Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Định canh định cư là một yêu cầu cấp thiết trong chiến lược phát triển không những của Việt Nam mà còn của nhiều quốc gia trên thế giới. Nhận thức rõ vai trò của định canh định cư đối với sự ổn định, phát triển kinh tế - xã hội và xoá đói giảm nghèo ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã sớm đề ra và thực hiện chủ trương, chính sách định canh định cư.
Gần nửa thế kỷ qua, kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 38/CP về định canh định cư vào năm 1968, công tác đị
87 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1565 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Định canh định cư với xoá đói giảm nghèo ở Hà Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh canh định cư đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng cao ổn định nơi ăn, chốn ở, ổn định địa bàn canh tác, sản xuất nông nghiệp gắn với bảo vệ rừng, quy hoạch dân cư, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên vì sự ổn định về kinh tế - xã hội và phát triển bền vững của các vùng và quốc gia. Thông qua công tác định canh định cư, đồng bào các dân tộc được tiếp cận và tham gia vào phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, cải thiện và từng bước nâng cao đời sống của mình.
Hà Giang là một tỉnh vùng cao biên giới phía Bắc của Tổ quốc, với 22 dân tộc anh em trong đó chủ yếu là dân tộc thiểu số như: Mông 30% (dân số toàn tỉnh), Tày 25%, Dao 15%, Nùng 9%... không những thế do địa hình phức tạp bị chia cắt, độ dốc lớn, miền núi cao, khí hậu khắc nghiệt. Toàn tỉnh có 195 xã, phường, thị trấn nhưng trong đó có tới 115 xã thuộc diện xã đặc biệt khó khăn theo phân loại của Uỷ ban dân tộc miền núi, tỷ lệ đói nghèo của xã cao nhất là 86,3%. Chính vì thế đến nay một bộ phận không nhỏ dân cư của tỉnh còn sống trong tình trạng định canh định cư chưa bền vững, trình độ phát triển kinh tế thấp, tỷ lệ đói nghèo còn cao. Đặc biệt quá trình triển khai thực hiện chính sách định canh định cư trên địa bàn tỉnh còn bộc lộ nhiều vấn đề bất cập, nhất là trong giải quyết vấn đề đất đai, việc làm, các điều kiện dân sinh liên quan đến đời sống của các gia đình, cộng đồng và điểm định canh định cư, nguồn thu nhập thiếu ổn định, tình trạng du canh du cư vẫn tiếp diễn... Trước thực tiễn đó, Hà Giang quyết tâm thực hiện tốt công tác định canh định cư bền vững, coi đây là việc làm vô cùng cần thiết nhằm phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đưa Hà Giang thoát khỏi tỉnh nghèo. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài: "Định canh định cư với xoá đói giảm nghèo ở Hà Giang" để làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Định canh định cư là một trong những nội dung quan trọng trong chính sách phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi ở Việt Nam từ 1968 đến nay. Cho nên vấn đề này đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau. Cho đến nay đã có các công trình như:
- Uỷ ban Dân tộc - Viện Dân tộc: "Nghiên cứu về định canh, định cư ở Việt Nam", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2006.
- Cục Định canh định cư và vùng kinh tế mới: "Di dân kinh tế mới, định canh định cư - lịch sử và truyền thống", Nxb Nông nghiệp, năm 2001.
- TS. Đỗ Văn Hoà: "Định canh định cư và phát triển kinh tế - xã hội miền núi".
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Tổng quan định canh định cư cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền Nam Việt Nam thời kỳ 1998-2010.
- Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang, Đề án tổng quan định canh định cư tỉnh Hà Giang (giai đoạn 1999-2010), tháng 3/1999.
Các công trình trên đề cập đến công tác định canh định cư dưới các góc độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn nhưng chưa có công trình nào đề cập đến vấn đề Định canh định cư với xoá đói giảm nghèo ở Hà Giang. Vì vậy, đề tài mà tác giả lựa chọn để nghiên cứu không trùng với các công trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận ăn
* Mục đích:
- Luận văn làm rõ cơ sở lý luận và sự cần thiết phải thực hiện công tác định canh định cư gắn với xoá đói giảm nghèo. Đồng thời, phân tích đánh giá thực trạng công tác định canh định cư và xoá đói giảm nghèo ở Hà Giang. Từ đó đưa ra các giải pháp định canh định cư bền vững góp phần xoá đói giảm nghèo ở Hà Giang. Để thực hiện được mục đích trên, luận văn đề ra các nhiệm vụ sau:
* Nhiệm vụ:
- Khái quát một số vấn đề lý luận về định canh định cư và vai trò của công tác định canh định cư với việc xoá đói giảm nghèo ở nước ta.
- Tập trung phân tích thực trạng định canh định cư và xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hà Giang và chỉ ra những nguyên nhân đạt được thành công và nguyên nhân còn tồn tại.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu cho việc thực hiện định canh định cư bền vững gắn với xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Hà Giang trong thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu vấn đề định canh định cư và xoá đói giảm nghèo dưới góc độ kinh tế chính trị, đồng thời tập trung nghiên cứu công tác định canh định cư và xoá đói giảm nghèo của tỉnh từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
*Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận kinh tế chính trị Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách về định canh định cư, phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo của Đảng, Nhà nước và của Đảng bộ tỉnh Hà Giang để nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận khoa học kinh tế chính trị và kết hợp các phương pháp khác để nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, hệ thống...
6. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về định canh định cư và vai trò của nó trong xoá đói giảm nghèo dưới góc độ kinh tế chính trị.
- Phân tích đánh giá thực trạng công tác định canh định cư và xoá đói giảm nghèo ở tỉnh từ năm 2000 đến nay.
- Luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoạch định chính sách định canh định cư nhằm phát triển kinh tế - xã hội và xoá đói giảm nghèo ở Hà Giang.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu vấn đề định canh định cư ở các địa bàn tương tự như Hà Giang.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
Một số vấn đề lý luận chung về định canh định cư
1.1. Nhận thức chung về định canh định cư
1.1.1. Khái niệm du canh, du cư
- Du canh: là hình thức canh tác không ổn định với trình độ sản xuất thấp, mang tính tự nhiên, bóc lột đất.
- Du cư: là hình thức cư trú không ổn định, nhà cửa tạm bợ, nay chỗ này, mai chỗ khác.
- Du canh du cư: là hình thức canh tác và cư trú không ổn định, nguồn sống chủ yếu dựa vào phát nương làm rẫy, sản xuất lương thực theo lối bóc lột đất, tự cung tự cấp.
1.1.2. Tiêu chí xác định du canh, du cư
- Hộ du canh, du cư là hộ có ít hoặc không có đất canh tác ổn định. Nguồn sống chủ yếu của hộ dựa vào thu nhập từ phá rừng để sản xuất nương rẫy du canh (từ 50% trở lên). Chỗ ở không ổn định và thay đổi theo nương rẫy du canh.
- Thôn, bản du canh, du cư là thôn bản có từ 50% số hộ du canh, du cư trở lên (so với tổng số hộ của thôn bản đó).
1.1.3. Định cư, du canh
1.1.3.1. Khái niệm định cư, du canh
* Định cư, du canh:
Là hình thức đã cư trú ổn định, đã có một phần đất đai canh tác ổn định, nhưng sản xuất không đủ ăn, còn phải phá rừng làm nương rẫy. Muốn xáo bỏ hiện trạng này cần phải tạo điều kiện về tư liệu sản xuất cho đồng bào ổn định đời sống về vật chất.
1.1.3.2. Tiêu chí xác định định cư, du canh
- Hộ định cư, du canh là hộ đã có chỗ ở và có một phần đất đai canh tác ổn định. Nguồn sống của hộ dựa vào thu nhập trên đất canh tác ổn định đạt từ 50% đến dưới 80% so với tổng thu nhập.
- Thôn, bản, xã định cư, du canh là thôn, bản, xã có từ 50% số hộ định cư, du canh trở lên (so với tổng số hộ của thôn, bản, xã đó).
- Những thôn, bản, xã có dưới 50% số hộ định cư, du canh là thôn, bản, xã có hộ định cư, du canh.
1.1.4. Định canh, định cư
1.1.4.1. Khái niệm định canh, định cư
Là hình thức canh tác và cư trú đã ổn định, không còn phá rừng làm rẫy, không còn du cư, không còn đói giáp hạt. Trong đó, hộ định canh, định cư có đủ tư liệu sản xuất ổn định và thôn, bản, xã định canh, định cư có đủ cơ sở vật chất thiết yếu đảm bảo sản xuất và đời sống.
