Định hướng & giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bình Thuận thời kì 2006 - 2010

Lời mở đầu Quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, để đưa đất nước đi lên theo kịp các nước có nền công nghiệp phát triển. Chúng ta phải thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hoá, xây dựng một cơ cấu kinh tế thích hợp với điều kiện nước ta hiện nay và với tình hình quốc tế hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. Trong những năm qua, cùng với sự đi lên của kinh tế đất nước, kinh tế tỉnh Bình Thuận cũng

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1924 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Định hướng & giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bình Thuận thời kì 2006 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã có những chuyển biến rõ nét. Điều này thể hiện thông qua : Tốc độ tăng trưởng bình quân tổng sản phẩm quốc nội Tỉnh (GDP) thời kỳ 2001-2004 là 11,67% (Trong đó nông ngư lâm nghiệp tăng 7,6%; Công nghiệp xây dựng tăng 16,5%; Dịch vụ tăng 14,6%); Sản lượng lương thực 420.000 tấn; Sản lượng khai thác hải sản 140.000 tấn; Giảm tỷ lệ nghèo 6,7%… Một trong những yếu tố quan trọng làm nên sự thành công của Bình Thuận là đầu tư đúng hướng và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế một cách hợp lý và có hiệu quả… Bên cạnh những tiến bộ về kinh tế-xã hội Bình Thuận cũng gặp phải những khó khăn, hạn chế trong phát triển kinh tế. Đó là chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, ngành công nghiệp chưa phát triển, dịch vụ mặc dù chiếm tỷ trọng khá trong GDP toàn tỉnh nhưng vẫn mang tính nhỏ bé, cơ sở vất chất kỹ thuật còn ở mức thấp, nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp lạc hậu mang tính thời vụ. Nền kinh tế chưa có tích luỹ để phục vụ nhu cầu tái đầu tư. Trình độ dân trí vẫn còn thấp, lực lượng lao động có kỹ thuật và có kiến thức kinh tế còn rất ít. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các tỉnh khác và so với cả nước. Từ thực tế trên đòi hỏi Bình Thuận phải tận dụng mọi nguồn lực hiện có để thúc đẩy hơn nữa sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, mau chóng thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, khắc phục những khó khăn, hạn chế những vấn đề đang vấp phải như hiện nay. Và nếu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đúng hướng sẽ đáp ứng được những yêu cầu bức thiết đó. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế mang lại một hướng đi đúng hơn trong quá trình phát triển kinh tế của địa phương. Đó cũng là một quá trình đi theo xu hướng chung của cả nước, khu vực và thế giới nhưng phải được điều chỉnh theo những đặc trưng cơ bản nhất của địa phương như : Xuất phát điểm trong phát triển kinh tế, tài nguyên thiên nhiên, ngành nghề truyền thống, nguồn nhân lực… Chuyên đề thực tập này tập trung vào nghiên cứu, đánh giá một số mặt của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Bình Thuận thời kỳ 2001-2005. Và dựa trên những tri thức đã học kết hợp với việc đối chiếu, so sánh với hoạt động chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế một số tỉnh trên toàn quốc, chuyên đề đưa ra một số phương hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bình thuận thời kỳ 2006-2010 và đề xuất một số giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trên địa bàn tỉnh một cách hợp lý, có hiệu quả. Qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn đặc biệt chân thành đến PGS.TS Ngô Thắng Lợi, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành giai đoạn thực tập và hoàn thành bản chuyên đề này. Tôi cũng xin cảm ơn các cán bộ, chuyên viên Vụ kinh tế Địa phương và Lãnh thổ, Bộ Kế hoạch & Đầu tư, đặc biệt là bác Nguyễn Thế Quy, người đã cung cấp tài liệu và có những ý kiến đóng góp rất quý báu cho nội dung của bản chuyên đề này. Do những hạn chế về mặt nhận thức, cũng như về mặt thời gian nghiên cứu, chuyên đề chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được các thầy cô giáo chỉ bảo thêm để bản chuyên đề thực tập này có được nội dung hoàn thiện hơn. Chương 1 lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của địa phương I. Các vấn đề cơ bản về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của địa phương: 1. Khái niệm: Cơ cấu ngành kinh tế của địa phương là số ngành kinh tế được hình thành và mối quan hệ tổng hợp giữa các ngành đó với nhau. Biểu thị bằng vị trí, tỷ trọng của mỗi ngành trong hệ thống nền kinh tế của địa phương. Xem xét cơ cấu ngành của nền kinh tế địa phương thường đứng trên hai góc độ. Thứ nhất, xem xét dưới góc độ định lượng. Cơ cấu ngành kinh tế tỉnh bao gồm số ngành kinh tế và tỷ trọng mỗi ngành đó trong tổng thể nền kinh tế địa phương. Thứ hai là xem xét dưới giác độ định tính. Cơ cấu ngành thể hiện mối quan hệ giữa các ngành kinh tế và vị trí của mỗi ngành trong nền kinh tế địa phương. Ngành kinh tế của một địa phương là tổng thể các đơn vị kinh tế cùng thực hiện một chức năng trong hệ thống phân công lao động xã hội của địa phương. Cơ cấu ngành kinh tế của địa phương phản ánh trình độ phân công lao động xã hội chung của nền kinh tế địa phương và qua đó phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của địa phương. Trong mối quan hệ giữa các ngành kinh tế thường biểu hiện hai mối quan hệ chủ yếu như : Ngành có quan hệ trực tiếp (Trong đó bao gồm các ngành có mối quan hệ ngược chiều và các ngành có mối quan hệ xuôi chiều) và ngành có mối quan hệ gián tiếp. 2. Phân loại các ngành kinh tế của địa phương : Cơ cấu ngành kinh tế địa phương bao gồm các ngành kinh tế sau : + Công nghiệp : Gồm các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp khai thác, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu, công nghiệp lọc dầu, ngành xây dựng… + Nông nghiệp : Gồm các ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và ngư nghiệp. + Dịch vụ : Gồm thương mại, du lịch, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, tài chính ngân hàng và các ngành dịch vụ khác… * Mối quan hệ giữa ba ngành Công nghiệp – Nông nghiệp – Dịch vụ : Ba ngành Công nghiệp – Nông nghiệp – Dịch vụ tuy được tách biệt nhau nhưng mối quan hệ hữu cơ giữa ba ngành vẫn mang tính sâu sắc, hỗ trợ lẫn nhau. Nông nghiệp được xem là ngành cung cấp những thứ yếu phẩm cần thiết cho cuộc sống. Nhưng cũng là khu vực cung cấp nguyên vật liệu đầu vào cho ngành công nghiệp và đồng thời là nơi tiêu thụ những sản phẩm đầu ra của ngành công nghiệp. Công nghiệp được xem là bộ phận làm biến đổi sâu sắc nhất đến cơ cấu ngành nông nghiệp. Công nghiệp cung cấp máy móc thiết bị, phân bón cho nông nghiệp. Công nghiệp là nơi biến đổi, chế biến sản phẩm nông nghiệp thành những sản phẩm công nghiệp phục vụ cho cuộc sống của con người và sự hoạt động của các ngành kinh tế khác. Để đảm bảo mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp ngày càng có hiệu quả thì không thể không kể đến vai trò của ngành dịch vụ. Dịch vụ bao gồm thương mại, giao thông vận tải, tài chính ngân hàng, bưu chính viễn thông…Do mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp có thể biểu hiện một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua quá trình sản xuất hay là trong quá trình lưu thông hàng hoá và dịch vụ. Điều đó có nghĩa là tính chất xã hội của lao động công nghiệp và lao động nông nghiệp có thể biểu hiện một cách gián tiếp hoặc trực tiếp. Như vậy, nếu không có sự tồn tại và phát triển không ngừng của ngành dịch vụ thì công nghiệp và nông nghiệp không thể tồn tại trong cuộc sống của con người hiện nay. Thương mại, giao thông vận tải, tài chính ngân hàng…là chiếc cầu nối quan trọng giữa quá trính sản xuất với quá trình lưu thông hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Sản xuất hàng hoá luôn luôn phải gắn liền với thị trường. Không thể tồn tại sản xuất hàng hoá mà không có thị trường. Như vậy công nghiệp, nông nghiêp không thể tách rời khỏi dịch vụ. Xu hướng phát triển của xã hội hiện nay cho thấy, dịch vụ có xu hướng tăng nhanh hơn công nghiệp và công nghiệp có xu hướng tăng nhanh hơn nông nghiệp. Mặc dù quy mô của ngành nông nghiệp có xu hướng tăng lên nhưng tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế ngày càng giảm. 3. Cơ cấu ngành kinh tế hợp lý của một địa phương : Khái niệm về cơ cấu ngành kinh tế của địa phương không chỉ giới hạn ở mối quan hệ giữa các ngành và mang tính cố định mà nó luôn ở trang thái động và nhất là không có một khuôn mẫu nhất định, nó tuỳ thuộc vào những điều kiện tất yếu cụ thể theo không gian và thời gian. Cho đến nay sự tranh luận trong các giới khoa học, giới quản lý không phải có khái niệm cơ cấu ngành kinh tế mà chủ yếu là ở việc xác định cơ cấu đó có phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương trong thời gian xác định. Trên thực tế có nhiều mô hình cơ cấu ngành kinh tế, giữa các mô hình đó có những điểm giống nhau, song cũng có những điểm khác nhau. Vấn đề là lựa chọn cơ cấu ngành kinh tế nào là được coi là hợp lý nhất, đáp ứng tốt nhất yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Để có thể thồng nhất trong sự lựa chọn có cấu kinh tế hợp lý, cần có sự nhất trí về quan điểm và tiêu chuẩn của cơ cấu ngành kinh tế như thế nào là hợp lý. Muốn xác định cơ cấu ngành kinh tế hợp lý phải căn cứ vào các điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế-xã hội-chính trị ở trong địa phương và chính sách đối ngoại của địa phương. Một cơ cấu kinh tế hợp lý là một cơ cấu kinh tế thích ứng nhất với các điều kiện cụ thể của địa phương và đem lại hiệu quả nhất định. Nhìn chung một cơ cấu ngành kinh tế đạt được hiệu quả phải tạo ra sự ổn định, tăng trưởng và phát triển kinh tế. Điều đó được biểu hiện qua các mặt sau đây : + Một là, khai thác tối đa những ưu thế và thuận lợi về tài nguyên thiên nhiên nói chung của địa phương như : Đất đai, địa hình, khí hậu, vị trí địa lý, ưu thế truyền thống, tiềm năng vốn có về xã hội, chính trị, về quan hệ đối ngoại… Tuy nhiên, việc khai thác tối đa tài nguyên thiên nhiên không có nghĩa là sử dụng và khai thác bừa bãi, có tính bóc lột, chạy theo lợi ích trước mắt, gây huỷ hoại lâu dài, mà phải khai thác một cách khoa học, hợp lý đem lại hiệu quả cao. + Hai là, cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành phát triển với số lượng, chủng loại sản phẩm đa dạng và phong phú bảo đảm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. + Ba là, bảo đảm và tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của mỗi ngành, mỗi vùng và mỗi thành phần kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế hợp lý phải làm sao tạo khả năng phát triển thuận lợi cho cả tổng thể và từng bộ phận trong tổng thể. + Bốn là, tạo tích luỹ nhiếu nhất cho nền kinh tế của địa phương. Tiêu chuẩn này có tính chất tổng hợp. Nó chứng tỏ nền kinh tế phát triển và tăng trưởng cao. Khả năng tích luỹ của mỗi ngành, mỗi vùng kinh tế là khác nhau. Có ngành, có vùng không thể đòi hỏi phải có tích luỹ và ngược lại nhiều khi cón phải hỗ trợ thêm để đảm bảo duy trì hoạt động bình thường của nó. Chẳng hạn như ngành xây dựng kết cấu hạ tầng từng phục vụ nhu cầu công cộng… Cơ cấu kinh tế hợp lý và có hiệu quả phải tạo khả năng tích luỹ cao ở những ngành, những vùng không có điều kiện tích luỹ, mà còn góp phần làm tăng tích luỹ cho nền kinh tế của địa phương. 4. