng hàng hoá trên thị trường có mối liên hệ chặt chẽ với nhau .Trong cơ chế thị trường người mua muốn giá cả của hàng hoá thấp , còn người bán muốn giá cả của hàng hóa cao . Vì vậy , giá của thị trường là giao điểm của giá cả của người mua và người bán , giữa cung và cầu luôn có sự tương tác lẫn nhau , nhằm xác định được giá cả thị trường , do đó gía cả thị trường là một đại lượng luông biến đổi
2.4. Cạnh tranh
Trước hết , chúng ta hiểu cạnh tranh là sự ghanh đua , kình địch giữa các doanh nghiệp nhằm mục đích thu được lợi nhuận . Trong cơ chế thị trường động lực của các thành viên là lợi nhuận vậy nói đến cơ chế thị trường là nói đến môi trường cạnh tranh , ở đây diễn ra sự ghanh đua cạnh tranh giữa các thành viên tham gia trên thị trường để đem lại lợi nhuận cho mình sự mâu thuẫn giữa lợi ích của các bên tạo nên sự cạch tranh khốc liệt giữa người bán và người mua , cạnh tranh trong kinh tế là một cuộc chạy đua không có đích cuối cùng và để tồn tại trong môi trường này mỗi chủ thể kinh tế cần tạo cho mình một vũ khí cạnh tranh hữu hiệu .
Cạnh tranh trong cơ chế thị trường thiết lập nên một môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp và nó phải thực hiện 4 chức năng quan trọng sau .
- Cạnh tranh làm cho giá cả hàng hóa và dịch vụ giảm xuống
- Cạnh tranh làm cho các doanh nghiệp phải tối ưu hóa các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh
- Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải luông áp dụng công nghệ và máy móc hiện đại vào trong sản xuất kinh doanh .
- Cạnh tranh là công cụ tước quyền thống trị về mặt kinh tế trong lịch sử.
II. Vai trò của thị trường đối với tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
1 .Chức năng của thị trường
Khi ta nói đến thị trường , tức là nói đến lĩnh vực trạo đổi mà ở đó người mua và người bán cạnh tranh với nhau để xác định giá cả hàng hóa và số lượng hàng hoá Tại thị trường diễn ra các giao dịch giữa các chủ thể kinh tế , mối quan hệ giữa họ là bình đẳng , thuận mua vừa bán , ở đây luông tồn tại sự tự do kinh tế , tự do trao đổi , tự do xác định giá cả . Với nét đặc trưng của mình , thị trường đảm nhiệm những chức năng cơ bản sau :
1.1. Chức năng thừa nhận
Một doanh nghiệp sản xuất hay doanh nghiệp thương mại có bán được hàng hoá và dịch vụ của mình hay không phải được kách hàng vầ thị trường chấp nhận. Điều này thể hiện chức năng thừa nhận của thị trường. Nếu hàng hoá và dịch vụ bán được , tức là đã được thị trường thừa nhận, doanh nghiệp mới có khả năng thu hồi vốn , trang trải các khoản chi phí và có lợi nhuận. Ngược lại , nếu hàng hoá và dịch vụ không được thừa nhận nghĩa là không bán được không có người mua. Như vậy , doanh nghiệp muốn được thị trường thỉ phải nắm bắt được nhu cầu của thị trường thông qua nắm bắt nhu cầu khách hàng. Chỉ có những hàng hóa - dịch vụ thỏa mãn những nhu cầu của khách hàng mới được người tiêu dùng chấp nhận và đem lại lợi nhuận cho các doanh nghiệp .
1.2.Chức năng thực hiện
Chức năng thực hiện của thị trường đòi hỏi có sự trao đổi giá trị giữa người mua và người bán hàng hóa - dịch vụ cần được thực hiện giá trị trao đổi hoặc bằng hàng , hoặc bằng tiền , hay bằng các chứng chỉ có giá trị khác. Người bán hàng cần tiền , còn người mua cần hàng , sự thoả thuận giữa hai chủ thể được xác định bằng giá cả hàng hoá. Và sự mua bán được thực hiện khi có sự dịch chuyển quyền sở hữu hàng hóa từ người mua sang người bán và có sự hứa hẹn thanh toán cho người bán của người mua .
1.3.Chữc năng điều tiết và kích thích
Chức năng điều tiết và kích thích của thị trường luôn đi liền nhau, tồn tại song song với nhau. Thị trường điều tiết và kích thích tiêu thụ thông qua hành vi mua bán trao đổi giữa doanh nghiệp với người mua hàng hóa
1.4. Chức năng thông tin
Thị trường không chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi hàng hoá mà còn là nơi cung cấp thông tin. Thông tin thị trường là những thông tin về nguồn cung ứng hàng hoá - dịch vụ , nhu cầu hàng hoá - dịch vụ đó là những thông tin kinh tế quan trọng đối với doanh nghiệp giúp doanh nghiệp nắm bắt tốt những gì kách hàng cần và đưa ra chính sách tiêu thụ hàng hoá hợp lý. Thông tin luôn là sự quan tâm của xã hội. Thiếu thông tin , mỗi chủ thể kinh tế không thể có được quyết định đúng đắn về kinh doanh nếu không có thông tin về thị trường .
2. Vai trò của thị trường đối với tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp
Thị trường luôn là điều kiện và môi trường của tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Không có thị trường thì hoạt động tiêu thụ sản phẩm không thể tiến hành được , cụ thể thị trường có những vai trò sau :
Thứ nhất, thị trường là sống còn đối với hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Trong sản xuất kinh doanh hàng hoá mục đích của nhà sản xuất kinh doanh của người bán là bán được hàng hóa và thu lợi nhuận. Vì vậy nền sản xuất càng phát triển thì việc bán hàng càng khó khăn hơn , khối lượng hàng hoá cần trao đổi ngày càng nhiều hơn và càng cần thiế một thị trường mở rộng cả về không gian và thời gian. Vì vậy còn tồn tại thị trường thì còn sản xuất kinh doanh và mới có tiêu thụ sản phẩm.
Thứ hai, thị trường phá vỡ ranh giới sản xuất tự nhiên , tự cấp tự túc để tạo thành thể thống nhất trong nền kinh tế quốc dân. Việc mua bán trao đồi hàng hoá trao đổi hàng hoá giữa doanh nghiệp với khách hàng trên toàn bộ lãnh thổ , sẽ biến kiểu tổ chức khép kín thành các vùng chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá liên kết với nhau chuyển kinh tế tự nhiên thành kinh tế hàng hóa .
Thứ ba , thị trường hướng dẫn tiêu thụ sản phẩm. Các nhà sản xuất kinh doanh căn cứ và nhu cầu hàng hoá trên thị trường để quyết định sản xuất ra hàng hóa để có thể tiêu thụ được nhiều hàng hoá
Thứ tư , thị trường phản chiếu hoạt độn tiêu thụ sản phẩm. Hiện trạng tình hình sản xuất suất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm thể hiện rõ trên thị trường , qua thị trường sẽ thấy tốc độ , trình độ và quy mô của san xuất kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm .
Thứ năm, thị trường là nơi quan trọng để đánh giá , kiểm nghiệm, chứng minh tính đúng đắn của các chủ trương chính sách, biện pháp của các cơ quan nhà nước , của các nhà sản xuất kinh doanh. Thị trường còn phản ánh các quan hệ xã hội , hành vi giao tiếp của con người , đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý , nhà kinh doanh .
3. Mối quan hệ giữa thị trường và tiêu thụ sản phẩm
Nói đến sản xuất hàng hóa là nói đến thị trường tiêu thụ sản phẩm , bởi vì gữa thị trường và tiêu thụ có mối quan hệ hữu cơ với nhau , gắn mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau. Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán sản phẩm hàng hoá. Nếu không có thị trường thì doanh nghiệp không thể tiến hành hàng loạt các hoạt động mua bán .
Chúng ta ai cũng biết thị trường được hình thành trên cơ sở ba yếu tố :
-phải có khách hàng
-Khách hàng có nhu cầu cần được thoả mãn
-Khách hàng phải có khả năng thanh toán
Doanh nghiệp dựa vào thị trường để giải quyết những vấn đề mấu chốt như :
Sản xuất cái gì ?
Sản xuất như thế nào ?
sản xuất cho ai ?
Muốn vậy họ luôn bám sát nhu cầu thị trường trên cơ sở điều tra nghiên cưú thị trường
Trước đây , doanh nghiệp không phải quan tâm đến vấn để thị trường hàng hoá mà họ sản xuất theo kế hoạch Nhà nước giao , vấn đề nhu cầu thị trường được nhà nước quan tâm đến. Ngày nay , khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường thì vấn để làm sao để tiêu thụ hàng hoá được đặt lên hàng đầu .