* Tư liệu sản xuất ổn định gồm:
- Ruộng nước, ruộng bậc thang, nương thâm canh sản xuất lương thực ổn định lâu dài.
- Đất trồng cây công nghiệp, cây đặc sản, cây ăn quả có thu nhập.
- Bãi cỏ, ao hồ để phát triển chăn nuôi.
- Rừng và rất rừng được giao cho hộ kinh doanh, hoặc giao khoán bảo vệ lâu dài.
- Đất ở và vườn hộ.
* Cơ sở vật chất thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống bao gồm:
- Các công trình thủy lợi nhỏ và vừa phục vụ sản xuất thâm canh.
- Các tuyến đường giao thông nội vùng giữa các thôn, bản, xã phục vụ đi lại sản xuất, lưu thông hàng hoá và cung ứng dịch vụ cho nhân dân trong vùng.
- Các công trình phúc lợi công cộng như trường, lớp học, trạm y tế, tủ thuốc, các công trình nước sinh hoạt... đảm bảo việc học hành, chữa bệnh và nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho đồng bào định canh, định cư và đồng bào dân tộc miền núi.
1.1.4.3. Tiêu chí xác định đối tượng định canh, định cư
- Thôn, bản hoặc xã có từ 50% số hộ bao gồm hộ du canh, du cư và hộ định cư, du canh trở lên là thôn, bản, xã thuộc đối tượng định canh, định cư.
- Thôn, bản, xã có dưới 50% số hộ bao gồm hộ du canh, du cư và hộ định cư, du canh là thôn, bản, xã có hộ thuộc đối tượng định canh, định cư.
1.1.4.4. Đối tượng và các hình thức định canh, định cư
* Đối tượng của công tác định canh, định cư là hộ gia đình và thôn, bản, các xã đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi vùng cao còn sống du canh, du cư hoặc đã định cư nhưng còn du canh và cả những hộ đã định canh, định cư để đảm bảo định canh, định cư bền vững.
* Các hình thức định canh, định cư
- Định canh, định cư tại chỗ là đồng bào sinh sống ở đâu thì vận động họ định canh, định cư ở địa bàn đó.
Với hình thức này:
+ Về định canh: Trên cơ sở quy hoạch lại đất đai tiến hành hỗ trợ đồng bào khai hoang ruộng nước bãi đất mầu, trồng cây công nghiệp, cây đặc sản, cây ăn quả, chăn nuôi...
+ Về định cư: Xây dựng lại bản làng, làm nhà ở, làm đường giao thông, xây dựng trường học, trạm y tế...để đồng bào có điều kiện ổn định cư trú lâu dài.
- Định canh, định cư bằng cách chuyển chỗ là chuyển đồng bào từ nơi đang sinh sống đến nơi khác để định canh, định cư.
Với hình thức này:
+ Về định canh: Cũng trên cơ sở quy hoạch lại đất đai, phân chia đất cho từng hộ gia đình, hỗ trợ đồng bào khai hoang, phục hoá ruộng nước, đất mầu, trồng cây công nghiệp, cây đặc sản, chăn nuôi...
+ Về định cư: Hỗ trợ đồng bào di chuyển, làm nhà ở, xây dựng mới hoặc mở rộng nâng cấp các công trình cơ sở hạ tầng và phúc lợi tập thể ở nơi định canh, định cư.
- Định canh, định cư bằng cách "công nhân hoá" là đưa đồng bào vào làm công tại các doanh nghiệp tại địa phương. Hình thức nào được thực hiện ở một số địa phương thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc từ khi hình thành các công trường, lâm trường, trạm trại... ở miền núi. Nó cũng được thực hiện có kết quả khi thành lập các công trường, nông trường, lâm trường sản xuất lớn ở các tỉnh miền núi phía Nam và Tây Nguyên.
Với hình thức này:
+ Về định canh: là làm việc tại các doanh nghiệp, thu nhập bằng tiền lương hoặc hiện vật do doanh nghiệp chi trả.
+ Về định cư: được doanh nghiệp phân phối đất làm nhà ở, được hưởng các công trình phúc lợi tập thể do doanh nghiệp tạo ra.
1.1.4.4. Tiêu chí xác định cơ bản hoàn thành định canh, định cư
- Hộ cơ bản hoàn thành định canh, định cư là hộ không còn đói giáp hạt, không phá rừng làm rẫy, không du cư và được xác định như sau:
+ Đạt 80% trở lên giá trị thu nhập đảm bảo đời sống của hộ thu được từ sản xuất trên đất canh tác ổn định.
+ Có nước sinh hoạt bình thường.
+ Có nơi ở ổn định, có vườn hộ và có chăn nuôi.
- Thôn, bản, xã cơ bản hoàn thành định canh, định cư là thôn, bản, xã sau khi thực hiện định canh, định cư đạt từ 85% số hộ trở lên cơ bản hoàn thành định canh, định cư (so với tổng số hộ thuộc đối tượng định canh, định cư của thôn, bản, xã đó).
- Những huyện, tỉnh cơ bản hoàn thành định canh, định cư là những huyện, tỉnh sau khi thực hiện định canh, định cư đạt từ 85% số hộ trở lên cơ bản hoàn thành định canh, định cư (so với tổng số hộ thuộc đối tượng định canh, định cư của huyện, tỉnh đó).
- Nhà nước tiếp tục hỗ trợ, đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở và phát triển sản xuất bằng các chương trình kinh tế - xã hội khác để định canh, định cư bền vững.
1.2. Vai trò của công tác định canh, định cư đối với xoá đói giảm nghèo
1.2.1. Sự cần thiết phải chuyển từ du canh, du cư sang định canh, định cư
Du canh của một bộ phận dân tộc thiểu số vùng núi từ lâu được xem là "tụt hậu" và không hiệu quả trong hoạt động và phát triển kinh tế, là tác nhân chủ yếu gây ra nạn phá rừng. Vì thế trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi, Việt Nam đã có nhiều chính sách nhằm xoá bỏ hiện tượng du canh. bởi lẽ, chúng ta biết rằng du canh là hình thức canh tác không ổn định ở một địa điểm, sản xuất trồng trọt ở nơi này một thời gian sau lại chuyển hoạt động canh tác đến nơi khác, đây là lối canh tác ngược với lối canh tác được gọi là thâm canh - tức là canh tác, chăm bón cây trồng trên một địa điểm ổn định. Du canh là hoạt động kinh tế nông nghiệp của một bộ phận dân tộc thiểu số vì lý do điều kiện canh tác đất đai hạn chế, vì phong tục tập quán canh tác của họ trong một điều kiện tài nguyên rừng và đất đai cho phép, vì sức ép kinh tế với năng suất trồng trọt thấp và mâu thuẫn không đáp ứng nhu cầu đời sống của gia đình, cộng đồng ngày một tăng theo thời gian.
Việt Nam là một nước có tới 2/3 tổng diện tích là miền núi. Có 53 dân tộc, hơn 10 triệu người dân tộc thiểu số với nguồn gốc, ngôn ngữ và văn hoá khác nhau, cư trú tập trung ở miền núi. Địa bàn và các nhóm dân tộc thiểu số này từ lâu đã là đối tượng của các chính sách dân tộc nói chung và định canh, định cư nói riêng. Chương trình định canh, định cư được thực hiện với mục tiêu nhằm chấm dứt tình trạng du canh - một phương thức sản xuất được đồng bào các dân tộc thiểu số nước ta duy trì từ xa xưa mang tính lạc hậu với đặc điểm:
+ Canh tác trên nương rẫy là chủ yếu, hoạt động theo chu kỳ: Đốt rừng - tra hạt, thu hoạch - đốt rừng - tra hạt,... Như vậy đó là sự vận động lấy khởi điểm của chu kỳ là đốt rừng.
+ Hiệu quả canh tác thấp, phụ thuộc gần như hoàn toàn vào điều kiện tự nhiên như: mưa, nắng, hạn hán, lũ lụt, giá rét... Vì bị lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên nên sản xuất và đời sống của đồng bào hiện còn du canh, du cư rất khó khăn. Du canh, du cư có xu hướng ngày càng tiến vào vùng sâu, vùng xa, vùng hẻo lánh. Các hộ gia đình du canh, du cư ngày càng xa sinh hoạt cộng đồng, càng xa các trung tâm văn hoá - xã hội của khu vực. Do đó, cuộc sống của đồng bào du canh, du cư đã khó khăn lạc hậu lại càng khó khăn lạc hậu hơn.
