Định hướng chiến lược và các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới

LỜI MỞ ĐẦU Sự cần thiết nghiên cứu đề tài Họat động của ngành ngoại thương Việt nam ngày càng phát triển vượt bậc, nhất là từ sau khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới. Ngoại thương Việt nam thời gian qua đã đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế của đất nước và phần nào tác động mạnh mẽ vào thực hiện quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi và phát triển trong điều kiện kinh tế

doc118 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1393 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Định hướng chiến lược và các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thị trường, ngoại thương Việt nam đã gặp phải không ít những bất cập so với yêu cầu phát triển của thực tiễn. Nhiệm vụ hết sức quan trọng và cấp bách của giới nghiên cứu và quản lý nhà nước đối với việc phát triển ngoại thương là phải tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực tiễn và kinh nghiệm của các nước, đồng thời cần tổng kết ngay những vấn đề thực tiễn nảy sinh trong quá trình hoạt động của ngoại thương Việt nam, lấy đó làm luận cứ khoa học cho việc định ra một chiến lược phát triển ngoại thương đúng đắn và năng động phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, để nó trở thành động lực trực tiếp cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng đã được Đảng Cộng Sản Việt Nam đề ra tại Đại hội lần thứ IX (tháng 4/2001) cho các hoạt động kinh tế đối ngoại và ngoại thương cần đạt được. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề hoạt động và định hướng chiến lược phát triển thương mại nói chung, của ngoại thương Việt nam nói riêng, đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các góc độ, các mức độ và cấp độ khác nhau, nhưng ở mỗi công trình nghiên cứu ở các thời kỳ khác nhau đòi hỏi mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu khác nhau, nên kết quả nghiên cứu khác nhau. Đó là công trình nghiên cứu đã được công bố, như: công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu của một số nước châu á công nghiệp mới (tác giả Hoàng Thanh Nhàn, 1992), Vai trò của Chính phủ trong quá trình công nghiệp hóa về xuất khẩu của một số nước ASEAN (tác giả Đinh Thị Thơm,1996), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa ngoại thương với tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt nam trong điều kiện kinh tế mở (tác giả Trần Anh Phương,1996), Chiến lược phát triển thương mại trên địa bàn thành phố Hà nội trong giai đoạn hiện nay (tác giả Nguyễn Văn Tuấn, 2002), Đổi mới và hoàn thiện quản lý Nhà nước về thương mại trên thị trường nội địa nước ta thời kỳ đến 2010 (Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước của Bộ Thương mại, 2002) và một số tác phẩm khác. Trong phạm vi đề tài được nghiên cứu này, tác giả hy vọng có thể hệ thống hoá, khái quát hoá cả về lý luận và thực tiễn chiến lược phát triển ngoại thương Việt nam trong điều kiện kinh tế thị trường góp phần phát triển ngoại thương Việt nam nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Mục đích nghiên cứu của luận văn Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản và kinh nghiệm thực tiễn của một số nước trên thế giới về chiến lược phát triển ngoại thương. Phân tích, đánh giá thực trạng quá trình phát triển ngoại thương Việt nam trong thời kỳ vừa qua, nhất là từ năm 1986 đến nay. Đề xuất một số kiến nghị chủ yếu và luận giải các vấn đề cơ bản về chiến lược phát triển ngoại thương Việt nam trong những năm tới. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Dưới góc độ kinh tế chính trị học, đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề cơ bản ở tầm vĩ mô của hoạt động ngoại thương, cho nên các vấn đề được đưa ra xem xét, phân tích chủ yếu là về quan điểm lý luận, đường lối chính sách và chiến lược phát triển ngoại thương. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là quá trình phát triển của ngoại thương Việt nam trong thời kỳ mở của và hội nhập cửa nền kinh tế Việt nam vào nền kinh tế thế giới, mà chủ yếu từ sau năm 1986 đến nay. Luận văn cũng có đề cập đến chiến lược phát triển ngoại thương của một số nước có những điều kiện giống Việt nam, tác giả chọn lọc những kinh nghiệm này giới thiệu cho quá trình hoạch định chiến lược phát triển, vận dụng nó vào thực tế phát triển ngoại thương Việt nam. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu bằng việc sử dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp chặt chẽ với phương pháp: khái quát hoá, trừu tượng hoá và cụ thể hoá trong quá trình phân tích, đánh giá, xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược phát triển ngoại thương Việt nam trong những năm tới. Phương pháp phân tích được sử dụng trong luận văn là phương pháp diễn dịch và quy nạp, phân tích kinh tế- thống kê, phương pháp phân tích thông tin và đồ thị… Dự kiến những đóng góp mới của luận văn Luận văn sẽ hệ thống hoá những lý luận cơ bản về chiến lược phát triển ngoại thương trong nền kinh tế thị trường. Trên cơ sở tổng hợp, phân tích và đánh giá thực trạng vận động của ngoại thương Việt nam trong những năm qua, căn cứ vào xu thế phát triển của kinh tế Việt nam trong bối cảnh hiện nay, luận văn sẽ đề xuất định hướng và một số giải pháp cơ bản trong chiến lược phát triển ngoại thương Việt nam trong những năm tới. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về thương mại quốc tế Chương 2: Ngoại thương Việt nam trong những năm qua Chương 3: Định hướng chiến lược và các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển ngoại thương Việt nam trong thời gian tới CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CƠ SỞ PHÁT TRIỂN CỦA THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Cơ sở hình thành thương mại quốc tế Từ những năm cuối thế kỷ 19 nền kinh tế thế giới đã có những bước tiến vượt bậc. Kinh tế tư bản phát triển tới đỉnh cao, cơ khí hoá dần thay thế thủ công, năng suất lao động không ngừng tăng lên, của cải vật chất của xã hội ngày càng được sản xuất ra nhiều hơn. Sự phát triển của lực lượng sản xuất trên thế giới đã làm cho nền kinh tế ngày càng đa dạng và phong phú, ngày càng chịu ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ của sự phân công lao động quốc tế. Các quan hệ kinh tế thế giới phát sinh và phát triển không ngừng. Các mối quan hệ này được biểu hiện qua: Các mối quan hệ di chuyển quốc tế của hàng hoá và dịch vụ. Các mối quan hệ di chuyển quốc tế của vốn. Các mối quan hệ di chuyển quốc tế của sức lao động. Các mối quan hệ di chuyển quốc tế của các phương tiện tiền tệ. Từ các mối quan hệ quốc tế này xuất hiện một hình thái hoạt động kinh tế quốc tế mới: thương mại quốc tế. Thực tế phát triển kinh tế thế giới cho thấy, sự thành công trong phát triển kinh tế của mỗi quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động của thương mại quốc tế. Nhất là trong tình hình hiện nay, để phát triển, các quốc gia cần phải áp dụng cơ chế kinh tế mở, tức là nền kinh tế của một quốc gia có các hoạt động giao dịch kinh tế quốc tế với các nền kinh tế mở của các quốc gia khác và với các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế. Trong phạm vi một quốc gia có nền kinh tế mở, các hoạt động kinh tế đối ngoại có tầm quan trọng đặc biệt, vì các hoạt động của nó, như: ngoại thương, hợp tác quốc tế về đầu tư và thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ, các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ… là cầu nối giữa kinh tế trong nước và kinh tế quốc tế. Quan hệ kinh tế đối ngoại ngày càng được phát triển và mở rộng do yêu cầu phát triển khách quan của xã hội hoá lực lượng sản xuất thế giới mà cơ sở của nó là phân công lao động quốc tế và sự trao đổi các lợi thế so sánh giữa các quốc gia. Từ đó, cơ sở lý luận khoa học của việc hình thành kinh tế mở cũng chính là cơ sở lý luận khoa học của mối quan hệ giữa thương mại quốc tế với phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, thực chất là phát triển mạnh các quan hệ kinh tế đối ngoại, trong đó ngoại thương giữ vị trí trọng tâm. Ngoại thương - hiểu theo khái niệm phổ thông nhất: là phạm trù kinh tế phản ánh sự trao đổi hàng hoá giữa nước này với nước khác thông qua các hoạt động bán và mua (gọi là xuất khẩu - nhập khẩu). Toàn bộ hoạt động xuất - nhập khẩu giữa các nước được gọi là thương mại quốc tế. Hai điều kiện tiền đề ra đời của ngoại thương là: Sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hoá - tiền tệ, kèm theo đó là sự xuất hiện của tư bản thương nghiệp. Sự hình thành và phát triển của phân công lao động quốc tế giữa các nước. Qua nghiên cứu lịch sử phát triển kinh tế thế giới, ngoại thương là hoạt động kinh tế đã xuất hiện từ lâu trong các thời đại từ chế độ chiếm hữu nô lệ, và tiếp đó là chế độ Nhà nước phong kiến. Tuy nhiên thời kỳ này ngoại thương chỉ phát triển với quy mô nhỏ, hẹp, vì nền kinh tế mang tính tự nhiên còn thống trị. Việc trao đổi hàng hoá quốc tế chỉ bao gồm một phần rất nhỏ sản phẩm được sản xuất ra, còn chủ yếu là dùng để phục vụ nhu cầu cá nhân trong nước. Đến tư bản chủ nghĩa, ngoại thương mới phát triển rộng rãi và trở thành động lực phát triển quan trọng của phương thức tư bản chủ nghĩa. Vì, lúc này sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa phát triển với quy mô ngày càng lớn và mục đích của nó là không ngừng tăng lợi nhuận. Ngày nay thương mại quốc tế đã trở thành hoạt động kinh tế đối ngoại cơ bản không thể thiếu được, nó phản ánh tính chất, trình độ và quy mô mở cửa phát triển nền kinh tế hướng ngoại của mỗi quốc gia trên thế giới. Xu hướng phát triển của thương mại quốc tế. Ngày nay hội nhập và toàn cầu hoá là xu thế tất yếu không thể đảo ngược. Việc hoạch định chiến lược phát triển ngoại thương của mỗi quốc gia phải tính đến đặc điểm và xu hướng phát triển là: thương mại quốc tế phát triển mạnh mẽ với quy mô ngày càng lớn, tốc độ ngày càng nhanh theo hướng phân công lao động quốc tế ngày càng sâu, rộng, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế quốc tế hoá lực lượng sản xuất. Ở thế kỷ 21 này, sự phát triển đó chắc chắn sẽ ngày càng sôi động, phức tạp và rất khó có thể tiên đoán một cách chính xác tất cả các xu hướng phát triển của nó. Có thể đưa ra một số nhận định về xu hướng phát triển chính như sau: Thứ nhất: Việc các quốc gia cấu trúc lại nền kinh tế của mình sẽ tác động sâu sắc đến quá trình chuyển dịch cơ cấu của thương mại quốc tế. Điều đó được biểu hiện qua một số đặc điểm: Các hoạt động ngoại thương hữu hình vẫn sẽ tăng mạnh. Bên cạnh đó, hoạt động ngoại thương vô hình (như: chuyển giao công nghệ, bảo vệ – cho thuê hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ) cũng sẽ không ngừng tăng về tốc độ phát triển, quy mô giá trị và tỷ trọng trong thương mại quốc tế. Giá trị của những sản phẩm hàng hoá có hàm lượng chất xám cao (kỹ thuật, công nghệ cao) sẽ ngày một tăng nhanh, ngược lại, những sản phẩm thô và sơ chế của các ngành sản xuất sẽ tiếp tục giảm cả về giá trị, quy mô và tỷ trọng trong tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu của thương mại thế giới. Xu hướng không ngừng mở rộng cánh kéo giá cả giữa các sản phẩm sơ cấp (bao gồm nông sản, khoáng sản, các nguyên liệu thô khác) và giá cả các sản phẩm đã qua công nghiệp chế biến, đặc biệt là các sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, sẽ gây bất lợi ngày càng lớn cho các nước xuất khẩu sản phẩm sơ cấp, mà chủ yếu là đối với các nước chậm và đang phát triển, bị thua thiệt. Thứ hai: “Tự do hoá thương mại” ngày càng gia tăng và là xu thế tất yếu của yêu cầu phát triển khách quan của thương mại quốc tế. "Tự do hoá thương mại" là việc tự do di chuyển hàng hoá, dịch vụ, nguồn nhân lực và vốn giữa các quốc gia. Điều