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế địa phương : Quá trình phân công lao động xã hội và sự phát triển của lực lượng sản xuất đã thúc đẩy sự biến đổi không ngừng của cơ cấu ngành kinh tế địa phương. Nhưng quá trình hoạt động kinh tế của các ngành, các vùng và các thành phần không phải bao giờ cũng đồng đều, nhịp nhàng với nhau. Vì trong quá trình ấy có nhiều yếu tố tác động đến xu hướng phát triển của mỗi ngành. Vì thế cơ cấu kinh tế cũng có sự biến đổi, song nếu cơ cấu vẫn còn thích ứng, chưa gây ra những trở ngại cho sự phát triển của từng bộ phận và cả tổng thể thì chưa đòi hỏi phải xác định lại cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chỉ diễn ra khi : + Có những thay đổi lớn về điều kiện phát triển. + Có những khả năng và những giải pháp mới làm thay đổi phương thức khai thác các điều kiện hiện tại. Theo E.Engel, Nhà kinh tế học người Đức, khi thu nhập của các gia đình tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu của họ cho lương thực, thực phẩm giảm đi. Do chức năng chính của khu vực nông nghiệp là sản xuất lương thực, thực phẩm nên có thể suy ra là tỷ trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên. Quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel được phát hiện cho sự tiêu dùng lương thực, thực phẩm nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng cho việc nghiên cứu tiêu dùng các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế học gọi lương thực, thực phẩm là các sản phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền, và việc cung cấp dịch vụ là sự tiêu dùng cao cấp. Qua quá trình nghiên cứu họ phát hiện ra xu hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với tăng thu nhập, còn chi tiêu cho hàng tiêu dùng cao cấp tăng nhanh hơn tốc độ tăng thu nhập. Như vậy, quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel đã làm rõ tính xu hướng của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển. Khi thu nhập theo đầu người tăng lên thì tỷ trọng của sản phẩm nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân sẽ giảm xuống, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên nhưng tỷ trọng của dịch vụ tăng nhanh hơn công nghiệp. Các nhà kinh tế cho rằng, một nước (hay một dịa phương) nông nghiệp muốn chuyển sang một nước (hay một dịa phương) công nghiệp phát triển cần phải trải qua các bước sau : Chuyển nền kinh tế nông nghiệp (Tỷ trọng Nông nghiệp chiếm 40%-60%, Công nghiệp chiếm 10%-20%, Dịch vụ chiếm 20%-30%) sang kinh tế nông công nghiệp (Tỷ trọng Nông nghiệp chiếm 15%-25%, Công nghiệp từ 25%-35%, Dịch vụ từ 40%-50%), để từ đó chuyển sang nền kinh tế công nghiệp phát triển (Tỷ trọng Nông nghiệp chiếm dưới 10%, Công nghiệp chiếm từ 35%-40%, Dịch vụ từ 50%-60%). II. Những yếu tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương : 1. Nhóm các yếu tố tự nhiên : Bao gồm vị trí địa lý, khí hậu, đất đai và tài nguyên. Nhóm yếu tố này quyết định lợi thế nguồn lực tự nhiên của từng địa phương, chúng có mối quan hệ đan xen vào nhau, ảnh hưởng trực tiếp thường xuyên đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Chuyển dịc cơ cấu kinh tế trước hết phải làm rõ các yếu tố này đẻ từ đó nhìn nhận được các vấn đề thuận lợi cũng như những khó khăn trong suốt quá trình chuyển dịch. Về vị trí địa lý : Tác động trực tiếp tới quá trình phát triển của địa phương. Nếu một địa phương là đầu mối giao lưu kinh tế của vùng, đất nước như : Đầu mối giao thông, cảng biển chính, cửa khẩu quan trọng,…sẽ có điều kiện phát triển hơn các tỉnh khác không có được những lợi thế đó. Bởi vì, vị trí địa lý tạo khả năng giao lưu mạnh giữa các tỉnh nằm trong cùng một vùng với nhau, sự giao lưu này thể hiện ở việc trao đổi hàng hoá, sản phẩm sản xuất, các nguồn lực như lao động, vốn tài nguyên, khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý…giữa các tỉnh với nhau, các vùng với nhau. Tài nguyên thiên nhiên : Bao gồm khí hậu, tài nguyên đất đai, khoáng sản, tài nguyên biển, tài nguyên rừng. Tài nguyên thiên nhiên đóng vai trò là nguồn nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, là yếu tố quan trọng tác động tới quá trình sản xuất nông nghiệp.Ví dụ như khí hậu và đất đai là hai yếu tố quan trọng nhất tác động tới sản xuất nông nghiệp. Tài nguyên khoáng sản, tài nguyên biển, tài nguyên rừng là những yếu tố quan trọng tạo nên sự phát triển mạnh các ngành công nghiệp sử dụng các nguồn tài nguyên đó như : Công nghiệp chế biến lâm, thuỷ hải sản, công nghiệp luuyên thép… 2. Nhóm các yêu tố xã hội : Đây là nhóm yếu tố làm nên thị trường, thể hiện tầm quan trọng của các nhu cầu xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đên xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Nhân tố thị trường : Là nhân tố quan trọng tạo sự phát triển của các ngành kinh tế, nhân tố nàythể hiện ở nhu cầu và tính cạnh tranh của thị trường, hai yếu tố này luôn luôn thay đổi theo thời gian. Chính nhu cầu, cơ cấu nhu cầu và xu thế vận động của nó cũng như tính cạnh tranh của thị trường đăt ra những mục tiêu phát triển của các ngành kinh tế, là cơ sở đảm bảo tính thực thi và hiệu quả của các phương án hình thành cơ cấu ngành của nền kinh tế. Nhân tố Khoa học-Công nghệ : Tác động mạnh tới quá trình hình thành và phát triển của cơ cấu ngành kinh tế. Chính sự phát triển của khoa học – công nghệ đã hình thành nên các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, không chỉ dừng lại ở đó khoa học – công nghê là điều kiện thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế theo chiếu saau, các hình thức đa dạng hoá và chuyên môn hoá trong sản xuất. Nhân tố sức lao động : Là một trong những nhân tố tác động tới quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nói riêng và của cơ cấu kinh tế nói chung. Cơ sở hạ tầng : Là nhân tố thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nêu nhu địa phương có được một cơ sở hạ tầng vững chắc, thuân tiện, có khả năng thu hút được vốn đầu tư từ bên ngoài. Nhưng sẽ là ngược lại, nó sẽ kim hãm sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nêu như địa phương không có được một cơ sở hạ tầng như vậy. 3. Nhóm các yếu tố chính trị : Bao gồm các yếu tố chủ yếu như các định hướng mục tiêu phát triển của đât nước, các chính sách quản lý kinh tế- xã hội của đất nước, các chính sách, giải pháp thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế của địa phương. Các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của địa phương. Các định hướng mục tiêu phát triển cũng như các chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc dân của nhà nước có vai trò quan trọng đến việc hình thành cơ cấu ngành kinh tế. Nếu như các mục tiêu phát triển và các chính sách quản lý vĩ mô đề cao vai trò của thị trường trong quá trình phát triển kinh tế thì sự hình thành cơ cấu kinh tế như mong muốn sẽ quá chậm, nhất là các ngành, tổ chức kinh tế hoạt động trong lĩnh vực cung cấp hàng hoá công cộng. Ngược lại, những định hướng mục tiêu, chính sách quản lý vĩ mô không sát với thực tế khách quan, hoặc sự điều tiết quá sâu của nhà nước vào các hoạt động kinh tế sẽ dẫn tới việc hình thành cơ cấu ngành kinh tế kém hiệu quả, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Các chính sách, giải pháp thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế của địa phương cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của địa phương. Mỗi địa phương cần phải xây dựng cho riêng mình những chính sách, giải pháp phù hợp nhất, tạo điều kiện cho quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế để đạt được mục tiêu đề ra của địa phương cũgn như góp phần đạt được mục tiêu phát triển của tổng thể nền kinh tế quốc dân. Như vậy, cơ cấu ngành kinh tế của địa phương một mặt phải căn cứ vào định hướng mục tiêu phát triển và chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước, mặt khác phải tuỳ thuộc vào điều kiện của địa phương mình, các chính sách, giải pháp phát triển kinh tế của địa phương mà chuyển dịch theo xu hướng phù hợp với mục tiêu chung của đất nước. III. ý nghĩa của việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của địa phương : Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế mang lại một hướng đi đúng hơn trong quá trình phát triển kinh tế của địa phương. Đó cũng là một quá trình đi theo xu hướng chung của cả nước, khu vực và thế giới nhưng phải được điều chỉnh theo những đặc trưng cơ bản nhất của địa phương như : Xuất phát điểm trong phát triển kinh tế, tài nguyên thiên nhiên, ngành nghề truyền thống, nguồn nhân lực…Đề ra hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một vấn đề phức tạp và tốn nhiều công sức trong quá trình nghiên cứu thực trạng cơ cấu cũ cũng như tìm những giải pháp mang tính tối ưu nhất cho hướng chuyển dịch tiếp theo. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế hình thành thành nên một hệ thống các ngành kinh tế một cách cân đối nhất. Một nước không thể phát triển dựa trên sản xuất nông nghiệp được mà phải dựa trên nền tảng của ngành công nghiệp mà đặc biệt là công nghiệp nặng, ngành dịch vụ và du lịch. Đó là một tất yếu của sự phát triển kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế toàn địa phương. Xuất phát từ công nghiệp sẽ là cái nôi cung cấp công cụ thiết bị máy móc sản xuất cho nông nghiệp, là ngành đóng vai trò quan trọng trong quá trình cơ khí hoá nông nghiệp, đẩy mạnh nông nghiệp phát triển theo xu hướng sản xuất hàng hoá, nông nghiệp phát triển lại tạo tiền đề cho công nghiệp phát triển. Từ quá trình đó sẽ thúc đẩy sự phát triển sự của ngành dịch vụ theo xu hướng tỷ trọng liên tục được tăng lên nhanh nhất. Từ những ý nghĩa hết sức quan trọng và to lớn trên ta thấy rằng sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá được xem là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là sự phát triển khách quan của nền kinh tế quốc dân nói chung và kinh tế của một địa phương nói riêng. Chương 2 thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh bình thuận thời kì 2001-2005. I. Điều kiện tự nhiên và kinh tế -xã hội tỉnh Bình Thuận: 1. Điều kiện tự nhiên : a. Vị trí địa lý : Bình Thuận là tỉnh ven biển cực Nam Trung Bộ, có mối liên hệ chặt chẽ với vùng Đông Nam Bộ và nằm trong khu vực ảnh hưởng của ĐBTĐNB. Phía Bắc giáp Lâm Đồng và Ninh Thuận, phía Tây giáp tỉnh Đồng Nai, Tây Nam giáp Bà Rịa – Vũng Tàu, Đông và Đông Nam giáp biển Đông với đường bờ biển dài 192 km. Ngoài khơi có đảo Phú Quý cách Thành phố Phan Thiết 120 km. Tỉnh nằm giữa hai thành phố lớn là Thành phố Hồ Chí Minh và Nha Trang, có quốc lộ I, đường sắt thống nhất chạy qua nối Bình Thuận với các tỉnh phía Bắc và phía Nam của cả nước; quốc lộ 28 nối liền Thành phố Phan Thiết với các tỉnh Nam Tây Nguyên; quốc lộ 55 nối liền trung tâm dịch vụ dầu khí và du lịch Vũng Tàu. Với vị trí địa lý như trên tạo cho Bình Thuận giao lưu kinh tế chặt chẽ với các tỉnh Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và vùng Duyên Hải. Sức hút của các thành phố và trung tâm phát triển như Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Nha Trang tạo điều kiện cho tỉnh đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, tiếp thu nhanh khoa học kỹ thuật. Đồng thời cũng là một thác thức lớn đặt ra cho tỉnh Bình Thuận phải phát triển nhanh nền kinh tế nhất là những ngành mũi nhọn theo thế mạnh đặc thù để mở rộng liên kết, không bị tụt hậu so với khu vực. b. Địa hình : Đại bộ phận lãnh thổ là đồi núi thấp, đồng bằng ven biển nhỏ hẹp. Địa hình hẹp ngang, kéo dài theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, phân hoá thành 4 dạng địa hình sau : Đồi cát và cồn cát ven biển chiếm 18,22% diện tích tự nhiên phân bố dọc ven biển từ Tuy Phong đến Hàm Tân; rộng nhất là ở Bắc Bình ; dài khoảng 52 km, rộng 20 km. Địa hình chủ yếu là những lượn sóng. Đồng bằng phù sa chiếm 9,43% diện tích tự nhiên, gồm : Đồng bằng phù sa ven biển ở các lưu vực từ sông Lòng Sông đến sông Dinh nhỏ hẹp độ cao từ 0 – 12 m. Đồng bằng thung lũng sông La Ngà, độ cao từ 90 – 120 m. Vùng đồi gió chiếm 31,66%, độ cao từ 30 – 50 m kéo dài theo hướng Đông Bắc Tây Nam từ Tuy Phong đến Đức Linh. Vùng núi thấp chiếm 40,7% diện tích. Đây là những dãy núi của khối Trường