+ Kiểu canh tác này không những không bồi bổ độ phì của đất mà ngược lại huỷ hoại nghiêm trọng độ mầu mỡ, đất đai bị bào mòn, rửa trôi trở thành bạc mậu, cằn cỗi. Vì mỗi khu rừng phát đốt đi chỉ gieo trồng cây lương thực được một vài vụ, đất bị nước mưa rửa trôi, bạc mầu trở thành đất trống đồi núi trọc, người canh tác lại phải tìm đến khu rừng khác tiếp tục phát đất, cứ như thế du canh đến đâu tất nhiên phải du cư đến đó. Với những đặc điểm ấy phương thức sản xuất này để lại hậu quả nặng nề, nghiêm trọng cho cả nước cũng như chính đồng bào miền núi. Trước hết, du canh, du cư khiến người dân luôn phải thay đổi chỗ canh tác và chỗ ở đồng thời quy định nếp nghĩ, cách sống tạm bợ theo thói quen ăn sâu vào tiềm thức của đồng bào, từ đó quy định số phận của họ.
Như vậy, du canh, du cư không chỉ gây mất ổn định về nhiều phương diện mà nguy cơ lớn nhất do những người du canh gây ra làm cho rừng bị tàn phá, vì muốn có đất canh tác họ phải khai thác trên diện tích lớn của rừng, đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra các hiện tượng như lũ quét, hạn hán... đặc biệt là ở các tỉnh miền núi, gây thiệt hại lớn về tài sản và tính mạng con người.
Tóm lại, hậu qả của du canh, du cư là không những đời sống của đồng bào ngày càng khó khăn mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến suy thoái đất canh tác, bảo vệ môi trường và sự phát triển bền vững ở miền núi. Di cư tự do của đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc đến Tây Nguyên cũng là hậu quả cua rphương thức canh tác du canh, du cư khi diện tích rừng ở nơi đang sinh sống không còn, người dân phải đi xa để tìm nơi có rừng phát nương, làm rẫy.
Chính vì thế, định canh, định cư cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi nước ta nhằm hỗ rợ đồng bào tạo lập một cuộc sống ổn định hướng tới phát triển bền vững đang là một vấn đề cấp bách hiện nay. Xuất phát từ thực tiễn của tình trạng du canh, du cư để thấy rõ hơn sự cần thiết phải tiếp tục chuyển từ du canh, du cư sang định canh, định cư:
Vào năm 1968, khi Chính phủ thực hiện chính sách định canh, định cư đầu tiên, ước tính có khoảng 3,8 triệu người tiến hành du canh; đến 1990, Việt Nam có khoảng 482.000 hộ gia đình (2,8 triệu nhân khẩu) là mục tiêu của chính sách định cư. Năm 1999, con số này lên tới 608.000 hộ (3,7 triệu nhân khẩu). Và một điều cần chú ý là trước năm 1968, phạm vi du canh, du cư chỉ diễn ra trên địa bàn hẹp, chủ yếu từ bản này sang bản khác trong nội bộ xã hoặc từ xã này sang xã khác trong nội bộ huyện, sau đó du canh, du cư diễn ra trên địa bàn rộng hơn như di chuyển từ tỉnh này sang tỉnh khác. Đặc biệt là với các chương trình xây dựng kinh tế mới nên hiện tượng người Kinh di cư lên miền núi tăng nhanh, đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX, tỷ lệ người Kinh tại nhiều xã miền núi đã lên tới 50% tổng số dân toàn xã. Do làn sóng di cư và tác động của việc phân phối lại đất, rừng cho các lâm trường quốc doanh, các chính sách xoá bỏ cây thuốc phiện... người dân tộc thiểu số đã phải đối mặt với nhiều khó khăn về kinh tế, đặc biệt là sự suy giảm về diện tích canh tác cho việc du canh, hậu quả là, một số hộ gia đình trước đây không du canh, du cư đã bắt buộc phải di chuyển tìm kiếm đất mới để canh tác. Việc này đã dẫn tới sự gia tăng làn sóng di cư tự do của người dân tộc thiểu số, đặc biệt là từ miền núi phía Bắc tới các vùng khác của cả nước.
Chẳng hạn theo Báo Nhân dân (Báo Điện tử) ngày 8/12/2004 thì "giai đoạn 1991-1995 bình quân mỗi năm có hơn 16 vạn người di cư tự do, từ năm 1996 đến năm 2000 giảm xuống còn 9 vạn người/năm, 2 năm 2001 - 2002 còn hơn 4 vạn người".
Từ những năm gần đây, số lượng đồng bào thiểu số ở miền núi phía Bắc di cư tự do vào Tây Nguyên sinh sống đã giảm nhưng đồng bào lại thường di cư tự do vào các vùng rừng đầu nguồn xa xôi, hẻo lánh, khó kiểm soát, để phát rừng làm rẫy. Hơn nữa, du canh, du cư không chỉ do tác nhân kinh tế mà còn do các tác nhân xã hội và tôn giáo nữa. Bằng chứng là 248 hộ người Mông ở thôn Noh Prông thuộc xã Hoà Phong, tỉnh Đắc Lắc đã di cư từ huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang và Chiêm Hoá thuộc tỉnh Tuyên Quang vào sinh sống ở thộ này không chỉ vì thiếu đất canh tác mà còn vì những vấn đề rắc rối trong quan hệ với họ hàng, láng giềng và chính quyền địa phương cũng như di cư tự do vào Tây Nguyên để dễ thay đổi theo đạo Tin lành.
Từ những lý do trên, cần phải thực hiện công tác định canh, định cư đối với đồng bào còn du canh, du cư, xây dựng cơ sở định canh, định cư, ổn định sản xuất và đời sống, đầu tư hỗ trợ cho đồng bào đã định canh nhưng còn du canh xây dựng cơ sở định canh ổn định, vận động đồng bào đã định cư mở rộng và củng cố cơ sở định canh để đáp ứng yêu cầu phát triển của sản xuất, chấm dứt tình trạng khai phá nương rẫy hàng năm hoặc đi phát nương xa theo lối một chốn đôi quê.
1.2.2. Định canh, định cư có ý nghĩa quan trọng đối với xoá đói giảm nghèo
Trong những năm qua nhờ sự đầu tư nhiều mặt của Nhà nước, miền núi đã đạt được những tiến bộ về phát triển kinh tế - xã hội, tuy nhiên đến nay vẫn là khu vực có tỷ lệ đói nghèo cao. Mức sống thấp là hiện tượng phổ biến ở cư dân vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng thuộc diện vận động định canh, định cư. Sự chênh lệch về tỷ lệ đói nghèo giữa các nhóm dân tộc cũng khá lớn, cao nhất là trong các dân tộc sống ở vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn: đồng bào Mông ở Hà Giang; Ơ Du ở Nghệ An; Rác Glây ở Ninh Thuận...
Từ thực trạng đói nghèo tại các vùng định canh, định cư nói chung cho thấy tại các vùng này:
Sản xuất nông lâm nghiệp vẫn chủ yếu là tự cung tự cấp. Hiệu quả sản xuất nông nghiệp thấp, nguyên nhân trước hết là do địa hình chia cắt mạnh, độ dốc lớn, đất đai bị xói mòn, năng suất cây trồng vật nuôi thấp. Hai là, trình độ dân trí thấp, thiếu vốn và công tác chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp cho miền núi cũng gặp nhiều khó khăn, nhất là vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
Tình trạng phá rừng làm nương rẫy vẫn diễn ra và gây ra hậu quả nghiêm trọng. Mặc dù đã có sự quan tâm đầu tư bảo vệ và phát triển vốn rừng, nhưng nhiều khu vực có rừng tự nhiên và rừng phòng hộ tập trung vẫn tiếp tục giảm sút, một trong những nguyên nhân chính do mở rộng đất canh tác nông nghiệp và tình trạng du canh.