này có nghĩa là các rào cản trong lĩnh vực thương mại của một nước sẽ cần phải được xoá bỏ nhằm tạo cơ hội cho hàng hoá, dịch vụ từ thị trường khác có thể xâm nhập vào thị trường nội địa, qua đó tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá nội địa, đồng thời đẩy mạnh hoạt động thương mại và hợp tác kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực và toàn cầu. Vào thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, các quan hệ kinh tế - thương mại quốc tế đã phát triển mạnh mẽ. Mở cửa để phát triển đã trở thành một nhu cầu cấp thiết đối với mọi nước trên thế giới. Việc buôn bán không thể chỉ giới hạn trong một nước. Tự lực để phát triển kinh tế không còn là quốc sách trong giai đoạn hiện nay, mà phải hội nhập để phát triển. Hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho các nước tăng cường và tranh thủ thu hút vốn đầu tư nước ngoài, công nghệ mới và các kinh nghiệm quản lý tốt nhất của các nước phát triển. Để hội nhập, cần phải tự do hoá thương mại. Thứ ba: Tự do hoá thương mại đưa lại lợi ích cho tất cả các nước nhưng không đều nhau. Tự do hoá thương mại là điều kiện để các nước đang phát triển tranh thủ những ưu đãi về thương mại, đầu tư và mở rộng cửa cho hàng hoá của họ thâm nhập vào thị trường các nước, nhất là các nước phát triển. Từ những sự ưu đãi này, các nước đang phát triển có thể tăng cường thu hút đầu tư vốn trong và ngoài nước, thúc đẩy nhanh quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế, phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ. Đặc biệt là trong WTO cũng như đại đa số các tổ chức kinh tế khu vực khác đều có các chính sách ưu đãi đối với các nước đang phát triển và các nước trong thời kỳ chuyển đổi, cho phép các nước này được hưởng các miễn trừ, ân hạn trong việc thực hiện các nghĩa vụ giảm thuế và phi thuế quan, và các nghĩa vụ khác. Tham gia tiến trình tự do hoá thương mại, thực hiện giảm thuế và mở cửa thị trường sẽ tạo ra sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ trên thị trường nội địa, đòi hỏi các ngành sản xuất phải được cơ cấu và tổ chức lại cho phù hợp và có hiệu quả kinh tế cao hơn, yêu cầu phải mở rộng hơn nữa hợp tác khoa học - kỹ thuật, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ và vốn. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện tự do hoá thương mại chắc chắn sẽ dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các nước và lợi ích của những nước tham gia trong các khối không thể đồng đều nhau được. Đó là sự thiệt thòi của những nước có nền kinh tế yếu kém, lậc hậu hơn và các nước phát triển hơn sẽ được lợi nhiều hơn, vì trong quan hệ lệ thuộc nhau và những lợi thế so sánh, nhất là lợi thế so sánh tương đối, thuộc về các nước phát triển hơn. Một điều hiển nhiên sẽ là: khi phá bỏ các rào cản trong quan hệ thương mại quốc tế, nguồn lực và hàng hoá của các nước giàu và có trình độ sản xuất phát triển cao sẽ có tác động chi phối các nước kém phát triển và các nước nghèo, và các nước nghèo dễ bị lâm vào tình trạng nghiêm trọng do hàng hoá từ ngoài tràn ngập vào, cạnh tranh và làm cho sản xuất có nguy cơ bị đình trệ. Có thể thấy rằng: tự do hoá thương mại sẽ là cơ hội để các nước chậm và kém phát triển phát triển, song được nhiều hơn lại thuộc về các nước phát triển hơn. Thứ tư: Bảo hộ mậu dịch tuy có giảm dần nhưng vẫn tồn tại song song với tự do hoá thương mại. Tham gia tiến hành tự do hoá thương mại, các nước đều tăng cường mở cửa thị trường. Song các nước vẫn còn duy trì bảo hộ mậu dịch, tuy mỗi nước và mỗi thời kỳ mức độ bảo hộ khác nhau. Mỗi quốc gia đều có chính sách thương mại riêng. Chính sách thương mại là chính sách quốc gia dùng để phân biệt đối xử với các nhà sản xuất và kinh doanh nước ngoài, cũng chính là nhằm bảo hộ các nhà sản xuất và thị trường trong nước khỏi sự xâm nhập ồ ạt của nước ngoài hoặc bảo hộ một nhóm người nào đó. Trong xu thế hội nhập hiện nay, các nước đang tiến dần đến việc xoá bỏ các chính sách bảo hộ mậu dịch, song trên thực tế việc xoá bỏ hoàn toàn vẫn chưa thể trở thành hiện thực được. Các nước vẫn cần phải duy trì bảo hộ mậu dịch đồng thời cùng với việc phát triển của tự do thương mại. Bảo hộ mậu dịch giúp cho các nước có thể phát triển dần nền sản xuất và hoạt động thương mại trong nước khi chưa có trình độ ngang tầm với các nước khác, đồng thời tránh những tổn thất về thu ngân sách và các vấn đề khác do giảm hoặc xoá bỏ hàng rào thuế quan do tự do hoá thương mại đòi hỏi. Nhìn chung, các nước đang dần xoá bỏ các rào cản trong hoạt động thương mại quốc tế, nhưng xoá hẳn và xoá hết các rào cản này chưa thể thực hiện được, vì trong chừng mực nào đó bảo hộ mậu dịch vẫn còn là điều cần thiết đối với mỗi quốc gia trong tiến trình thúc đẩy tự do hoá thương mại. Thứ năm: toàn cầu hoá và khu vực hoá cùng tồn tại song song trong thương mại quốc tế: Hiện nay toàn cầu hoá không còn là một xu thế mà đã trở thành thực tiễn trong nền kinh tế thế giới. Trong những năm gần đây, quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá được tăng cường rất mạnh, cùng tồn tại song song trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Các thành viên trong WTO đang cố gắng thực hiện các cam kết về tự do hoá thương mại, song vì nhiều lý do triển vọng của việc xây dựng hệ thống thương mại đa phương còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, thông qua việc ký kết các hiệp định thương mại đa bên, nhiều khối thương mại tự do đã được thành lập. Đến nay, trên thế giới đã có trên 1000 liên minh thương mại được ra đời, chủ yếu tập trung ở Châu Âu và Châu Mỹ. Ở Châu Á tuy không nhiều hiệp định thương mại tự do, theo WTO thì có 10 liên minh đã được ký kết, song chúng được đánh giá là thực hiện rất tích cực và đạt kết quả ban đầu đáng khích lệ. Các liên minh thương mại trên thế giới đang tồn tạị gồm có APEC- tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương gồm 22 nước và vùng lãnh thổ tham gia, ASEAN - hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, CARICOM- cộng đồng hợp tác kinh tế và thị trường chung Caribe, EU,.v.v... Việc thành lập và cùng song song tồn tại các khối thương mại đa phương trước hết là các nước trong khối có sự gần gũi về địa lý, do nhu cầu chính trị của các nước thành viên muốn có sự ổn định và có khả năng liên kết để chống lại mối đe doạ từ bên ngoài, đáp ứng nhu cầu của các nước về một thể chế thương mại đa phương trong khi các vòng đàm phán của GATT/WTO chưa đạt được kết quả như các nước mong đợi, và đây chính là bước thử nghiệm để tham gia tự do hoá thương mại toàn cầu. Thứ sáu: Xu hướng tăng cường hiệp định tự do thương mại song phương: Trong nửa cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, tự do hoá đơn phương đã trở thành trào lưu phổ biến trong tiến trình thúc đẩy tự do hoá thương mại và là bước chuyển căn bản của các nước đang phát triển, các nước mới công nhiệp hoá và các nền kinh tế chuyển đổi ra khỏi các chính sách hướng nội thay thế nhập khẩu. Ngày nay, tự do hoá thương mại đơn phương được thay thế bằng các hiệp định thương mại chung của thế giới. Thực tế cho thấy rằng, tự do hoá thương mại đơn phương đã gây thiệt hại nhiều cho các nước thực hiện chính sách này. Việc tự do thương mại đơn phương đã mở cửa thị trường cho nước ngoài thâm nhập, trong khi không có chính sách bảo hộ mậu dịch hoặc không có điều kiện thâm nhập thị trường nước ngoài đã làm cho tình hình sản xuất và thương mại của các nước này không thể phát triển được. Để bảo vệ quyền lợi của mình và để có điều kiện bình đẳng trong quan hệ kinh tế quốc tế, các nước nhất là các nước đang phát triển, buộc phải tiến hành hoạt động thương mại quốc tế theo hướng ký các Hiệp định thương mại song phương. Việc ký các Hiệp định thương mại song phương đã giúp cho các nước có thể bình đẳng hơn trong quan hệ thương mại và có cơ hội hỗ trợ, giúp đỡ nhau nhiều hơn. Việt Nam đã ký Hiệp định song phương với một số nước và khu vực, nhờ vậy trong quan hệ thương mại với các nước trên thế giới đang có nhiều tiến triển tốt đẹp. Như đã ký Hiệp định thương mại EU, làm cho kim ngạch xuất nhập khẩu của chúng ta sang thị trường EU ngày một tăng, trong đó nhiều mặt hàng xuất sang EU có trị giá rất lớn, như dệt may, giày dép, thuỷ sản. Năm 2001 ký Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, đã mở ra cho chúng ta triển vọng lớn cũng như những điều kiện thuận lợi trong phát triển ngoại thương với Hoa Kỳ và khu vực Bắc Mỹ. Kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ năm 2003 đã đạt 4 tỷ USD - Nhiều mặt hàng chủ lực sang Mỹ đạt kim ngạch lớn, năm 2001 xuất sang Mỹ hàng dệt may mới đạt 47 triệu USD, đến 1/5/2003 đã tăng lên 2,5 tỷ USD. Năm 2003 xuất khẩu hàng giầy dép : 325 triệu USD, hàng thuỷ sản đạt hơn 800 triệu USD... Các Hiệp định thương mại song phương đã và đang là yếu tố hết sức quan trọng để tạo sự bình đẳng và là điều kiện vô cùng thuận lợi giúp các nước đang phát triển có cơ hội mở rộng quan hệ thương mại quốc tế. Đây là xu hướng đang được tăng cường và phát triển trên thế giới hiện nay. Tóm lại: “Tự do hoá thương mại” đã tạo ra những điều kiện thuận lợi để cho nền kinh tế thế giới phát triển không ngừng và đã làm cho kinh tế thế giới đạt được những kết quả to lớn, song nó cũng làm nảy sinh những hậu quả rất nghiêm trọng. Đó là, “tự do hoá thương mại” làm tăng khoảng cách trình độ phát triển và tình trạng kinh tế giữa các nước, nhất là giữa các nước phát triển và các nước chậm phát triển. Đó là, làm cho sự lệ thuộc về kinh tế, dẫn đến lệ thuộc về chính trị giữa một số nước ngày càng nhiều hơn; và tất yếu dẫn đến mâu thuẫn giữa các sắc tộc và từng khu vực nẩy sinh ngày một sâu sắc hơn. “Tự do hoá thương mại” là động lực thúc đẩy các quốc gia cấu trúc lại nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình cấu trúc lại nền kinh tế thế giới theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, song mặt trái của nó là: làm ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sinh thái, làm cho việc khai thác tài nguyên thiên nhiên quá mức, dẫn đến huỷ hoại môi trường sinh thái, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, nhất là đối với các quốc gia kém phát triển, công nghệ chế biến không đủ sức cạnh tranh, phải xuất khẩu nguyên liệu thô ra nước ngoài. Không chỉ riêng đối với các nước kém phát triển, các nước “siêu” phát triển như: Mỹ, Nhật…cũng không thể tránh khỏi được những hậu quả tiêu cực do sự tác động của “tự do hoá thương mại”. Nhất là, khi các quốc gia phải thực hiện theo quy định mới về thuế quan xuất nhập khẩu do WTO quy định, phải hạ thấp thuế xuất nhập khẩu xuống còn từ 1/4 đến 1/3 mức hiện hành, sự thua thiệt lớn chắc chắn sẽ rơi vào các nước nghèo, vì họ đang phải nhập siêu quá lớn. Đối với các nước chậm và kém phát triển, con đường duy nhất để đi lên là tăng cường xuất khẩu để nhập khẩu và tăng tích luỹ cho phát triển kinh tế, tất nhiên cũng sẽ gặp nhiều bất lợi. Vậy làm thế nào để không bị thua thiệt trong cuộc đua tranh xuất khẩu đối với các nước kém và chậm phát triển? Vấn đề đặt ra đối với các nước này là: cần phải đề ra và thực thi một cách hết sức khôn khéo các chính sách về tài chính, tiền tệ, cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý…để kết hợp đồng bộ một cách đúng đắn giữa khuyến khích “tự do hoá thương mại” với “bảo hộ mậu dịch”. 