Doanh nghiệp chỉ có thể thành công nếu như họ sản xuất ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường , được thị trường chấp nhận. Sản phẩm của doanh nghiệp
được coi là tiêu thụ khi hành vi bán (tiêu thụ ) sản phẩm diễn ra trên thị trường. Nếu không có thị trường thì sản phẩm của doanh nghiệp sẽ tiêu thụ ở đâu? Vì vậy tiêu thụ là yếu tố cơ bản để hình thành thị trường. Thị trường của doanh nghiệp lớn hay nhỏ tuỷ thuộc vào khối lượng hàng hóa tiêu thụ trên thị trường. Thị trường luông biến động. Bên trong nó có nhiều yếu tố ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến tiêu thụ sản phẩm hàng hớa của doanh nghiệp. Chính vì vậy , nghiên cứu thị trường đưa ra phương thức tiêu thụ phù hợp sao cho đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất được doanh nghiệp quan tâm hàng đầu. Đó chính là cơ sở để doanh nghiệp đạt hiệu quả cao trong kinh doanh .
III. Nội dung phát triển thị trường cho tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp .
Chúng ta hiểu rằng không tồn tại một công thức thần kỳ nào cho sự phàt triển mãi mãi , sự phát triển không tự dưng mà có , nó là một qúa trình và là một công việc kế tiếp nhau một cách liên tục. Công tác phát triển thị trường nhằm mục tiêu giữ vững và phát triển thị phần của doanh nghiệp trên thị trường , do vậy nội dung của nó phải bám sát thị trường và được thực hiện theo sự vận động của thị trường. Nội dung của công tác phát triển thị trường bao gồm : xác định những nhu cầu của thị truờng phân tích thị truờng hiện tại và tương lai, xây dựng và thực hiện chiến lược thị truờng , đánh giá và kiểm tra việc phát triển thị truờng .
1. Xác đinh những nhu cầu của thị trường.
Nhu cầu của khách hàng là yếu tố lam nên thị trường , phát triển thị truờng phụ thuộc vào khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng của doanh nghiệp. Hiện nay cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị truờng ngày càng trở nên mãnh liệt hơn trước , do vậy các nhà sản xuất phải nỗ lực tập trung vào sản xuất kinh doanh nhằm thoả mãn những nhu câù cụ thể của thị truờng.
Phương châm “chỉ bán cái mà thị trường cần chứ không phải bán cái mà mình có” đã trở thành kim chỉ nam cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp, tuy nhiên vẫn có rất nhiêu doanh nghiệp vẫn sản xuất những cái mà họ tin rằng thị trường cần chứ chưa quan tâm tới cái nhu cầu thực sự của thị trường. Và tất nhiên kết quả là sự xâm nhập thị trường đã giảm xuống tối thiểu.
Do đó , để giải qyết vấn đề này , người quản lý cần nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường để xem thị trường tồn tại những nhu cầu thực sự gì, quy mô và khu vực có thể trở thành thị trường là như thế nào. luôn luôn tìm hiểu và đánh giá thị trường là một điều cốt tử vì không có thị trường nào là tĩnh cả. sự hiểu biết thị trường sâu sắc sẽ tạo điều kiện cho các nhà sản xuất nắm bắt , dự báo được những nhu cầu đang và sẽ có trên thị trường , từ đó xác định những cơ hội tiêu thụ tiềm tàng và những phương pháp phát triển thị trường có hiệu quả nhất.
Để thực hiện được việc nắm bắt và dự báo các nhu cầu của thị trường doanh nghiệp kinh doanh có thể tuỳ theo quy mô và mục đích nghiên cứu mà có thể tự tiến hành các hoạt động nghiên cứu thị trường để xác định chính xác nhu cầu của thị trường hoặc có thể sử dụng các nhà cố vấn chuyên môn để tiến hành nghiên cứu rộng , độc lập và kỹ lưỡng hơn. Thông qua các cơ quan nghiên cứu thị trường chuyên nghiệp các doanh nghiệp sẽ thu được nhiều lợi ích hơn vì họ có thể cung cấp dồi dào kiến thức và chuyên môn mà các nhà sản xuất kinh doanh không thể có sẵn. kèm theo đó họ có thể đưa ra các dự đoán chính xác về các thị trường tiềm năng. Tuy chi phí để thuê các chuyên gia là không nhỏ nhưng hiệu quả đem lại là tương đối lớn. Vậy dù cách thức như thế nào là tuỳ thuộc và khả năng kinh tế và mục tiêu của doanh nghiệp nhưng việc nghiên cứu thị trường để xác định chính xác các nhu cầu của thị trường trước khi thực hiện các nội dung tiếp theo của việc phát triển thị trường là vô cùng quan trọng , nó là điểm khởi đầu không thể thay thế , làm tốt nội dung này cho phép doanh nghiệp xây dựng các chiến lược chinh phục thị trường một cách hữu hiệu .
Thị trường luôn vận động , thành công của doanh nghiệp ngày hôm qua không thể là đảm bảo chắc chắn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh tiếp theo. Sự thiếu hiểu biết về thị trường có thể làm cho doanh nghiệp chao đảo trong tình trạng bất ổn định hoặc say sưa với niềm lạc quan chẳng bao giờ có thể trở thành hiện thực. Phân tích thị hiện tại và tương lai là việc tối quan trọng cần được tiến hành thường xuyên nó giúp doanh nghiệp tìm ra các phương thức ứng sử linh hoạt , hạn chế những rủi ro trong kinh doanh. Vậy bằng cách náo doanh ngiệp sẽ thu được hiệu quả cao nhất trong việc phân tích thị trường ? Sau đây chúng ta sẽ xem xét những nội dung cụ thể
Việc phân tích quy mô thị trường rất quan trọng để doanh nghiệp xác định tỷ trọng khu vực thị trường của mình và nhận biết các giai đoạn phát triển hay suy tàn của thị trường. Quy mô của thị trường hiện tại được phân tích trên hai khía cạnh : số lượng khách hàng và phạm vi khách hàng. Sở dĩ phải xác định số lượng và phạm vi khách hàng hiện tại để doanh nghiệp có thể thiết lập nên biểu đồ khu vực thị trường hiện có cũng như thị trường tương lai của mình đồng thời kiểm soát các kế hoạch sản xuất kinh doanh nhằm điều tiễt sự trồi sụt của thị trường .
Thiếu sự phân tích quy mô thị trường liện tục và chính xác có thể thường xuyên dẫn đến việc sản xuất quá nhiều trong một quy mô hạn chế hoặc những thị trường căng thẳng và theo đó là những phản ứng dây chuyền vô cùng phổ biến. Tích trữ hàng hóa ngoài mong muốn keo theo việc tăng chi phí sản xuất, mọi sức ép đè nặng lên mọi mặt của sản xuất kinh doanh và lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ bị “ăn mòn”. Thiếu sự phân tích thị trường là mối nguy ngập trong hầu hết các trường hợp sản xuất quá nhiều. Để giải quyết hàng ứ đọng , doanh nghiệp nghiệp phải hạ giá và chào biếu đặc biệt.
Nắm bắt được sự thay đổi về số lượng và phạm vi khách hàng giúp doanh nghiệp bên cạnh việc tránh phải những tình huống rủi ro khi thị trường đứng trước nguy cơ bị tàn lụi , còn cho doanh nghiệp thấy trước được khả năng tiềm tàng và điều khiển hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển theo những nhu cầu thị trường đang tăng cao một cách hợp lý .
2. Phân tích các đối thủ cạnh tranh trên thị trường của doanh nghiệp
Không thể có được một sự phát triển thị trường bền vững nếu không có sự phân tích tỷ mỉ vể sự cạnh tranh cuả các doanh nghiệp. Cạnh tranh còn tồn tại thì còn phải phân tích những cái mạnh và những cái yếu của các đối thủ chính trong mỗi khu vực thị trường. Phân tích các đối thủ cạnh tranh còn giúp các doanh nghiệp nhận ra được các điểm mạnh , điểm yếu của mình , từ đó đánh giá lại những chiến lược và những đối sách của doanh nghiệp .
Để có được những nhận định chính xác về đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp cần xây dựng lên hệ thống thông tin tình báo cạnh tranh từ lực lượng bán hàng , các kênh phân phối , người cung ứng , các công ty nghiên cứu thị trường , các hiệp hội thương mại và từ các số liệu đã được công bố như những ấn phẩm của Nhà nước , những bài nói chuyện , những bài báo. các số liệu thu thập được trải qua các bước kiểm tra về giá trị và độ tin cậy , giải thích ý nghĩa và sắp xếp một cách hợp lý .