Cơ sở hạ tầng ở khu vực miền núi nói chung và vùng định canh, định cư nói riêng còn yếu kém, nhất là vùng sâu, vùng xa. Vì ở miền núi do địa hình phức tạp, khả năng ngân sách lại hạn hẹp cho nên đường giao thông đi lại không thuận lợi, ở nhiều xã phần lớn đường chỉ đi được vào mùa khô. Các cơ sở hạ tầng khác như y tế, giáo dục, nước sạch cũng rất yếu kém. Số lượng trẻ em trong độ tuổi đi học bị thất học ở một số nhóm dân tộc thiểu số cao như Mông, Sinh Mun, Khơ Mú. Tình trạng thiếu nước sinh hoạt trong mùa khô là phổ biến ở vùng cao, nhiều nơi đồng bào phải đi bộ lấy nước sinh hoạt xa đến 5-10 km như vùng cao Đồng Văn (Hà Giang), lục khu Hà Quảng (Cao Bằng). Cơ sở hạ tầng kém đã trở thành yếu tố quan trọng chi phối khả năng phát triển kinh tế hàng hoá và sự nghiệp phát triển văn hoá và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc. Vì vậy, việc thực hiện tốt công tác định canh, định cư có vai trò to lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện tốt chương trình xoá đói giảm nghèo ở miền núi. Bởi lẽ, mục đích của công tác định canh, định cư là tạo điều kiện cho bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi còn du cư phá rừng hoặc đã định cư, nhưng còn du canh, đời sống quá khó khăn lạc hậu, để đồng bào các vùng này từ bỏ được lối sống cũ chuyển sang cuộc sống mới: có nhà ở, có đất đai canh tác, hoặc việc làm ổn định, giảm dần đói nghèo, định canh, định cư bền vững, góp phần bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm trật tự xã hội, an ninh quốc phòng.
Không những thế, thông qua kết quả thực hiện công tác định canh, định cư thời gian qua ở nước ta, có thể thấy rõ định canh, định cư có vai trò không nhỏ trong xoá đói giảm nghèo và phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi. Cụ thể là:
Nhờ có chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước về đầu tư công tác định canh, định cư và sự hưởng ứng của đồng bào các dân tộc miền núi, đến nay các chương trình định canh, định cư đã đóng góp vào mục tiêu xoá đói giảm nghèo rất tích cực ở vùng nông thôn miền núi. Bởi vì, nội dung chính của công tác định canh, định cư là tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc nhất về sản xuất và đời sống như đất trồng trọt, nước sản xuất và sinh hoạt của bộ phận đồng bào dân tộc thuộc diện khó khăn nhất ở miền núi. Tính từ 1990 đến nay, chương trình định canh, định cư đã hỗ trợ khai hoang: 31 nghìn ha; cải tạo đồng ruộng, xây dựng ruộng bậc thang, nương xếp đá: 8 nghìn ha; xây dựng bể nước, giếng nước: 8 nghìn cái... Cũng thông qua cuộc vận động định canh, định cư, đồng bào dân tộc đã học được cách làm ăn mới khắc phục được tập quán quảng canh, chuyển sang thâm canh. Đã có nhiều mô hình thành công về thực hiện công tác định canh, định cư: mô hình định canh, định cư gắn với phát triển kinh tế hộ gia đình ở các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên; mô hình định canh, định cư gắn với cơ sở các nông, lâm trường quốc doanh ở khu vực Tây Nguyên, mô hình định canh, định cư gắn với xây dựng vùng kinh tế mới như mô hình Mò Cổng (Sơn La), Viễn Sơn (Yên Bái), Khe Cạn (Thái Nguyên)... Đến nay ở khu vực miền núi tỷ lệ nghèo đã giảm, chấm dứt tình trạng đói kinh niên, nhiều hộ đồng bào nhờ phát triển kinh tế hộ đã trở nên giầu.
Kết quả của công tác định canh, định cư còn góp phần hình thành những vùng sản xuất tập trung quy mô lớn như cà phê ở Tây Nguyên, vùng cây công nghiệp dài ngày như cao su, hồ tiêu, điều, cây ăn quả ở miền Đông Nam Bộ, vùng chè ở Sơn La, Lai Châu, Thái Nguyên, Hà Giang, Lâm Đồng...; vùng quế ở Yên Bái, Quảng Ninh, Nghệ An, Quảng Nam; vùng cây ăn quả Bắc Giang, Lạng Sơn...; vùng chuyên doanh rừng ở Thanh Hoá, Nghệ An, Sơn La... Các vùng chuyên canh định canh, định cư đã có sản phẩm hàng hoá, thực sự góp phần quan trọng trong các mặt hàng xuất khẩu nông lâm sản của cả nước, đem lại nguồn thu nhập ổn định, cải thiện một bước đời sống nhân dân các dân tộc vùng dự án.
Chương trình định canh, định cư cùng với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội đã góp phần cải thiện cơ sở hạ tầng ở các xã vùng cao thuộc địa bàn miền núi. Kết quả đến nay ở khu vực miền núi có 94% số xã định canh, định cư có đường giao thông đến trung tâm cụm xã, 84% số xã có trường tiểu học, 64% số đồng bào dân tộc thiểu số dùng điện lưới sinh hoạt, 60% số xã có trạm truyền thanh, góp phần giảm tỷ lệ nghèo cả nước từ 20% xuống còn 11% hiện nay. Công tác định canh, định cư cũng góp phần vào việc bảo vệ rừng, đến nay độ che phủ rừng cả nước đã tăng lên 36%. Những kết quả lớn nhất của việc đầu tư cho công tác định canh, định cư đã đạt được trong những năm qua là tạo ra tư liệu sản xuất là đất trồng trọt ổn định, hỗ trợ nước sinh hoạt và xây dựng các công trình thủy lợi nhỏ... đã thực sự góp phần ổn định sản xuất và đời sống, thực sự góp phần xoá đói giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc vùng cao.
Chính vì vai trò của định canh, định cư đối với xoá đói giảm nghèo như đã phân tích trên đây. Công tác định canh, định cư trong những năm gần đây đã có bước chuyển biến mới. Tập trung vào nội dung xoá đói giảm nghèo, trước mắt là xoá đói kinh niên, đói giáp hạt. Từ nguyên nhân sinh ra đói nghèo ở các vùng thuộc đối tượng định canh, định cư tìm ra các giải pháp hữu hiệu để họ bảo vệ được tài nguyên rừng mà còn nâng cao được đời sống của người dân, xoá được đói, giảm được nghèo. Do đó, tại Nghị quyết số 112 ngày 21/11/1997 của Chính phủ ra Quyết định số 05 ngày 14/1/1998 của Thủ tướng Chính phủ đã quy định: Chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo bao gồm cả công tác định canh, định cư; đặt công tác định canh, định cư trong chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo. Và ngược lại, mục tiêu của công tác định canh, định cư cũng bao gồm cả nội dung xoá đói giảm nghèo. Cụ thể mục tiêu bao trùm của công tác định canh, định cư được xác định theo Quyết định 140/1999/QĐ-BNN-định canh, định cư bao gồm:
1. Xoá bỏ du canh, du cư và định cư các nhóm dân tộc.
2. Góp phần xoá đói giảm nghèo.
3. Góp phần giảm hiện tượng phá rừng và bảo vệ môi trường.
Tóm lại, định canh, định cư không chỉ có ý nghĩa đối với công tác xoá đói giảm nghèo mà định canh, định cư còn có mối quan hệ biện chứng với xoá đói giảm nghèo: Thực hiện định canh, định cư bền vững sẽ là điều kiện, tiền đề cho xoá đói giảm nghèo thực hiện được các nội dung của chương trình đề ra đạt được hiệu quả. Mặt khác, xoá đói giảm nghèo cũng là điều kiện để củng cố định canh, định cư ngày càng vững chắc, đồng bào yên tâm tích cực phát triển sản xuất theo hướng thâm canh, áp dụng khoa học kỹ thuật mới rộng rãi, kinh tế được tăng trưởng, đời sống ổn định.
1.3. Một số chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác định canh, định cư
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập (1930), văn bản chính thức đầu tiên của Đảng đề cập đến vấn đề du canh được đề ra tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương năm 1948. Vấn đề du canh đã được đề cập trong phần về "cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân", sự cần thiết phải "khuyến khích việc xoá bỏ du canh và giúp đỡ trong việc cải thiện cung cấp các trang thiết bị, cây giống, phân bón, khai thác đất 2 vụ".
Nhằm hướng tới mục tiêu định canh, định cư, chính sách đầu tiên thể hiện trong Nghị quyết 71/TW ngày 23/3/1963. Trong nghị quyết trên, Bộ Chính trị đã chính thức nêu lên vấn đề định canh, định cư và giải quyết vấn đề này.