Sơn chạy theo hướng Đông Bắc Tây Nam từ phía Bắc huyện Bắc Bình đến Đông Bắc huyện Đức Linh. Đặc điểm địa hình trên tạo điều kiện cho tỉnh phát triển kinh tế đa dạng. c. Khí hậu : Nằm trong khu vực có vùng khô hạn nhất cả nước, khí hậu nhiệt đới điển hình, nhiều gió, nhiều nắng không có mùa đông, lượng mưa trung bình 800 – 1.600 mm/năm, thấp hơn trung bình cả nước (1.900 mm/năm). Đặc điểm trên là điều kiện rất thuận lợi tăng năng suất cây trồng, phát triển chăn nuôi đại gia súc có sừng nếu được tiếp nước từ bên ngoài; thuận lợi cho phơi sấy trong sản xuất nông ngư nghiệp và sản xuất muối. Song do lượng mưa nhỏ, lượng bốc hơi lớn nên vấn đề khô hạn là một trong những hạn chế lớn của tỉnh. Vì vậy yếu tố thuỷ lợi để giữ nước và cấp nước có vai trò quan trọng cho phát triển kinh tế, nhất là sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của cư dân Bình Thuận. d. Tài nguyên biển : Bình Thuận với 192 km bờ biển có 3 cửa Phan Thiết, Lagi, Tuy Phong và đảo Phú Quý; diện tích vùng lãnh hải 52.000 km2, là một trong những vùng biển giàu nguồn lợi nhất về các loại hải sản; nhiều tiềm năng để phát triển diêm nghiệp, du lịch và khai thác khoáng sản biển. Tổng trữ lượng cá 230 nghìn tấn, khả năng khai thác 100 – 120 nghìn tấn/năm, trong đó 60% cá nổi tập trung ở 3 ngư trường Phan Thiết, Hàm Tân và đảo Phú Quý; mực 10.000 tấn, sò điệp là đặc sản của Bình Thuận, trữ lượng 50.000 tấn, khả năng khai thác hàng năm 25 – 30 nghìn tấn, tập trung ở 4 bài chính : Lai Khế, Hòn Rơm, Cù Lao Cau và Phan Rí Cửa. Vùng ven biển Bình Thuận còn nhiều khả năng nuôi trồng thuỷ sản, diêm nghiệp và du lịch : Toàn tỉnh có trên 3.000 ha mặt nước triều có thể đưa vào nuôi tôm, làm ruộng muối. Trong đó diện tích có khả năng nuôi tôm là 1.500 ha : tập trung Tuy Phong (575 ha), Bắc Bình (50 ha), Phan Thiết (115 ha), Hàm Thuận Nam (360 ha), Hàm Tân (340 ha); khả năng diện tích phát triển ruộng muối 2.000 ha tại Tuy Phong, Phan Thiết, Hàm Thuận Nam và Hàm Tân. Ngoài ra còn có gần 1.000 ha mặt nước hồ, đầm và các công trình thuỷ lợi có khả năng nuôi cá nước ngọt. Bình Thuận có các bài biển bờ cát trắng mịn như Vình Thuỷ, Rạng, Mũi Né (Phan Thiết), Đồi Dương (Hàm Tân), có bãi biển nằm cạnh sườn núi với bờ đá nhấp nhô như Vĩnh Hảo, Bình Thạnh (Tuy Phong) điều kiện để phát triển du lịch biển. e. Tài nguyên đất : Với diện tích 799.200 ha, Bình Thuận có 10 loại đất với 20 tổ đất khác nhau: Đất cát, cồn cát ven biển và đất mặn phân bố dọc bờ biển từ nam Tuy Phong đến Hàm Tân, diện tích 146,5 nghìn ha (18,3% diện tích toàn tỉnh). Trên các loại đất này có thể phát triển mô hình nông lâm kết hợp, trồng các băng rừng phòng hộ – kết hợp trồng cây ăn quản và các loại hoa màu như dưa hạt, đậu các loại … Trên đất mặn có thể làm muối hoặc nuôi tôm nước lợ. Đất phù sa với diện tích 75.400 ha (9,43% diện tích tự nhiên) phân bố ở các đồng bằng ven biển và vùng thung lũng sông La Ngà. Hầu hết diện tích đất này đã được khai thác đưa vào trồng lúa nước, hoa màu, cây ăn quả … Đất xám có diện tích 151.000 ha (18,9% diện tích toàn tỉnh) phân bố hầu hết trên địa bàn các huyện. Khả năng sử dụng loại đất này vào nông lâm nghiệp và mặt bằng công nghiệp còn lớn. Trong đó tới 85% diện tích có thể phát triển cấy điều, cao su, cây ăn quả và các loại cây có giá trị kinh tế cao. Diện tích còn lại chủ yếu là tổ hợp đất đồi núi, đất đỏ vàng, đất nâu vùng bán khô hạn … Trên các loại đất này có thể sử dụng vào các mục đích nông lâm nghiệp. Trong quá trình khai thác sử dụng các loại đất trên cần đặt biện pháp cải tạo và bảo vệ như : trồng rừng phòng hộ chống cát bay ven biển, cải tạo xây dựng đồng ruộng, bảo vệ nghiêm ngặt rừng đầu nguồn. Xây dựng một cơ cấu cây trồng và chế độ canh tác hợp lý theo không gian nhiều tầng phù hợp với từng tiểu vùng sinh thái. Với diện tích đất đai trên, đến năm 1999 đã đưa vào sử dụng nông nghiệp khoảng 132,7 nghìn ha (16,6% diện tích), sử dụng lâm nghiệp 550,3 nghìn ha (68,8% diện tích); đất thổ cư chuyên dùng 22,6 nghìn ha (2,8% diện tích). Diện tích đất trống đồi trọc chưa đưa vào sử dụng 248,8 nghìn ha (30,8% diện tích); trong đó đất có khả năng mở rộng để phát triển nông nghiệp thời kỳ 1996 – 2010 khoảng 4 vạn ha. Diện tích đất mở rộng này chủ yếu là đất dốc, vì vậy khi khai hoang phải đầu tư đồng bộ, nhất là giải quyết vấn đề nước và thâm canh ngay từ đầu để sử dụng đất lâu bền và có hiệu quả. f. Tài nguyên rừng : Theo kết quả kiểm kê hiện trạng rừng năm 1998, diện tích đất lâm nghiệp của tỉnh là 550.327 ha, chiếm 68,85% diện tích tự nhiên. Diện tích đất có rừng 391.815 ha, trữ lượng gỗ 25,6 triệu m3 gỗ và 25 triệu cây tre nứa. So với vùng Đông Nam Bộ, Bình Thuận là tỉnh có diện tích rừng và trữ lượng gỗ lớn nhất, chiếm 45,5% diện tích rừng tự nhiên và 57,3% tổng trữ lượng gỗ tròn vùng Đông Nam Bộ. Diện tích rừng tự nhiên hiện có 381.469 ha, phân loại theo trạng thái cho thấy ở Bình Thuận như sau : Kiểu rừng gỗ lá rộng thường xanh và nửa rụng lá 191,3 nghìn ha, trữ lượng gỗ 15,2 triệu m3. Kiểu rừng rụng lá 176 nghìn ha trữ lượng gỗ 9,9 triệu m3, kiểu rừng hỗn giao lá kim chiếm ưu thế và kiểu rừng hỗn giao và tre nứa thuần loại có diện tích 13,9 nghìn ha, trữ lượng 576 nghìn m3. Điều đáng chú ý là quá trình diễn thế theo xu hướng giảm rừng giàu, rừng trung bình. Hiện nay, rừng giàu còn 42,5 nghìn ha và 5,6 triệu m3 gỗ, chiếm 11,4% diện tích và 22% trữ lượng gỗ; rừng trung bình có 59,7 nghìn ha, trữ lượng 7,5 triệu m3 gỗ, chiếm 16,1% về diện tích và 29,6% trữ lượng; rừng nghèo 267,7 nghìn ha, trữ lượng 12,2 triệu m3 gỗ, chiếm 72,5% về diện tích và 48,4% trữ lượng. Gần một nửa diện tích là rừng khộp (176 nghìn ha), trong đó rừng khộp nghèo và khộp non tái sinh chiếm tới 59,4% diện tích. Đây là xu thế xấu do quá trình khai thác chưa hợp lý, cần phải thay đổi xu thế này bằng khai thác rừng hợp lý và đẩy mạnh tu bổ cải tạo rừng tự nhiên và trồng rừng. Tổng diện tích đất trống toàn tỉnh 248,8 nghìn ha, trong đó diện tích đất trống đồi trọc do ngành Lâm Nghiệp quản lý là 158,8 nghìn ha (19,8% diện tích tự nhiên). Đây là địa bàn để tiến hành trồng rừng nguyên liệu, rừng phòng hộ, trồng cây công nghiệp dài ngày và chăn nuôi bò, mặt bằng có kết cấu nền tốt để bố trí công nghiệp (nhất là những khu vực gần đường giao thông); cơ sở mở rộng phát triển nông lâm nghiệp, công nghiệp, tạo việc làm và thu hút lao động. g. Tài nguyên nước và thuỷ điện : Bình Thuận có 7 lưu vực sông chính là : sông Lòng Sông. sông Luỹ, sông Cái Phan Thiết, sông Cà Ty, Sông Phan, sông Dinh và sông La Ngà. Tổng diện tích lưu vực 9880 km2 với chiều dài sông suối 663 km. Nguồn nước mặt hàng năm của tỉnh khoảng 5,4 tỉ m3 nước trong đó lượng dòng chảy bên ngoài đưa đến 1,25 tỉ m3, riêng sông La Ngà chiếm 2,1 tỉ m3. Nguồn nước phân bố mất cân đối theo không gian và thời gian. Lưu vực sông La Ngà thừa nước thường bị ngập úng như vùng Tuy Phong, Bắc Bình, ven biển (lưu vực sông Phan, sông Dinh), thiếu nước trầm trọng, có những nơi như vùng Tuy Phong, Bắc Bình, dấu hiệu báo động tình trạng hoang mạc hoá đã xuất hiện. Nguồn nước ngầm ít, bị nhiễm mặn, phèn; rất ít có khả năng phục vụ nhu cầu sản xuất, chỉ đáp ứng được phần nhỏ cho sinh hoạt và sản xuất trên một số vùng nhỏ thuộc Pha Thiết và đồng bằng sông La Ngà. Nguồn thuỷ năng khá lớn, tổng trữ năng lý thuyết khoảng 450.000 KW, tập trung chủ yếu trên sông La Ngà. Riêng 4 bậc thuỷ điện La Ngà với công suất lắp máy 417.000 KW, sản lượng điện dự kiến khai thác 1,8 tỷ KWh. Khả năng khai thác nguồn thuỷ năng trên các lưu vực sông Dinh đến sông Lòng Sông rất nhỏ, chủ yếu là các công trình thuỷ điện nhỏ (15 công trình) với công suất lắp máy 1.900 KW. h. Tài nguyên khoáng sản : Bình Thuận có nhiều tích tụ khoáng sản đa dạng về chủng loại : vàng, wolfram, chì, kẽm, nước khoáng và các phi khoáng khác. Trong đó, có gía trị thương mại và công nghiệp là nước khoáng. Nước khoáng : có nhiều điểm nước khoáng từ 39 – 420 như Vĩnh Hảo (Tuy Phong), Đa Kai (Đức Linh), Đồng Kho (Tánh Linh), Văn Lâm, Hàm Cường, Tà Kóu (Hàm Thuận Nam), Phong Điền (Hàm Tân). Riêng 4 điểm Vĩnh Hảo, Văn Lâm, Hàm Cường và Đa Kai là loại nước khoáng thuộc loại cacbonat – natri được dùng làm nước giải khát, khả năng khai thác khaỏng 300 triệu lít/năm. Nước khoáng khu vực Tuy Phong có đủ điều kiện để sản xuất tảo với sản lượng tương đối lớn. Trữ lượng sa khoáng II – menit 1.08 triệu tấn, Zicon 193 nghìn tấn, đi cùng với Zicon còn có nhiều Monazit và đất hiếm. Hàm lượng TiO 43 – 45%, hàm lượng Z._.rO2 48,6 – 59,5%. Sa khoáng Iimenit – Zicon phân bố ở mũi Kê Gà (Hàm Thuận Nam), Mũi Né (Phan Thiết), Tân Thiện (Hàm Tân), Thiện ái (Bắc Bình). Nguồn khoáng sản lớn nhất của Bình Thuận là cát trắng thuỷ tinh với tổng trữ lượng 496 triệu m3 cấp P2, hàm lượng SiO2 97 – 99%. Phân bố ở Dinh Thầy, Tân An, Tân Thắng (Hàm Tân), Cây Táo, Long Thịnh, Hồng Sơn (Hàm Thuận Nam), Nhơn Thành, Phan Rí và Pha Rí Thành (Bắc Bình). Có thể thoả mãn yêu cầu sản xuất thuỷ tinh cao cấp và kính dân dụng hoặc xuất khẩu nguyên liệu. Khoáng vật liệu xây dựng có cát kết vôi 3,9 triệu m3 cấp P2 phân bố ở Vĩnh Hảo và Phước Thể (Tuy Phong), đá vôi san hô (Tuy Phong). Sét gạch ngói phâ bố ở nhiều nơi (Hàm Thuận Nam, Đức Linh, Tánh Linh, Bắc Bình). Đá xây dựng và trang trí ở Tà Kóu (Hàm Thuận Nam) trữ lượng 45 triệu m3, Núi Nhọn (Hàm Tân) trữ lượng cấp P là 30 triệu m3. k. Nguồn nhân lực : Dân số năm 1999 có 1.230 nghìn người, dân số đô thị chiếm 26,4%. Toàn tỉnh có hơn 30 dân tộc. Dân tộc Kinh 93%, còn lại là các dân tộc Chăm (Bắc Bình, Tuy Phong), Hoa, Tày, Nùng … Mật độ dân cư 120 người/km2, phân bố không đều giữa các khu vực. Dân cư phân bố chủ yếu theo các đồng bằng ven sông, ven biển, thuộc các lưu vực sông Phan Thiết, sông Luỹ và sông Lòng Sông. Khu vực Bắc Bình - Tuy Phong dân cư tập trung chủ yếu ở đồng bằng ven biển (riêng 2 thị trấn Phan Rí Cửa và Liên Hương tập trung tới 40% dân số của huyện Tuy Phong). Đến năm 1999, tổng nguồn lao động của tỉnh có 549,3 nghìn người, chiếm 47,09% dân số. Lao động làm việc trong nền kinh tế quốc dân : 489,3 nghìn người. Số lao động chưa có việc làm là 60 nghìn người. Lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật có 23.170 người, trong đó công nhân kỹ thuật 9.310 người, trung học chuyên nghiệp 9.960 người, cao đẳng đại học 3.900 người. Những ngành cần nhiều cán bộ khoa học kỹ thuật như khai thác, chế biến hải sản, nông nghiệp, thuỷ lợi và y tế thì thiếu, chất lượng nguồn lao động làm việc trong nông nghiệp ngư nghiệp chủ yếu vẫn là lao động cơ bắp. Hàng năm tỉnh có khoảng 18 – 20 nghìn thanh niên đến tuổi bổ sung vào tổng lao động toàn tỉnh. Đây là một nguồn lực quan trọng, đồng thời cũng là một thách thức đối với sự phát triển. Nguồn lao động của tỉnh cần được đào tạo và đào tạo lại để thích nghi với cơ chế thị trường nhằm đáp ứng được yều cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. 2. Tình hình kinh tế-xã hội tỉnh Bình Thuận thời kỳ 2000 – 2004 : Sự chuyển đổi cơ chế quản lý nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường được thực hiện từ năm 1986. Thời kỳ 1986 – 1990 là thời kỳ đan xen giữa hai cơ chế, nền kinh tế của Thuận Hải cũ nói chung và phần lãnh thổ Bình Thuận nói riêng đang trong quá trình tìm tòi, tiếp cận. Từ năm 2001 – 2004, nền kinh tế Bình Thuận đã đi vào ổn định và có tăng trưởng, tường bước hoà nhập với xu thế phát triển của cả nước. 2.1. Tăng trưởng kinh tế : Trong 5 năm 2000 – 2004 nền kinh tế liên tục đạt được nhịp độ tăng trưởng cao, tổng sản phẩm nội tỉnh (GDP) tăng bình quân 11,33%. GDP năm 2004 tăng gấp 1,3 lần năm 2000, bình quân đầu người tăng từ 263 USD năm 2000 lên 365 USD năm 2004. Trong đó sự tăng trưởng : - Ngành nông lâm thuỷ sản đạt mức tăng trưởng bình quân 7,12%. Trong đó : nông lâm nghiệp tăng 6,4%, thuỷ sản tăng bình quân 10,5%. - Ngành công nghiệp – xây dựng từng bước xác định được hướng tập trung ưu tiên phát triển đạt được những kết quả khá. Nhịp độ tăng trưởng bình quân 29,4%, trong đó : công nghiệp tăng 20,1%, xây dựng tăng 60,5%. - Khu vực dịch vụ đạt nhịp độ tăng bình quân 16,6%, chủ yếu tăng trưởng cao ở các ngành vận tải, thông tin liên lạc (28,2%); tài chính tín dụng (15,9%), thương nghiệp (16,2%). Hoạt động khách sạn, nhà hàng tốc độ tăng trưởng (12,0%). Các hoạt động dịch vụ phi kinh tế tăng bình quân 14,4%. 