Doanh nghiệp chỉ có thể đánh giá được đối thủ cạnh tranh dựa trên những thông tin về tình hình kinh doanh của họ , cụ thể là mức tiêu thụ, thị phần , mức lời , lợi nhuận trên vốn đầu tư , đầu tư mới và mức sử năng lực. Biết được mục tiêu và các điểm mạnh , yếu của một đối thủ cạnh tranh góp phần chỉ rõ những biện pháp và phản ứng của họ đối với những biên pháp của doanh nghiệp trong công tác phát triển thị trường. Nếu doanh nghiệp hiểu được một cách sâu sắc toàn bộ ý đồ của một đối thủ cạnh tranh thì có thể đoán được hành động của họ và có kế sách vượt lên dành vị trí dẫn đầu trên thị trường.
cách đưa gia những sản phẩm mới có chất lượng ngang bằng với gía thấp hơn. Tương tự , họ có thể phát triển những thị trường “ăn theo” kiểu đó với quy mô hạn chế mà các doanh nghiệp lớn thực sự không tham gia vào được .
Nhưng mọi nhu cầu thị trường cũng thay đổi nhanh chóng và những sản phẩm mới lại suất hiện , điều quan trọng là mỗi doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ cần sáng suốt quan sát , nghiên cứu , phân tích thị trường để tìm ra những khoảng trông trên thị trường và tận dụng nó bằng cách đưa ra thị trường những sản phẩm có tính độc tôn .
3. Xây dựng và thực hiện chiến lược thị trường.
Bằng việc đánh giá cẩn thận thị trường hiện tại , bằng việc phân tích kỹ lưỡng những chiều có thể xảy ra trong tương lai , các doanh nghiệp sẽ có thể chuẩn bị những dự báo lâu dài cho sự phát triển lâu dài của mình. Những dự báo vể thị trường sẽ không phát huy tác dụng nếu như nơ không được sử dụng làm cơ sở xậy dựng nên chiến lược thị trường. Chiến lược thị trường của một doanh nghiệp thực chất là một chương trình hành động tổng quát hướng tới việc phát triển thị trường tại mỗi doanh nghiệp.
3.1 Những căn cứ xây dựng chiến lược thị trường.
Hoạt động kinh doanh chị sự tác động của rất nhiều yếu tố, do vậy khi xây dựng chiến lược thị trường , doanh nghiệp doanh nghiệp cần phải dựa trên những căn cứ xuất phát từ thực tế. Có ba căn cứ chủ yếu mà người ta gọi là tam giác chiến lược đó là : căn cứ khách hàng , căn cứ vào khả năng cửa doanh nghiệp , căn cứ vào đối thủ cạnh tranh.
* Căn cứ vào khách hàng: Trong nền kinh tế thị trường đặc biệt trong điều kiện xã hội ngày càng phát triển thì nhu câù tiêu dùng hàng hoá giữa các nhóm dân cư ngày càng bị phân hoá , bởi thế không còn thị trường đồng nhất. Để tồn tại và phát triển , mỗi doanh nghiệp cần chiếm các mảng thị trường khác nhau, không chiếm được khách hàng thì doanh nghiệp không có đối tượng để phục vụ và do đó cũng không có kinh doanh. Do vậy, chiến lược khách hàng là cơ sở cho mọi chiến lược, là yếu tố xuyên suốt của quá trình xây dựng, triển khai và thực hiện chiến lược thị trường của mỗi doanh nghiệp.
* Căn cứ vào khả năng của doanh nghiệp : Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng có điểm mạnh và điểm yếu , điều cốt yếu là làm sao có thể phát huy thế mạnh của doanh nghiệp. Chiến lược thị trường có tính khả thi hay không , khi được xây dựng phải bám sát với khả năng của doanh nghiệp , hạn chế điểm yếu và khai thác hết điểm mạnh của doanh nghiệp. Trong chiến lược thị trường , doanh nghiệp cũng cần phải phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý , đem lại hiệu quả. Biết nội lực của doanh nghiệp và khai thác phát huy nó một cách triệt để là yếu tố cần thiết trong việc xây dựng chiến lược thị trường .
* Căn cứ vào đối thủ cạnh tranh: Qua sự phân tích thị trường , doanh nghiệp có thể phát hiện ra điểm mạnh , điểm yếu của đối thủ cạnh tranh và có thể so sánh để tìm ra những lợi thế của doanh nghiệp mình. Lợi thế của doanh nghiệp thể hiện ở hai góc độ là : lợi thế hữu hình được định lượng bằng các chỉ tiêu cụ thể như vật tư , vốn , cơ sở vật chất kỹ thuật …, lợi thế vô hình không thể định lượng được như uy tín doanh nghiệp , nhãn hiệu hàng hoá , khả năng chiếm giữ các luồng thông tin , kỹ năng quản trị , bầu không khí nội bộ , địa điểm kinh doanh , thói quen sử dụng sản phẩm dịch vụ của khách hàng.
3.2 Những yêu cầu đối với chiến lược thị trường
* Mục tiêu của thị trường không được tách rời với mục tiêu bao trùm của doanh nghiệp : Tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển của doanh nghiệp và tình hình thị trường khác nhau ma mục tiêu của các chiến lược thị trường có thể khác đi nhưng nó phải nhằm phục vụ cho mục tiêu chung của doanh nghiệp .
* Chiến lược thị trường phải đảm bảo tính khả thi : Nghĩa là nó phải phù hợp với khả năng của doanh nghiệp và thực trạng của thị trường. Tính phi thực tế của chiến lược thị trường sẽ làm cho doanh nghiệp gặp rủi ro trong kinh doanh do thị phần có thể bị thu hẹp , lãng phí công sức và tiền bạc …
*Chiến lược thị trường phải có tính linh hoạt : đây là yếu tố quan trọng cho mọi chiến lược thị trường của các hoạt động kinh doanh , giúp cho các nhà quản lý phản ứng đúng đắn và hiệu quả với nhứng hậu quả chưa lường hết được trên thị trường và khắc phục những vấn đề nảy sinh từng ngày.
Yêu cầu này đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện tốt hai yêu cầu ở trên. Các thị trường luôn biến đổi , một số suy giảm , hay tiêu vong toàn bộ , theo đó mà mục tiêu và tiềm lực của doanh nghiệp cũng bị biến đổi , vậy một chiến lược thị trường lâu dài cần phải biết kết hợp chặt chẽ với sự linh hoạt ở mức độ cao để cho phép thích nghi thực sự với sự thay đổi ,và đưa ra những phương án tức thời.
Sự cứn nhắc , “không biết người biết ta” khi xây dựng nên chiến lược thị trường sẽ hạn chế khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp và thu hẹp phạm vi thị trường . chiến lược thị trường biến đổi linh hoạt sẽ là yếu tố chính trong việc tìm kiếm thị phần , khai thác hết sản phẩm sẵn có và sản phẩm mới của doanh nghiệp .
3.3 Nội dung của chiến lược thị trường.
Nội dung của chiến lược thị trường có thể trình bày thành từng mục như sau : xác định thị trường mục tiêu , phát triển sản phẩm , định giá sản phẩm , thiết lập kênh phân phối , xúc tiến thương mại.
3.3.1 Xác định thị trường mục tiêu.
Các thị trường đều gồm những người mua đều khác nhau về một hay nhiều mặt. Họ có khác nhau về mong muốn , sức mua, địa điểm , thái độ mua sắm và cách thức mua sắm. Một doanh nghiệp quyết định trên một thị trường rộng lớn thừa nhân rằng bình thường không thể phục vụ hết khách hàng trên thị trường. Khách hàng quá đông , phân tán và có nhu cầu khác nhau. Một số đối thủ cạnh tranh sẽ có lợi thế hơn trong việc phục vụ những nhóm khách hàng cụ thể của thị trường đó. Vậy thay vì cạnh tranh ở khắp nơi , doanh nghiệp cần phát hiện những khúc thị trường hấp dẫn mà doanh nghiệp có thể phục vụ một cách hiệu quả.
Mọi thị trường đều có thể được phân ra thành các đoan thị trường , các nhóm nhỏ thị trường và cuối cùng là các cá nhân. Đoạn thị trường là những nhóm lớn có thể nhận biết được trong một thị trường. Quá trình phân đoạn thị trường là quá trình phân chia người tiêu dùng thành từng nhóm trên cơ sở những điểm khác biệt nhau về nhu câu, vể tính cách hay hành vi mỗi đoạn thị trường là một nhóm khách hàng có phản ứng giống nhau. Để phân đoạn thị trường người ta dùng những biến số khác đó là :
* Phân đoạn thị trường theo yếu tố địa lý :
Thị trường tổn thể sẽ được chia thành những đơn vị địa lý khác nhau như quốc gia , vùng , tỉnh , thành phố , hay xã …, Doanh nghiệp có thể quyết định hoạt động trong một hay một vài vùng địa lý hay hoạt động trong tất cả các vùng , nhưng cần chú ý tới sự khác biệt về nhu cầu và sở thích giữa các vùng địa lý.