Tiếp sau đó, xuất phát từ tập quán canh tác lạc hậu, phá rừng làm rẫy, đất đai ngày càng bạc mầu, diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, tài nguyên cạn kiệt, môi trường sinh thái bị phá vỡ, hạn hán lũ lụt thường xuyên xẩy ra. Trước thực trạng đó, Hội đồng Chính phủ ra Nghị quyết 38/CP ngày 12/03/1968 về công tác vận động định canh, định cư. Nghị quyết 38/CP đã nêu rõ phương hướng nhiệm vụ xây dựng phát triển kinh tế miền núi, đồng thời yêu cầu các cấp, các ngành phải coi trọng công tác định canh, định cư để tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào còn du canh, du cư; Quyết định 72/HĐBT ngày 13/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về một số chủ trương chính sách cụ thể phát triển kinh tế - xã hội miền núi; Quyết định 327/HĐBT ngày 15/9/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về một số chủ trương, chính sách sử dụng đất trống đồi núi trọc, bãi bồi ven biển và mặt nước; Nghị định số 02/CP ngày 15/1/1994 của Chính phủ ban hành văn bản quy định về việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp; Nghị định số 20/1998/NĐ-CP ngày 31/3/1998 của Chính phủ về phát triển thương mại miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc; Chỉ thị 393/TTg ngày 10/6/1996 của Thủ tướng Chính phủ về quy hoạch dân cư, tăng cường cơ sở hạ tầng, sắp xếp sản xuất ở vùng dân tộc và miền núi; Quyết định số 202/TTg ngày 2/5/1994 quy định về việc khoán bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh và trồng rừng; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 35/QĐ-TTg ngày 13/1/1997 phê duyệt chương trình xây dựng cụm xã miền núi, vùng cao; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 133/1998/QĐ-TTg ngày 23/7/1998 về phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo trong giai đoạn 1998 - 2000; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 phê duyệt chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn, miền núi và vùng sâu, vùng xa; Quyết định số 138/2000/QĐ-TTg ngày 29/11/2000 của Thủ tướng Chính phủ đã quyết định hợp nhất dự án định canh, định cư và chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa. Trong quyết định này, phần xây dựng cơ sở hạ tầng của dự án định canh, định cư thuộc các xã Chương trình 135 được đưa vào dự án xây dựng cơ sở hạ tầng của Chương trình 135. Tuy nhiên, do còn có các xã thuộc diện vận động định canh, định cư nằm ngoài địa bàn thực hiện Chương trình 135, vì vậy, tại Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg ngày 27/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt "Chương trình mục tiêu quố._.c gia xoá đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001 - 2005" đã đưa dự án định canh, định cư là một trong những dự án thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo và được phân bổ nguồn vốn thực hiện riêng.
Trong thời gian gần đây, để tiếp tục hỗ trợ đồng bào các dân tộc thực hiện việc định canh, định cư, Chính phủ ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho vùng và hộ gia đình để đất sản xuất, ổn định đời sống xoá đói giảm nghèo:
Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt giúp hộ đồng bào dân tộc thiểu số ổn định đời sống và xoá đói giảm nghèo; Quyết định số 186/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phát triển kinh tế 6 tỉnh đặc biệt khó khăn (Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà Giang, Sơn La, Lai Châu) tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc của 6 tỉnh về đói nghèo, du canh, du cư, ổn định đời sống, tái trồng cây thuốc phiện và chăm sóc sức khoẻ. Trong đó tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ khai hoang, giống cây trồng, vật nuôi, trồng rừng...; Quyết định 120/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tuyến biên giới Việt Trung. Mục tiêu quyết định này nhằm đưa vùng này thoát khỏi đói nghèo và củng cố an ninh quốc phòng ở tuyến biên giới. Trong quyết định này có nhiều chính sách hỗ trợ trực tiếp cho hộ gia đình về khai hoang, về nhà ở và di chuyển dân đến các xã biên giới với mức cao hơn các vùng khác; nhận thức Tây Nguyên có vị trí chiến lược quan trọng và là những tỉnh có tỷ lệ đói nghèo cao, Chính phủ đã có một số chính sách hỗ trợ: Quyết định số 154/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ và đồng bào thuộc diện chính sách ở các tỉnh Tây Nguyên mua nhà trả chậm; Quyết định số 132/2002/QĐ-TTg "chính sách giải quyết đất sản xuất và đất ở cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên".
1.4. Kinh nghiệm quốc tế và một số địa phương trong nước về định canh, định cư
1.4.1. Kinh nghiệm quốc tế
* ở Lào
Lào là quốc gia có tỷ lệ người dân tộc thiểu số cao (khoảng 40% dân số) phần đông trong số này sinh sống ở các khu vực miền núi, vùng cao và chủ yếu sống dựa vào du canh.
Kể từ khi nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào được thành lập (1975) và đặc biệt từ Đại hội Đảng lần thứ tư (1986), việc giảm tình trạng du canh là một trong các chương trình ưu tiên của Lào nhằm ổn định các cộng đồng, nâng cao năng suất, cải thiện môi trường kinh tế - xã hội và giảm thiểu sự suy thoái của tài nguyên thiên nhiên.
Chương trình chính để tiến tới xoá bỏ du canh bao gồm các chính sách nhằm cung cấp các dịch vựnh giáo dục và chăm sóc sức khoẻ cho cư dân vùng cao thông qua việc tái định cư để đưa họ vào các "vùng trọng điểm".
Bên cạnh việc tái định cư, Lào cũng thực hiện chính sách xoá bỏ du canh thông qua việc ban hành một loạt các nghị định và hướng dẫn về quản lý đất nông nghiệp và lâm nghiệp được ban hành nhằm hỗ trợ cho quy hoạch sử dụng đất của quốc gia và chương trình phân phối lại đất đai. Phân phối lại đất đai được xem là một bước tiến và giúp cho việc xoá bỏ du canh. Quá trình cải cách ruộng đất được mong đợi là sẽ định hướng lại hệ thống canh tác thông qua việc ban hành chứng chỉ sử dụng đất dài hạn cho một diện tích đất có giới hạn, trong khi đó các vùng khác sẽ được quy hoạch lại thành vùng lâm nghiệp hoặc rừng đầu nguồn. Bởi vì, thông qua việc giảm diện tích đất dành cho nông nghiệp, nông dân sẽ phải tăng cường thâm canh các loại cây trồng mang tính hàng hoá và các loại cây trồng mang tính thị trường, nhằm phát triển nông thôn, đưa các thôn bản gần với các loại hình dịch vụ.
Tuy nhiên, do chính sách cải cách ruộng đất và tái định cư chỉ tập trung vào việc giới hạn sử dụng đất, mà không đầu tư vào thâm canh sử dụng đất nên đã tạo ra cho người nông dân nhiều khó khăn nhất định, sau một năm cải cách ruộng đất, diện tích đất nông nghiệp bình quân giảm xuống 1/3 từ 3,9 ha xuống 2,7 ha/hộ. Việc giảm diện tích canh tác kèm theo việc nhu cầu lương thực ngày càng tăng đã dẫn đến hiện tượng người nông dân phải rút ngắn thời gian bỏ hoá, kéo dài, thời gian canh tác và tăng cường sử dụng lao động nhằm duy trì an ninh lương thực thay thế diện tích đất đã bị mất đi do chính sách cải cách ruộng đất mới. Kết quả chung của sự thay đổi đó đã làm giảm năng suất của đất, làm xấu đi điều kiện làm việc, tăng suy thoái đất đai và xói mòn đất - trái ngược với mục tiêu của chính sách. Thêm vào đó, chính sách cải cách ruộng đất đã dẫn đến sự di cư tự do không kiểm soát được của những người đã định cư. Rất nhiều người dân đã quay lại nơi cũ khi họ không có đủ đất canh tác, và thiếu lương thực.
* ở Thái Lan:
Chính phủ Thái Lan rất quan tâm đến các cộng đồng người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại phía Bắc, những cộng đồng được coi là các "bộ lạc". Dân số của các bộ lạc này khoảng chừng 600.000 đến 700.000 người. Từ lâu, Chính phủ Thái Lan đã cấm việc du canh trong cộng đồng các dân tộc vùng cao này. Quân đội đã tiến hành chính sách tái định cư bắt buộc từ năm 1967 đến 1973, nhằm di chuyển các "bộ lạc" này về vùng đồng bằng.
Các đạo luật cấm sử dụng đất rừng để canh tác nông nghiệp cũng được ban hành. Chính phủ đã tạo ra 87 công viên quốc gia, 65 công viên rừng, 46 khu bảo tồn thiên nhiên, 44 vùng cấm săn bắn, 15 vườn thực vật học và 53 khu vườn phục vụ nghiên cứu khoa học mà rất nhiều khu trong số đó trước đây thuộc phạm vi sử dụng của các cộng đồng dân tộc thiểu số. Chính vì vậy việc di chuyển bắt buộc các bộ lạc này ra khỏi các khu bảo tồn được Chính phủ ủng hộ. Đồng thời, Chính phủ cũng có nhiều chương trình tài trợ nhằm định cư các bộ lạc thiểu số tại các khu làng định cư, trồng các loại hoa mầu và các sản phẩm có giá trị cao trên thị trường để thay thế cho việc du canh. Tuy nhiên, tại các vùng này họ lại cần một lượng lớn nước và thuốc trừ sâu, dẫn đến người dân ở vùng đồng bào không đủ nước và những nguồn nước từ vùng cao chẩy xuống chứa rất nhiều thuốc trừ sâu, tạo nên một số xung đột nhỏ giữa người dân miền núi và đồng bằng.