2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế : Trong 5 năm 2000 – 2004 có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ, giảm dần tỷ trọng nông lâm nghiệp và tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. - Tỷ trọng ngành nông lâm thuỷ sản trong cơ cấu GDP của tỉnh giảm xuống rất nhanh từ 46,38% năm 2000 xuống còn 39,73% năm 2004. Trong đó : ngành nông nghiệp từ 66,18% năm 2000 xuống còn 60,74% năm 2004; ngành thuỷ sản từ 31,64% lên 37,38%; ngành lâm nghiệp từ 2,18% năm 2000 giảm xuống còn 1,88% năm 2005. - Ngành công nghiệp – xây dựng có sự dịch chuyển khá từ 22,15% năm 2000 lên 25,65% năm 2004. Riêng ngành công nghiệp tỷ trọng từ 10,1% tăng lên 15,7%; ngành xây dựng từ 11,3% tăng lên 19,08% năm 2004. 3. ảnh hưởng của bối cảnh quốc tế, trong nước và thị trường tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Thuận : 3.1. Bối cảnh quốc tế và thị trường nước ngoài : a. Tác động do tiến bộ khoa học công nghệ : Cuộc cánh mạng khoa học – công nghệ với làn sóng đổi mới công nghệ nhanh chóng đã và đang tác động cơ bản trên tất cả các mặt của xã hội về kinh tế, văn hoá, chính trị và khuynh hướng phát triển quốc tế hoá. Trong điều kiện đó để hội nhập và cạnh tranh quốc tế yêu cầu phải : nhanh chóng tiếp thu đổi mới công nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng và hiệu quả nền kinh tế, thu hẹp khoảng cách tụt hậu với các tỉnh trong khu vực. Với tỉnh Bình Thuận, kết hợp với các yếu tố đó gắn với thế mạnh về nguồn nhân lực dồi dào và sử dụng tối đa sẽ là nguồn lực và động lực cơ bản của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong thời gian tới. Trong bối cảnh đó, phải có chính sách và cách ứng xử thích hợp để tận dụng những thuận lợi, khai thác các nguồn lực có hiệu quả, không rơi vào tình trạng thụ động bị chèn ép hoặc hứng chịu những hậu quả xấu về cơ cấu kinh tế lạc hậu, môi trường sinh thái suy giảm. b. Tác động của vấn đề hội nhập kinh tế khu vực và thế giới : Trong 10 năm tới bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi. Nền kinh tế thế giới sẽ có bước phát triển mạnh mẽ theo xu hướng toàn cầu hoá vừa hợp tác, vừa cạnh tranh đan xen phức tạp, trên cơ sở cách mạng khoa học công nghệ trong giai đoạn mới mà chủ yếu là cách mạng tin học, sinh học, vật liệu mới, năng lượng mới, hình thành các cực và trung tâm phát triển có vai trò chi phối nền kinh tế thế giới và khu vực. Trong bối cảnh đó, nước ta gia nhập WTO sẽ tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa hàng hoá các nước. Vấn đề đặt ra là yêu cầu đổi mới thiết bị công nghệ, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phâm để tạo được thế mạnh cho sản phẩm của mình, đây là vấn đề mang tính sống còn của sản phẩm. c. Khả năng thu hút đầu tư nước ngoài : - Nguồn vốn FDI : ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực tuy đã qua được một thời gian nhưng hậu quả của nó vẫn chưa được khắ phục hoàn toàn, cùng với môi trường đầu tư trong nước còn nhiều hạn chế, cộng với phần lớn nguồn cung cấp FDI vào Việt Nam là từ các nước Châu á nền lượng FDI vào Việt Nam trong thời gian qua không cao. Trong thời gian tới, dự báo khả năng thu hút FDI sẽ phải đương đầu với nhiều khó khăn hơn nữa. Một mặt theo dự báo đánh giá sự vận động của nguồn vốn FDI trên thế giới vào khu vực Đông Nam á theo chiều hướng giảm sút, một mặt sau khủng hoảng môi trường đầu tư trong các nước vẫn chưa được cải thiện đáng kể. Trong tình hình trên với yêu cầu phát triển, sự cạnh tranh thu hút vốn đầu tư FDI giữa các tỉnh trong nước sẽ diễn ra rất quyết liệt. Yêu cầu đặt ra là cải thiện môi trường đầu tư thật thông thoáng, bao gồm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và ban hành các chính sách khuyến khích để cạnh tranh thu hút đầu tư phát triển. - Thu hút nguồn vốn ODA : trong các năm qua Việt Nam đã thu hút được nguồn vốn ODA tài trợ khá cao, tuy nhiên theo đánh giá của các nhà tài trợ thì mức giải ngân của Việt Nam còn chậm. Theo đánh giá của các nhà tài trợ, Việt Nam là một nước đang tiến hành cải cách, có chính sách đúng đắn và bước đầu đã cải cách thành công, hơn nữa Việt Nam vẫn còn nằm trong danh sách các nước có thu nhập thấp, được ưu tiên trong việc nhận viện trợ. Trên tình hình đó cần có sự chuẩn bị thật tốt các chương trình phát triển, các dự án để tranh thủ tối đa các nguồn vốn ODA đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội và xoá đói giảm nghèo. Trên cơ sở dự báo thị trường quốc té và khả năng thu hút vốn đầu tư vào các lĩnh vực có liên quan, Bình Thuận với lợi thế của mình từng bước phát triển hoà nhập vào kinh tế của địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam và có thể có những mặt hàng xâm nhập vào thị trường quốc tế Như : thuỷ hải sản (cá, mực, tôm), muối, nước mắm, điều, mủ cao su, rau quả… 3.2. Bối cảnh và thị trường trong nước : a. Bối cảnh trong nước : Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước với sự ổn định chính trị và thành công bước đầu trong cải cách kinh tế đã được quốc tế công nhận. Nhà nước đang từng bước tạo ra môi trường thuận lợi và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Dự báo nhịp độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ 2001 – 2005 từ 7,2 – 8,2%, thời kỳ 2006 – 2010 từ 7,2 – 7,8%. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển đổi theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại, tỷ trọng công nghiệp – xây dựng trong GDP năm 2005 là 35%, dịch vụ là 45%. Đến năm 2010 : công nghiệp – xây dựng là 40%, dịch vụ là 45%. Để đạt được mục tiêu trên đòi hỏi cơ cấu lãnh thổ quốc gia cũng sẽ có những biến đổi; mỗi vùng, mỗi tỉnh sẽ có những tăng trưởng cao dựa trên cơ sở phát triển những ngành mũi nhọn, những vùng trọng điểm. Đông Nam Bộ là vùng kinh tế phát triển sôi động, có nhịp độ tăng trưởng cao. Trong bối cảnh đó, hoà nhập vào nhịp độ phát triển của Đông Nam Bộ, nhất là địa bàn trọng điểm Nam Bộ, Bình Thuận với thế mạnh của mình cần thiết và có khả năng phát triển, bắt nhịp với nhịp độ chung của vùng để tránh tụt hậu quá xa so với các tỉnh trong vùng và cả nước. b. Thị trường trong nước : Trong cơ chế thị trường, theo quy luật cạnh tranh bất cứ đối tượng nào cũng có thể cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường. Trong tương lai, nền kinh tế Bình Thuận đi theo hướng ngoại, song vẫn phải dựa chủ yếu vào thị trường trong nước là chính. Thị trường Việt Nam với 86 triệu dân năm 2005 và 95 triệu dân năm 2010 với đời sống ngày càng tăng, sức mua tăng 3,5 – 4 lần vào năm 2010, nhu cầu ngày càng đa dạng. Trên cơ sở dự báo đó, nền kinh tế Bình Thuận phát triển sẽ có những sản phẩm và lĩnh vực có điều kiện phát triển, đủ sức cạnh trạnh chiếm lĩnh thị trường nông thôn của tỉnh, thị trường các địa phương lân cận. Đồng thời phát triển mạng lưới dịch vụ xuất nhập khẩu của tỉnh ở các nơi khác, trong đó có các thành phố lớn, tạo thế vươn ra thị trường các vùng khác. Bình Thuận còn khả năng sản xuất những mặt hàng tham gia trao đổi với các tỉnh là : các sản phẩm của công nghiệp chế biến nông – lâm sản, sản phẩm hàng tiêu dùng, công nghiệp thực phẩm, vật liệu xây dựng … Những hoạt động dịch vụ có thể sẽ đáp ứng được nhu cầu trong tỉnh và trong nước là dịch vụ xuất nhập khẩu, dịch vụ sữa chữa, dịch vụ vận tải biển, dịch vụ du lịch tham quan di tích lịch sử văn hoá, du lịch biển … 4. Những thuận lợi và hạn chế : 4.1. Thuận lợi : - Nằm trong địa bàn trọng điểm Nam Bộ, gần Thành phố Hồ Chí Minh – có sức hút lớn về kinh tế. Vị trí này có ảnh hưởng lớn đến Bình Thuận trong quá trình phân bố lại sản xuất và phân công lao động; đã và sẽ hội nhập vào thị trường khu vực thông qua các dòng trao đổi như : tiếp thu nhanh văn hoá, khoa học kỹ thuật, được hỗ trợ về hàng tiêu dùng và hàng công nghiệp. Đồng thời, Bình Thuận có thể cung cấp cho địa bàn trọng điểm Nam Bộ và Thành phố Hồ Chí Minh các mặt hàng nguyên liệu nông lâm sản, các mặt hàng hải sản, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ từ nguyên liệu rừng và biển. - Biển Bình Thuận giàu nguồn lợi, nguồn nguyên liệu nông nghiệp và lâm nghiệp phong phú, thế mạnh về khoáng sản và sa khoáng ven biển. Đây là lợi thế cho phát triển công nghiệp chế biến hải sản, chế biến thực phẩm và công nghiệp khai khoáng, sớm tạo ra khối lượng sản phẩm xuất khẩu lớn. - Đã hình thành hệ thống đô thị, bao gồm Thành phố Phan Thiết và các thị trấn huyện, các cụm công nghiệp và khai thác chế biến hải sản ở Phan Thiết, Hàm Tân, Tuy Phong … cư dân có kinh nghiệm tay nghề khai thác và chế biến hải sản, công nghiệp và dịch vụ hướng biển. 4.2. Hạn chế và thách thức : - Hệ thống kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội : giao thông, điện, cấp thoát nước, mạng lưới y tế, giáo dục và văn hoá bước đầu được quan tâm song so với yêu cầu phát triển còn quá yếu kém, xuống cấp; Yếu tố này đã hạn chế sự khai thác tiềm năng thế mạnh của tỉnh, chưa tạo được sự hấp dẫn đối với các nguồn lực đầu tư bên ngoài. - Nằm bên cạnh Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương và Thành phố Nha Trang là những trung tâm phát triển kinh tế lớn và năng động, có vị trí địa lý, kinh tế – cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng – nguồn lao động kỹ thuật ưu thế hơn, có chính sách linh hoạt hơn. Do đó, quá trình cạnh tranh về thị trường tiêu thụ sản phẩm, về thu hút đầu tư phát triển sẽ diễn ra gay gắt và quyết liệt - đó là thách thức và hạn chế lớn đối với Bình Thuận cần phải vượt qua. - Tài chính tiền tệ còn mất cân đối và thiếu hụt. Tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế mới chỉ giải quyết mức tối thiểu nhu cầu chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển chủ yếu phụ thuộc vào TW – thu hút đầu tư trong và ngoài nước còn nhiều vấn đề cần tháo gỡ. - Thị trường tiêu thụ sản phẩm không ổn định, trình độ công nghệ lạc hậu, khối lượng sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao còn quá ít, sức cạnh tranh yếu nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực trong một vài năm nữa. - Dân số còn tăng nhanh, lao động chưa có việc làm còn nhiều, lực lượng lao động bổ sung hàng năm ở nông thôn chủ yếu tham gia vào nông nghiệp. ở thành phố, thị trấn thì thiếu việc làm. - Nguồn nhân lực tại chỗ là một yếu tố quyết định cho tiến trình phát triển trước mắt cũng như lâu dài đang bị hẫng hụt và mất cân đối về số lượng và chất lượng, sức khỏ và trình độ, thế hệ hiện tại và thế hệ kế tiếp. Trình độ chuyên môn, kỹ thuật, trình độ quản lý còn yếu kém. - Trình độ dân trí, đời sống của cư dân nông nghiệp, miền núi, ngư nghiệp còn thấp và gặp nhiều khó khăn. II. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bình Thuận thời kì 2001-2005 : 1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bình Thuạn hời kỳ 2001 – 2005 : Bước đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã được khẳng định bằng những thành tựu kinh tế trong những năm gần đây, đặc biệt là nền kinh tế luôn đạt được tốc độ tăng trưởng cao. Hoà mình cùng với sự phát triển chung của cả nước, Bình Thuận cũng đạt được những kết quả đáng khích lệ. Cơ cấu kinh tế của Tỉnh có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực và thể hiện rõ nhất ở cơ cấu ngành kinh tế. Cơ cấu kinh tế được chia theo 3 nhóm ngành lớn là: Nông nghiệp (bao gồm cả nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp); Công nghiệp (bao gồm cả công nghiệp và xây dựng) và Dịch vụ (bao gồm các ngành kinh tế còn lại). Trong những năm đổi mới, cơ cấu ngành kinh tế của Tỉnh Bình Thuận đã chuyển dịch theo chiều hướng : Thực hiện nhanh việc chuyển dịch cơ cấu từ Nông ngư lâm – Công nghiệp – Dịch vụ sang cơ cấu Công nghiệp – Dịch vụ – Nông lâm ngư nghiệp với tỷ trọng công nghiệp chiếm ngày càng cao trong nền kinh tế làm điều kiện cho kinh tế phát triển ổn định, vững chắc, đồng thời chú trọng phát triển mạnh ngành dịch vụ, nhất là du lịch, thông tin liên lạc để nâng cao tích luỹ tạo điều kiện về thông tin, thị trường, vốn, công nghệ cho các ngành kinh tế khác phát triển. Tuy mục tiêu là giảm tỷ trọng nông lâm ngư trong GDP toàn tỉnh nhưng vẫn tăng sản lượng lương thực, đảm bảo an ninh lương thực cho tỉnh. Bảng số liệu dưới đây thể hiện sự chuyển biến tích cực trong cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bình Thuận trong thời gian gần đây : Bảng 2 : Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành Đơn vị tính: % Năm Nông lâm ngư Công nghiệp Dịch vụ 2000 41,96 22,61 35,43 2001 40,17 23,38 36,46 2002 39,50 24,25 36,25 2003 36,49 25,84 37,66 2004 34,19 27,78 38,03 KH 2005 32,35 28,59 39,05 Nguồn : Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Thuận. Dựa vào nguồn số liệu trên bảng trên có thể thấy cơ cấu kinh tế tỉnh Bình Thuận đã có sự thay đổi rõ rệt, tỷ trọng các ngành trong cơ cấu GDP toàn tỉnh thay đổi đúng theo định hướng đã đề ra. Tỷ trọng ngành nông lâm ngư giảm dần, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ tăng dần qua các năm. Tốc độ tăng trưởng giữa các ngành có sự khác nhau, cao nhất vẫn thuộc về ngành công nghiệp, tiếp theo là ngành dịch vụ và thấp nhất là ngành nông lâm ngư. Điều đó cho thấy chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đang đi đúng hướng và cần có những kế hoạch trong thời gian tới để đạt được hiệu quả cao hơn nữa, hoàn thành những mục tiêu đề ra tạo tiền đề phát triển kinh tế trong những năm tới. Tuy xuất phát điểm của Bình Thuận còn thấp so với các địa phương khác nhưng với kết quả ban đầu sẽ tạo điều kiện cho tỉnh phát triển về sau và theo kịp sự phát triển của các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và của cả nước. Đạt được thành tựu cơ bản trên là nhờ vào đường lối chủ trương phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước, cùng với sự vận dụng sáng tạo của tỉnh đã phát huy được lợi thế so sánh của mình cũng như khai thác triệt để thế mạnh của địa phương, tạo nên những thành công bước đầu. 1.1. Nông lâm ngư nghiệp : Trong thời kỳ 2000 – 2004, tỷ trọng ngành nông lâm ngư nghiệp trong cơ cấu GDP toàn tỉnh giảm nhanh chóng, từ 41,96% năm 2000 giảm xuống còn 34,19% năm 2004 và dự kiến kế hoạch năm 2005 là còn 32,35%, giảm bình quân 1,55%/năm. Tuy tỷ trọng ngành nông nghiệp có giảm nhưng xét về cơ bản vẫn đảm bảo những mục tiêu đề ra, giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hàng năm vẫn tăng đều. Năm 2000 giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp đạt 2.098 tỷ đồng thì năm 2004 đạt 3.084 tỷ đồng, bình quân tăng 197,2 tỷ đồng/năm. Bước đầu đã hình thành các vùng sản xuất cây công nghiệp và cây ăn quả tập trung có hiệu quả kinh tế như cao su ở Đức Linh – Tánh Linh, cây điều ở các huyện phía Nam, thanh long ở Phan Thiết, Hàm Thuận Nam … Sản lượng cây công nghiệp và cây ăn quả liên tục tăng qua các năm : sản lượng cao su năm 2000 là 900 tấn tăng lên 3.000 tấn năm 2004 và năm 2005 ước đạt 5.500 tấn; cây thanh long đạt 43.500 tấn năm 2000 và năm 2004 đạt 89.100 tấn; điều hạt khô năm 2000 là 3.500 tấn tăng lên 16.300 tấn năm 2004. Với sản lượng các cây công nghiệp và cây ăn quả cso giá trị cao liên tục tăng đã đóng góp rất nhiều vào giá trị sản xuất ngành nông nghiệp. Bảng 3 : Giá trị sản xuất nông, lâm , ngư nghiệp Đơn vị : tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 KH năm 2005 - Giá 1994 (nn) 2.098 2.326 2.507 2.751 3.084 3.475 + Nông nghiệp 1.400 1.558 1.664 1.818 2.043 2.300 + Lâm nghiệp 46 48 49 46 46 50 + Thuỷ sản 652 720 795 887 995 1.125 - Giá thực tế 2.568 2.840 3.242 3.750 4.386 5.206 + Nông nghiệp 1.686 1.856 2.105 2.429 2.849 3.419 * Trồng trọt 1.234 1.382 1.548 1.808 2.115 2.496 * Chăn nuôi 369 389 460 521 623 748 * Dịch vụ 84 85 98 100 111 175 + Thuỷ sản 792 889 1.033 1.127 1.432 1.661 + Lâm nghiệp 90 95 104 104 105 126 Nguồn : Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Thuận. Giá trị sản xuất nông nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng cao, năm 2000 đạt 1.686 tỷ đồng đến năm 2004 đạt 2.849 tỷ đồng, bình quân tăng 160,6 tỷ đồng/năm. Những kết quả đạt được nói trên là nhờ vào sự ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp cũng như diện tích canh tác trong thời gian qua tăng nhanh. Diện tích cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả có giá trị kinh tế từ 152.264 ha năm 2000 tăng lên 179. 838 ha năm 2004. Trong 5 năm đã trồng mới 6.250 ha điều, 1.824 ha cao su, 2.450 ha thanh long … tỷ trọng cây công nghiệp và cây ăn quả trong giá trị tổng sản lượng trồng trọt từ 18,05% năm 2000 tăng lên 26,95% năm 2004. Bên cạnh đó, sản xuất lương thực phát triển tương đối ổn định đã đáp ứng được nhu cầu tại chỗ, đảm bảo an ninh lương thực cho tỉnh. Ba vùng trọng điểm lương thực hàng hoá Đức Linh – Tánh Linh; Hàm Thuận Bắc và Bắc Bình – Tuy Phong được tập trung đầu tư xây dựng và phát huy năng lực tưới của các công trình thuỷ lợi, nâng diện tích tưới chủ động từ 12.000 ha năm 2000 lên 18.000 ha năm 2004, diện tích gieo trồng được tưới từ 38.300 ha năm 2000 tăng lên 41.980 ha năm 2004. Năm 2000 đạt 393.000 tấn lương thực qui thóc, năm 2004 đạt 428.400 tấn (vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đảng bộ đề ra 10.000), tăng hơn 7.080 tấn/năm, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 6,2%/năm (vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đảng bộ đề ra là 1%). Đặc biệt đã hình thành các vùng sản xuất tập trung, chuyên canh có điều kiện để phát huy hiệu quả cao trong thâm canh tăng năng suất và chất lượng cây trồng. Vùng lúa ở các huyện Đức Linh, Tánh Linh, Hàm Thuận Bắc, Bắc Bình với diện tích gieo trồng năm 2004 khoảng 65.000 ha, sản lượng 227.700 tấn, chiếm 70% về diện tích và 79,5% về sản lượng lúa toàn Tỉnh. So với năm 2000, diện tích tăng 5.000 ha và sản lượng tăng 36.460 tấn. Vùng trồng bắp diện tích 18.000 ha (năm 2004) chủ yếu tập trung ở Đức Linh và Tánh Linh, sản lượng 82.000 tấn, tăng 5,6% so với năm 2003. Trong đó, diện tích bắp lai gần 7.000 ha chiếm 38,89% diện tích bắp toàn tỉnh. Năng suất bắp bình quân từ 4,5 – 5 tấn/ha. Tỉnh đã đưa vào trồng rộng rãi giống bắp lai ở Đức Linh- Tánh Linh và một số vùng miền núi, tuyển chọn được nhiều giống lúa có năng suất khá. Bên cạnh đó cũng từng bước áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác hiện đại tiên tiến, phòng trừ dịch bệnh tổng hợp … nên đã góp phần gia tăng sản lượng bắp từ 62.685 tấn năm 2000 lên 82.000 tấn năm 2004, tăng bình quân 4.828 tấn/năm. Diệc tích trồng cây lương thực qua các năm liên tục tăng, các biện pháp canh tác và các giống cây trồng có năng suất cao được đưa vào trồng đã mang lai những kết quả khả quan cho trồng trọt. Được sự quan tâm đầu tư cũng như chỉ đạo của tỉnh một số vùng trước đây diện tích trồng trọt còn thấp, năng suất không cao nay đã chuyển sang trồng các cây lương thực có giá trị cao, không chỉ tăng về mặt diện tích mà năng suất cũng tăng rõ rêt. Đến cuối năm 2004 diện tích cây lương thực đạt 123.200 ha và trong năm 2005 ước đạt 126.200 ha, tốc độ tăng bình quân thời kỳ 2001 – 2005 ước đạt 2,62% (đạt kế hoạch đề ra của Tỉnh). Sản lượng lương thực quy thóc cũng tăng nhanh, từ 0,344 triệu tấn năm 2001 tăng lên 0,398 triệu tấn năm 2004 và ước đạt tốc độ tăng bình quân của thời kỳ 2001 – 2005 là 5,25%. Với những kết quả khả quan trên góp phần nâng sản lượng lương thực bình quân/người tăng từ 354 kg/người năm 2001 lên 368 kg/người năm 2004, tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 2001 – 2005 ước đạt 1,88%, vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra là 1,5%. Cây công nghiệp dài ngày phát triển khá đã hình thành các cùng tập trung ở các huyện phía Nam như : cây cao su chủ yếu ở Đức Linh, Tánh Linh. Tính đến năm 2004 diện tích trồng cao su toàn tỉnh là 13.505 ha, tăng gấp 1,47 lần so với năm 2000. Hàng năm trồng mới hơn 1.000 ha, có gần 3.000 ha đang khai thác có sản lượng mũ từ 800 – 950 tấn. Sản lượng mũ cao su liên tục tăng nhanh qua các năm, từ 592 tấn năm 2000 tăng lên 3.900 tấn năm 2004 và năm 2005 ước đạt 6.400 tấn, và trong thời kỳ 2001 – 2005 tốc độ tăng bình quân ước đạt 46,22%. Nhìn chung, sản lượng và diện tích cao su tăng đều qua các năm, góp phần tạo công ăn việc làm ổn định cho người dân địa phương, tăng thu nhập và đem lại hiệu quả kinh tế cao, tăng độ che phủ, chống xói mòn đất. Cùng với cây cao su, cây điều cũng là thế mạnh của tỉnh. Diện tích và sản lượng cây điều tăng khá, trung bình hàng năm trồng mới hơn 1.050 ha điều. Cây điều hiện là cây có giá trị xuất khẩu cao, thị trường đầu ra lớn và ổn định. Năm 2000 có 15.519 ha, diện tích thu hoạch 12.275 ha, sản lượng 3.508 tấn thì đến năm 2004 có 20.500 ha và sản lượng đạt 6.800 tấn, ước tính tốc độ tăng bình quân 2001 – 2005 đạt 41,42%. Nhưng hiện nay năng suất cây điều đang bị giảm từ 5,5 tạ/ha xuống còn 4 tạ/ha do cây điều bị lão hoá, nhiều sâu bênh và canh thác trong tình trạng quảng canh nên hiệu quả kinh tế chưa cao, hiện đang có xu hướng giảm diện tích do nông dân chặt phá chuyển sang trồng các loại cây công nghiệp khác có hiệu quả kinh tế cao hơn. Do đó, để duy trì thế mạnh về xuất khẩu điều, tỉnh cần có biện pháp chỉ đạo để duy trì và phát triển diện tích trồng điều. Cây ăn quả phát triển khá nhanh trong thời gian lại đây, năm 2000 có 10.446 ha thì đến cuối năm 2004 có 19.000 ha, tăng gấp 1,8 lần. Trong đó, cây thanh long chiếm diện tích cao nhất trong tổng số diện tích trồng cây ăn quả của tỉnh. Đây là loại cây rất thích hợp với điều kiện tự nhiên của tỉnh, đã có những chuyến hàng xuất khẩu sang các nước và đã khẳng định được thương hiệu của mình trên thị trường, đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu hàng năm của tỉnh. Đến cuối năm 2004, diện tích trồng cây thanh long là 5.400 ha, trồng mới hàng năm là 400 ha, sản lượng đạt 72.962 tấn, chủ yếu tập trung ở Phan Thiết, Hàm Thuận Nam, Hàm Thuận Bắc. Thời gian gần đây lại hình thành thêm vùng nho ở Tuy Phong, nhãn xoài ở Đức Linh, Tánh Linh, Hàm Tân góp phần lớn trong việc tạo ra nông sản hàng hoá, giải quyết việc làm góp phần nâng cao đời sống nông dân. - Chăn nuôi : cùng với trồng trọt, giá trị sản xuất chăn nuôi vẫn duy trì được tốc độ phát triển bình quân 11% (ước tăng hơn 1% so với thời kỳ 1996 – 2000). Việc chuyên dịch cơ cấu vật nuôi theo hướng có lợi cho người chăn nuôi, đàn heo, đàn bò, đàn gia cầm tăng trưởng cả tổng đàn và qui mô đàn. Riêng đàn dê, ngựa, trâu giảm dần, đàn bào cày kéo cũng đang giảm dần do cơ giới hoá trong nông nghiệp tăng. Tổng đàn trâu năm 2000 từ 10.585 con đến năm 2004 giảm xuống còn 9.400 con; trong khi đó đàn bò cày kéo giảm nhưng nhờ việc cải tạo giống trong chăn nuôi các năm qua được chú trọng, chương trình bò lai sind đã phối được 35.980 con và tổng số bò lai sơ sinh 30.453 con góp phần tăng số lượng đàn bò của Tỉnh từ 115.060 con năm 2000 lên 155.000 con năm 2004, tăng bình quân 7.988 con/năm. Chương trình cải tạo giống heo, gà thả vườn, vịt siêu thịt siêu trứng … đã tạo ra nhiều giống có chất lượng cao, góp phần rất lớn để tăng giá trị sản phẩm chăn nuôi trong các năm