1.2. CÁC CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGOẠI THƯƠNG Hiện nay toàn cầu hoá và quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới vì sự phát triển chung đang là xu thế khách quan, cho nên trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia nhận thức sự cần thiết phát triển nền kinh tế mở là điều tất yếu, nhất là đối với các nước có nền kinh tế chưa phát triển. Tuy nhiên đối với các quốc gia có nền kinh tế chưa phát triển thường có sự băn khoăn tranh luận về chiến lược phát triển kinh tế theo hướng nào: hướng nội hay hướng ngoại? Thực tế trong hoạt động kinh tế đối ngoại đã xuất hiện những chiến lược phát triển khác nhau: thay thế nhập khẩu, xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, chiến lược phát triển hỗn hợp. Nên chọn chiến lược phát triển nào cho phù hợp với đặc điểm, tình hình, điều kiện thực tế của quốc gia mình? 1.2.1 Chiến lược thay thế nhập khẩu Chiến lược thay thế nhập khẩu đã được thực hiện trong quá trình hiện đại hoá đất nước ở hầu hết các nước đang phát triển ở Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La tinh trong những năm 1950 - 1960. Thực chất của chiến lược thay thế nhập khẩu là chiến lược phát triển kinh tế hướng nội, mà nội dung chủ yếu của nó là đề cao việc sản xuất hàng hoá thay thế nhập khẩu. Ở các nước áp dụng chiến lược thay thế nhập khẩu, phương pháp tiếp cận thực tiễn chung và phổ biến là các nhà sản xuất trong nước cần phải xác định rõ nhu cầu thị trường trong nước qua số lượng nhập khẩu thực tế hàng năm để lập kế hoạch phát triển sản xuất - kinh doanh. Để hỗ trợ sản xuất trong nước phát triển và có lãi, nhà nước có trách nhiệm bảo hộ cho sản xuất và mậu dịch trong nước bằng các biện pháp thuế quan và phi thuế quan. Nhà nước cũng cho phép những nhà sản xuất được phép quan hệ với nước ngoài để tranh thủ vốn đầu tư, cung cấp kỹ thuật, nhất là công nghệ mới và có thể phối hợp thực hiện sản xuất - kinh doanh. Áp dụng chiến lược này ban đầu các nước đã đạt được tăng trưởng và phát triển kinh tế nhờ khai thác, phát huy tốt nhất các khả năng tiềm tàng và thế mạnh về lao động, tài nguyên... của đất nước mình để sản xuất các sản phẩm thay thế nhập khẩu với chi phí giá thành hợp lý nhất. Nhờ vậy hàng hoá sản xuất trong nước của các nước này đã đáp ứng phần nào nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước, làm ổn định kinh tế- chính trị - xã hội, đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao. Trong quá trình thực hiện chiến lược này, đến một thời điểm nào đó bằng việc chuyên môn hoá thay thế nhập khẩu, mỗi nước đều có thể đạt được lợi thế so sánh ở một vài sản phẩm công nghiệp nào đó và do đó vẫn có thể xuất khẩu được một phần sản phẩm sau khi đã được thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước. Qua đó thấy rằng, nếu thực hiện đúng đắn chiến lược thay thế nhập khẩu thì nó cũng có những tác dụng và vai trò nhất định trong giai đoạn mở đầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nước đang phát triển, nó như là giai đoạn mở đầu để nền công nghiệp khởi động và là khúc dạo đầu cho việc tăng trưởng theo hướng xuất khẩu. Từ cuối những năm 1960, chiến lược thay thế nhập khẩu đã bị hạn chế dần tác dụng ở một loạt nước, trước hết ở các nước Châu Mỹ La tinh rồi lan sang các nước Châu Á và Châu Phi. Nguyên nhân thất bại của chiến lược này là nó tỏ ra ngày càng lạc hậu với thời đại ngày nay trước xu thế mở cửa phát triển mạnh các quan hệ hợp tác và phân công lao động quốc tế. Do đề cao phát triển hướng nội nên chiến lược thay thế nhập khẩu đã làm giảm dần tốc độ tăng trưởng kinh tế, vì chiến lược này hạn chế tự do hoá ngoại thương, vi phạm quy luật lợi thế so sánh bởi chính sách "đóng cửa" "bế quan toả cảng" của nền kinh tế. Ở một số nước, do đề cao quan điểm tự lực cánh sinh theo kiểu khép kín, với việc gia tăng các điều kiện bảo hộ sản xuất và mậu dịch trong nước nên nhiều sản phẩm sản xuất ra để thay thế hàng nhập khẩu với chất lượng không cao, giá cả không khống chế, gây lãng phí các nguồn lực sản xuất và không có tính cạnh tranh trên thị trường thế giới. Hậu quả là: làm ảnh hưởng đến đời sống dân cư ở các nước này và hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế. Và một hậu quả tồi tệ xảy ra trong quan hệ kinh tế đối ngoại của hầu hết các nước áp dụng chiến lược thay thế nhập khẩu là: tỷ trọng nhập khẩu luôn tăng lên khiến cán cân thanh toán quốc tế thường xuyên bị thiếu hụt, nợ nước ngoài vì thế vẫn không thể giảm được. Thực tiễn phát triển kinh tế của các nước đang phát triển cho thấy mâu thuẫn giữa chính sách tự lực tự cường trong phát triển kinh tế và thiếu hụt ngoại tệ, vốn và phải phụ thuộc vào nước ngoài ngày càng trở thành nguyên nhân quan trọng khiến cho chiến lược thay thế nhập khẩu không thể kéo dài. Ngay cả trong những thời kỳ có sự thực thi nghiêm ngặt chiến lược thay thế nhập khẩu, các công ty tư bản nước ngoài đã bằng mọi cách luồn vào bên trong các hàng rào thuế quan để sản xuất tại chỗ những sản phẩm mà trước đây các nước sở tại phải nhập khẩu. Có một xu hướng khá phổ biến chung là: càng về sau, chính các nước sở tại càng khuyến khích sự gia tăng đầu tư tư bản vào nước mình. Năm 1954 và năm 1962, Thái Lan có luật khuyến khích đầu tư công nghiệp đã cho phép tư bản nước ngoài tham gia. Năm 1958, Malaysia ban hành luật khuyến khích nguồn vốn nước ngoài vào những ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu. Năm 1959, Singapo có luật công nghiệp mũi nhọn. Năm 1967 Inđônêxia có luật đầu tư tư bản nước ngoài nhằm thu hút vốn nước ngoài để phát triển các ngành phân bón, xi măng, dệt, hàng công nghiệp tiêu dùng dành cho thị trường nội địa. Năm 1965 bằng hiệp ước bình thường hoá quan hệ với Nhật Bản, Hàn Quốc đã thừa nhận quyền kiểm soát của tư bản Nhật Bản ở Hàn Quốc, đã khiến cho ngay từ năm 1974 cổ phần của Nhật ở Hàn Quốc đã chiếm tới 65,4% tổng số vốn đầu tư của tư bản nước ngoài vào Hàn Quốc [28, tr. 90-92]. Trong số các nước đang phát triển ở Châu Á áp dụng không thành công chiến lược thay thế nhập khẩu phải kể đến Myanma, là một trong những nước bảo thủ nhất thực hiện chính sách hạn chế các quan hệ kinh tế đối ngoại, mà chính sách này đã được chính phủ Myanma áp dụng đến tận năm 1992. Do ảnh hưởng của chính sách hạn chế các quan hệ kinh tế đối ngoại mà Myanma đã trở thành nước có nền kinh tế kém phát triển nhất, một nước có nền kinh tế khủng hoảng trầm trọng và kéo dài và là nước nghèo nhất thế giới. Nhìn chung, thay thế nhập khẩu là chiến lược phát triển ngoại thương được các nước đang phát triển áp dụng thời kỳ 1950 - 1960. Với chiến lược này, ban đầu các nước đang phát triển đã đạt được một số kết quả nhất định về tăng trưởng kinh tế. Nhờ áp dụng chiến lược này các nước đang phát triển đã phần nào đạt được mục tiêu cơ bản của mình là: tự lực, tự cường về kinh tế và độc lập về chính trị. Tuy rằng sau này, khi nền kinh tế thế giới chuyển sang xu thế hội nhập và quốc tế hoá đời sống kinh tế, chiến lược thay thế nhập khẩu không còn phát huy hiệu lực, song nó có thể coi là bước khởi động ban đầu cho công cuộc phát triển công nghiệp hoá sau này. Và tất yếu khi nó không còn tác dụng nữa, nó sẽ phải được thay thế bằng chiến lược khác, có hiệu quả hơn. 1.2.2 Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế Thực chất đây là chiến lược công nghiệp hoá hướng ngoại, nhưng ở trình độ thấp. Chiến lược này đã được thực hiện từ trước những năm 1950 và nó đã mang lại sự tăng trưởng đáng kể cho nhiều nước, trong đó có cả những quốc gia phát triển như Mỹ, Canada, Cộng hòa liên bang Đức... Do có các lợi thế về xuất khẩu lương thực, thực phẩm và một số khoáng sản thô khác, một số nước nghèo như Côlômbia, Mêhicô, Malaixia, Philipin... cũng đã áp dụng chiến lược này trong thời kỳ đầu tiến hành công nghiệp hoá (1950 - 1960). Bằng con đường đó, họ đã tạo ra được những động lực đầu tiên cho sự phát triển nhờ có lợi thế so sánh về một số sản phẩm xuất khẩu như cao su, cà phê, dầu dừa, dầu cọ, quặng kim loại... Cho nên đến cuối những năm 1960 tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước đang phát triển chiếm 80% là xuất khẩu sản phẩm sơ chế và hàng thô [49, tr. 89]. Tuy nhiên khi phân tích hiệu quả kinh tế của việc xuất khẩu sản phẩm sơ chế và hàng thô, các nước đều khẳng định đây là loại chiến lược bán rẻ tài nguyên và thiên nhiên. Song không còn con đường nào khác để có vốn ban đầu cho sự nghiệp công nghiệp hoá, các nước nghèo và đang phát triển phải bán sản phẩm ra nước ngoài dưới dạng sản phẩm thô và sơ chế. Việc xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế tạo ra xu hướng là: tranh thủ khai thác nguồn tài nguyên sẵn có, vắt kiệt nó, gây hậu quả nghiêm trọng về môi trường và sinh thái, bóc lột bừa bãi v._.à quá mức đối với thiên nhiên, đồng thời còn gây cả tâm lý ỷ lại dựa vào thiên nhiên, không cần đầu tư vào phát triển công nghệ chế biến, làm cho tình hình sản xuất công nghiệp không phát triển và ngày càng lạc hậu. Thực trạng này diễn ra tập trung chủ yếu vào các nước có nguồn tài nguyên phong phú, như Irắc, Côoet,... ở Trung Đông hoặc Brunây ở Châu Á. Sau khi thấy được hậu quả bất lợi nghiêm trọng xảy ra, các nước đang phát triển dần chuyển hướng, hạn chế việc thực hiện chiến lược loại này, do vậy tỷ trọng hàng sơ chế và sản phẩm thô trong tổng kim ngạch xuất khẩu của họ ngày một giảm. Đối với Việt Nam thời kỳ đầu của công nghiệp hoá, xét các điều kiện thực tế của mình, đã áp dụng chiến lược này đồng thời kết hợp đồng bộ với chiến lược khác trên tinh thần tận dụng hết những lợi thế so sánh về nguồn lao động và tài nguyên để chuẩn bị tiền đề vật chất cần thiết cho "cất cánh". 1.2.3 Chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu Nội dung cơ bản của chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu là các nước khác nhau đều có những lợi thế so sánh khác nhau về nguồn lực sản xuất vốn có của mỗi nước (vốn lao động, tài nguyên, vị trí địa lý...). Vì thế các nước cần "phụ thuộc" lẫn nhau trong quá trình phát triển để có thể trao đổi với nhau các lợi thế so sánh thông qua các hoạt động kinh tế đối ngoại như ngoại thương, liên doanh, liên kết cùng nhau đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh về một hay một số loại sản phẩm nào đó.... Rõ ràng, chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu hoàn toàn ngược lại với chiến lược thay thế nhập khẩu. Chiến lược này thể hiện sự vận dụng các quy luật lợi thế so sánh ở mức độ cao nhất, do đó nó đặc biệt chú trọng đến việc mở cửa hướng ngoại của mỗi quốc gia. Thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu là cơ hội để các quốc gia đang phát triển thành lập và phát triển các khu, các vùng kinh tế mới với tốc độ nhanh, với công nghệ mới hiện đại và thu hút số đông lực lượng lao động của xã hội đến làm việc. Từ đó hình thành các vùng đô thị mới với bộ mặt hoàn toàn khác các khu vực kinh tế truyền thống. Ở đây nhờ sự phát triển của công nghiệp, người lao động có việc làm ổn định và thu nhập cao. Đồng thời với phát triển sản xuất, đời sống được nâng cao, các hoạt động thương mại - dịch vụ cũng phát triển mạnh, tạo lên một bộ mặt đô thị hoàn toàn mới. Tuy nhiên, lại nảy sinh những mặt hạn chế, tác động tiêu cực đến tình hình chính trị - xã hội, đó là những chính sách về phát triển khu kinh tế mới và giải quyết vấn đề phát triển những khu vực sản xuất truyền thống chủ yếu để phục vụ nhu cầu nội địa mà các khu vực này vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn trong cơ cấu xã hội và địa lý của mỗi quốc gia. Việc tập trung quá mức vào một số ngành được chuyên môn hoá cao để xuất khẩu dễ dẫn đến tình trạng toàn bộ nền kinh tế bị phụ thuộc vào sự biến động của các ngành đó, và có thể làm cho nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng. Nếu coi nhẹ các vùng, các ngành sản xuất truyền thống, ít đầu tư vốn và kỹ thuật, vốn dĩ nó đã bị lạc hầu, sẽ dẫn đến tình trạng: các ngành sản xuất bị mai một đi, các vùng sản xuất sẽ không còn được tồn tại như trước nũa, dân cư sẽ di chuyển dần đến những khu kinh tế mới, và có thể sẽ phá vỡ thế cân bằng đã được thiết lập từ bao đời nay, làm cho nền kinh tế bị mất cân đối. Và điều đó đặc biệt tác động đến những vùng núi cao, hẻo lánh, vùng sâu, vùng nông thôn xa xôi. Đến nay chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu đã được thực tiễn phát triển công nghiệp hoá khẳng định là mang lại hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại ngày nay là quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới và hợp tác vì sự phát triển chung của nhân loại. Chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu đã được nhiều nước và vùng lãnh thổ ở Châu Á áp dụng trong hơn 30 năm qua và nhiều nước đã thu được những kết quả vượt bậc, tạo lên "nền kinh tế thần kỳ", như Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Công, Hàn Quốc, Singapore và sau này có Malaixia, Ấn Độ. 1.2.4 Chiến lược phát triển hỗn hợp Thực tiễn cho thấy sự phân định thành 3 loại chiến lược phát triển như trên ở nhiều nước chỉ mang tính ước lệ tương đối. Hầu hết các nước đều không theo đuổi hẳn một chiến lược nào mà đã kết hợp đồng bộ cùng lúc hay gắn kết hai hay cả 3 loại chiến lược thành một chiến lược hỗn hợp. Tuy nhiên, do mức độ nhận thức, biện pháp thực hiện, điều kiện lịch sử với sự tác động của môi trường quốc tế ở mỗi nước có mức độ khác nhau, sự thành công của mỗi nước cũng khác nhau. Quay trở lại với những nước đạt được những thành công to lớn trong chiến lược phát triển hướng ngoại là Nhật Bản, “4 con rồng” Châu Á (Đài Loan, Hồng Công, Singapore, Hàn Quốc), rồi Ấn Độ, Malaixia sau này, có thể coi đó là những tấm gương sáng về thành công thực hiện chiến lược hướng ngoại, mà nội dung cơ bản nhất của nó là xúc tiến mạnh mẽ quá trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Điều kỳ diệu là các nước và vùng lãnh thổ này đã vận dụng thành công đồng thời cả chiến lược phát triển hướng nội: sản xuất thay thế nhập khẩu. Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan một mặt thực hiện chiến lược phát triển xuất khẩu, mặt khác vẫn luôn coi trọng việc sản xuất thay thế nhập khẩu ở mức độ cần thiết và vai trò quản lý của Nhà nước với sản xuất thay thế nhập khẩu có phần chặt chẽ hơn. Nhưng với Hồng Công và Singapể, do đặc điểm thị trường nội địa quá nhỏ bé, nên ngay từ đầu khi tiến hành công nghiệp hoá, họ đã chủ trương tự do hoá thị trường và mở cửa hướng ngoại ở mức độ rất cao, vì thế trong suốt cả quá trình công nghiệp hoá họ đã không nhấn mạnh quá đặc biệt về vai trò chiến lược thay thế nhập khẩu. Việc tổ chức sản xuất để thay thế nhập khẩu ở Hồng Công và Singapore có đặc điểm chủ yếu là dựa vào quan hệ cung cầu do thị trường điều tiết. Nhà nước tuy có khuyến khích các nhà sản xuất trong nước sản xuất hàng thay thế nhập khẩu khi thấy có lợi cho sự phát triển chung của nền kinh tế, song họ tự chịu trách nhiệm do những rủi ro hay thua thiệt trong sản xuất - kinh doanh xảy ra, nhà nước không có bất kỳ sự hỗ trợ nào. Rõ ràng là, mặc dù chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu là chiến lược then chốt, đã mang lại cho các nước sự tăng trưởng đột biến về kinh tế và là động lực cơ bản để làm nên những điều thần kỳ, song họ vẫn luôn coi trọng việc phát triển những ngành sản xuất thay thế nhập khẩu, vì họ thấy được rằng mỗi loại chiến lược có vị trí, vai trò nhất định và chúng liên quan chặt chẽ với nhau, tạo nên sự hỗ trợ và động lực thúc đẩy lẫn nhau trong một nền kinh tế ở một quốc gia nhất định. Và tất nhiên mỗi chiến lược có thể áp dụng cho một hay một số khu vực và ở những thời điểm khác nhau, chúng được thực hiện theo những phương thức khác nhau. Trong số 5 nước và vùng lãnh thổ kể trên, Hàn Quốc là điển hình thành công nhất trong việc áp dụng cả hai loại chiến lược hướng nội, hướng ngoại, trong đó Hàn Quốc luôn ưu tiên phát triển mạnh hướng ngoại. Do vậy, trong các thập niên gần đây, chỉ trong vòng 25 năm (từ 1961 đến 1985) Hàn Quốc đã vươn lên và "hoá rồng". Trung Quốc cũng là nước áp dụng mô hình chiến lược phát triển hỗn hợp. Nhưng Trung Quốc đạt được tốc độ tăng trưởng cao chỉ từ khi thực hiện chính sách mở cửa từ cuối những năm 70 thế kỷ 20. Cả một thời gian dài hàng chục năm đến năm 1995, GDP hàng năm có tốc độ tăng trưởng bình quân 11%, cao nhất thế giới [42, tr. 96]. Cán cân thương mại quốc tế của Trung Quốc từ năm 1985 đến năm 2001 năm nào cũng xuất siêu: năm 1995 xuất siêu: 8,746 tỷ USD, năm 1995: 19,684 tỷ USD, năm 2001: 23,1 tỷ USD [50, tr. 591, tr. 617]. Sở dĩ ngoại thương Trung Quốc đạt được tốc độ tăng trưởng cao, là do Trung Quốc đã nỗ lực cải cách nền ngoại thương theo hướng mở cửa, tích cực tham gia vào sự phân công và hợp tác quốc tế. Qua thực tế thực hiện chiến lược phát triển hỗn hợp, ở một số nước thấy rằng trong điều kiện hiện nay, khi xu thế của thế giới là toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và hội nhập, muốn phát triển kinh tế cần thiết phải áp dụng chiến lược phát triển hỗn hợp, trong đó đặc biệt chú trọng đến xuất khẩu, nhập khẩu cần hạn chế trong phạm vi hết sức cần thiết. Đây là chiến lược đúng đắn, là giải pháp để tạo điều kiện phát triển kinh tế ở một quốc gia. 1.3. VAI TRÒ CỦA THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ QUỐC DÂN Ngoại thương - thương mại quốc tế của một quốc gia là một ngành kinh tế thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá giữa thị trường trong nước với thị trường nước ngoài. Thương mại quốc tế là cầu nối giữa các thị trường có sự khác nhau về tình trạng kinh tế, tình trạng thị trường ở từng quốc gia, tuy vậy nó là động lực quan trọng thúc đẩy thị trường trong từng nước. Với chức năng của mình, thương mại quốc tế có vai trò hết sức to lớn trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân. Những tác động của hoạt động thương mại quốc tế đối với sự phát triển kinh tế được biểu hiện ở các vấn đề sau: 1.3.1. Thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế Đối với các nước kém và đang phát triển, để phát triển kinh tế, bước đi ban đầu là cần phải tiến hành công nghiệp hoá. Trong cơ cấu kinh tế của các nước này đều có một đặc điểm chung là: nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng sản phẩm quốc dân. Khi tiến hành công nghiệp hoá để phát triển kinh tế, một xu hướng mang tính quy luật là: tất cả các ngành kinh tế đều có sự gia tăng hàng năm về quy mô tuyệt đối, còn về quy mô tương đối thì nông nghiệp có tỷ trọng ngày càng giảm, công nghiệp và dịch vụ có tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng thu nhập quốc dân. Trong quá trình vận động chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hoạt động thương mại quốc tế với vai trò đặc biệt quan trọng của nó đã tác động đến toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội: từ sản xuất, phân phối, lưu thông đến tiêu dùng. Đặc biệt, đối với các ngành sản xuất cơ bản như công nghiệp, nông nghiệp, thương mại quốc tế đã tác động trực tiếp tới cả đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất, do đó đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá về cả ba mặt: cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế. Trong những năm vừa qua, nhất là từ khi thực hiện cải cách kinh tế của Việt nam theo hướng phát triển nền kinh tế mở, Việt nam đã có quan hệ ngoại giao và sẵn sàng có quan hệ kinh tế với hầu hết các nước trên thế giới. Các quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng phát triển cả chiều sâu lẫn chiều rộng. Nhờ vậy kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam không ngừng tăng lên. (xem biểu 1) Biểu 1: Ngoại thương Việt Nam giai đoạn 1985 - 2003 ĐVT: triệu USD 1985 1990 1995 2000 2001 2002 2003 Tổng kim ngạch ngoại thương 2556 5496 13604 3020 310169 36400 44815 Trong đó: Xuất khẩu Nhập khẩu 699 1857 2404 2752 5449 8155 14483 15637 15027 16162 16700 19400 19870 24954 Cán cân thương mại -1159 -348 -2707 -1154 -1135 -1700 5075 Nguồn: Tổng cục thống kê; Bộ Thương Mại Đến năm 2003, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam đạt 44.815 triệu USD, so với 1985 tăng 17,5 lần, nếu so với 1990 tăng 8,1 lần. Tuy nhiên, nhập khẩu vẫn luôn nhập siêu (năm 1985 nhập siêu 1.159 triệu USD, năm 2003 – 5075 triệu USD) là điều tất yếu đối với một nước đang phát triển cần tăng cường nhập khẩu để có công nghệ, máy móc và các hàng hoá cần thiết phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Hoạt động xuất nhập khẩu là một trong những nhân tố và động lực thúc đẩy thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, tức là góp phần điều chỉnh lại cơ cấu ngành nghề, cơ cấu khu vực và cơ cấu sản lượng sản phẩm sản xuất ra, tạo ra tiền đề để phát triển kinh tế, phát triển sản xuất. Xuất nhập khẩu tạo điều kiện cho các ngành kinh tế có cơ hội phát triển thuận lợi và phát triển nhanh. Xuất, nhập khẩu hàng hoá nhằm mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Do yêu cầu phát triển sản xuất trong nước cho phù hợp với nhu cầu thị trường thế giới, cơ cấu hàng hoá nhập khẩu có sự thay đổi: tăng nhập hàng cung cấp đầu vào cho sản xuất, giảm bớt nhập hàng tiêu dùng hoặc hàng xa xỉ phẩm không cần thiết. Hàng nhập khẩu chủ yếu tập trung vào các loại hàng là thiết bị máy móc - công nghệ mới và hàng nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất mà trong nước chưa tự đáp ứng được. Trong những năm qua, nhập thiết bị toàn bộ, thiết bị lẻ, nguyên nhiên vật liệu... tăng mạnh. Cụ thể như: nhập thiết bị toàn bộ năm 1995 đạt 850 triệu USD, so với năm 1991 tăng 167%, đến năm 2003 đạt 5400 triệu USD [68], so với năm 1995 tăng 6,3 lần. Việc tăng cường nhập khẩu những thiết bị, máy móc và nguyên vật liệu cần cho sản xuất đã tác động rất lớn đến các ngành sản xuất của nước ta, làm cho sản xuất không ngừng phát triển. Một số ngành sản xuất như điện, cơ khí, dệt may, giày dép, giấy... có tốc độ tăng trưởng cao và phát triển ổn định. Từ thực tế đạt được của hoạt động xuất nhập khẩu trong những năm vừa qua, thấy rằng sự gia tăng nhịp độ xuất khẩu, nhất là xuất khẩu một số sản phẩm chủ lực có khối lượng hàng hoá và giá trị xuất khẩu lớn, như dầu thô, gạo, hàng dệt may và may mặc, thủy sản, cà phê, hạt điều, cao su, than đá... đã tạo ra nguồn ngoại tệ lớn để mở rộng khả năng nhập khẩu các loại vật tư, nguyên liệu, thiết bị kỹ thuật mới, công nghệ tiên tiến... phục vụ cho việc phát triển sản xuất. Xu thế ngày càng nhập siêu lớn hơn so với xuất khẩu ở nước ta nói riêng, các nước đang và kém phát triển nói chung, đã phản ánh thực trạng trên đây là phù hợp với giai đoạn đầu công nghiệp hoá đất nước. 1.3.2 Vai trò đối với việc giải quyết việc làm và các vấn đề chính trị xã hội ở mỗi quốc gia Sự gia tăng của thương mại quốc tế có tác động đến tất cả các mặt trong đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi quốc gia. Phần trên đã cho thấy những tác động của ngoại thương trong mối quan hệ tương hỗ với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Những sự biến đổi tích cực của chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã mang lại cho nền kinh tế sự gia tăng việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và từng bước xoá bỏ sự bất bình đẳng và chênh lệch mức sống thực tế giữa các tầng lớp dân cư thuộc các vùng, các miền khác nhau của đất nước. Trước hết xuất khẩu tăng sẽ tạo ra nguồn ngoại tệ lớn, nhờ đó có thể nhập khẩu những kỹ thuật - công nghệ mới và nhập các bí quyết sản xuất, kinh doanh... và do đó lại thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, bao gồm cả những ngành sản xuất thay thế nhập khẩu phát triển mạnh hơn, tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng nội, hàng ngoại. Tăng nhập khẩu trong trường hợp này là tích cực, là cần thiết và hoạt động ngoại thương không chỉ có vai trò quan trọng cung cấp đầu vào, giải quyết đầu ra cho sản xuất mà còn tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập kể cả danh nghĩa và thực tế cho người lao động. Nhờ việc tích cực theo đuổi chính sách mở cửa, tăng cường và mở rộng các quan hệ đối ngoại với các nước, chúng ta đã thu hút được một số lượng rất lớn vốn đầu tư nước ngoài, đây cũng là một động lực để một mặt thúc đẩy phát triển sản xuất; mặt khác, mở ra nhiều khu công nghiệp mới giải quyết được nhiều việc làm mới cho người lao động. Từ năm 1988 đến tháng 7/2003 đã có 4,8 ngàn dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được cấp giấy phép và tổng số vốn đăng ký lên đến 51 tỷ USD, vốn thực hiện 24 tỷ USD. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài hiện chiếm 20% tổng vốn đầu tư phát triển, gần 38% giá trị sản xuất công nghiệp, 50% xuất khẩu, tạo việc làm trực tiếp cho 600 nghìn lao động [64]. Về mối quan hệ giữa xuất khẩu - nhập khẩu với giải quyết việc làm và với thu nhập, mức sống thực tế của người lao động có thể phân tích trên cơ sở lý luận của Mác về sự cân đối giữa giá trị hao phí lao động (V) và giá trị tư liệu sản xuất (C), giữa phát triển sản xuất của khu vực I (tư liệu sản xuất) và khu vực II (tư liệu tiêu dùng). Theo lý luận của Mác, C và V là hai yếu tố cơ bản tạo nên giá trị sản phẩm. Giữa V và C có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và phải được cân đối với nhau thì hoạt động kinh tế mới có hiệu quả cao. Với tình hình thực tế Việt Nam trong điều kiện đông dân, lao động dư thừa, trình độ kỹ thuật của người lao động trong sản xuất còn thấp kém, trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, không nên nhất thiết áp dụng ngay công nghiệp - kỹ thuật cao, sử dụng ít lao động trong sản xuất mà cần khuyến khích sử dụng một cách hợp lý các kỹ thuật - công nghệ sản xuất bậc trung tận dụng nhiều lao động để vừa giải quyết việc làm, vừa tận dụng tối đa lao động với trình độ hiện nay sẵn có, để tích luỹ vốn cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, dần nâng cao thu nhập và đời sống cho nhân dân. Từ khi đổi mới năm 1986 đến nay, nhờ có chiến lược và hướng đi đúng đắn chúng ta đã phát triển kinh tế một cách vững chắc và với tốc độ cao. Điều đó cho chúng ta có cơ hội giải quyết được khá nhiều công ăn việc làm cho những người lao động, song do mở rộng các hình thức đầu tư, nên bên cạnh giải quyết việc làm mới, chúng ta còn đang hình thành và có xu hướng phát triển ngày càng mạnh đội ngũ lao động bao gồm cả trí thức, công nhân kỹ thuật cao trong một số ngành kinh tế - kỹ thuật hiện đại như dầu khí, điện tử, tin học, cơ khí chính xác, bưu chính viễn thông... Thực tế cho thấy rằng, việc phát triển các ngành sản xuất hàng xuất khẩu cần nhiều lao động là một trong những con đường chắc chắn nhất để tạo nên nhiều công ăn việc làm và thu được nhiều ngoại tệ mà không phải sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên hiếm hoi. Theo số liệu của Bộ thương mại đến năm 2002 cả nước có trên 28.000 doanh nghiệp thuộc ngành thương mại - du lịch – dịch vụ và hàng triệu hộ kinh doanh, đã tạo ra hàng trăm ngàn chỗ làm cho người lao động. Nhất là khi chúng ta bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, việc mở cửa biên giới Việt - Trung và tự do hoá thương mại đã khiến cho thị trường phía Bắc bao gồm các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Lao Cai... rất sôi động, tác động mạnh đến phân công lao động xã hội, tạo thêm những ngành nghề mới, với một đội ngũ lao động mới. Việc thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra những khu chế xuất với chức năng chủ yếu là tạo ra sản phẩm để xuất khẩu, thu hút được rất nhiều lao động đến làm việc. Có thể thấy rằng ngoại thương trong những năm qua đã góp phần tích cực giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và từng bước xoá bỏ sự cách biệt trong đời sống giữa các vùng các tầng lớp dân cư, giữa các vùng lãnh thổ khác nhau trong cả nước. 1. 4. MỘT SỐ KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN NGOẠI THƯƠNG TRÊN THẾ GIỚI Các chiến lược phát triển trong lĩnh vực thương mại quốc tế, chiến lược nào là hợp lý, là đúng đắn và được vận dụng thế nào cho sáng tạo để đạt hiệu quả cao, vẫn đang được tranh luận với các quan điểm tư tưởng khác nhau: một bên đề cao và bênh vực cho tự do hoá thương mại thể hiện ở việc đề cao sự phát triển hướng ngoại với chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu, một bên bênh vực và bảo hộ sản xuất và mậu dịch nội địa, thể hiện ở việc đề cao sự phát triển hướng nội với loại chiến lược công nghiệp hoá dựa vào thay thế nhập khẩu. Tổng kết, đánh giá lại kết quả áp dụng các chiến lược phát triển ngoại thương trên thế giới, có nhiều nước đạt được thành tựu rất lớn. Ở đây, có thể lấy kinh nghiệm của một số nước ở Châu Á, - là những nước gần gũi với Việt Nam, mà chúng ta cần nghiên cứu tìm hiểu họ để vận dụng vào thực tiễn của nước mình. 1.4.1 Hàn Quốc Hàn Quốc tiến hành công nghiệp hoá từ 1960. Từ đó đến nay sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc có thể chia thành 2 giai đoạn lịch sử: từ 1960 đến trước 1997 và từ tháng 7/1997 đến nay. Nhưng ở đay chủ yếu xem xét giai đoạn từ 1960 đến 1996. Thời kỳ này, Hàn Quốc đã trải qua 3 giai đoạn chiến lược 10 năm: - Giai đoạn 1962 - 1971: thực hiện chiến lược công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu, mở rộng và xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong giai đoạn này Hàn Quốc đề ra nhiệm vụ chiến lược cụ thể hoá bằng hai kế hoạch 5 năm: + Kế hoạch 5 năm lần 1 (1962 - 1967):Với định hướng chiến lược hướng về xuất khẩu và phát triển mạnh công nghiệp nhẹ: không tập trung vào phát triển các ngành công nghiệp chế tác và chủ yếu lại là các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu nhằm mục đích làm tiền đề cho công nghiệp nhẹ phát triển, đó là các ngành: điện, phân bón, sợi hoá học, sợi nilon, lọc dầu và xi măng. + Kế hoạch 5 năm lần 2 (1967 - 1972) mục tiêu chủ yếu là thực hiện hiện đại hoá công nghiệp hướng ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu trên cơ sở công nghệ sử dụng nhiều lao động và có lợi thế trong cạnh tranh với nước ngoài. Các ngành công nghiệp nhẹ như: vải, cao su, gỗ dán... trở thành những ngành xuất khẩu chủ lực. Tốc độ tăng trưởng của GDP bình quân hàng năm từ 1967 đến 1971 là 9,7%, trong đó tốc độ tăng của công nghiệp chế tác là 19,8% , tốc độ tăng của xuất khẩu đạt 40%/năm [60, tr. 27]. - Giai đoạn 1972 - 1981: Tuy trong giai đoạn 1 nền kinh tế Hàn Quốc đã thu được nhiều kết quả to lớn, tích luỹ được nguồn vốn nhất định nhờ thực hiện chiến lược hướng ngoại, song cũng có những bất cập: nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào nước ngoài do vay nợ nhiều, xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu nên thiếu chủ động. Trước tình hình thế giới có nhiều bất lợi cho Hàn Quốc: Mỹ giảm bớt sự ưu đãi về kinh tế với Hàn Quốc, khủng hoảng dầu lửa (1973) làm cho Hàn Quốc phụ thuộc nhiều vào nước ngoài về nguyên, nhiên liệu, chính phủ Hàn Quốc quyết định cải tổ cơ cấu công nghiệp, tập trung phát triển công nghiệp nặng và hoá chất để tạo thế chủ động cho mình. Chiến lược phát triển giai đoạn này chia làm các bước đi: + Kế hoạch 5 năm lần thứ 3 (1972 - 1976): tập trung vào các ngành công nghiệp nặng cơ bản, các xí nghiệp hoá dầu, đóng tầu, thiết bị vận tải, đồ dùng điện, vô tuyến và bán dẫn. + Kế hoạch 5 năm lần thứ 4 (1976 - 1981): tiếp tục mục tiêu chiến lược tạo cơ cấu kinh tế chủ lực, cải thiện công nghệ và tăng cường hiệu quả. - Giai đoạn 1982 - 1991: Do tình hình kinh tế Hàn Quốc có nhiều diễn biến xấu, bất lợi: công nghiệp không thể cạnh tranh trên thị trường thế giới, lạm phát cao, chính phủ Hàn Quốc quyết định điều chỉnh chiến lược: tập trung điều chỉnh cơ cấu kinh tế trên cơ sở phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật cao, tự do hoá và mở cửa nền kinh tế, từng bước tư nhân hoá nền công nghiệp và mở rộng cơ chế thị trường, thúc đẩy cạnh tranh trong nước và quốc tế. Trong giai đoạn này Hàn Quốc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 5 và thứ 6. Năm 1996 Hàn Quốc ra nhập khối các nước phát triển (OECD). Năm 1997 Hàn Quốc bị ảnh hưởng rất nặng của khủng hoảng tài chính - tiền tệ. Có thể nguyên nhân của nó là do Hàn Quốc thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp nặng, đòi hỏi Hàn Quốc phải tập trung nhiều vốn và vay vốn nước ngoài để đầu tư cho chiến lược phát triển công nhiệp nặng này. 1.4.2 Đài Loan Là một vùng lãnh thổ có nền kinh tế phát triển khá cao và ổn định trong thời gian dài: suốt thời kỳ từ 1953 đến 1995 tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm là 6,4%, GDP bình quân đầu người tăng từ 200 USD (năm 1952) lên 12.439 USD năm 1995 [60, tr. 28-29], năm 2000 đạt 13.885,9 USD, đến 2001: 12.593 USD (giá hiện hành) [50]. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ vừa qua không ảnh hưởng nhiều đến tình hình kinh tế Đài Loan. Sự tăng trưởng kinh tế của Đài Loan khá ổn định và tăng với mức cao là do Đài Loan đã hoạch định đúng đắn chiến lược phát triển kinh tế trong từng giai đoạn khác nhau. - Giai đoạn 10 năm 1950 - 1960: Đài Loan áp dụng chiến lược thay thế nhập khẩu với việc phát triển mạnh công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Trong khi công nghiệp chế biến thực phẩm đạt trình độ xuất khẩu thì các xí nghiệp tư nhân vừa và nhỏ được khuyến khích sản xuất hàng cho thị trường nội địa từ các nguyên liệu trong nước và các bán thành phẩm nhập ngoại. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp giai đoạn này đạt trung bình 11,7%/năm so với 7,6% của toàn bộ nền kinh tế . - Giai đoạn 10 năm 1960 - 1970: Đài Loan tiếp tục áp dụng chiến lược thay thế nhập khẩu đồng thời mở rộng xuất khẩu với việc phát triển mạnh công nghiệp nhẹ, tận dụng lợi thế giá nhân công rẻ. Đài Loan có chính sách mở rộng và phát triển các khu chế xuất, nhờ vậy xuất khẩu của Đài Loan đạt trung bình 27,4% năm so với 16,4% của công nghiệp và 10,2% của toàn bộ nền kinh tế [60, tr. 30]. - Giai đoạn 10 năm (1980 - 1990): Từ giai đoạn này Đài Loan bắt đầu chiến lược phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp có giá trị tăng cao và công nghệ tiết kiệm năng lượng. Đến năm 1990 giá trị xuất khẩu các sản phẩm công nghệ cao đã chiếm 40,2% tổng kim ngạch xuất khẩu gồm các sản phẩm tin học , điện tử, thiết bị... Trước tình hình mới, khi ngành công nghiệp Đài Loan đứng trước những thử thách nghiêm trọng (do giá đồng Đài tệ lên giá, giá nhân công cao, thiếu lao động, nhu cầu bảo vệ môi trường và sự cạnh tranh của các nước đang phát triển khác...) Đài Loan chuyển hướng chiến lược phát triển sang các ngành công nghiệp công nghệ cao, đồng thời chuyển các ngành công nghiệp truyền thống ra nước ngoài. Những thành công của Đài Loan là do Đài Loan có chiến lược phát triển phù hợp với từng hoàn cảnh, có mục tiêu rõ ràng và bước đi với các chính sách rất cụ thể, chi tiết để thực hiện các mục tiêu. 1.4.3 Malaixia Là quốc gia có nhiều lợi thế thuận lợi hơn các quốc gia khác ở trong khu vực (về tài nguyên, về đất nông nghiệp) nên đã biết khai thác triệt để và tận dụng tối đa lợi thế trong nước để hoạch định chiến lược phát triển, đồng thời tìm mọi cách để thu hút mạnh đầu tư nước ngoài. Quá trình phát triển của Malaixia được chia làm các giai đoạn sau: - Giai đoạn 1957 - 1970: Giai đoạn này áp dụng chiến lược thay thế hàng nhập khẩu, trong đó phát triển nông nghiệp đi đôi với hình thành các ngành công nghiệp chế biến mới, tạo điều kiện cho tư bản nội địa phát triển, đồng thời khuyến khích tư bản nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp. Chính phủ Malaixia chú trọng phát triển 2 ngành mới là nông nghiệp (phát triển cây cọ dầu, đẩy mạnh sản xuất lương thực nhằm giảm nhập lương thực là hình thức thay thế nhập khẩu tốt nhất) và công nghiệp (phát triển nhanh công nghiệp chế tác để khắc phục nền công nghiệp què quặt trước đây). Nhờ vậy, Malaixia đã đạt được những kết quả khá tốt: công nghiệp có tốc độ tăng 10,2% bình quân hàng năm. - Giai đoạn 1970 - 1980: Chiến lược thay thế nhập khẩu được chuyển sang chiến lược hướng về xuất khẩu trong đó chú ý chế biến nông sản và công nghiệp nhẹ. Trong giai đoạn này Malaixia thực hiện 2 kế hoạch 5 năm với 2 chính sách cơ bản là : mở cửa thu hút vốn nước ngoài và kích thích tư bản trong nước hướng vào xuất khẩu. Về xuất khẩu, Malaixia chủ trương thay đổi cơ cấu xuất khẩu: nếu như năm 1970 chủ yếu xuất khẩu cao su và gỗ tròn, đến năm 1980 xuất khẩu dầu mỏ và các sản phẩm công nghiệp chế tác (chiếm 46% tổng kim ngạch xuất khẩu). Một loạt các ngành công nghiệp mới được phát triển: công nghiệp điện tử năm 1980 tăng 192 lần so với 1970, nhóm hàng dệt may, giày dép tăng 21 lần, nhóm hàng thực phẩm tăng 4 lần. Cơ cấu ngành có sự thay đổi tích cực: Công nghiệp từ 19,7% năm 1970 lên 23% năm 1980 trong GDP [60, tr. 31]. - Giai đoạn 1980 - 1997: Đến 1980 kết thúc một giai đoạn chiến lược hướng về xuất khẩu, Malaixia vẫn gặp những khó khăn lớn: sản xuất hàng xuất khẩu chủ yếu dựa vào nguyên liệu nhập khẩu hoặc gia công cho tư bản nước ngoài. Cơ cấu công nghiệp rời rạc, nền kinh tế trong nước thiếu gắn bó với nhau, sản xuất chỉ liên kết với chu trình sản xuất của các công ty xuyên quốc gia khác nhau, nội lực về khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực không nhiều. Trước tình hình đó chính phủ Malaixia đã đưa ra chiến lược phát triển dài hạn với mục tiêu: + Nhấn mạnh lại thay thế nhập khẩu một số loại tư liệu sản xuất chủ yếu. + Xây dựng nền kinh tế hiện đại dựa trên nền công nghiệp nặng sử dụng nhiều vốn và kỹ thuật cao. + Về đối ngoại, chú trọng "nhìn về phương Đông", học kiểu mẫu Nhật Bản, Hàn Quốc để giảm phụ thuộc phương Tây. Trên cơ sở các mục tiêu chiến lược phát triển giai đoạn này, Malaixia đã thực hiện được một số dự án như: phát triển công nghiệp nặng (xi măng, luyện kim, chế tạo máy, sản xuất ô tô, lọc hoá dầu...). Tuy nhiên do quá trình công nghiệp hoá nhanh đã tác động rất lớn đến ngành nông nghiệp: lượng lao động ở nông thôn di dời ra thành thị quá lớn, năng suất lao động trong nông nghiệp thấp. Để khắc phục tình trạng trên, từ năm 1985 Malaixia thực hiện các biện pháp hợp nhất đất đai manh mún để kinh doanh trang trại, đầu tư thêm khoa học kỹ thuật và thuỷ lợi, mở rộng quy mô làng để thực hiện đô thị hoá. Chính sự đầu tư quá mức vào công nghiệp nặng, hạ tầng cơ sở và bất động sản, nên năm 1997 Malaixia bị ảnh hưởng sâu sắc của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ. Đó cũng chính là những sai lầm vừa thuộc về một chiến lược cơ cấu dài hạn, vừa thuộc các giải pháp cụ thể cho các bước đi còn bất cập. Để phát triển, chính phủ Malaixia đã cần phải hoạch định và thực thi một chiến lược mới cho bước đi tiếp theo. 1.4.4 Trung Quốc Chiến lược công nghiệp hoá mới của Trung Quốc được bắt đầu từ năm 1978 nhằm thực hiện sự chuyển đổi mang tính lịch sử: một là, chuyển từ một xã hội nông nghiệp nông thôn sang xã hội công nghiệp và đô thị; hai là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Để thực hiện chiến lược trên Trung Quốc đề ra những giải pháp cơ bản mang tính chiến lược là: phải tập trung hoá, nhân rộng và thực dụng, được nổi bật trong bốn lĩnh vực chủ yếu, nơi mà công cuộc cải cách đã tác động rất nhiều tới tăng trưởng gồm: nông nghiệp, công nghiệp nông thôn, thương mại và các doanh nghiệp nhà nước. Nhờ việc định ra chiến lược phát triển đúng đắn mà Trung Quốc đã tạo ra nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng rất nhanh, trong giai đoạn 1978 - 1995, kinh tế Trung Quốc đã tăng gấp 4 lần so với 15 năm trước, GDP có tốc độ tăng trưởng bình quân 8% năm. Về cơ cấu: trong vòng 18 năm lực lượng lao động nông nghiệp đã giảm từ 71% xuống 50% (trong khi Mỹ phải mất 50 năm, Nhật Bản mất 60 năm). Về chính sách đối ngoại, Trung Quốc mở rộng quan hệ đối ngoại theo 3 hướng: - Cải cách hệ thống thương mại. - Khuyến khích xuất khẩu. - Giảm bớt quy định gò bó về đầu tư trực tiếp, thành lập và phát triển mạnh các đặc khu kinh tế (đến năm 1993 toàn Trung Quốc có 9000 đặc khu kinh tế hoặc loại hình tương tự) [60, tr. 33]. Trong quá trình thực h._. song phương và đa phương, hội nhập cả ở phạm vi tiểu vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu, hội nhập trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Thực hiện chính sách đa phương hoá các quan hệ kinh tế, chúng ta có điều kiện để đa dạng hoá thị trường. Thực tế đã cho thấy rằng: muốn phát triển ngoại thương, một trong những điều kiện không thể thiếu là: phải có thị trường. Trong chiến lược phát triển thị trường, trước hết phải chú ý đến các thị trường trọng điểm, các bạn hàng lớn, đặc biệt là khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó thị trường ASEAN đang nổi lên vấn đề tham gia khu vực mậu dịch tự do AFTA. Chúng ta đã ký được Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, song việc phát triển hoạt động ngoại thương với Hoa Kỳ, việc tăng xuất khẩu vào thị trường Mỹ đang đặt ra trước mắt chúng ta nhiều thách thức mới. Mục tiêu của chúng ta đẩy nhanh tiến độ gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) để tạo điều kiện hội nhập một cách toàn diện hơn vào kinh tế thế giới. Đồng thời chúng ta cần xúc tiến mạnh mẽ và toàn diện hơn nữa tham gia vào các hoạt động của các tổ chức kinh tế, tài chính, ngân hàng quốc tế như Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (OPEC), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), Ngân hàng thế giới (WB)....,vì đó là điều kiện cần thiết để phát triển mạnh nền kinh tế mở cửa, nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Song muốn hoà nhập vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới trên đây, Việt Nam phải đổi mới cơ chế, chính sách, pháp luật về ngoại thương cho phù hợp. Đó là những vấn đề rất lớn, đòi hỏi chúng ta phải có thời gian chuẩn bị khá kỹ càng về tất cả các mặt, nhất là vấn đề nhân lực thì mới có thể thực hiện được mục tiêu đề ra, tránh được những bất lợi, rủi ro, không phù hợp có thể xảy ra. 3.3.3. Chủ động hội nhập quốc tế Hội nhập quốc tế một cách chủ động và tích cực là giải pháp quan trọng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu. Hội nhập quốc tế là điều kiện để chúng ta xác định được vị thế của mình trên thế giới, thấy được khả năng tham gia vào thị trường thế giới, thấy được hiệu quả và lợi thế của các sản phẩm và dịch vụ của mình, từ đó điều chỉnh lại các hoạt động và tình trạng sản xuất để tạo năng lực cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Hội nhập quốc tế sẽ mang lại cho chúng ta những thuận lợi to lớn trong các quan hệ quốc tế, tăng cường khả năng thu hút vốn đầu tư và những công nghệ mới từ bên ngoài. Hội nhập quốc tế tất yếu sẽ làm cho kinh tế hướng ngoại. Chủ động hội nhập quốc tế sẽ là giải pháp hàng đầu và là điều kiện tất yếu để chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu. Hội nhập quốc tế sẽ làm cho cả nước có sự tuỳ thuộc lẫn nhau trên cơ sở cùng có lợi. Hội nhập là điều kiện để chúng ta tham gia một cách nhanh chóng và toàn diện vào lộ trình toàn cầu hoá kinh tế quốc tế, bởi vì tham gia vào toàn cầu hoá chúng ta sẽ có nhiều cái lợi trong việc phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp chế tạo xuất khẩu, cơ cấu kinh tế được điều chỉnh theo hướng xuất khẩu. Tham gia vào toàn cầu hoá sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất, có thị trường xuất khẩu, tranh thủ được thêm các nguồn vốn đầu tư nước ngoài và kinh nghiệm quản lý của các nước phát triển để khai thác hết khả năng tiềm tàng của nước ta nhằm sử dụng một cách hợp lý nhất các nguồn lực của ta, đi tắt đón đầu về công nghệ và cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá đặt chúng ta trước những thử thách lớn. Đó là tình trạng lạc hậu quá xa của nền kinh tế nước ta so với các nước khác làm cho môi trường đầu tư của nước ta kém lợi thế cạnh tranh hơn, sản phẩm kém năng lực cạnh tranh nên làm cho chúng ta bị thua thiệt nhiều, các tiêu cực và tệ nạn tồn tại và còn phát sinh nhiều trong đời sống kinh tế - chính trị-xã hội.... nó tác động rất lớn đến mọi mặt trong xã hội nước ta. Từ những vấn đề cấp bách trên đòi hỏi phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Chỉ có hội nhập mới có thể vượt qua được những thách thức và khó khăn trong đời sống kinh tế-chính trị- xã hội. Và chủ động hội nhập là để nâng cao lợi ích, hiệu quả của sự hội nhập kinh tế quốc tế. Để chủ động hội nhập, cần phải có chiến lược chủ động, có chuẩn bị và bước đi thích hợp, có kế hoạch cả về phía Chính phủ cũng như về phía các doanh nghiệp và tổ chức phi chính phủ. 3.3.4 Lựa chọn ưu tiên các ngành mũi nhọn có tác động hỗ trợ tích cực cho việc hoàn thiện và đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của ta Mỗi một quốc gia tiến hành công nghiệp hoá, phát triển kinh tế có một đặc thù riêng, điều kiện riêng. Từ những đặc thù riêng có để tìm ra hướng đi, đường đi tốt nhất, nhằm khai thác triệt để những lợi thế mà quốc gia đó có, sẽ đạt được thành công nhanh nhất, với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế cao nhất. Thực tế trong nhiều thập kỷ qua phát triển kinh tế của các nước và khu vực ở châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Công và một số nước thuộc khối ASEAN đã chứng minh điều đó. Với Việt Nam, trong hoàn cảnh thực tiễn của mình, cần dựa vào các lợi thế so sánh của đất nước để chọn những ngành xuất khẩu mũi nhọn và các sản phẩm xuất khẩu chủ lực, tạo ra tiền đề cho nền kinh tế "cất cánh" trong một vài thập niên tới. Trong thời gian tới chúng ta cũng cần tăng cường đầu tư về mọi mặt để tạo ra nhiều sản phẩm có hàm lượng cao và tăng giá trị gia tăng để tăng tỷ trọng của chúng trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Chúng ta cần phát triển mạnh hơn nữa các hoạt động dịch vụ có thu ngoại tệ như du lịch, xuất khẩu lao động và chuyên gia, vận tải biển, vận tải hàng không và dịch vụ quá cảnh, gia công sản xuất, tái xuất hàng hoá cho các nước trong khu vực.... Trong phát triển thị trường, chúng ta cần xây dựng một thị trường hoàn chỉnh để từ đó có thể tham gia vào tất cả các hoạt động trên thị trường thế giới, đặc biệt là nhanh chóng tham gia một cách toàn diện vào các thị trường dịch vụ thế giới như tài chính, ngân hàng, thông tin, bưu điện, quảng cáo. Đây đang là lĩnh vực được các nước trong khu vực và trên thế giới quan tâm, phát triển mạnh, coi đó là động lực chính để tăng trưởng kinh tế trong tương lai. 3.3.5 Huy động các nguồn vốn đầu tư để phát triển ngoại thương theo hướng mở cửa và hội nhập Huy động vốn, tạo ra nguồn vốn đầu tư để phát triển kinh tế là chủ trương lớn của nhiều quốc gia trên thế giới. Và hiện nay, vấn đề này hình như được hầu hết các nước trên thế giới thực hiện. Từ những năm 20 của thế kỷ trước, Lê - nin đã đưa ra học thuyết "chính sách kinh tế mới (NEP) với mục đích thu hút các nguồn vốn đầu tư để ổn định và phát triển kinh tế của nhà nước Xô viết non trẻ, bị thế giới tư bản bao vây mọi phía. Một số nước trong khu vực châu Á cũng đã thực hiện tốt việc thu hút vốn đầu tư để phát triển kinh tế như Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaixia.... và gần đây nhất là Trung Quốc, một quốc gia có vốn đầu tư nước ngoài lớn nhất hiện nay. Nhờ có nguồn vốn đầu tư mà các nước kể trên đã tạo được những bước nhảy vọt, đã có nền kinh tế tăng trưởng ổn định và với tốc độ cao, như một kỳ tích trên thế giới. Chủ trương tăng cường thu hút vốn đầu tư đã được chúng ta luôn coi trọng và tìm mọi cách để đạt được mục tiêu thu hút vốn đầu tư và phát triển kinh tế, trong đó trước hết ưu tiên tạo nguồn vốn đầu tư để phát triển nền ngoại thương mở cửa của Việt Nam. Tuy nhiên để huy động được nhiều vốn đầu tư cho phát triển ngoại thương, chúng ta cần tạo ra môi trường chính trị - kinh tế vĩ mô ổn định; phải đổi mới từ nhận