* Phân đoạn thị trường theo yếu tố nhân khẩu học:
Phân chia thị trường thành từng nhóm trên cơ sở những biến nhân khẩu học như tuổi tác , giới tính , quy mô gia đình , thu nhập , nghề nghiệp , học vấn , tôn giáo , chủng tộc , và dân tộc. Các biến nhân khẩu học là cơ sở phổ biến nhất để phân biệt các nhóm khách hàng vì những mong muốn , sở thích và mức độ sử dụng của người tiêu dùng thường gắn bó chặt chẽ với các biến nhân khẩu học đồng thời các biến này cũng rễ đo lường hơn các biến khác .
* Phân đoạn theo yếu tố tâm lý.
Trong phân đoạn thị trường theo yếu tố tâm lý người mua được chia thành những nhóm khác nhau căn cứ vào tầng lớp xã hội , lối sống , nhân cách.
* Phân đoạn theo hành vi :
Trong cách phân đoạn thị trường theo hành vi , người mua được chia thành nhiều nhóm căn cứ vào lý do mua hàng , lợi ích , tình trạng người sử dụng , mức độ sử dụng , mức độ trung thành , mức độ sẵn sàng của người mua, thái độ mua hàng.
Sau khi đã đánh gía các đoạn thị trường khác nhau , doanh nghiệp cần quyết định nên phục vụ bao nhiêu và những khúc thị trường nào. Tức là vấn đề lựa chọn thị trường mục tiêu. Số đoạn thị trường được chọn làm làm thị trường mục tiêu phải phù hợp với khả năng của doanh nghiệp và hợp thành thị trường thích hợp của doanh nghiệp.
Để thực hiện nội dung này , có thể sử dụng một trong năm cách tiếp cân thị trường trọng điểm được thể hiện trong hình sau.
M1 M2 M3 M1 M2 M3 M1 M2 M3 M1 M2 M3 M1 M2 M3
P1 P1 P1 P1 P1
P2 P2 P2 P2 P2
P3 P3 P3 P3 P3
Tập trung vào Chuyên môn hoá Chuyên môn hoá Chuyên môn hoá Chuyên môn hoá
Một đoạn chon lọc sản phẩm thị trường toàn bộ
thị trường
P = Sản phẩm M = thị trường
* Tập trung vào một đoạn thị trường.
Trong trường hợp đơn giản nhất , doanh nghiệp lựa chọn một đoạn thị trường trong các thị trường thành phần làm mục tiêu . Doanh nghiệp tiến hành các biện pháp marketing tập trung va sẽ dành được một vị trí vững chắc trong đoạn thị trường nhờ hiểu biết rõ hơn những nhu câù của đoạn thị trường đó .
* Chuyên môn hoá chọn loc.
Trong trường hợp này , doanh nghiệp lựa chọn một số đoạn thị trường mỗi thị trường đều có sức hấp dẫn khách quan và phù hợp với mục tiêu và tiềm lực của doanh nghiệp.Chiến lược phụ vụ nhiều đoạn thị trường này cơ ưu điểm là đa dạng hoá kinh doanh giảm thiểu rủi ro , do một đoạn thị trường không hấp dẫn nữa thì doanh nghiệp vẫn có thể tiếp tục thu lợi nhuận ở những đoạn thị trường khác.
* Chuyên môn hoá sản phẩm.
Trong lựa trọn này , doanh nghiệp cần sản xuất một sản phẩm nhất định để bán cho một số đoạn thị trường. Thông qua chiến lược doanh nghiệp tạo dựngdanh tiếng rộng khắp trong lĩnh vực sản phẩm chuyên dụng. Nhưng rủi ro bị đổ bể sẽ xuất hiện khi trên thị trường có sản phẩm mới thay thế .
* Chuyên môn hóa thị trường.
Trường hợp này doanh nghiệp tập trung vào phục vụ nhiều nhu cầu của một nhóm khách hàng cụ thể. Doanh nghiệp có thể dành được tiếng tăm rộng khắp do vì chuyên môn hóa và việc phục vụ nhóm khách hàng này và trở thành một kênh cho tất cả các sản phẩm mới mà nhóm khách hàng này có thể dùng đến. Tuy nhiên , rủi ro lớn do phụ thuộc qúa nhiều vào nhóm khách hàng này nên khi có sự biến động về cầu sẽ không kịp thích ứng.
* Phục vụ toàn bộ thị trường.
Doanh nghiệp có ý định phục tất cả các nhóm khách hàng tất cả những sản phẩm mà họ có thể cần đến. Lựa chọn này chỉ có thể xảy ra ở các doanh nghiệp kinh doanh lớn.
3.3.2Phát triển sản phẩm.
Các đối thủ cạnh tranh trên thị trường không ngừng phát triển và gợi mở ra những nhu cầu mới cho thị trường , vậy muốn giữ vững và mở rộng thị trường của mình doanh nghiệp cần không ngừng tạo ra các sản phẩm mới , khai thác triệt để những lợi thế của sản phẩm mới đem lại. Tuy nhiên, không phải bất cứ sản phẩm mới nào cũng có thể đem lại sự thành công , những sản phẩm thành công phải là những sản phẩm độc đáo, thượng hạng ( ví dụ như chất lượng cao hơn , nhiều tính chất mới , giá trị sử dụng cao hơn….,).Để phát triển thành công các sản phẩm trước khi tiến hành sản xuất thì trước hết cần xây dựng một chiến lược sản phẩm trước khi tiến hành sản xuất , chiến lược sản ph._.ẩm phải được xây dựng trên cơ sở xác định kỹ lưỡng và đánh giá thị trường mục tiêu, yêu cầu sản phẩm vả lợi ích của nó trước khi thực hiện.
Chiến lược sản phẩm là chiến lược chủ đạo , nó đem đến những phương thức phát triển sản phẩm rất hiệu quả dựa trên mục tiêu thoả mãn nhu cầu của thị trường và thị hiếu của khách hàng trong từng thời kỳ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chiến lược sản phẩm giúp doanh nghiệp trả lời câu hỏi : doanh nghiệp sản xuất sản phẩm hay cung cấp dịch vụ gì , bao nhiêu và cho ai?
Nội dung của nó bao gồm:
* Tiếp xúc với thị trường.
Để tìm ra sản phẩm hoặc đặc tính của sản phẩm sẽ tiêu thụ được trên thị trường nhưng hiện nay chưa có. Tăng cường đối thoại với những khách hàng hiện có và khách hàng “tiềm năng” sẽ làm cho các sản phẩm được cải tiến hoặc tạo ra thỏa mãn nhu cầu. Với những sản phẩm có chu kỳ sống sắp kết thúc , hãy thay thế nó khi không còn được ưa chuộng, trước khi thị phần bị sói mòn .
*Xác định về danh mục sản phẩm.
Danh mục sản phẩm là tất cả các sản phẩm và mặt hàng ma một doanh nghiệp cụ thể chào bán trên thị trường. Danh mục sản phẩm của một doanh nghiệp sẽ có chiều rộng , chiều dài , chiều sâu.
Chiều rộng : Danh mục sản phẩm thể hiện doanh nghiệp có bao nhiêu loại sản phẩm .
Chiều dài : Danh mục sản phẩm thể hiện số lượng sản phẩm trong mỗi loại sản phẩm.
Chiều sâu : Danh mục sản phẩm thể hiện trong một mặt hàng cụ thể của những mẫu mã nào sẽ được đưa vào sản xuất kinh doanh để bán ra trên thị trường.
Xác định rõ ba chiều trên của sản phẩm là nội dung quan trọng của việc phát triển sản phẩm. Doanh nghiệp có thể tăng sản phẩm bằng ba cách. Doanh nghiệp có thể bổ sung những chủng loại sản phẩm mới, và như vậy sẽ mở rộng danh mục sản phẩm của mình. Doanh nghiệp có thể kéo dài từng loại sản phẩm nhờ tăng số lượng các mặt hàng. Doanh nghiệp có thể bổ sung thêm các loại mẫu mã cho sản phẩm , tăng chiều sâu của danh mục sản phẩm .
Kết hợp việc xác định danh mục sản phẩm cùng với những thông tin do những người làm công tác tiếp thị của doanh nghiệp cung cấp cho phép các nhà hoạch định chiến lược đánh giá được những loại sản phẩm nào cần phát triển , cần duy trì , cần thu hoạch , và cần loại bỏ.
3.3.3 Định giá sản phẩm.
Giá cả là yếu tố trực tiếp tạo thu nhập cho doanh nghiệp , các yếu tố khác thì tạo ra giá thành. Hiện nay, cạnh tranh bằng giá cả đã nhường vị trí hàng đầu cho cạnh tranh phi giá cả , nhưng việc xác định gía và cạnh tranh giá cả vẫn là những vấn đề rất quan trọng được đặt ra cho các cán bộ quản trị kinh doanh.