qua, cung cấp cho các thị trường lân cận như : Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Kiên Giang… Tỷ trọng giá trị sản xuất chăn nuôi trong giá trị sản xuất toàn ngành Nông nghiệp phát triển nông thôn đã tăng dần qua các năm, từ 17,9% năm 2000 lên 19,8% năm 2004; trong khi đó tỷ trọng giá trị sản xuất của ngành trồng trọt, dịch vụ đang có xu hướng giảm dần. Tuy nhiên, trong những năm qua việc đầu tư của Tỉnh trong lĩnh vực chăn nuôi cũng chưa nhiều, nhân dân chăn nuôi vẫn mang nặng tính chất chăn nuôi để tận dụng phụ phẩm từ trồng trọt, chưa đầu tư với qui mô lớn, thị trường đầu ra vãn bấp bênh nên tốc độ tăng còn chậm, chưa vượt lên trồng trọt nên giá trị sản xuất của chăn nuôi còn đạt tỷ trọng thấp trong ngành Nông nghiệp. Trong thời gian gần đây, dịch cúm gia cầm vẫn còn nên cũng ảnh hưởng rất lớn đến giá trị sản xuất của chăn nuôi cũng như tâm lý của người dân nên trong thời gian tới Tỉnh cần đầu tư khắc phục thiệt hại, khôi phục lại các vùng chăn nuôi. Để thúc đẩy chăn nuôi phát triển đòi hỏi phải có sự tác động nhiều mặt của công tác thú y, chương trình khuyến nông, cải tạo chất lượng giống, đáp ứng nhu cầu của thị trường… Tuy nhiên trong những năm qua đối với chăn nuôi heo thì tập trung cho xu hướng nuôi heo thịt là chủ yếu, còn đàn nái, đực giống giảm đáng kể, dẫn đến việc thiếu giống heo con để cung ứng cho sản xuất, phải nhập heo từ các tỉnh lân cận, chất lượng không tốt, đây cũng là một yếu tố quan trọng lầm lây nguồn bệnh, làm hạn chế sự phát triển của tổng đàn. - Thuỷ sản : hoạt động nuôi trồng Thuỷ sản những năm gần đây đã được Ngành và địa phương chú ý đầu tư, tạo mọi điều kiện phát triển từ khâu giống, thức ăn, mở rộng diện tích tăng nguồn lợi thuỷ sản qua các chương trình 327, 773 đã từng bước đi vào sản xuất ổn định. Nghề nuôi tôm tiếp tục phát triển, diện tích nuôi tôm tăng khá, số trại sản xuất tôm giống tăng nhanh. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản tăng nhanh qua các năm, từ 432 ha năm 2000 tăng lên 4.200 ha năm 2004 và năm 2005 ước đạt 5.420 ha, tốc độ tăng bình quân thời kỳ 2001 – 2005 ước đạt 65,85%. Với điều kiện tự nhiên rất thích hợp cho nuôi trồng thuỷ sản và đay là ngành đóng góp rất lớn vào kim ngạch xuất khẩu của Tỉnh nên với tốc độ tăng bình quân như trên cho thấy trong thời gian tới Tỉnh cần chú ý đầu tư, có kế hoạch khai thác để phát huy được thế mạnh của địa phương, Sản lượng thuỷ sản khai thác hàng năm tăng nhanh, đặc biệt là sản lượng nuôi trồng từ 2.600 tấn năm 2001 tăng lên 7.600 tấn và tốc độ tăng bình quân trong giai đoạn 2001 – 2005 tăng bình quân 56,95%. Hiện nay có 2.500 ha nuôi tôm thịt, năng suất 1,5 tấn/ha/vụ, tăng gấp 3 lần so với năm 2000, gần 200 trại sản xuất tôm giống đạt hơn 3,5 tỷ con POST, tăng hơn 2 lần so với năm 2000. Với gần 1.000 ha mặt nước ao hồ nhỏ (chưa kể hơn 10.000 ha diện tích mặt thoáng các hồ chứa thuỷ lợi diện tích vừa và lớn), hiện có 667 ha sử dụng nuôi cá nước ngọt, tập trung ở các huyện Đức Linh, Tánh Linh. Ngoài ra nuôi cá lồng trên sông cũng đang phát triển nhanh ở 2 huyện Đức Linh và Tánh Linh, đạt năng suất bình quân 200 kg/lồng/năm. Thực hiện mục tiêu tăng khối lượng đánh bắt xa bờ, phát triển nghề cá nhân dân, năng lực tàu thuyền tăng lên đáng kể theo hướng phát triển tàu thuyền công suất lớn. Trong 5 năm 2000 – 20004, số lượng tàu thuyền tăng thêm 1.487 chiếc/90.872 CV nâng số tàu thuyền đánh cá toàn tỉnh lên 5.284 chiếc/158.050 CV. Công suất bình quân tàu thuyền từ 17,7 CV/chiếc năm 2000 lên 29,91 CV/chiếc/năm 2004; loại tàu thuyền công suất trên 45 CV tăng từ 9,4% lên 25,2% về số lượng và từ 24,4% lên 49,8% về công suất, hình thành đội tàu thuyền đánh bắt ở ngư trường Trường Sa từ 150 – 200 chiếc. Tổng sản lượng đánh bắt xa bờ trong 5 năm đạt 667.470 tấn, sản lượng khai thác hải sản tăng bình quân 4,34%/năm, từ 127.700 tấn năm 2000 tăng lên 140.400 tấn năm 2004, tỷ lệ khai thác cá đáy từ 38% năm 2000 tăng lên 50% năm 2004. Công tác bảo vệ nguồn lợi hải sản được quan tâm hơn trước, đã có chú ý đầu tư thêm phương tiện, thiết bị tuần tra trên biển, tăng cường kiểm tra trên bờ, bước đầu đã xây dựng và tuyên truyền phổ biến cho ngư dân các quy định về kích cỡ, chủng loại hải sản vài mùa vụ đánh bắt. Diêm nghiệp phát triển khá, diện tích được mở rộng từ 500 ha năm 2000 lên 7._. cả mạng lưới thương nghiệp ngoài quốc doanh. Tổ chức lại mạng lưới thương nghiệp, nhất là hệ thống bán lẻ để đáp ứng nhu cầu xã hội toàn bộ các địa bàn trong tỉnh. Chú trọng thị trường nông thôn và vùng kinh tế biển, đảm bảo hàng hoá thiết yếu cho nhân dân miền núi, đồng bào các dân tộc, hải đảo. Phát triển mở rộng thị trường, gắn thị trường tỉnh với thị trường khu vực, thị trường cả nước và nước ngoài. Nâng tổng giá trị hàng hoá mua bán trên thị trường trong nước năm 2010 gấp 2,3 lần so với năm 2000. Sắp xếp kiện toàn tổ chức các doanh nghiệp nhà nước theo hướng đi vào kinh doanh chuyên ngành, từng bước hoà nhập với hệ thống thương mại chuyên doanh của quốc gia. Đầu tư xây dựng các trung tâm thương mại ở Phan Thiết và ở các huyện để đáp ứng nhu cầu giao lưu hàng hoá trong tỉnh và quốc tế. Quy hoạch lại hệ thống chợ ở Phan Thiết, nâng cấp, sửa chữa các chợ hiện có ở các huyện, tổ chức các chợ nông thôn liên xã. b. Kinh doanh xuất nhập khẩu ; Phấn đấu kim ngạch xuất khẩu đến năm 2010 đạt 200-220 triệu USD. Thực hiện đa phương hoá quan hệ bạn hàng quốc tế và đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu. Những mặt hàng chủ lực xuất khẩu chủ yếu là : Cá đông, tôm đông, sò đông, cua ghẹ, hải sản khô và ăn liền…Các sản phẩm nông lâm sản chế biến như : Hạt điều nhân, cao su, sản phẩm từ gỗ và song mây ; Mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống ; Hàng may xuất khẩu ; Khoáng sản : granite, ilmenit, zircon ; Muối, nước suối, tảo… Tổ chức lại mạng lưới các cơ sở dịch vụ xuất nhập khẩu theo hướng vừa chuyên môn hoá kinh doanh theo các ngành hàng chủ lực, vừa kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp. Đẩy mạnh công tác tiếp thị, khai thác thị trường xuất khẩu. c. Kinh doanh du lịch : Với nhiều điều kiện, tiềm năng để phát triển du lịch, ngành du lịch của tỉnh phát triển theo hướng : - Phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ du lịch như : Các dịch vụ du lịch biển, tham quan di tích văn hoá lịch sử, du lịch xanh, du lịch dã ngoại và săn bắn, câu cá, chơi golf, leo núi, du lịch kết hợp với chữa bệnh, điều dưỡng… - Hình thành các cụm và các tuyến du lịch, gắn kết chặt chẽ với các Tour du lịch khu vực Nam Trung Bộ và cả nước : Cụm du lịch Phan Thiết – Mũi Né gắn với các điểm du lịch ở Hàm Thuận Bắc – Hàm Thuận Nam; Cụm du lịch Tuy Phong gắn với các điểm tham quan di tích ở Bắc Bình; Cụm du lịch tắm biển và nghỉ dưỡng ở Hàm Tân gắn với các điểm du lịch ven biển Hàm Thuận Nam… - Xây dựng cơ sở vật chất ở 3 cụm du lịch : Tuy Phong, Phan Thiết, Hàm Tân gồm môt số khách sạn, nhà hàng có quy mô vừa và nhỏ ; làng du lịch (Với hình thức bungalows) dọc theo bai biển Ca Ná (Vĩnh Hảo), Rạng, Phú Hải (Phan Thiết), Tân Thắng, đồi Dương (Hàm Tân), cụm nhà nghỉ ở Phú Quý. d. Bưu chính viễn thông : Cùng với Bưu chính - Viễn thông cả nước phát triển với tốc độ chóng mặt, Bưu chính - Viễn thông Bình Thuận cần phát triển mạnh thông tin liên lạc để đáp ứng sự phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn tỉnh, mở rộng thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng dịch vụ du lịch. Phấn đấu trong những năm sắp tới hiện đại hoá mạng lưới bưu điện toàn tỉnh, hoàn thiện mạng lưới thông tin liên lạc. Phấn đấu đến năm 2010 có 6-7 máy điện thoại/100 dân. Trong những năm trước mắt nâng cấp các bưu cục hiện có, hiện đại hoá về công nghệ cho thông tin bưu chính theo hướng : Cơ giới hoá, tự dộng hoá, điện tử hoá và tin học hoá. e. Giao thông vận tải : Xây dựng, mở rộng tuyến trục ven biển nối QL 55 với Tân Lập – Tân Thành – Phan Thiết – Mũi Né –Hoà Thắng – Hồng Phong, tạo thành tuyến giao thông quan trọng thông suốt thúc đẩy hoạt động du lịch, kinh tế biển phát triển. Cải tạo, nâng cấp đường đô thị ở thành phố Phan Thiết, các tuyên đường liên huyện, các tuyến đi vào vùng kinh tế hàng hoá, một sô trục chính ở trung tâm huyện lỵ. Phát triển, mở rộng các cảng Phan Thiết, Phan Rí, Phú Quý…Nghiên cứu, xây dựng cảng nước sâu Mũi Né. Thông tuyến, nâng cấp các tuyến đường giao thông lên miền núi, vùng sâu. f. Giáo dục –Y tế : * Giáo dục : Mục tiêu cơ bản của thời kỳ này là tiếp tục hoàn chỉnh cơ cấu của hệ thống giáo dục quốc dân, đảm bảo đủ cơ sở trường lớp cho học sinh… Thực hiện yêu cầu giáo dục toàn diện : Đức, Trí, Thể, Mỹ ở tất cả các ngành học, bậc học. Hêt sức coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng, nhân cách cho học sinh. Mở rộng quy mô và đa dạng hoá các hình thức giáo dục và đào tạo. Chú trọng phát triển giáo dục miền núi, vùng xa, vùng sâu, vùng dân tộc thiếu số. Mở rộng giáo dục nghề nghiệp, từng bước hình thành nền giáo dục kỹ thuật trong xã hội. Tiếp tục đổi mới quản lý giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu đổi mới của sự nghiệp giáo dục và đào tạo. * Y tế : Nâng cao một bước sức khoẻ toàn dân theo quan điểm dự phòng tích cực, giáo dục dinh dưỡng, vệ sinh phòng bệnh, rèn luyện thân thể đi đôi với nâng cao hiệu quả trị bệnh. Kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền. Đa dạng hoá và kết hợp đồng bộ giữa phòng bệnh và chữa bệnh trong đó chú trọng công tác phòng bệnh. Tạo điều kiện giáo dục cho nhân dân kiến thức về dinh dưỡng và chăm sóc sức khoẻ ban đầu, để người dân tự thực hiện chế độ dinh dưỡng, cơ cấu khẩu phần ăn theo các lứa tuổi và loại hình hoạt động nhằm giảm dần tiến tới xoá bỏ tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ em, nâng cao thể lực cho thế hệ lao động trẻ. Đầu tư và giáo dục kiến thức vệ sinh môi trường, giải quyết nguồn nước sạch cho sinh hoạt, vệ sinh thực phẩm và nâng cao chất lượng chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho người dân. Thanh toán cơ bản các bệnh truyền nhiễm, ký sinh trùng (Tả, dịch hạch, lao, bưu cổ, ngăn chặn AIDS…) Tập trung củng cố tuyến y tế cơ sở, đào tạo và đào tạo lại, thực hiện trung cấp hoá đội ngũ cán bộ y tế cơ sở, xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng đáp ứng được nhu cầu tối thiểu và khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ ban đầu và dịch vụ kế hoạch hoá gia đình. Đẩy mạnh và hiện đại hoá công nghệ chế biến dược liệu, thuốc chữa bệnh tại chỗ. Củng cố và xây dựng các trung tâm y tế huyện, xã chú trọng các huyện miền núi. g. Các dịch vụ khác : Phát triển mạnh các dịch vụ hậu cần cho nông nghiệp và nông thôn như : dịch vụ cây giống, con giống, dịch vụ thú y, bảo vệ thực vật ; dịch vụ hậu cần cung cấp ngư lưới cụ, cá giống…cho nghề cá. Các dịch vụ cơ khí sửa chữa, lắp ráp và sửa chữa điện tử, dịch vụ công cộng, thông tin, may mặc…phát triển nhanh và rộng khắp để đáp ứng nhu cầu ngày càng nâng cao của toàn xã hội. Đón trước thời cơ và bắt kịp với xu thế phát triển để phát triển các dịch vụ tư vấn đầu tư, dịch vụ môi giới mua bán hàng hoá,chuyển giao công nghệ. Dịch vụ tài chính-ngân hàng là cầu nối trung gian giữa vốn và sản xuất trên địa bàn tỉnh. Đến năm 2005 phát triển hệ thống tín dụng thương mại. Đẩy mạnh các hoạt động tín dụng vay vốn, huy động vốn với nhiều hình thức trên cơ sở khuyến khích phát triển sản xuất. Cùng với xu thế chung của cả nước, vào thời gian thích hợp sẽ hình thành thị trường vốn, thị trường tiền tệ ; Trong đó chi nhánh Ngân hàng thương mại đóng góp phần lớn trong việc điều hành, lưu thông tiền tệ thông qua chính sách về lãi suất và tín dụng. III. Giải pháp thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bình Thuận thời kì 2006-2010 : 1. Giải pháp về quy hoạch không gian