thức, quan điểm đến việc hoàn thiện các cơ sở pháp lý, các biện pháp, chính sách kinh tế theo hướng ưu tiên, khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài nước yên tâm mạnh dạn bỏ vốn đầu tư dưới mọi hình thức để lập ra các khu chế xuất, các tổ hợp liên doanh, các khu công nghiệp.... hướng về xuất khẩu. 3.3.6 Phát triển cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường kinh doanh Phát triển cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường kinh doanh là yếu tố hết sức quan trọng để thu hút đầu tư, phát triển ngoại thương. Ở nước ta hiện nay, các kết cấu hạ tầng như: hệ thống giao thông, điện nước phục vụ cho sản xuất và đời sống còn quá lạc hậu, yếu kém. Thực trạng đó đã hạn chế rất nhiều sự quan tâm và đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam. Chúng ta cần phải có những chính sách ưu tiên để đầu tư cải tạo, mở rộng, hiện đại hoá một cách đồng bộ toàn bộ hệ thống giao thông vận tải, hệ thống điện và hệ thống cấp thoát nước để phục vụ kịp thời và có hiệu quả cho nhu cầu phát triển của đất nước. Đó cũng là một trong những điều kiện, môi trường vật chất cần thiết thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển ngoại thương và các hoạt động đối ngoại khác. 3.3.7 Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho hoạt động ngoại thương Trong hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế, để tránh đổ bể, để thu được lợi nhuận cao, các doanh nghiệp cần phải có được những thông tin cần thiết, cơ bản về thị trường, về đối tác mà mình có hoặc sẽ có quan hệ. Những thông tin mà các doanh nghiệp cần nắm bắt là: luật lệ và chính sách của nước bạn hàng, đặc biệt là của nước đó với Việt Nam; tình hình tiêu thụ, giá cả và tính chất cạnh tranh đối với hàng hoá chúng ta muốn bán ra nước ngoài; phương thức thâm nhập thị trường có hiệu quả nhất; khả năng kinh doanh của bên đối tác để tìm ra được bạn hàng đáng tin cậy, muốn phát triển lâu dài, biết tôn trọng và quan tâm đến lợi ích của nhau. Những thông tin về đối tác chúng ta cần tìm hiểu, cần biết là các thông tin về vấn đề kỹ thuật, công nghệ, về kinh nghiệm tổ chức và quản lý kinh doanh, thực trạng, uy tín và quan điểm kinh doanh của họ trên thị trường. Thiếu thông tin về đối tác dễ dẫn đến những rủi ro đáng tiếc xảy ra, dễ mắc phải tình trạng mua đắt bán rẻ hoặc bị lừa. Nhờ có các thông tin cần thiết cho hoạt động mua bán hàng hoá, có thể xác định được chiến lược kinh doanh sao cho có hiệu quả. Trong thời gian tới, để hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho hoạt động ngoại thương, trước hết chúng ta cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và cơ chế thông tin thông suốt trong toàn quốc dựa trên chuẩn mực yêu cầu của quốc tế về hình thức và nội dung của các loại thông tin kinh tế, cần công khai hoá hoặc cần cung cấp một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời. Trong công tác xuất nhập khẩu cần thiết phải nắm bắt được những thông tin chính xác về thị trường, về hàng hoá để có những quyết định đúng đắn về chiến lược thị trường và chiến lược sản phẩm. Do vậy, chúng ta cần phải có sự kết hợp, sự hoạt động tích cực, phát huy hết chức năng của cơ quan như văn phòng tư vấn, cơ quan xúc tiến thương mại, đặc biệt là Trung tâm thông tin (Bộ thương mại) và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trong việc cung cấp các thông tin chính xác và cập nhật cho hoạt động ngoại thương. Ngoài ra các Thương vụ ở nước ngoài cần cung cấp đầy đủ, kịp thời và chính xác các thông tin kinh tế thế giới cho hoạt động ngoại thương. Chúng ta cũng cần củng cố và phát huy hết năng lực của các cơ quan nghiên cứu nhất là các tin tức về ngoại thương để phục vụ cho việc phát triển thương mại quốc tế. Ngành thương mại cùng các doanh nghiệp cần thiết lập các cơ quan đại diện, các chi nhánh, các đại lý, cơ quan tư vấn - môi giới của mình ở nước ngoài, nhà nước có thể hỗ trợ phần nào tài chính và các chính sách vĩ mô...., từ đó tạo bước chuyển biến mới cho công tác tìm kiếm thị trường, bạn hàng nước ngoài để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. 3.3.8 Xúc tiến thương mại Xúc tiến thương mại là một trong những biện pháp quan trọng nhất trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển ngoại thương. Nhờ tổ chức tốt các hoạt động xúc tiến thương mại mà chúng ta có thể xây dựng được cho mình một hình ảnh, một biểu tượng tốt cho hàng hoá của mình, quảng bá được hàng hoá do mình sản xuất kinh doanh ra thị trường thế giới, đồng thời có thể tăng lượng hàng xuất khẩu, chiếm lĩnh và mở rộng thêm thị trường xuất khẩu. Trong công tác xúc tiến thương mại, trước hết phải làm tốt công tác nghiên cứu thị trường xuất khẩu. Đây là vấn đề mấu chốt trong việc phát triển thị trường. Nghiên cứu thị trường là để nắm được nhu cầu thị trường, những diễn biến trên thị trường, dung lượng thị trường và các đối tác hoạt động trên thị trường, từ đó có chiến lược phát triển thị trường, chiến lược xuất khẩu cho phù hợp với thực tế cũng như đòi hỏi của thị trường xuất khẩu. Trong công tác xúc tiến thương mại, chúng ta thường gặp một trở ngại là kinh phí đầu tư cho công tác này quá ít, đội ngũ cán bộ xúc tiến thương mại còn quá mỏng manh, thiếu và yếu về mọi mặt. Vấn đề đặt ra cần phải thay đổi nhận thức, phải hiểu được rằng: xúc tiến thương mại là một hoạt động cần được chú trọng và quan tâm nhiều hơn nữa. Chúng ta cần đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến xuất khẩu, tăng cường việc thu thập và phổ biến thông tin cũng như công tác dự báo để định hướng cho hoạt động sản xuất, xuất khẩu. Để khắc phục tình trạng thiếu kinh phí cho hoạt động xúc tiến thương mại, cần tiến tới thành lập quỹ xúc tiến thương mại có sự đóng góp của các doanh nghiệp để tiến hành hỗ trợ doanh nghiệp trong các hoạt động hội chợ, triển lãm, xây dựng và quảng bá thương hiệu ở nước ngoài.... 3.3.9 Tăng cường và đổi mới công tác giáo dục, đào tạo đội ngũ cán bộ và phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu tình hình mới Để phát triển ngoại thương, để hội nhập vào nền kinh tế thế giới , chúng ta cần một đội ngũ cán bộ quản lý nói chung, đội ngũ cán bộ của ngành ngoại thương nói riêng, có đầy đủ năng lực để tìm hiểu một cách rõ ràng, chính xác và kịp thời nhu cầu của thị trường quốc tế, quy mô của nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu đó của nền sản xuất trong nước. Chúng ta cần đội ngũ cán bộ và nhân viên hoạt động ngoại thương giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, giỏi ngoại ngữ tiếng Anh và ngôn ngữ thị trường mục tiêu (đặc điểm tâm lý, thị hiếu, thói quen....). Những cán bộ nhân viên này phải được đào tạo từ các trường có tiếng tăm trong nước và quốc tế, để họ có khả năng thích ứng nhanh với tình hình, có khả năng nghiên cứu sâu rộng, có khả năng tiếp nhận và phân tích các thông tin có liên quan đến quản lý, đến sản phẩm và dịch vụ xuất nhập khẩu, đến thị trường mục tiêu, giá cả trên thị trường thế giới.... Đồng thời phải có khả năng sử dụng thành thạo các phương tiện phục vụ cho thu thập, phân tích và truyền thông tin hiện đại (như máy vi tính, fax...) để nâng cao khả năng phân tích thông tin chính xác, nhanh, kịp thời. Chúng ta cần có một đội ngũ cán bộ ngoại thương mạnh, tức là họ phải biết đặt lợi ích của tập thể, của doanh nghiệp lên trên hết, vì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong mọi quan hệ có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chúng ta cũng cần phải xây dựng được đội ngũ cán bộ giỏi về tiếp thị trong lĩnh vực kinh doanh thương mại quốc tế. Phát triển ngoại thương đòi hỏi có khả năng tiếp thị cao hơn hẳn hoạt động nội thương hoặc các doanh nghiệp sản xuất, vì thị trường mà các doanh nghiệp ngoại thương tiếp cận là thị trường nước ngoài, các đòi hỏi và tiêu chuẩn của thị trường cao hơn hẳn so với thị trường trong nước và luôn luôn phải ở mức ngang với các tiêu chuẩn chung của thị trường thế giới. Khả năng tiếp thị của cán bộ ngoại thương được thể hiện ở các mặt : xác định được thị trường mục tiêu, có khả năng chiếm lĩnh và giữ vững thị trường bằng cách gây ấn tượng ban đầu được tốt đẹp cho doanh nghiệp, biết biến những dịch vụ tốt nhất không nơi nào có được của doanh nghiệp thành những khoản thu lớn, có khả năng lựa chọn phương tiện và quy mô quảng cáo thích hợp với thị trường mục tiêu của doanh nghiệp, có khả năng tìm ra khe hở để lọt vào những thị trường rộng lớn hơn, biết hoà nhập vào khách hàng và vào phong trào người tiêu dùng để tạo thêm thuận lợi cho doanh nghiệp, và cuối cùng là : có khả năng định giá táo bạo và có hiệu quả cho sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, vì đây là vũ khí tốt nhất để nâng cao doanh thu, đánh bại các đối thủ cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường. KẾT LUẬN Luận văn đã được thực hiện và đạt được một số kết quả chủ yếu sau: 1. Nghiên cứu đề tài từ góc độ kinh tế chính trị học với lý thuyết kinh tế học về quá trình phát triển nền kinh tế thế giới, luận án đã phân tích được những vấn đề lý luận cốt lõi về quá trình hình thành, sự cần thiết tồn tại và phát triển của ngoại thương, nhất là trong thời đại hội nhập và quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới. Từ đó khẳng định: điều kiện tiền đề để ra đời ngoại thương là sự tồn tại và sự phát triển của kinh tế hàng hoá - tiền tệ và sự hình thành và phát triển của phân công lao động quốc tế giữa các nước. Ngày nay hoạt động kinh tế đối ngoại là yêu cầu khách quan, không thể thiếu được. 2. Hoạt động của ngoại thương Việt Nam trong những năm qua chịu nhiều tác động cả về phía chủ quan của nền kinh tế nước ta cũng như khách quan, song mỗi thời kỳ có đặc thù riêng của nó. Mỗi thời kỳ lịch sử của cách mạng buộc ngành ngoại thương hoạt động với những đường lối chiến lược khác nhau. Từ thực tế hoạt động của ngoại thương từ năm 1975 đến nay, luận văn đã tổng hợp và đánh giá thực trạng hoạt động của ngoại thương Việt Nam, những thành tựu đã đạt được và những đóng góp tích cực của nó vào việc phát triển kinh tế, thực hiện công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Sau khi phân tích các hoạt động của ngoại thương Việt Nam từ năm 1975 đến nay, luận án đã khẳng định được rằng: nhìn chung Việt Nam đã đề ra định hướng chiến lược phát triển ngoại thương qua từng giai đoạn là hợp lý, đúng đắn, phù hợp với thực tiễn của đất nước và quốc tế để từ đó đã góp phần thực hiện đường lối kinh tế đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ và làm cơ sở để đề ra định hướng chiến lược hoạt động cho ngoại thương trong những năm tới. 3. Thế giới ngày nay đang trong lộ trình hội nhập. Việt Nam là một nước thành viên trong cộng đồng quốc tế, không thể không tham gia vào quá trình hội nhập và chỉ khi có hội nhập mới có thể phát triển. Trong quá trình hội nhập, định hướng phát triển ngoại thương Việt Nam trong những năm tới và có thể cả lâu dài vẫn là tăng cường các mối quan hệ toàn diện, sâu rộng với tất cả các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Việt Nam cần phải cố gắng mở rộng quan hệ đối ngoại đa phương với tất cả các nước và tổ chức kinh tế trên thế giới. Trong lĩnh vực ngoại thương, chiến lược phát triển của nước ta là cần phải cải thiện cơ cấu hàng xuất nhập khẩu, tăng xuất khẩu để nhập khẩu. Xuất khẩu phải tập trung vào việc tăng tỷ trọng hàng chế biến, có hàm lượng chất xám cao và đòi hỏi kỹ thuật - công nghệ cao. Đồng thời nhập khẩu tập trung vào những hàng phục vụ cho sản xuất hàng để xuất khẩu. Chúng ta phải phấn đấu để tự sản xuất xuất khẩu, giảm tối đa hình thức "gia công" hàng xuất khẩu cho nước ngoài như hiện nay vẫn đang tồn tại khá phổ biến. 4. Để thực hiện định hướng chiến lược, luận văn cũng mạnh dạn đề xuất một loạt các giải pháp chủ yếu, trong đó có những giải pháp cần quan tâm nhiều hướng, đó là: - Sớm hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý ngoại thương cho phù hợp với các thông lệ kinh doanh quốc tế, tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia một cách tốt nhất vào lộ trình hội nhập, thực hiện AFTA theo đúng lộ trình và các điều kiện để gia nhập WTO. - Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường thương mại quốc tế và phát triển các hoạt động xúc tiến thương mại, có như vậy chúng ta mới có thể phát triển hoạt động ngoại thương. - Hết sức chú trọng đến thông tin kinh tế và vấn đề này là một trong những tiền đề cho ra những quyết định đúng đắn trong hoạt động ngoại thương. - Tăng cường hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ cán bộ ngoại thương cả về chất và về lượng. Vì "cán bộ là vốn quý nhất" quyết định tất cả như Bác Hồ đã dạy. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Mohamed Ariff và Hal Hill (1993), "Công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu - Kinh nghiệm của ASEAN", Nxb KHXH, HN. 2 Vũ Đình Bách - Ngô Đình Giao (đồng chủ biên, 1996), Đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế, bảo đảm sự tăng trưởng. Nxb CTQG, HN. 3 David Begg, Stanley Fishen, Rudiger Dornbush (1992), Kinh tế học, tập 2, Nxb Giáo dục, HN. 4 Walden Bello, Stehanie Rosenfield (1996), Mặt trái của những con rồng, Nxb CTQG, HN. 5 Bộ ngoại giao - Vụ hợp tác kinh tế đa phương (2002), Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá - vấn đề và giải pháp, Nxb CTQG, HN. 6 Nguyễn Duy Bột, Đinh Xuân Trình (1996), Thương mại quốc tế - xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế, Nxb Thống kê, HN. 7 Cải cách kinh tế ở các nước đang phát triển (1994), Viện KTTG, Nxb KHXH, HN. 8 Các Mác, Ph. Ăng ghen, V.I. Lê Nin, I.V. Stalin (1977), Về ngoại thương, Nxb Sự thật, HN. 9 Lê Văn Châu (1995), Vốn nước ngoài và chiến lược phát triển của VN, Nxb CTQG, HN. 10 Phạm Đỗ Chí - Trần Nam Bình - Vũ Quang Việt (đồng chủ biên, 2002), Những vấn đề kinh tế Việt Nam: Thử thách của hội nhập, Nxb TP.HCM. 11 Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 - Báo cáo của BCH TW Đảng khoá VIII tại Đại hội Đảng lần thứ IX. 12 Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 - 2010. Bộ Thương mại. 13 Mai Ngọc Cường - Vũ Văn Hân (đồng chủ biên, 1996), Công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu ở VN, Nxb Thống kê, HN. 14 Tô Xuân Dân - Vũ Chí Lộc (1997), Quan hệ kinh tế quốc tế - Lý thuyết và thực tiễn, Nxb Hà Nội. 15 Lê Đăng Doanh - Đinh Đức Sinh: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế - thành tựu và triển vọng, NCKT, số 9/1995. 16 Dự báo phát triển thương mại VN đến năm 2000, Bộ KH và ĐT, HN 1995. 17 Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch 3 năm (2001 - 2003) và dự kiến kế hoạch 2 năm ( 2004 - 2005), Bộ KH và ĐT, 2003. 18 Thế Đạt (2001), Quản lý kinh tế đối ngoại của Việt Nam, Nxb Hà Nội 19 Đỗ Đức Định (1993), Kinh tế đối ngoại - nghiên cứu so sánh các nước đang phát triển châu Á - Thái Bình Dương và Việt Nam, Nxb KHXH, HN. 20 Ngô Đình Giao (chủ biên, 1994), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân, tập 1, Nxb CTQG, HN. 21 Nguyễn Vũ Hoàng (2003), Các liên kết kinh tế - thương mại quốc tế Nxb Thanh Niên. 22 Nguyễn Thị Hường (Chủ biên, 2001), Giáo trình kinh doanh quốc tế, tập 1, Nxb Thống kê, HN. 23 Đinh Sơn Hùng - Xuất nhập khẩu nhìn từ góc độ ngoại thương phát triển kinh tế , số 35 (9/1993). 24 Kế hoạchh phát triển thương mại VN 5 năm (1996 - 2000), Bộ thương mại, HN 1995. 25 Kinh tế VN 2002 (Viện NCQLKT T.W), Nxb CTQG, HN 2003 26 Kinh tế VN 2003 (Viện NCQLKT T.W), Nxb CTQG, HN 2004 27 Kinh tế - xã hội Việt Nam 3 năm (2001 - 2003), Nxb Thống kê , Hà Nội 2003. 28 Phùng Minh Lai (1991), "Chiến lược công nghiệp hoá của các nước NICs". Thông tin chiến lược phát triển KHKTKT, số 4/1994, HN. 29 Chử Văn Lâm (chủ biên), 1991, Những vấn đề kinh tế cơ bản trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 30 Lý luận và thực tiễn thương mại quốc tế (1994), Trung tâm kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, Nxb Thống kê, HN. 31 Nguyễn Công Liêm, Lê Minh Tâm: Chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại - Tổng luận KHKTKT, số 4/1993. 32 Võ Đại Lược (chủ biên, 1995), Đổi mới KT VN và chính sách KT ĐN, Nxb KHXH, HN. 33 Bùi Xuân Lưu (1994), Giáo trình kinh tế ngoại thương, Nxb Giáo dục, ĐHNT, HN. 34 Bùi Xuân Lưu (2002), Giáo trình kinh tế ngoại thương, Nxb Giáo dục Hà Nội. 35 Nguyễn Mại: Một vài vấn đề về chính sách mở cửa trong quan hệ kinh tế đối ngoại của VN, NCKT, số 3/1991 36 Nguyễn Thị Hồng Nhung (2003), Tự do hoá thương mại ở ASEAN, Nxb KHXH, Hà Nội. 37 Niên giám thống kê 2000 (2001), Tổng cục thống kê, Nxb Thống kê, Hà Nội 38 Niên giám thống kê 2001 (2002), Tổng cục thống kê, Nxb Thống kê, Hà Nội 39 Nguyễn Pháp (1993), Quan hệ kinh tế quốc tế, Nxb Nông nghiệp, HN. 40 Trần Anh Phương: Bàn về định hướng xuất khẩu trong chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tạp chí TM, số 11/1994. 41 Trần Anh Phương: Để phát triển một nền ngoại thương mở cửa. Tạp chí TM, số 1 + 2/1995. 42 Trần Anh Phương (1997) Quan hệ giữa ngoại thương và với tăng trưởng và phát triển nền kinh tế mở, Nxb KHXH, Hà Nội. 43 Trần Anh Phương: Ngoại thương VN trong quá trình đổi mới kinh tế đối ngoại - Những vấn đề KTTG, số 3/1994 44 Trần Anh Phương: Về một số giải pháp chiến lược ngoại thương trong điều kiện kinh tế mở. KT và dự báo, số 11/1994, 45 Trần Anh Phương: Việt Nam - Sự lựa chọn chiến lược ngoại thương, những vấn đề KTTG, số 6/1993. 46 Nguyễn Trần Quế (1992), Kinh tế đối ngoại VN- Thực tiễn và chính sách - Viện KTTG, HN. 47 Phạm Quyền - Lê Minh Tâm (1997), Hướng phát triển thị trường xuất nhập khẩu VN tới năm 2010, Nxb Thống kê, Hà Nội. 48 Sabuto – Okita (1988), Các nền kinh tế đang phát triển và Nhật Bản, Những bài học về tăng trưởng, Tập 1, Viện KTTG, Hà Nội 49 Đinh Đức Sinh: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế sau 10 năm đổi mới (1986 - 1995), NCKT số 6/1996. 50 Số liệu kinh tế - xã hội các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, Tổng cục Thống kê , Nxb Thống kê , HN 2003. 51 Huy Thành: Kinh tế đối ngoại trong công cuộc đổi mới: thành tựu và thách thức, NCKT, số 11/1996. 52 Nguỵ Yến Thân: Sự thách thức và lựa chọn của 4 con rồng nhỏ châu Á trong những năm 1990. NCKT, số 3/1995. 53 Tạp chí Thương mại số 7/2003 54 Thời báo kinh tế Việt Nam, số 140 (01/9/2003) 55 Thương mại Quốc tế và các nước đang phát triển. Những vấn đề KTTG, số 6/1995. 56 Tình hình thương mại tháng 12 và cả năm 2003. Kế hoạch thương mại năm 2004 và một số biện pháp (Bộ Thương mại). 57 Tiềm năng Việt Nam thế kỷ XXI, Nxb Thế giới, 2001 58 Tự do hoá thương mại quốc tế - những xu hướng và chính sách (1993), Viện KT Thế giới, Nxb KHXH, Hà Nội. 59 Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (1976), Nxb CTQG, Hà Nội 60 Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1987), Nxb CTQG, Hà Nội 61 Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1994), Nxb CTQG, Hà Nội 62 Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996), Nxb CTQG, Hà Nội 63 Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2002), Nxb CTQG, Hà Nội 64 Văn kiện Hội nghị Trung ương 7 Ban Chấp hành TW khoá IX, Nxb CTQG, HN 2003. 65 Viện chiến lược phát triển, Bộ KH và ĐT (2002), Một số vấn đề về lý luận, phương pháp luận, phương pháp xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế VN, Nxb CTQG, HN. 66 Việt Nam 2010 - Tiến vào thế kỷ 21 - Báo cáo phát triển Việt Nam 2001. (Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam ngày 14 - 15/12/2000). 67 Việt Nam tầm nhìn đến năm 2020 - Viện Dự báo chiến lược khoa học và công nghệ, Nxb CTQG, HN 1995. 68 Jon Woronoff: Những nền kinh tế thần kỳ ở châu Á, tập 2, Nxb KHXH, HN 1990. MỤC LỤC Lời mở đầu 1 Chương 1: Một số vấn đề chung về thương mại quốc tế 4 1.1. Cơ sở phát triển của thương mại quốc tế 4 1.1.1. Cơ sở hình thành thương mại quốc tế 4 1.1.2. Xu hướng phát triển của thương mại quốc tế 6 1.2 Các chiến lược phát triển ngoại thương 12 1.2.1. Chiến lược thay thế nhập khẩu 12 1.2.2. Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế 15 1.2.3. Chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu 16 1.2.4. Chiến lược phát triển hỗn hợp 17 1.3. Vai trò của thương mại quốc tế đối với quá trình phát triển kinh tế quốc dân 19 1.3.1 Vai trò đối với việc phát triển kinh tế 19 1.3.2. Vai trò đối với việc giải quyết việc làm và các vấn đề chính trị - xã hội của mỗi quốc gia. 22 1.4. Một số kinh nghiệm phát triển ngoại thương trên thế giới 24 1.4.1 Hàn Quốc 24 1.4.2 Đài Loan 26 1.4.3 Malaysia 27 1.4.4 Trung Quốc 29 Chương 2: Ngoại thương Việt Nam trong những năm qua 32 2.1. Ngoại thương Việt Nam thời kỳ 1975 - 1986 32 2.1.1. Chiến lược phát triển ngoại thương thời kỳ 1975 - 1986 32 2.1.2. Thực trạng ngoại thương Việt Nam thời kỳ 1975 - 1986 35 2.1.3. Đánh giá ngoại thương Việt Nam thời kỳ 1975 - 1986 39 2.2. Ngoại thương Việt Nam từ 1986 đến nay 42 2.2.1. Chiến lược phát triển ngoại thương từ 1986 đến nay 42 2.2.2. Thực trạng ngoại thương Việt Nam từ 1986 đến nay 45 2.2.3. Đánh giá ngoại thương Việt Nam từ 1986 đến nay 56 Chương 3: Định hướng chiến lược và các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới 65 3.1. Bối cảnh mới chi phối chiến lược phát triển ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới 65 3.1.1. Thực trạng kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay 65 3.1.2. Bối cảnh quốc tế, xu hướng phát triển kinh tế và thương mại thế giới hiện nay 76 3.1.3. Những thuận lợi và khó khăn ảnh hưởng đến quá trình phát triển ngoại thương Việt Nam trong những năm tới 78 3.2. Quan điểm và định hướng chiến lược phát triển ngoại thương Việt Nam trong giai đoạn tới 84 3.2.1. Những quan điểm cơ bản về định hướng chiến lược phát triển ngoại thương Việt Nam 84 3.2.2. Những mục tiêu chiến lược phát triển ngoại thương Việt Nam 87 3.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm thực hiện chiến lược phát triển ngoại thương Việt Nam trong giai đoạn tới 93 3.3.1. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách, cơ chế quản lý ngoại thương 93 3.3.2. Tiếp tục đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, đa phương hoá thị trường và năng động tìm kiếm khách hàng 96 3.3.3. Chủ động hội nhập quốc tế 98 3.3.4. Lựa chọn ưu tiên các ngành mũi nhọn có tác động hỗ trợ tích cực cho việc hoàn thiện và đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam 99 3.3.5. Huy động các nguồn vốn đầu tư để phát triển ngoại thương theo hướng mở cửa và hội nhập 100 3.3.6. Phát triển cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường kinh doanh 101 3.3.7. Hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế phục vụ cho hoạt động ngoại thương 101 3.3.8 Xúc tiến thương mại 103 3.3.9. Tăng cường và đổi mới công tác giáo dục, đào tạo đội ngũ cán bộ và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu tình hình mới. 104 Kết luận 106 Tài liệu tham khảo 108 CÁC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN ADB Ngân hàng phát triển châu Á AFTA Hiệp định thương mại tự do ASEAN APEC Diễn đàn hợp tác Châu Á - Thái Bình Dương ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á CARICOM Cộng đồng hợp tác kinh tế và thị trường chung Caribê GATT Hiệp định chung về thuế quan và thương mại EU Liên minh châu Âu WB Ngân hàng thế giới WTO Tổ chức thương mại thế giới FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài IMF Quỹ tiền tệ thế giới MERCOSUR Khối thị trường chung Nam mỹ NAFTA Hiệp định tự do thương mại Bắc Mỹ ODA Viện trợ phát triển chính thức OPEC Tổ chức các quốc gia xuất khẩu dầu mỏ ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37192.doc
Tài liệu liên quan