Các doanh nghiệp thường mắc một số sai lầm trong việc định giá như việc định gía hướng qúa nhiều vào chi phí , giá không được rà soát lại thường xuyên , để lợi dụng những biến động của thị trường , giá được ấn định độc lập chứ không phải là một phần của chiến lược thị trường. Và giá không thay đổi linh hoạt đúng mức với những mặt hàng khác nhau , những đoạn thị trường khác nhau và những dịp mua sắm khác nhau.
Doanh nghiệp có thể tránh được những sai lầm trên và đảm tồn tại và có thể phát triển được thị trường của mình trong tương lai cần chú trọng đến việc định giá sản phẩm hợp lý. khi định giá sản phẩm doanh nghiệp phải tuân theo sáu bước: Thứ nhất là , doanh nghiệp phải xác định thận trọng mục tiêu kinh doanh của mình. Thứ hai, doanh nghiệp phải xác định đồ thị nhu cầu thể hiện số lượng sản phẩm chắc chắn thị trường sẽ mua trong một thời điểm nhất định với các mức giá khác nhau. Nhu cầu càng không co dãn thì doanh nghiệp có thể ấn định gía càng cao. Thứ ba là, doanh nghiệp ước tính giá thành của mình sẽ thay đổi như thế nào với mức sản lượng khác nhau và trình độ kinh nghiêm sản xuất khác nhau đã tích lũy được. Thứ tư là, doanh nghiệp khảo sát giá của đối thủ cạnh tranh để làm cơ sở định gía cho sản phẩm của mình. Thứ năm là , doanh nghiệp lựa chọn được một kỹ thuật định giá phù hợp dựa trên chi phí kinh doanh và dựa trên cơ sở phân tích thị trường và đối thủ cạnh tranh. Thứ sáu là, doanh nghiệp lựa chọn được gía cuối cùng của mình , thể hiện nó theo hiệu quả tâm lý mạnh nhất.
3.3.4Thiết lập kênh phân phối.
Hệ thống phân phối là một nguồn lực then chốt ở bên ngoài , có tầm quan trọng không kém gì các nguồn lực then chốt trong nội bộ như : con người , cơ sở vật chất. nghiên cứu , thiết kế , tiêu thụ. Thông thường phải mất nhiều năm xây dựng và không dễ gì thay đổi được nó. Nó la cam kết của doanh nghiệp với nhiều doanh nghiệp chuyên vể phân phối và đối với những thị trường cụ thể mà họ phục vụ. Hệ thống phân phối tạo thành ròng chảy hàng hoá tử người bán tới người mua cuối cùng. Một hệ thống phân phối sẽ đảm quá trình kinh doanh của doanh nghiệp an toàn hơn, giảm được cạnh tranh , và làm cho qúa trình lưu thông được nhanh chóng hơn.
Do đó thiết lập kênh phân phối là một trong những nội dung quan trọng của chiến lược thị trường , nó dựa trên chiến lược phân phối của doanh nghiệp. Chiến lược quan trọng trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Chiến lược phân phối bao gồm những nội dung sau.
* Lựa chọn căn cứ xây dựng chiến lược phân phối.
-Căn cứ vào đặc điểm hàng hoá gồm ba nhóm : những hàng hóa khó bảo quản: những hàng hóa đơn chiếc, hàng hóa có kỹ thuật đặc biệt, những hàng hoá muốn bán với khối lượng lớn.
- Căn cứ vào đặc điểm khách hàng có : khách hàng đông hay lẻ tẻ, tập trung hay phân tán , mức độ ổn định trong tiêu thụ , đặc điểm tập quán tiêu dùng.
Các kênh phân phối có thể được đặc trưng bằng số cấp kênh. Mỗi thực hiện công việc đưa sản phẩm và quyền sở hữu nó đến gần người mua cuối cùng hơn tạo nên một cấp của kênh. Kênh không cấp là kênh phân phối trực tiếp, người sản xuất bán hàng trực tiếp cho người tiêu thụ cuối cùng. Kênh một cấp có một người trung gian ví dụ như một người bán lẻ. Kênh hai cấp có hai người trung gian thường gồm một người bán buôn và một người bán lẻ. Kênh ba cấp có ba người trung gian. Hình vẽ sau đây minh hoạ một số kênh phân phối thông dụng.
Nhà
Sản
Xuất
Đại lý
Người
Bán buôn
Người bán buôn
Người bán lẻ
Người
Bán lẻ
Người bán lẻ
Khách
Hàng
Kênh 0 cấp
Kênh 1 cấp
Kênh 2 cấp
Kênh 3 cấp
Ngoài nội dung xác định và lựa chọn kênh phân phối , trong chiến lược còn phải xác định một số vấn đề khác liên quan đến phân phối như ; người trung gian , số mạng phân phối và loại phương tiện vận chuyển.
3.3.5 Xúc tiến thương mại.
Xúc tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy hoạt động tiêu thụ thông qua các hoạt động chính như : quảng cáo, kích thích tiêu thụ, hội trợ triển lãm, bán hàng trực tiếp quan hệ công chúng. Xúc tiến thương mại là công cụ hữu hiệu trong việc chiếm lĩnh thị trường và tăng tính cạnh tranh của hang hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp. Vì nó cung cấp cho khách hàng tiềm năng những thông tin cần thiết, những dịch vụ ưu đãi để tiếp tục chinh phục khách hàng của doanh nghiệp và lôi kéo khách hàng của đối thủ cạnh tranh.
* Quảng cáo.
Quảng cáo là sử dụng các phương tiện về không gian và thời gian để chuyển đến khách hàng tiềm năng thông tin về sản phẩm của doanh nghiệp.
Sản phẩm ít khi tự nhiên tiêu thụ được và khách hàng phải thường xuyên được thông báo về những mặt hàng có thể bán ngay được của doanh nghiệp một cách hấp dẫn nhất. Chiến lược dùng chi phí để quảng cáo sản phẩm của doanh nghiệp trên phương tiện thông tin đại chúng được xem như một yếu tố quyết định đến sự phát triển thị phần và mở rộng khách hàng. Sản phẩm của doanh nghiệp không được biết đến sẽ giúp đối thủ cạnh tranh chớp lấy những khu vực thị trường quan trọng.
Doanh nghiệp cần chọn được những phương tiện thông tin đại chúng tương xứng nếu không quảng cáo sẽ không hiệu quả và sẽ không đủ độ dài cần thiết. Các phương tiện cần dùng trong quảng cáo là: báo, tạp chi, áp phich, phát thanh, truyền hình, quảng cáo qua việc tài trợ cho các giả bóng đá hoặc một số chương trình từ thiện hay văn hoá thể thao khác, hoặc trực tiếp có nhân viên chào hàng.
* kích thích tiêu thụ.
Kích thích tiêu thụ bao gồm rất nhiều các công cụ khuyến khích rất khác nhau , thường là ngắn hạn, nhằm kích thích người tiêu dùng hay nghành thương mại mua những sản phẩm dịch vụ cụ thể nhanh hơn và nhiều hơn.
Trong khi quảng cáo nêu ra lý lẽ để mua hàng , thì kích thích tiêu thụ lại đưa ra những hình thức khuyến khích mua hàng. Kích thích tiêu thụ gồm những công cụ để kích thích người tiêu dùng (ví dụ đưa mẫu chào, phiếu thưởng, bớt tiền khi thanh toán tiền mặt, giảm giá đặc biệt , qùa tặng, giải thưởng, phần thưởng cho khách hàng thường xuyên , dùng thử miễn phí, bảo hành , trình diễn, thi.).
Khuyến mãi mậu dịch (ví dụ bớt giá khi mua hàng,hàng tặng miễn phí , trợ giá cho hàng hoá, chợ cấp cho việc hợp tác quảng cáo, quảng cáo và chưng bày hàng,biếu tiền những người bán lẻ , thi bán hàng giữa các đại lý, và kích thích lượng bán hàng (tiền thưởng, hội nghị bán hàng).
Đây là một hoạt bổ sung cho quảng cáo thông qua việc doanh nghiệp dành cho khách hàng những lợi ích nhất định trong thời gian xác định. Nó sẽ thu hút thêm những người dùng thử mới kích thích những người tiêu dùng trung thành , tạo ra mức tiêu thụ cao hơn trong một thời gian ngắn nhưng tạm thời.
*Hội trợ, triển lãm.
Triển lãm thương mại là hoạt động thông qua việc trưng bày hàng hóa và tài liệu về hàng hoá để giới thiệu, quảng cáo nhằm mở rộng và thúc đẩy việc tiêu thụ hàng hoá.
Hội chợ là họat động tập trung trong một thời gian và địa điểm nhất định , trong đó tổ chức , các nhà sản xuất, kinh doanh được trưng bày hàng hoá của mình nhằm mục đích tiếp thị , ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
Qua hội chợ triển lãm doanh nghiệp cần bám sát khách hàng , đưa ra những thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và sản phẩm. Doanh nghiệp có thể củng cố danh tiếng và hình ảnh doanh nghiệp bằng cách trình bày ấn tượng , có sự hấp dẫn độc đáo cùng với những nhân viên có năng lực, tạo sự quan tâm nhiều của khách hàng.