kinh tế lãnh thổ : Nhằm thực hiện tốt phương hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Bình Thuận, điều đầu tiên là cần phải tổ chức hợp lý không gian kinh tế lãnh thổ. Do đó, phương hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế xem quy hoạch không gian kinh tế lãnh thổ chung toàn tỉnh trên cơ sở tổ chức không gian của các ngành kinh tế là một giải pháp có tầm quan trọng bậc nhất. Trong quá trình thực hiện quy hoạch không gian kinh tế lãnh thổ cần tính đến độ trễ về thời gian, để đảm bảo đủ điều kiện khi có nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất, các điểm dân cư nhất là các vùng đô thị cũ cần được mở rộng và hình thành các khu đô thị mới. Căn cứ vào quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế – xã hội thực hiện chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá, xây dựng đô thị mới, nông thôn mới cũng như dựa vào các dự báo về phát triển các ngành, phát triển dân số, các định mức sử dụng đất. Trong quy hoạch tổng thể kinh tế – xã hội, hệ thống các đô thị phải được xây dựng để đảm nhiệm chức năng hạt nhân thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế vùng gò đồi theo phương hướng sản xuất hàng hoá, kết hợp nông lâm theo không gian nhiều tầng bảo đảm khai thác thế mạnh hiện có là một bộ phận bổ sung cho quy hoạch kinh tế – xã hội tỉnh. a. Định hướng phát triển kinh tế – xã hội vùng trọng điểm, động lực của tỉnh : Phan Thiết- Hàm Thuận Nam – Hàm Tân – Phú Quý : Vùng động lực bao gồm các phân lãnh thổ ven biển của Phan Thiết, Hàm Thuận Nam, Hàm Tân và huyện đảo Phú Quý.vùng có quốc lộ 1A chạy qua, đầu mối của quốc lộ 28 nối Phan Thiết với Di Linh, quốc lộ 55 nối Hàm Tân – Xuyên Môn – Vũng Tàu. Vùng có thành phố Phan Thiết – Trung tâm kinh tế của tỉnh, đảo Phú Quý một đảo quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế và an ninh quốc phòng vùng biển Đông. Đây là vùng có nhiều tiềm năng về tài nguyên biển và ven biển, khoáng sản.v.v…và nhiều nguồn nguyên liệu để phát triển công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm, hải sản.v.v…Nhiều tiềm năng để phát triển du lịch. Vùng còn nhiều đất ven các quốc lộ 28, 23 và ven biển, gần nguồn điện nước, để xây dựng các khu công nghiệp tập trung. Đồng thời là vùng tập trung 68,6% dân số đô thị cả toàn tỉnh và đóng góp 57% tổng sản phẩm quốc nội tỉnh. * Hướng phát triển tập trung : Đầu tư phát triển vùng này thành vùng công nghiệp – du lịch. Xây dựng và phát triển toàn diện các ngành kinh tế chủ lực, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu, đồng thời có tác dụng thu hút và thúc đẩy phát triển kinh tế chung của tỉnh. Phát triển tổng hợp kinh tế biển, trước hết tập trung phát triển ngành thuỷ sản thành ngành kinh tế mũi nhọn bao gồm cả khai thác, chế biến, nuôi trồng. Hình thành các trung tâm kinh tế biển ở Phan Thiết, Hàm Tân và Phú Quý. Quy hoạch phát triển 2 khu công nghiệp tập trung ở khu vực Phan Thiết, Hàm Tân. Kêu gọi các đối tác đầu tư, phát triển. Mở mang phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế so sánh, đó là : chế biến nông lâm hải sản, sản xuất vật liêu xây dựng, rượu bia, nước giải khát, nước khoáng, công nghiệp khai thác khoáng sản, chế biến thực phẩm cao cấp, đóng tàu thuyền và các ngành công nghiệp dịch vụ. Tập trung phát triển 2 khu du lịch ở Phan Thiết, Hàm Tân. ở Phan Thiết sẽ hình thành : Khu sân Golf – Vĩnh thuỷ ; Khu du lịch Phan Thiết – Mũi né. ở Hàm Tân hình thành khu du lịch ven biển Đồi Dương đến mũi Kê Gà. b. Định hướng phát triển khu vực Tuy Phong – Bắc Bình – Hàm Thuận Bắc : Là khu vực có tiềm năng về sản xuất nông nghiệp trong vùng kinh tế, nuôi trồng khai thác và chế biến thuỷ sản, nhiều tiềm năng về khoáng sản, đá ốp lát, đá xây dựng, đặc biệt nguồn nguồn nước khoáng ở Vĩnh Hảo có trữ lượng lớn nhất và chất lượng nhất trong tỉnh. Có thị xã Phan Rí Cửa – nơi tập trung đông dân cư của khu vực này. * Phương hướng phát triển tập trung : Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện 2 vùng tập trung sản xuất lúa thâm canh cao và vùng mía nguyên liệu ở Thuận Bắc và Bắc Bình, vùng nho ở Tuy Phong, quy hoạch phát triển vành đai rau quả cung cấp cho thành phố Phan Thiết và các thị trấn thị tứ khác, phát triển chăn nuôi (Bò, dê…). Xây dựng và quy hoạch hình thành khu công nghiệp Tuy Phong với các ngành : Khai thác và sản xuất nước khoáng, tảo, chế biến hải sản, sản xuất muối, chế biến đá ốp lát, tinh chế bentônít. Hình thành trung tâm thương mại ở Tuy Phong. Xây dựng các cụm chế biến mía đường, sản xuất bột giấy, tinh bột mỳ ở Hàm Thuận Bắc, Bắc Bình với quy mô lớn. Hình thành trung tâm du lịch Vĩnh Hảo – Bình Thạnh. c. Vùng kinh tế hàng hoá thung lũng sông La Ngà : Là khu vực có thế mạnh về sản xuất nông nghiệp đối với cây lương thực (lúa, mì), cây công nghiệp và cây ăn quả (cao su, điều, cây ăn quả), rừng và vật liệu xây dựng. * Hướng phát triển tập trung : Xây dựng các vùng kinh tế hàng hoá chuyên canh kết hợp kinh doanh tổng hợp, xây dựng vùng lúa hàng hoá thâm canh cao, vùng điều, sao su tập trung và một số cây công nghiệp như cà phê, dâu tằm, tiêu : Trồng rừng và khai thác tổng hợp rừng theo hướng lâm – nông kết hợp. Phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản, khai thác và sản xuất nước khoáng, nước giải khát, sản xuất vât liêu xây dựng. Hình thành một số cụm công nghiệp ở Tánh Linh : Chế biến gỗ, sửa chữa cơ khí, nước khoáng, cơ khí nông nghiệp, sản xuất nước đá.v.v…ở Đức Linh : Chế biến cao su, sản xuất đồ gỗ, sửa chữa cơ khí. Trong các vùng trên, cần nghiên cứu và tiến hành khảo sát, lập quy hoạch, dự án tổng quan để kêu gọi đầu tư trong nước và quốc tế, hình thành khu công nghiệp tập trung. Bằng mọi biện pháp để từ nay đến năm 2010 xây dựng và hình thành 1-2 khu công nghiệp tập trung. Có thể chọn hình thành KCN ở những địa điểm sau : Khu CN Hàm Tân : 100-150 ha Khu CN Phan Thiết – Hàm Thuận Nam : 150-200 ha Vĩnh Hảo (Khu CN Tuy Phong) : 100 ha 2. Đầu tư và huy động vốn đầu tư : 2.1. Xây dựng các chương trình phát triển và các dự án khả thi : * Các chương trình phát triển : Chương trình công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Chương trình phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp Chương trình phát triển các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác. Chương trình phát triển kinh tế dịch vụ và du lịch. Chương trình phát triển xuất nhập khẩu và kinh tế đối ngoại. Chương trình phát triển ngư nghiệp và kinh tế biển. Chương trình xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế –xã hội. Chương trình phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa. Chương trình phát triển khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường. Chương trình phát triển Giao dục - Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Chương trình chăm sóc sức khoẻ nhân dân và công tác DS-KHHGD. Chương trình xoá đói giảm nghèo. Chương trình phòng chống các tệ nạn xã hội. * Các công trình, dự án đầu tư chủ yếu thời kì 1996-2010 : a. Về xây dựng kết cấu hạ tầng : Về thuỷ lợi : Hồ Sông Luỹ (508 tỷ đồng), Hồ Kapét (116 tỷ đồng), Hồ sông Móng (66,8 tỷ đồng), Hồ sông Phan I (138 tỷ đồng), Hồ Cà Tót (119 tỷ đồng)… Về giao thông : Nâng cấp quốc lộ 28 (57 tỷ đồng) ; Sân bay Phan Thiết (100 tỷ đồng); Cảng Mũi Né (250 tỷ đồng) ; Thông tuyến, nâng cấp các tuyến lên miền núi, vùng sâu (53 tỷ đồng)… Về Điện : Cải tạo và nâng cấp lưới điện Phan Thiết (25 tỷ đồng). Cấp nước sinh hoạt, thoát nước đô thị : Cải tạo mở rộng hệ thống cấp nước Phan Thiết ( 132 tỷ đồng) ; Cải tạo mở rộng hệ thống cấp nước Bắc Bình (32 tỷ đồng) ; Cải tạo hệ thống cáp nước Hàm Tân (29 tỷ đồng) ; Hệ thống nước sinh hoạt nông thôn (60 tỷ đồng) ; Hệ thống thoát nước đô thị (25 tỷ đồng). Về hạ tầng khu công nghiệp và du lịch : 3 khu công nghiệp ( 300 tỷ đồng), 3 khu du lịch (100 tỷ đồng). b. Phát triển kinh tế : Nông lâm nghiệp : Vùng nguyên liệu mía đường (300 tỷ đồng); Cây điều (48 tỷ đồng); Cây cao su (212 tỷ đồng); Cây Thanh Long (75 tỷ đồng); Nuôi đà điểu (110 tỷ đồng); Trồng rừng nguyên liệu giấy (330 tỷ đồng); Trồng rừng phòng hộ (131 tỷ đồng)… Thuỷ sản : Nuôi tôm công nghiệp (80 tỷ đồng); Nuôi tôm bán công nghiệp (20 tỷ đồng); Phương tiện khai thác hải sản (700 tỷ đồng)… Công nghiệp : Chế biến tinh bột mì và bột ngọt (370 tỷ đồng); Chế biến nhân hạt điều (12 tỷ đồng); Chế biến cao su (45 tỷ đồng); Nhà máy đường (690 tỷ đồng); Nhà máy sản xuất bột giặt (150 tỷ đồng); Nâng cấp, mở rộng các cơ sở chế biến hải sản xuất khẩu (110 tỷ đồng); Sản xuất bia chai (600 tỷ đồng); Sản xuất nước khoáng (200 tỷ đồng); Đầu tư sây dựng cơ sở chế biến hải sản xuất khẩu ở Phú Quý (30 tỷ đồng); Xây dựng lồng muối (120 tỷ đồng); Chế biến muối và sản xuất hoá chất sau muối (270 tỷ đồng); Nhà máy sản xuất thuỷ tinh xây dựng (45 tỷ đồng); Khai thác và chế biến cát đen (200 tỷ đồng); Khai thác và chế biến đá Granit (100 tỷ đồng); Cơ sở đóng tàu bằng vật liệu mới (50 tỷ đồng)… Du lịch : Cụm du lịch Phan Thiết – Mũi Né (500 tỷ đồng); Cụm du lịch Hàm Tân – Hàm Thuận Nam (300 tỷ đồng); Cụm du lịch Tuy Phong (200 tỷ đồng); Phát triển các điểm du lịch ĐL, TL, HTB (50 tỷ đồng)… 2.2. Giải pháp về huy động, thu hút vốn đầu tư : Để có thể đạt được mục tiêu theo các phương án phát triển như trên, nhu cầu tổng vốn đầu tư cho giai đoạn 1996-2010 khoảng 2,75-3,1 tỷ USD : Trong đó riêng giai đoạn 2006-2010 là khoảng 1,5-1,75 tỷ USD. Giai đoạn 2006-2010, nhu cầu đầu tư toàn xã hội là 16.600-19.100 tỷ đồng (1,51-1,74 tỷ USD), nếu xác định mục tiêu tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách bình quân 22-23% và huy động 35-40% tổng thu ngân sách đầu tư XDCB thì cũng chỉ có 4.420-5.330 tỷ đáp ứng được 26,6-27,9% nhu cầu vốn đầu tư và phần vốn Trung Ương đầu tư trực tiếp bình quân 100 tỷ/năm thì chỉ đáp ứng được 29,6-30,4%. Dự kiến khả năng huy động đầu tư của doanh nghiệp các thành phân kinh tế và vốn trong dân 13-14% GDP (5.740-6.630 tỷ). Như vậy khả năng tích luỹ từ ngân sách và nội bộ nền kinh tế của tỉnh cũng chỉ đảm bảo được 74,6-81,3% nhu cầu thời kì 2006-2010. Phần còn thiếu sẽ phải vay và gọi vốn từ bên ngoài là 3.570-9.220 tỷ đồng, chiếm 118,7-25,4% nhu cầu vốn của giai đoạn. Như vậy, khả năng ngân sách chỉ đáp ứng được 25-33% tổng nhu cầu vốn đầu tư. Để thu hút được các nguồn vốn đầu tư còn thiếu tù các thành phần kinh tế trong tỉnh và bên ngoài : - Cần có chính sách phù hợp để tạo vốn trong tỉnh.Hướng chính của tạo vốn trong nước là hết sức cần kiệm để tạo tích luỹ, huy động mọi nguồn tài nguyên, tài sản, tiền nhàn rỗi và tiềm năng của mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư để đầu tư vào sản xuất kinh doanh sinh lời và phát triển kinh tế xã hội. Quy hoạch đã dành khoảng vài nghìn ha đất trên các vị trí quan trọng (thành phố, thị trấn, thị tứ, khu công nghiệp) để tạo vốn sau này. Vốn đầu tư bên ngoài có vị trí rát quan trọng. Thu hút đầu tư từ bên ngoài không chỉ là để tạo vốn, mà còn là cơ hội để đổi mới công nghệ, đào tạo cán bộ kỹ thuật lao động, quản lý hiện đại và mở rộng thị trường. Ngoài ưu đãi chung của Nhà nước, tỉnh cũng cần có chính sách ưu đãi thoáng hơn đối với các lĩnh vực định hướng phát triển để tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, tỉnh ngoài. - Có chính sách sử dụng vốn của toàn xã hội có hiệu quả, nâng cao nhanh cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ công nghệ nhằm thực hiện có kết quả các mục tiêu kinh tế – xã hội. Đồng thời cần đẩy nhanh hơn việc tích tụ tập trung các nguồn vốn trong và ngoài tỉnh vào những ngành mũi nhọn và khu vực trọng điểm tạo sức bật nhanh cho toàn bộ nền kinh tế. Phải giành đầu tư thích đáng hơn cho xây dựng kết cấu hạ tầng để trong một thời gian ngắn khắc phục được tình trạng thiếu thốn và lạc hậu về cơ sở hạ tầng. Tăng nhanh vốn đầu tư cho đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Mở rộng đầu tư cho đổi mới công nghệ để thu hẹp dấn sự chênh lệch so với các trung tâm kinh tế lớn và các tỉnh có kinh tế phát triển, tạo khả năng cạnh tranh của hàng hoá Bình Thuận trên thị trường trong nước và quốc tế. - Liên doanh với các doanh nghiệp ở địa bàn trọng điểm Nam Bộ và các nơi khác để phát triển các ngành có lợi thê của tỉnh. Vay vốn ODA để xây dựng cấu trúc hạ tầng, tập trung vào giao thông, xây dựng cảng, phát triển kinh tế tổng hợp biển, hệ thống điện hạ thế, cấp nước, tạo môi trường thuận lợi để kêu gọi đầu tư. Kêu gọi đầu tư trực tiếp của nước ngoài (Vốn FDI) với phương thức liên doanh với nước ngoài, trước hết vào xây dựng khu công nghiệp tập trung, khai thác khoáng sản, công nghiệp chế biến, dịch vụ viễn thông khách sạn - Có chính sách để hợp tác liên doanh với Việt Kiều quê hương ở Bình Thuận hoặc có quan hệ trước đây với Bình Thuận. 