* ở Inđônêxia:
Chính phủ Inđônêxia từ lâu cũng đã tiến hành xoá bỏ việc du canh và tiến hành định cư cho đồng bào các dân tộc thiểu số thông qua một chương trình có tên là "Chương trình phát triển các cộng đồng vùng sâu vùng xa".
Các dự án định canh, định cư chính đã được thực hiện bao gồm việc xây dựng "các khu định cư xã hội", nơi các thành viên của các nhóm đối tượng được tập trung lại và trao quyền làm chủ các dự án phát triển, từ việc xây dựng các trường học đến khuyến nông, khuyến lâm. Các khu định cư xã hội do Chính phủ xây dựng bao gồm các ngôi nhà giống hệt nhau, mỗi hộ được cấp 2 ha đất, bếp và các công cụ làm vườn, 3 tháng lương thực, quần áo... Hơn nữa, khu định cư còn có cả nhà thờ để phục vụ các nghi lễ tôn giáo, một nhà hội họ cộng đồng, trường học và sân bóng đá. Những người đến định cư tại đây phải từ bỏ việc du canh nên họ được cấp đất, giống, súc vật nuôi, các công cụ phục vụ sản xuất và đào tạo kỹ thuật.
Tuy nhiên, chương trình vẫn còn những hạn chế đó là, đất đai cấp cho các khu vực này thường có độ mầu mẫu thấp vì quỹ đất ngày một hạn hẹp. Một vấn đề nữa là nạn tham nhũng tại các địa phương đã làm thất thoát một lượng lớn số tiền tài trợ cho các khu vực định cư xã hội này.
Một chính sách quan trọng trong công tác định canh, định cư của Inđônêxia là đã di cư được một số người Java từ vùng thấp lên vùng cao để giải quyết các vấn đề về đất nông nghiệp và giới thiệu những kỹ thuật canh tác mới đến vùng cao. Chương trình này được biết đến như là một trong những chương trình định canh, định cư cấp Chính phủ được đầu tư nhiều nhất về tiền bạc cũng như thời gian. Tuy nhiên, chính những người di cư lại là nguyên nhân chính của nạn phá rừng do phương pháp canh tác không phù hợp và chương trình đi ân này phải dừng lại.
* ở Trung Quốc:
Trung Quốc là một quốc gia với rất nhiều dân tộc thiểu số đang sinh sống. Việc định canh, định cư các cộng đồng người dân tộc thiểu số đã trở thành một chính sách chính thức.
Điển hình do chương trình định canh, định cư do dân bản mà Chính phủ cho vùng họ đang sống tại những môi trường khó có thể cư trú và khó tiếp cận được với các dịch vụ (vùng sâu, vùng xa như khu vực núi cao hiểm trở tại vùng Tây Nam). Rất nhiều trường hợp người dân được di chuyển một khoảng cách khá xa đến một vùng thời tiết, khí hậu, sinh thái, hệ thống sản xuất và những yếu tố về văn hoá xã hội hoàn toàn khác lạ. Do tính chất của việc định canh, định cư của Trung Quốc như vậy, làm cho người dân cảm thấy rất khó khăn trong việc thích ứng với môi trường mới, đó cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng đói nghèo, nên nhiều địa phương đã yêu cầu Chính phủ trả những người này trở về địa điểm cũ, nơi họ đã ra đi.
Gần đây Trung Quốc đang cố gắng tạo ra những khu tự trị vùng và địa phương cho các cộng đồng người dân tộc thiểu số, cho phép họ tự quyết định việc sử dụng đất.
* Nhận xét và những bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam: Như trên đã nêu, có rất nhiều loại hình chương trình tái định canh, định cư; một số chương trình cũng tương tự như các chương trình đã thực hiện tại Việt Nam và một số chương trình khác biệt. Điểm quan trọng cần lưu ý đó là các chương trình định canh, định cư đều có thể có những ảnh hưởng rất sâu sắc đến sinh kế, thu nhập và những khả năng xã hội. Việt Nam có thể học hỏi rất nhiều từ các chương trình của các nước trong công tác định canh, định cư và rút ra những bài học kinh nghiệm cho nước ta đó là:
- Chương trình định canh, định cư muốn thực hiện được phải có sự tham gia của cộng đồng, nơi nào không có sự đồng thuận giữa người dân với Chính phủ sẽ dẫn đến những cuộc phản đổi (Thái Lan, Lào).
- Tại những nơi mà các chương trình đã cố gắng bắt buộc các cộng đồng này phải từ bỏ việc du canh và không có những đầu tư thay thế đầy đủ thì vấn đề an ninh lương thực sẽ bị đe doạ nghiêm trọng (Lào). Chính vì vậy, việc quy hoạch sử dụng đất mà làm giảm diện tích canh tác du canh mà không cung cấp những lựa chọn thay thế phù hợp thì hầu hết là không thành công. Các chương trình nâng cao sản xuất nông nghiệp phải đi cùng với công tác đầu tư cho các lựa chọn thay thế như đầu vào cho sản xuất, xây dựng các kênh mương, thủy lợi...
- Không thể xoá bỏ được việc canh tác du canh tại một số vùng bởi vì họ có những lựa chọn thay thế nào phù hợp với môi trường; chính vì vậy, cần phải chú trọng đến việc nâng cao năng suất hơn là xoá bỏ nó. Chẳng hạn, tại một số vùng núi nước ta sẽ không thể canh tác lúa nước thành công, nên chúng ta cần phải có những mô hình nông lâm kết hợp với việc chăn nuôi như là một lựa chọn thay thế và cho phép một số vùng tiếp tục canh tác quay vòng.
- Các chương trình phải được đầu tư hợp lý, hoạt động đa dạng và an ninh lương thực phải là mục tiêu hàng đầu.
- Người dân phải được tham gia vào quá trình lập kế hoạch từ đầu đến cuối; các kế hoạch cần phải được phát triển tại cấp thấp nhất (thôn, bản) nhưng cần phải được gắn liền với quy hoạch vùng, đặc biệt là việc quy hoạch sử dụng đất vùng.
- Những khoản đầu tư quy mô nhỏ (cấp thôn, bản) vào việc đa dạng hoá nông nghiệp và một số công trình hạ tầng quy mô nhỏ như chợ, đường sá, trường học và đào tạo khuyến nông tỏ ra là một chiến lược hiệu quả nhất. Đầu tư tại cấp phù hợp và trong nhiều lĩnh vực là chìa khoá của sự thành công.
1.4.2. Kinh nghiệm một số địa phương về định canh, định cư
Định canh, định cư là một vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi ở Việt Nam. Thực tế triển khai công tác định canh, định cư ở nhiều địa phương có những cách làm sáng tạo có hiệu quả. Bài học kinh nghiệm của các địa phương rất cần thiết khi nghiên cứu vận dụng vào điều kiện cụ thể của địa phương mình.
* Cao Bằng: Là một tỉnh miền núi, vùng cao biên giới, nền kinh tế còn hết sức khó khăn, sản xuất chủ yếu vẫn là nông nghiệp và mang tính tự cung tự cấp, khó khăn nhất vẫn là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng kháng chiến cũ. Kinh nghiệm thành công nổi bật của Cao Bằng trong thực hiện công tác định canh, định cư đó là Cao Bằng luôn thấy rõ mối quan hệ giữa định canh, định cư với xoá đói giảm nghèo: Thực hiện định canh, định cư mục đích chủ yếu là khai thác tốt những tiềm năng có ưu thế của vùng, trên cơ sở đó mà phát triển tổng hợp các ngành để tăng thu nhập nâng cao đời sống cho đồng bào, xoá được đói, giảm được nghèo.
Vì vậy, công tác định canh, định cư (các dự án) của Cao Bằng đều được đưa vào nội dung của chương trình xoá đói giảm nghèo của tỉnh trong từng giai đoạn. Nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo tuy là một dự án riêng, nhưng luôn được lồng ghép với các dự án định canh, định cư.