Song những cuộc hội trợ triển lãm thường tốn kém về chuyện thuê mặt bằng , bố trí nhân viên , chi phí phụ , quảng cáo, …Rất dễ xảy ra nhiều khả năng đầu tư nhiều thời gian và tiền của cho chúng mà không thu được đơn đặt hàng và hợp đồng tiêu tiêu thụ có giá trị. Vậy, nếu loại hình của triển lãm , hội trợ trên khu vực thị trường được nhằm vào không mang về cho doanh nghiệp những cơ hội tiềm tàng để phát triển thì không nên tham ra.
* Bán hàng trực tiếp.
Bán hàng trực tiếp là một nghệ thuật lâu đời , là sự giao tiếp trực tiếp giữa người bán hàng với khách hàng tiềm năng. Nhân viên bán hàng là cầu nối trực tiếp doanh nghiệp với khách hàng. Đại diện bán hàng là người thay mặt doanh nghiệp quan hệ với rất nhiều khách hàng của nó và đồng thời cũng đem về cho doanh nghiệp những thông tin tình báo cần thiết về khách hàng. Vì vậy , doanh nghiệp cần suy nghĩ hết sức thấu đáo những vấn đề của việc thiết lập lượng bán hàng , cụ thể như xây dựng mục tiêu của lưc lượng bán hàng , chiến lược , cơ cấu, quy mô và chế độ lương bổng của lực lượng bán hàng.
* Quan hệ công chúng.
Công chúng là một nhóm người có có quan tâm hay ảnh hưởng thực tế hay tiềm ẩn đến khả năng doanh nghiệp đạt được những mục tiêu tiềm ẩn của mình.
Vậy doanh nghiệp không những phải có quan hệ tốt với khách hàng , người cung ứng , các đại lý của mình,mà còn phải quan hệ với đông đảo công chúng có quan tâm.
Công chúng có thể tạo thuận lợi hay gây trở ngại cho khả năng doanh nghiệp đạt được những mục tiêu của mình. Một doanh nghiệp khôn ngoan có những biện pháp cụ thể để giải quyết tốt quan hệ với công chúng then chốt. Bộ phận làm nhiệm vụ quan hệ với công chúng luôn phải theo dõi thái độ của công chúng, tìm cách giao tiếp , thông tin với công chúng để tạo ra uy tín cho doanh nghiệp. Khi có dư luân xấu , bộ phận này có nhiệm vụ đứng ra dàn xếp , xoá bỏ dư luận xấu.
3.4 Đánh giá và kiểm tra việc phát triển thị trường tiêu thụ.
Phát triển thị trường không phải một sớm một chiều là có thể thực hiện được ngay nó là một quá trình diễn ra trong một thời gian dài , có biến động nên cần theo dõi liên tục và đánh giá các hoạt động của nó.
Mục đích của việc kiểm tra là xem doanh nghiệp có đạt được những kết quả dự kiến không, kinh doanh lời hay lỗ, kiểm tra xem doanh nghiệp có bắt kịp những cơ hội tốt nhất của mình về thị trường sản phẩm và kênh phân phối không.
Công việc đánh giá và kiểm tra này dựa trên phân tích mức tiêu thụ , phân tích thị phần, phân tích tài chính và kiểm tra chiến lược.
* Phân tích mức tiêu thụ.
Phân tích mức tiêu thụ là việc doanh nghiệp đánh giá tình tiêu thụ của doanh nghiệp trong thực tế thông qua việc so sánh mức tiêu thụ hiện tại với các chỉ tiêu mức tiêu thụ kỳ kế hoạch và so sánh mức tiêu thụ của các khu vực thị trường khác nhau của doanh nghiệp. Từ đó rút ra kết luận , mức tiêu thụ có đạt chỉ tiêu hay không , tìm ra nguyên nhân tại sao và nếu có thể đưa ra các biện pháp khắc phục.
*Phân tích thị phần.
Mức tiêu thụ chưa thể hiện được rõ thành tích của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh, do vậy cần theo dõi các thị phần của doanh nghiệp. Thị phần của doanh nghiệp có thể dựa trên mấy loại như sau.
- Thị phần tổng quát được tính bằng tỉ lệ phần trăm của mức tiêu thụ tại thị trường của nó trên tổng mức tiêu thụ của cả thị trường.
- Thị phần phục vụ là mức tiêu thụ của doanh nghiệp tính bằng tỷ lệ %trên tổng mức tiêu thụ của cả thị trường phục vụ. Thị trường phục vụ là tất cả những người mua có khả năng và sẵn sàng mua sản phẩm đó. Thị phần này vào cách tìm ra sản phẩm mới và khu vưc thị trường mới của doanh nghiệp.
- Thị phần tương đối là thị phần được tính dựa trên tỷ lệ % mức tiêu thụ của doanh nghiệp trên tổng mức tiêu thụ của cac đối thủ cạnh tranh chính.
* Phân tích tài chính.
Các tỷ số chi phí trên doanh số bán được phân tích theo nghiệp vụ tài chính kế toán để xác định xem doanh nghiệp kiếm tiền như thế nào và tại đâu. Các nhà quản lý cũng sử dụng phân tích tài chính để phát hiện đến yếu tố tác động đến tỷ suất lợi nhuận trên doanh số bán của doanh nghiệp, trên tổng số vốn..Doanh nghiệp qua phân tích tài chính để đánh giá hiệu quả kinh doanh , lời hay lỗ và tìm ra biện pháp tăng lợi nhuận của doanh nghiệp bằng giảm chi phí hoặc tăng doanh số bán.
*Kiểm tra chiến lược.
Sau mỗi thời gian xác định , doanh nghiệp lại tiến hành xem xét lại một cách kỹ lưỡng các mục tiêu và nội dung của chiến lược thị trường , đánh giá hiệu quả. Thị trường biến động làm cho các chiến lược của thị trường rất rễ ràng trở nên lỗi thời một cách nhanh chóng. Doanh nghiệp làm tốt nội dung này đảm bảo cho tính linh hoạt của chiến lược thị trường , cũng như khả năng thực thi của nó , thực hiện tỗt các mục tiêu đặt ra.
Đánh giá và kiểm tra được coi là khâu quan trọng nhưng vị trí cuối cùng của nó trong công tác thị trường chỉ là tương đối , vì phát triển thị trường gồm các khâu kế tiếp nhau và lặp lại. Nội dung này luông là tiền đề của khâu sau và là bước kế tiếp của khâu trước , do đó doanh nghiệp cần thực hiện tốt nội dung , tiến tới một thị trường bền vững.
4. Lựa chọn khả năng phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Khả năng phát triển thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào cơ hội hấp dẫn của doanh nghiệp , bởi cơ hội hấp dẫn là những khả năng đáp ứng nhu cầu củ khách hàng đã và sẽ xuất hiện trong thị trường được xem là phù hợp với mục tiêu và tiềm lực của doanh nghiệp. Điều này đồng nghĩa với việc nói doanh nghiệp có khả năng phát triển thị trường khi nó có khả năng thoả mãn những nhu cầu của mình. Do vậy, xuất phát từ các dạng cơ hội hấp dẫn mà ta có thể lựa chọn bốn khả năng phát triển thị trường gồm.
+ Khả năng thâm nhập thị trường: Doanh nghiệp có thể phát triển thị trường bằng việc tăng cường kinh doanh trên thị trường truyền thống , phát triển thị phần của doanh nghiệp trên thị trường hiện tại.
+ Khả năng mở rộng thị trường : Tức là doanh nghiệp tìm kiếm thị trường mới để tiêu thụ sản phẩm mà doanh nghiệp đang sản xuất. Khả năng này cho phép doanh nghiệp mở rộng phạm vi thị trường của mình .
+ Khả năng phát triển sản phẩm Trong lựa chọn này, doanh nghiệp sẽ phát triển các sản phẩm mới và tiêu thụ trên thị trường hiện tại , sản phẩm mới ở đây có thể là sản phẩm mới hoàn toàn hoặc sản phẩm cũ được cải thiện .
+ Khả năng đa rạng hóa : Doanh nghiệp phát triển thị trường bằng việc đưa ra các sản phẩm mới vào thị trường mới , thậm chí có thể là kinh doanh trong lĩnh vực không phải là truyền thống của doanh nghiệp.
Qua việc định rạng những khả năng phát triển thị trường doanh nghiệp sẽ tìm ra những cơ hội hấp dẫn cho việc sản xuất kinh doanh của mình. Lựa chọn khả năng phát triển sản phẩm của mình một cách chính xác , phù hợp mục tiêu và tiềm lực của doanh nghiệp là cơ sở vững chắc cho những thành công trong công tác phát triển thị trường , đảm bảo hiệu qủa kinh doanh.