4. Giải pháp về phát triển nguồn nhân lực : Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội. Vì vậy, chú trọng đến con người là một trong những yếu tố bảo đảm vững chắc, hiệu quả cho sự phát triển kinh tế. Phát triển giáo dục, đào tạo một cách chủ động, đa dạng để đảm bảo các loại hình nhân lực cần thiết. Thực hiện giáo dục cơ bản vững chắc cho mọi người, tạo nên mặt bằng dân trí cho mở rộng đào tạo nhân lực. Coi trọng các tổ chức giáo dục, đào tạo chất lượng cao, với quy mô nhỏ, chọn lọc để bồi dưỡng nhân tài, tạo nên nhân lực khoa học, công nghệ, kinh doanh, quản lý có trình độ cao và hiện đại. Phát triển mạnh mẽ hệ thống đào tạo thích hợp, có mục tiêu, nội dung, phương pháp và quy mô phù hợp với yêu càu phát triển nhân lực hiện nay và tương lai gần, nhằm tạo nên lực lượng lao động cần thiết cho sự phát triển kinh tế – xã hội trong cả nước, góp phần giải quyết công ăn, việc làm, nhất là cho thế hệ trẻ. Cần ưu tiên đào tạo cho các ngành nghề mũi nhọn, tạo nên những dịch chuyển lớn có chất lượng về cơ cấu lao động. Hết sức chú trọng việc đào tạo lại và bồi dưỡng thường xuyên lực lượng lao động hiện đang làm việc để thích ứng với những yêu cầu mới về nhân lực. Tổ chức tốt việc dạy nghề cho thanh niên nông thôn để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi nền kinh tế ở nông thôn. Gắn giáo dục, đào tạo với thị trường sức lao động, thực hiện xã hội hoá sự nghiệp đào tạo. Tỉnh giành nguồn lực thích đáng, kể cả vốn vay để đầu tư tập trung vào một số khâu, lĩnh vực giáo dục, đào tạo. Có chính sách cấp học bổng cho những người nghèo mà có năng lực học tốt, cho những đối tượng được hưởng các chính sách xã hội ; Có chính sách tín dụng học bổng, khuyến khích nhân tài. Phân cấp hợp lý quyền hạn và trách nhiệm về điều hành giáo dục, đào tạo cho các cơ sở để đáp ứng nhu cầu thị trường sức lao động va nhu cầu tìm việc làm. Xây dựng quan hệ thường xuyên, chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý giáo dục, đào tạo với các cơ quan quản lý nhân lực và việc làm. Đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục đào tạo nhân lực. Phải tăng cường chất lượng của người lao động. Thực hiện chính sách ưu đãi cho lĩnh vực giáo dục, đào tạo không phân biệt loại hình đào tạo (Công lập, bán công, dân lập, tư thục), như : Chính sách tài trợ nhà trường, chính sách hỗ trợ giáo viên, cũng như nhiều chính sách đề cao vị trí tinh thần của người thầy trong xã hội. Đổi mới chính sách sử dụng nhân lực. 5. Giải pháp về phát triển khoa học-công nghệ và bảo vệ môi trường : Khoa học - Công nghệ đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân nói chung và kinh tế tỉnh nói riêng, ở bất kì thời kỳ nào đi nữa thì khoa học công nghệ luôn là một đòn bẩy thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Đa dạng hoá các nguồn vốn nhằm tăng lượng đầu tư tài chính cho công tác ngiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ. Trong vốn đầu tư cơ bản bắt buộc phải dành một tỷ lệ thích đáng tùy theo từng ngành cho đổi mới công nghệ, đảm bảo tốc độ đổi mới công nghệ cao hơn tốc độ tăng đầu tư cơ bản. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ. Dành một phần vốn ngân sách để xây dựng các trung tâm hỗ trợ công nghệ cho phát triển công nghệ nông thôn. Dành một tỷ lệ đầu tư thích đáng cho việc tăng cường các cơ quan làm dịch vụ công nghệ (đo lường, kiểm tra chất lượng sản phẩm, kiểm lại công nghệ…) Có chính sách đồng bộ về thuế để khuyến khích thúc đẩy khoa học và công nghệ. Tiếp tục áp dụng chính sách miễn, giảm thuế cho các sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng thay thế hàng nhập ngoại hoặc xuất khẩu. Miễn thuế đối với những sản phẩm sử dụng các công nghệ mới lần đầu tiên áp dụng ở tỉnh. Miễn giảm thuế đối với phần vốn dành cho công tác nghiên cứu và đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp. Miễn giảm thuế có thời hạn cho các dự án sản xuất thử. Có hình thức tín dụng ưu đãi bằng nguồn vốn của Nhà nước đối với các cơ quan nghiên cứu triển khai các dự án thử nghiệm và đưa vào áp dụng các công nghệ mới; Đối với đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp, nhất là các xí nghiệp vừa và nhỏ, các xí nghiệp công nghiệp ở nông thôn. Có chính sách và biện pháp phát triển mạnh nguồn nhân lực cho khoa học và công nghệ.Thực hiện đồng bộ các biện pháp để trẻ hoá đội ngũ cán bộ khoa học ở các cơ sở nghiên cứu, triển khai. Có chế độ đặc biệt ưu đãi các nhân tài và đào tạo các cán bộ đầu đàn, các tổng công trình sư cho các ngành công nghệ then chốt. Có chính sách đặc biệt thu hút lực lượng chuyên gia Việt Kiều làm công tác chuyển giao trí thức và chuyển giao công nghệ về nước. Liên kết với các Viện khoa học ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ về công nghệ và kỹ thuật đối với các ngành chủ đạo có khối lượng sản phẩm lớn xuất khẩu. Nhanh chóng xây dựng chính sách khoa học, công nghệ của tỉnh để đảm bảo phát triển khoa học gắn chặt với sản xuất, phát triển các loại công nghệ tiên tiến, không nhập các thiết bị có công nghệ lạc hậu cũng như gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái. Yêu cầu của sự phát triển bền vững đòi hỏi quá trình phát triển kinh tế tỉnh phải gắn hiệu quả kinh tế-xã hội với bảo vệ môi trường sinh thái. Tỉnh cần phải có các biện pháp nhằm bảo vệ môi trường như : Tiếp tục duy trì và bảo vệ rừng, tránh sự thoái hoá của đất đai, hạn chế tác hại mà lũ lụt và hạn hán gây ra, kiểm tra các loại công nghệ được áp dụng vào sản xuất kinh doanh nhằm hạn chế về tác động tới môi trường các dự án sản xuất trên địa bàn tỉnh. Chiến lược của môi trường là bảo vệ cho được môi trường, đồng thời dừng làm cho môi trường trở nên ô nhiễm trầm trọng, có kế hoạch đánh giá môi trường sinh thái của tỉnh, của các vùng trong tỉnh để lập ngay một chương trình dài hạn giải quyết toàn diện vấn đề môi trường. Trước mắt tập trung giải quyết các vấn đề chất thải công nghiệp và đô thị, trả lại trạng thái tự nhiên cho một số vùng sinh thái bị tàn phá trầm trọng, đặc biệt trong lâm nghiệp, thực hiên lâm nghiệp sạch. 6. Một số giải pháp khác : * Chính sách về thị trường : Mở rộng thị trường xuất khẩu : Xuất phát từ nhu cầu thị trường, đi đôi với việc tích cực tìm kiếm thị trường mới đối với các mặt hàng xuất khẩu của Bình Thuận. Đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, bao bì, hạ giá thành nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu của Bình Thuận trên thị trường quốc tế. Công khai hoá cung cấp các thông tin cần thiết về thương mại và kinh tế của mình cho bên ngoài, đồng thời phải tổ chức tốt việc thu thập và cung cấp thông tin kinh tế trong và ngoài nước cho các doanh nghiệp trong tỉnh. Phát triển các tổ chức làm dịch vụ thăm dò, nghiên cứu, giới thiệu thị trường và bạn hàng. * Về xây dựng kết cấu hạ tầng : Là nền tảng cho sự vươn ra và sức hấp dẫn của Bình Thuận nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài và là cơ sở quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Kiến nghị với Nhà nước tập trung đầu tư và kêu gọi đầu tư, vay vốn nước ngoài.v.v…để đầu tư vào cơ sở hạ tầng tạo đà thúc đẩy nền kinh tế tỉnh phát triển. * Đổi mới tổ chức, quản lý và đẩy mạnh việc thực hiện cải cách hành chính : Thống nhất quản lý kinh tế-xã hội trên địa bàn lãnh thổ do tỉnh trực tiếp quản lý (Bao gồm cả Trung Ương và địa phương). Thúc đẩy nhanh chóng quá trình thực hiện cải cách hành chính trong các cơ quan hành chính từ cơ sở đến huyện, tỉnh vừa bảo đảm tuân thủ luật pháp vừa tránh tình trạng ùn tắc, đùn đẩy gây phiền hà cho các tổ chức và nhân dân. Cải tiến kế hoạch hoá theo hướng thị trường, tỉnh quản lý vĩ mô theo các kế hoạch, các chương trình và dự án, các kế hoạch trực tiếp sản xuất, kinh doanh do các chủ thể cơ sở quản lý và điều hành. Củng cố các cơ sở quốc doanh làm ăn có lãi và những cơ sở thuộc về cấu trúc hạ tầng. Phát triển mạnh kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Kết luận Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một trong những nội dung và định hướng chủ yếu của quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta. Trên thực tế thực hiện thành công vấn đề này là hết sức khó khăn và phức tạp, đòi hỏi phải có sự liên kết cao giữa các ngành, các cấp và các lĩnh vực sản xuất. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế gắn liền với cơ cấu lãnh thổ kinh tế làm cơ sở chính cho việc hoạch định các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, hơn nữa chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế quyết định phần lớn tới quy mô và chất lượng các cơ cấu thành phân kinh tế và nó phụ thuộc khá lớn vào cơ chế chính sách phát triển của mỗi nước, mỗi vùng, mỗi địa phương. Tuy nhiên các nguồn lực phát triển kinh tế là rất khác nhau và là ảnh hưởng chính tới sự phát triển cơ cấu ngành, do vậy không có một mô hình kinh tế cố định nào cho chuyển dịch cơ cấu ngành, vấn đề đặt ra là cần có sự điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế phải được diễn ra thường xuyên để thích hợp với môi trường kinh tế hiện đại. Dựa trên những vấn đề lý luận chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Bình Thuận, cũng như thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bình Thuận trong thời kỳ 2001-2005, tôi xin đưa ra những phương hướng mang tính chung nhất nhằm chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế trong nền kinh tế tỉnh Bình Thuận theo xu hướng phát triển phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân cũng như nền kinh tế thế giới. Đồng thời tôi cũng đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện phương hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bình Thuận thời kỳ 2006-2010 sao cho đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội đã đề ra. Các phương hướng chuyển dịch đưa ra chủ yếu tập trung vào sự chuyển dịch của các ngành công nghiệp, nông lâm ngư nghiệp và ngành dịch vụ. Bên cạnh đó, để đạt được sự chuyển dịch của các ngành kinh tế các phương hướng này cũng tập trung làm rõ xu hướng chuyển dịch của các phân ngành trong từng ngành kinh tế cụ thể của kinh tế tỉnh. Và các giải pháp cũng được bám sát theo từng bước đi của các phương hướng đã đưa ra. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình kinh tế phát triển tập I, II – Nhà xuất bản thống kê. 2. Văn kiện đại hội Đảng VIII. 3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân-GS.TS Ngô Đình Giao-NXB Khoa học-Xã hội 1996. 4. Tạp chí kinh tế phát triển. 5. Tạp chí nghiên cứu kinh tế. 6. Tạp chí kinh tế và dự báo. 7. Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Bình Thuận các năm 2000, 2001, 2002, 2003, 2004, 2005. 8. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Bình Thuận. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0037.doc
Tài liệu liên quan