* Lâm Đồng: Là một tỉnh miền núi phía Nam Tây Nguyên có 23.000 hộ, 140.000 người dân tộc bản địa sinh sống chiếm 20% dân số toàn tỉnh. Từ kết quả của cuộc vận động định canh, định cư của Lâm Đồng trong nhiều năm qua có thể thấy một số bài học kinh nghiệm thành công nổi bật đó là:
- Lâm Đồng luôn đặt công tác định canh, định cư là một công tác trọng tâm trong tổng thể chương trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đồng thời đòi hỏi sự tham gia của nhiều ngành, vì nếu chỉ riêng ngành nông nghiệp thì không thể thành công được. Những năm qua, tỉnh Lâm Đồng đã rất chú trọng vấn đề này nên trong thời gian tương đối ngắn đã định canh, định cư tương đối tốt cho đồng bào bản địa ở địa bàn rất khó khăn.
- Giải quyết dứt điểm từng địa bàn tùy khả năng đầu tư theo phương pháp cuốn chiếu với phương châm "làm từ khó đến dễ", nơi khó làm trước, nơi dễ làm sau. Sở dĩ tỉnh Lâm Đồng quyết định làm từ khó đến dễ là vì có làm những điểm khó thì mới có nhiều kinh nghiệm và chứng minh được rằng nơi khó làm được thì nơi dễ càng thuận lợi hơn. Do đầu tư dứt điểm từng địa bàn nên tỉnh Lâm Đồng đã tập trung được nguồn vốn, trung bình mỗi hộ được đầu tư bình quân 20 triệu đồng. Muốn đầu tư dứt điểm từng địa bàn theo phương pháp cuốn chiếu không dễ thì hiện nay nhiều địa phương thường đầu tư dàn trải, bình quân, muốn làm vừa lòng tất cả các nơi.
- Tỉnh đã xây dựng phương hướng sản xuất cho vùng định canh, định cư một cách phù hợp, trong đó Lâm Đồng đặc biệt hết sức coi trọng việc xây dựng vườn cây lâu năm cho mọi gia đình. Vườn cây lâu năm có ý nghĩa quan trọng đối với việc định canh, vì nó như một tài sản cố định đặc biệt thường xuyên sinh lợi để đảm bảo đời sống cho đồng bào, vì vậy đồng bào quyết tâm định canh, định cư. Thực tế cho thấy nơi nào làm tốt vườn cây lâu năm thì định canh, định cư rất vững chắc và đời sống của đồng bào dân tộc được cải thiện rõ rệt.
* Bắc Giang: là một tỉnh miền núi, hiện nay toàn tỉnh có 75 xã thuộc diện vận động định canh, định cư, bao gồm 291 thôn bản 11.624 hộ, 66.997 khẩu tập trung chủ yếu ở Sơn Động, Lục Ngạn và các xã vùng cao thuộc Lục Nam và Yên Thế. Những năm gần đây công tác định canh, định cư ở Bắc Giang đã được quan tâm đầu tư phù hợp, nên đã thu được nhiều thành công, đặc biệt là đã ổn định và định canh, định cư được hơn 4.000 hộ đồng bào dân tộc thiểu ở miền núi và vùng cao của tỉnh, đến nay tình trạng di cư tự do, vô tổ chức vào các tỉnh Tây Nguyên hầu như chấm dứt, thậm chí một số hộ đồng bào dân tộc đã di cư tự do vào Nam lại quay về yên tâm sản xuất. Điểm nổi bật của Bắc Giang là đã xây dựng được các mô hình kinh tế trang trại trồng cây nông nghiệp, cây công nghiệp, cây ăn quả, vườn đồi, chăn nuôi, bước đầu cho thu nhập có hiệu quả (xã Lệ Viễn, Sơn Động là một điển hình).
Bên cạnh đó, Bắc Giang còn xây dựng các mô hình trình diễn về các loại cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc... tăng cường công tác khuyến nông, lâm, thú y phòng trừ dịch bệnh, tạo niềm tin cho dân. Hướng dẫn tham gia, tập huấn, thực hành từng bước chuyển giao kỹ thuật công nghệ mới. Trong đó chương trình tập huấn đơn giản, dễ hiểu, không nặng về lý thuyết mà chủ yếu là thực hành, đây cũng là một kinh nghiệm thành công của Bắc Giang.
Chương 2
thực trạng công tác định canh định cư
và xoá đói giảm nghèo ở Hà Giang
2.1. thực trạng công tác định canh định cư
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của vùng định canh định cư tỉnh Hà Giang
Hà Giang là tỉnh vùng cao biên giới phía Bắc của Tổ quốc, phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía đông giáo tỉnh Cao Bằng, phía Tây giáp tỉnh Yên Bái và Lào Cai. Tổng diện tích tự nhiên là 7.923,2 km2. Toàn tỉnh gồm 10 huyện và 1 thị xã với 195 xã phường thị trấn Hà Giang có đường biên giới Việt Trung dài 274km qua 7/11 huyện thị của tỉnh, có dân số trên 69 vạn người, với 22 dân tộc, trong đó dân tộc Mông chiếm 30%, Tày 25%, Dao 15%, Kinh 11%, Nùng 9%.
* Phạm vi vùng định canh, định cư
Vùng định canh, định cư tỉnh Hà Giang nằm trên phạm vi 1.339 thôn bản (chiếm 80,5% số thôn bản toàn tỉnh( thuộc 174 xã (chiếm 89,3% số xã toàn tỉnh), trong đó có 5 xã thuộc khu vực I, 46 xã, thị trấn thuộc khu vực II và 123 xã thuộc khu vực III.
* Quy mô của vùng định canh, định cư
- Về dân số:
Tổng dân số trong vùng định canh, định cư khoảng 65,5 vạn người (bằng 95% dân số toàn tỉnh) và 94.559 hộ (94% số hộ toàn tỉnh), trong đó diện cần vận động định canh, định cư của toàn tỉnh là 60.103 hộ (chiếm 60% số hộ toàn tỉnh), 437.460 khẩu (chiếm 63,4% dân số toàn tỉnh), trong đó:
+ Diện du canh du cư: không còn
+ Diện du cư du canh: 23.053 hộ
+ Diện định canh, định cư chưa ổn định: 37.050 hộ
- Về quy mô diện tích:
Tổng diện tích tự nhiên: 771.052 ha
Trong đó: Đất nông nghiệp là 134.880 ha; đất lâm nghiệp 373.990 ha, đất chuyên dùng 5.046 ha, đất ở 5.616 ha, đất chưa sử dụng 251.520 ha.
* Đặc điểm tự nhiên của vùng định canh, định cư
Do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, tỉnh Hà Giang được chia làm 3 tiểu vùng:
- Tiểu vùng cao núi đá: gồm các xã trong vùng định canh, định cư của 4 huyện: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ. Độ cao tuyệt đối trung bình 1000 - 1600m, địa hình bị chia cắt phức tạp nhất so với các vùng khác trong tỉnh, khí hậu mang nhiều sắc thái ôn đới.
- Tiểu vùng cao núi đất: Gồm các xã trong vùng định canh, định cư của 2 huyện Xín Mầm, Hoàng Su Phì. Độ cao tuyệt đối trung bình 600 - 1200m, khí hậu phù hợp với cây trồng ôn đới, cận nhiệt đới.
- Tiểu vùng núi thấp: Gồm các xã trong vùng định canh, định cư của các huyện Vị Xuyên, Bắc Quang và thị xã 2. Độ cao tuyệt đối trung bình 250 - 6000m, địa hình ít phức tạp hơn so với các tiểu vùng trên, khí hậu mang sắc thái nhiệt đới.
- Về thổ nhưỡng: Có 18 loại đất chính được phân phối theo 5 nhóm đất chính: Nhóm đất phù sa, nhóm đất gley, nhóm đất đen, nhóm đất xấu, nhóm đất nâu đỏ.
- Nguồn nước: Vùng định canh, định cư tỉnh Hà Giang thuộc lưu vực của các sông lớn: Sông Lô, sông Chảy, sông Gâm, sông Nhiệm, sông Sảo và rất nhiều các sông suối nhỏ khác.