Chương II
Phân tích thực trạng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty cao su sao vàng
I. Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu ảnh hưởng đến vấn đề phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty cao su sao vàng.
1. Qúa trình hình thành và phát triể của công ty cao su sao vàng.
Do tầm quan trọng của nghành công nghiệp cao su trong nền kinh tế quốc dân nên ngay sau khi miền Bắc giải phóng ngày 07/10/1956 xưởn lắp đặt vá săm lốp ô tô được thành lập tại nhà số 2 Đặng Thái Thân (nguyên là xưởng in IDOTO của quân đội pháp) bắt đầu hoạt động vào năm 1956 đến đầu năm 1960 thì sáp nhập vào nhà máy cáo su sao vàng nó chính là tiền thân của nhà máy cao su sao vàng ngày nay.
Công ty cao su sao vàng được khởi công xây dựng vào ngày 22/12/1958 trong tổng thể khu công nghiệp Thượng Đình gồm 3 nhà máy, nhà máy Cao Su Sao Vàng nhà máy Xà Phòng ,nhà máy Thuốc Lá Thăng Long. Đây là một xí nghiệp quốc doanh lớn nhất , lâu đời nhất và duy trì nhất sản xuất xăm lốp ô tô và cũng là con chim đầu đàn của nghành công nghiệp chế tạo các sản phẩm cao su của Việt Nam.
Với kết quả sản xuất năm 1960, năm thứ nhất nhân kế hoạch của Nhà nước giao cho , nhà máy đã hoàn thành các chỉ tiêu sau.
-Giá trị tổng sản lượng : 2.489.442đồng.
- các sản phẩm chủ yếu : Lốp xe đạp 93.664 chiếc
Xăm xe đạp 38.388 chiếc
Đội ngũ cán bộ công nhân viên :262 người được phân bổ thành 3 phân xưởng sản xuất và 6 phòng ban nghiệp vụ. Về trình độ không có ai tốt nghiệp đại học chỉ có 2 cán bộ tốt nghiệp trung cấp. Trải qua nhiều năm tồn tại và phát trong cơ chế bao cấp (1960 –1987) nhịp độ của nhà máy luôn tăng trưởng, số lao động không ngừng tăng (năm 1986 là 3.260 người).
Song nhìn chung sản phẩm còn đơn điệu , nghèo nàn ít được cải thiện vì không có đối thủ cạnh tranh, bộ máy gián tiếp cồng kềnh, hoạt động kém hiệu qủa thu nhập của người lao động thấp , đời sống gặp nhiều khó khăn.
Bước sang cơ chế thị trường , đặc biệt tử khi quyết định 217/HĐBT ngày 14/11/1987 về trao quyền tự chủ tài chính, chủ động sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp , tình hình sản xuất của nhà máy đã dần dần ổn định. Thu nhập của người lao động có chiều hướng tăng chứng tỏ nhà máy có thể tồn tại và hoà nhập trong cơ chế mới.
Từ năm 1991 tới nay nhà máy đã khẳng định vị trí của mình : là một đơn vị sản xuất kinh doanh có hiệu qủa , có doanh thu và các khoản nộp ngân sách nhà nước năm sau cao hơn năm trước, thu nhập của người lao động được cải thiện. Doanh nghiệp luôn được công nhân là đơn vị thi đua xuất sắc và được tặng nhiều cờ và bằng khen của cấp trên.
Theo quyết định 654 CNNg ngày 27/81992 cuả bộ công nghiệp nặng đổi tên nhà máy thành “công ty cao su sao vàng Hà Nội”.
Ngày 1/1/1993 nhà máy chính thức được sử dụng con dấu mang tên “ Công ty cao su Sao Vàng” để chuyên mông hoá đối tượng quản lý ngày 20/12/1995 Thủ Tướng Chính Phủ ra quyết định số 835 /TTG và nghị định 02/CP 25/1/1996 phê chuẩn điều lệ tổ chức và quản lý của nhà máy hoá chất việt nam.
Trong những năm gần đây các sản phẩm săm lốp của công ty luôn được đánh giá cao , lốp xe đạp đỏ lòng vàng 650 được được cấp dấu chất lượng. Nhà nước lần thứ hai. Ba sản phẩm : lốp xe đạp , lốp xe máy , lốp ô tô , được thưởng huy chương vàng tại hội trợ quốc tế hàng công nghiệp 1993. Sản phẩm sản phẩm săm lốp Sao Vàng nằm trong Topten 1995,1996,1998 do báo đại đoàn kết tổ chức. Năm 1996 săm lốp sao vàng cũng được nhận giải bạc do hội đồng chất lượng giải thưởng Việt Nam cuả Nhà nước tặng.
Trong thời kỳ bao cấp sản phẩm săm lốp se đạp cũng được xuất sang một số nước như : Mông Cổ, Triều Tiên, Đức, Cu Ba. Điểm nổi bật nhất đánh giá sự thành công của công ty cao su sao vàng trong sản xuất kinh doanh là cho đến nay công ty có 5 chi nhánh và 200 đại lý trên 50 tỉnh, thành phố , trong cả nước. Ngoài ra sản phẩm của công ty còn được xuất sang các nước Cu Ba và ASEAN , đặc biệt công ty còn được tín nhiệm của công ty INOUE tại Việt Nam. Đây là những thành to lớn đánh dấu bước mở đầu cho việc làm ăn của công ty với các bạn hàng trên thế giới và đồng thời cũng là sự ghi nhận đánh dấu sự trưởng thành và lớn mạnh của Công ty trong những năm qua.
2. Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu ảnh hưởng đến công tác phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm tại công ty cao su sao vàng.
2.1 Tính chất và nhiệm vụ sản xuất của công ty.
Công ty cáo su sao vàng được tự chủ trong sản xuất kinh doanh cũng như sử dụng nguồn vốn, là đơn vị hạch toán độc lập. Công ty được chuyển trực tiếp ký kết hợp đồng kinh tế với các bạn hàng kinh tế trong và ngoài nước, trực tiếp xuất nhập khẩu hàng cao su và khai thác cao su tự nhiên trong cả nước.
Công ty có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh theo sự phân công của công ty hoá chất việt nam. Như sản xuất kinh doanh hàng cao su trong nước và các bạn hàng nước ngoài. Ngoài ra còn đào tạo dạy nghề cho một số doanh nghiệp thành viên.
2.2 Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty cao su sao vàng.
Bộ máy quản lý giữ vai trò quan trọng không thể thiếu được trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Một bộ máy quản lý gọn nhẹ có hiệu qủa , có trình độ nghiệp vụ ảnh hưởng lớn đến bố trí sắp xếp lao động, nguyên vật liệu tổ chức sản xuất, chất lượng sản phẩm.
Là một doanh nghiệp Nhà nước , Công ty cao su Sao Vàng tổ chức bộ máy quản lý theo cơ chế đảng lãnh đạo,công đoàn tham ra quản lý , giám đốc điều hành sản xuất kinh doanh. Bộ máy quản lý của Công ty cao su Sao Vàng bao gồm : Giám đốc, 3 phó giám đốc , 11 phòng ban, 1 văn phòng Đảng uỷ, 1 văn phòng công đoàn và 10 đơn vị sản xuất kinh doanh .
- Đứng đầu là giám đốc công ty chịu trách nhiệm trực tiếp và cao nhất với cấp trên trong mọi hoạt động của Công ty, là người đại diện cho công ty trước pháp luật về các hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời giám đốc có quyền ra quyết định điều hành sản xuất kinh doanh của công ty.
- Phó giám đốc kỹ thuật : là người có nhiệm vụ tham mưu cho giám đỗc về các lĩnh vực kỹ thuật , trực thuộc sự quản lý của phó giám đốc kỹ thuật là các phòng ban sau : Phòng kỹ thuật cơ năng , phòng kỹ thuật cao su , phòng kiểm tra chất lượng , phòng kiến thiết cơ bản.
- PGĐ sản xuất : là người có nhiêm vụ tham mưu cho giám đốc về mặt sản xuất của công ty , trực thuộc sự quản lý của PGĐ sản xuất là phòng tổ chức hành chính , phòng điều độ , phòng quân sự bảo vệ.
- PGĐ kinh doanh : là người tham mưu cho giám đốc về các hoạt động sản xuất kinh doanh của côn ty. Trực thuộc sự quản lý của PGĐ kinh doanh là : phòng kế hoạch kinh doanh , phòng tài vụ, phòng đối ngoại xuất nhập khẩu, phòng đời sông.
-Bí thư đảng uỷ : thực hiện vai trò lãnh đạo của đảng trong Công ty thông qua văn phòng đảng uỷ.
- Các chủ tịch công đoàn : có trách nhiệm cùng giám đốc quản lý lao động thông qua công đoàn.
-Các phòng ban chức năng : tham mưu cho giám đốc về mặt cơ khí , điện năng lượng , quản lý và ban hành các quy trình về vận hành máy , về nội dung an toàn, hướng dẫn an toàn và kiểm tra định mức kỹ thuật về cơ và năng lượng.
- Phòng kỹ thuật cao su : tham mưu cho giám đốc về mặt kỹ thuật cao su, bao gồm qủan lý và điều hành các quy trình công nghệ sản phẩm cao su. Kiểm tra để các đơn vị thực hiện tốt các quy trình đó, hướng dẫn ban hành các định mức kỹ thuật các tiêu chuẩn kỹ thuật chuyên môn , tổ chức nghiên cứu , áp dụng công nghệ sản xuất sản xuất sản phẩm sử lý các trường hợp biến động trong sản xuất.
- Phòng kiểm tra chất lượng : (KCS) : tham mưu cho giám đốc về mặt chất lượng sản phẩm , tổ chức kiểm tra các nguyên vật liệu trước khi nhập kho theo đúng tiêu chuẩn, kiểm tra chất lượng đầu ra , đồng thời chịu trách nhiệm về con dấu trên chất lượng sản phẩm.
- Phòng kiến thiết cơ bản : tham mưu cho giám đốc về công tác xây dựng cơ bản và thiết kế các công trình lập kế hoạch tổ chức các phương án , thi công và kiểm tra nghiệm thu các công trình xây dựng. Lắp đặt thiết bị trong công ty , giải quyết các vấn đề liên quan đến đất đai nhà ở theo quy định của nhà nước.
- Phòng tổ chức hành chính : tham mưu cho giám đốc về công tác bộ máy lao động sản xuất qủan lý , sử dụng lao động , đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên thực hiện mọi chế độ chính sách đối với người lao động, xây dựng kế hoạch sử dụng lao động và quỹ tiền lương hàng năm.
- Phòng quân sự bảo vệ : bảo vệ an ninh , tổ chữc kiểm tra , kiểm soát các sản phẩm ra vào công ty theo đúng nội quy , tổ chức hướng dẫn trực tiễp kiểm tra công tác phòng cháy chữa cháy để đảm bảo an toàn cho công ty.
- Phòng điều độ : tham mưu cho giám đốc về điều hành hoạt động sản xuất của công ty.
-Phòng kế hoạch thị trường : tổng hợp kế hoạch sản xuất kỹ thuật tài chính hàng năm của công ty và theo dõi hoạt động mua sắm vật tư thiết bị kinh doanh.
- Phòng tài vụ : tham mưu cho giám đốc về mặt quan lý, các nguồn vốn số liệu về tài chính kế toán.
- Phòng tài chính kế toán: Hạch toán kế toán về tài chính tiền tệ.
- Phòng đối ngoại – Xuất nhập khẩu : tham mưu cho giám đốc tham mưu cho giám đốc từ việc xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế , giải quyết các thủ tục trong việc ký kết các hợp đồng kinh tế đối ngoại và nghiên cứu thị trường nước ngoài.
- Phòng đời sống : tham mưu cho giám đốc về mặt đời sống của cán bộ công nhân viên. Tổ chức khám sức khoẻ cho người có thẻ bảo hiểm y tế tại công ty. Kiểm tra vệ sinh môi trường , chống nóng thực hiện các công việc kế hoạch hoá gia đình của cán bộ công nhân viên trong toàn công ty.
Phía dưới phòng ban là các xí nghiệp trực thuộc các xí nghiệp này hoạt động trên nguyên tắc hạch toán độc lập.Trong phạm vi của mình các xí nghiệp có thể tự mua các nguyên vật liệu, tự sản xuất theo công nghệ kỹ thuật riêng , tự thành lập hệ thống tiêu thụ. Tuy vậy hàng năm căn cứ vào kế hoạch sản xuất của công ty , các xí nghiệp được giao một phần nhiệm vụ sản xuất đó, điều này này cho thấy hai nhiệm vụ cơ bản của các xí nghiệp thành viên là : Một mặt hoàn thành nhiệm vụ sản xuất do công ty giao cho một mặt vẫn phải đáp ứng nhu cầu của thị trường. Đây là hướng đi mới của công ty trong việc từng bước gắn người sản xuất với thị trường và hướng việc sản xuất theo thị trường.
2.3 Đặc điểm về máy móc công nghệ sản xuất.
Máy móc thiết bị là công cụ lao động trực tiếp tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm. Trình độ trang thiết bị máy móc phản ánh khả năng sản xuất của doanh nghiệp.
Công ty cao su sao vàng là công trình do nhà nước và nhân dân Trung quốc giúp đơ, do vậy tử khi mới thành lập toàn bộ công nghệ máy móc thiết bị đều được nhập từ Trung quốc.
Một số máy móc thiết bị chủ yếu của công ty là : các lò luyện cao su máy ép lốp săm , máy thành lốp xăm , máy lưu hóa, máy luyện.
Về máy móc thiết bị Nhà nước đã nói trên hầu hết là máy Trung Quốc, sau gần 40 năm sử dụng Công ty đã từng bước thay đổi bổ sung các máy móc hiện đại để dần nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động. Nhất là trong những năm gần đây , công ty đã mạnh dạn đầu tư có chiều sâu vào một số công đoạn sản xuất thế các loại máy móc cũ bằng bằng các máy tự động của Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản và Liên Xô , Việt Nam.
Về công nghệ sản xuất của công ty : công nghệ sản xuất các sản phẩm cao su là công nghệ khép kín từ khâu sơ chế đến khâu chế biến công nghệ sản xuất công ty chưa mang tính chất đồng đều giữa các sản phẩm cần phải thay thế dần những công nghệ cũ , lỗi thời bằng những công nghệ hiện đại hơn.
Thiết bị máy móc là công nghệ hiện đại sẽ đáp ứng được nhu cầu của thị trường về sản phẩm của công ty , nó góp phần không nhỏ trong quá trình thay đổi mẫu mã , chất lượng quy cách sản phẩm.
Sau đây là công trình công nghệ sản xuất săm xe đạp và bảng liệt kê một số máy móc thiết bị của công ty.
Sơ luyện
Cao su
Hóa chất
Kỹ thuật sàng xảy
Hỗn luyện
Nhiệt luyện n
ép suất
Lò ngống
Lưu hoá
Định dài
Gắn van
Mài dầu
Phết keo
Nối dầu
Đóng gói
Nhập kho
Thử chân không
Sơđồ 2 : Quá trình sản xuất săm lốp xe đạp
Bảng 1: Một số máy móc thiết bị chủ yếu của công ty.
Stt
Tên máy móc thiết bị
Nước sản xuất
Năm đưa vào sử dụng
Nguyên giá
(VNĐ)
1
Máy luyện các loại
Tq,vn,lx
1960,1975,1992
886.719.711
2
Máy cán các loại
Tq
1971,1975,1996
615.861.929
3
Máy thành hình lốp
Vn,tq
1975,1994,1996
1.108.729.810
4
Máy địa hình
Tự sản xuất
1989
7.196.125
5
Máy lưu hoá
Tq,vn,lx
1956,1987,1993
2.125.425.656
6
Máy đột dập tanh
Vn
1976,1979,1993
5.190.640
7
Máy cắt vải
Tq,vn,đức
1973,1977,1990
127.193.494
8
Các loại bơm
Tq,nb
1987,1996
251.132.443
9
Các loại máy nén khí
Vn,mỹ
1992,1993,1996
191.655.000
10
Máy cuộn vải
Tq
1961,1975,1983
6.910.440
11
Máy ép + máy nối dầu
Tq
1961,1985,1983
1.270.000.000
12
Các loại khuôn
đài loan
1971,1988,1993
595.106.000
13
Máy xé vải mành
Vn
1978
815.765
14
Máy đảo tanh
vn
1979
823.076
2.4 Nguyên vật liệu của công ty.
Công ty cao su Vao Vàng là đơ vị sản xuất các sản phẩm cao su nên nguyên liệu chính dùng cho sản xuất là cao su thiên nhiên Đặc điểm chủ yếu về nguyên vật liệu sản xuất của công ty là tính đa rạng và phức tạp. Nó được thể hiện qua đặc thù của sản phẩm của cac sản phẩm cao su. Đó là sự kết hợp phức tạp của các các nguyên vật liệu , các nguyên tố hoá học. Nguyên vật liệu của công ty có thể chia ra thành 11 nhóm chính.
Nhóm 1 : Cao su thiên nhiên và cao su tổng hợp
Nhóm 2 : Chất lưu hoấ, chủ yếu là lưu huỳnh.
Nhóm 3 : Chất xúc tiến , xúc tiến U, xúc tiến D._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0283.doc