* Điều kiện về kinh tế - xã hội vùng định canh, định cư
- Về kinh tế: Trong những năm qua, kinh tế Hà Giang nói chung và toàn vùng định canh, định cư nói riêng đã có những bước chuyển biến cơ bản, các ngành, các lĩnh vực kinh tế đều được chú trọng đầu tư phát triển. Các nguồn lực được huy động và sử dụng có hiệu quả hơn. Chính vì thế kinh tế Hà Giang đã đạt được những thành tựu nổi bật sau:
+ Trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp đã mở rộng quy mô và phát triển theo nhiều ngành nghề sản xuất mới, có nhiều cơ sở khai khoáng, tuyển quặng, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông lâm sản. Các nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống như rèn, đúc, dệt thổ cẩm được khơi dậy và phát triển mạnh, các nghề mới về thủ công mỹ nghệ, sản xuất hàng mây tre đan xuất khẩu được khuyến khích phát triển, góp phần giải quyết việc làm và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
+ Nông nghiệp được chú trọng phát triển toàn diện, cơ cấu cây trồng vật nuôi được chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá, nhận thức của nông dân đã có sự thay đổi đáng kể tập quán canh tác cũ, từ nền sản xuất độc canh, tự cấp, tự túc là chính, đến nay họ đã tích cực đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tăng diện tích thâm canh, góp phần tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, hình thành các vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá.
+ Hoạt động thương mại và dịch vụ phát triển nhanh chóng, cơ chế hoạt động thông thoáng đã khuyến khích được các thành phần kinh tế tham gia, đáp ứng một cách đầy đủ và thuận lợi cho nhu cầu sản xuất và đời sống xã hội trên địa bàn tỉnh
Từ những kết quả trên, tốc độ tăng tỷ trọng GDP bình quân của tỉnh luôn đạt tốc độ cao, giai đoạn 2001 - 2005 là 10,5%; thu nhập bình quân đầu người đạt 3,2 triệu đồng, tăng 1,9 lần so với năm 2000.
- Văn hoá, xã hội
Văn hoá - xã hội phát triển ổn định và lành mạnh, đã tạo ra bước phát triển mới về nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, từng bước đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần, văn hoá của nhân dân. Tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đến trường, số học sinh ở các cấp học, bậc học ngày một tăng; tỉnh đã được công nhận là tỉnh đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ, phổ cập tiểu học năm 1999; đến cuối năm 2005 tỉnh đã có 7 huyện, thị với 175 xã phường, thị trấn được công nhận phổ cập trung học cơ sở; ở các thôn bản đều có lớp học, 100% xã, phường, thị trấn có trường tiểu học, các huyện đều có trường cấp III.
Công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân và phòng dịch bệnh được đảm bảo thường xuyên và không ngừng nâng cao về chất lượng. Đội ngũ cán bộ y tế được củng cố, hiện toàn; công tác dân số kế hoạch hoá gia đình hoạt động tích cực góp phần hạ tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 1,66%năm 2005.
Phong trào đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, loại trừ các thủ tục lạc hậu và xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá được triển khai rộng khắp và thu hút được đông đảo nhân dân hưởng ứng.
Hoạt động của chính quyền các cấp đã phát huy tốt vai trò cơ quan quản lý điều hành, thực hiện chức năng nhiệm vụ đúng luật. Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân không ngừng đổi mới tổ chức bộ máy và cán bộ về nội dung và phương thức hoạt động vận động đoàn viên hội viên và nhân dân tích cực định canh, định cư ổn định, xoá đói giảm nghèo nhanh chóng.
2.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả thực hiện định canh định cư ở Hà Giang
Cot định canh, định cư là công tác rất quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, làm tốt công tác này là góp phần vào thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và góp phần phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo ở miền núi, không ngừng củng cố an ninh quốc phòng bảo vệ môi trường sinh thái, giải quyết vấn đề du canh du cư một cách triệt để nhằm ngăn chặn tình trạng phá rừng làm rẫy, huỷ hoại môi trường sinh thái. Tuy nhiên thực tế triển khai công tác này tại Hà Giang cho thấy có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến kết quả thực hiện công tác định canh, định cư cũng như mục tiêu của công tác này đề ra trên đây.
- Các yếu tố tự nhiên:
Do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, tỉnh định canh, định cư được chia thành 3 tiểu vùng với những đặc điểm khác nhau rõ rệt đặc biệt là tiểu vùng cao núi đá và tiểu vùng cao núi đất. Vùng này có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, diện tích chủ yếu là núi đá, giao thông đi lại khó khăn, thường bị ách tắc về mùa mưa, địa hình bị chia cắt, độ dốc lớn, nên rất thiếu nước sinh hoạt và sản xuất, thậm chí ở hầu hết các huyện vùng cao mỗi năm có 6 tháng hanh khô không đủ nước sinh hoạt, càng không đủ nước phục vụ sản xuất đến nỗi có tình trạng mỗi hộ gia đình ở vùng cao thường có 1 lao động chuyên làm nhiệm vụ "cõng" nước về cho gia đình, và phải đi xa tới hơn chục km. Do điều kiện canh tác, sản xuất khó khăn như vậy đã ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả thực hiện công tác định canh, định cư, nhất là mục tiêu xoá đói giảm nghèo của các chương trình dự án định canh, định cư.
Không những thế, với địa hình đặc biệt của nhiều huyện vùng cao Hà Giang, nói một cách hình ảnh là "sống trên đá, chết vùi trong đá" nên tình trạng thiếu đất sản xuất - một điều kiện cơ bản để định canh, định cư cũng là điều dễ hiéu với 16.467 hộ (chiếm 23,5%). Thực tế do các huyện vùng cao của Hà Giang chủ yếu là núi đá, độ dốc lớn, bị xói mòn, có những nơi đến mùa sản xuất bà con phải gùi đất lên bỏ vào hốc đá để giao hạt nhưng chỉ được một vụ, mùa mưa đất lại bị trôi mất, và mùa sau lại lặp lại quy trình gùi đất, cứ như thế năm này qua năm khác. Mặc dù là tỉnh miền núi, mật độ dân số trung bình thấp nhưng ở các huyện vùng cao của tỉnh diện tích canh tác bình quân đầu người chỉ từ 0,3 - 0,5 ha/1 lao động và hệ số sử dụng đất chỉ đạt từ 1 - 1,3 lần, lại độc canh là phổ biến, nên năng suất câu trồng thấp. Những năm trước đây vấn đề di cư tự do trên địa bàn tỉnh, và từ tỉnh nhà sang các tỉnh khác cũng chính là do vấn đề đất đai canh tác.
* Các yếu tố kinh tế
- Là một tỉnh nghèo, còn gặp khó khăn nhiều mặt trong đời sống, xã hội, xuất phát điểm của nền kinh tế - xã hội còn rất thấp so với khu vực và cả nước, mặt khác, với nền kinh tế quy mô nhỏ và phát triển chậm, thu ngân sách hàng năm của tỉnh chỉ đảm bảo được 12% tổng chi, phần còn lại phải do ngân sách trung ương hỗ trợ nên việc đầu tư, thực hiện các chương trình, dự án định canh, định cư gặp rất nhiều khó khăn.
- Kết cấu hạ tầng còn thiếu và yếu kém, đã ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống nhân dân vùng định canh, định cư vốn đã rất khó khăn. Trên thực tế một số vùng không có nước, không thể xây dựng hệ thống thuỷ lợi, tưới chủ động được, nước sản xuất hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên, do đó sản xuất bấp bênh và kém hiệu quả. Chính điều này đã cản trở sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, gây khó khăn cho đời sống người dân. Mặt khác đường giao thông Hà Giang, đặc biệt là vùng cao còn rất khó khăn, nhiều nơi còn bị ách tắc, nhất là mùa mưa, điều đó hạn chế sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của các vùng, cá biệt có trường hợp không thể xây dựng đường xá đến khu dân cư vì kinh phí quá lớn do địa hình quá hiểm trở. Cùng với hệ thống giao thông, thuỷ lợi yếu kém, nước sinh hoạt v.v... không đảm bảo đã ảnh hưởng không ít đến sức khoẻ, trình độ dân trí, lao động sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng định canh, định cư.
- Hệ thống cơ chế chính sách (kinh tế, xã hội) là nhân tố quan trọng tác động đến quá trình thực hiện công tác định canh, định cư. Việc xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường là cần thiết, nhưng bên cạnh những ưu thế tích cực còn có những hạn chế nhất định như sự phân hoá giầu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng khác nhau nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Mức đầu tư cho xây dựng công trình công cộng phúc lợi xã hội thấp, cơ cấu đầu tư giữa vùng định canh, định cư với khu vực khác giảm. Cơ chế chính sách chậm đổi mới và không đồng bộ, chưa có chính sách hỗ trợ thoả đáng cũng là nhânt quan trọng hạn chế việc đảm bảo các mục tiêu của công tác định canh, định cư nói chung.
* Các yếu tố xã hội
- Trình độ văn hoá, dân trí: Trong giai đoạn hiện nay, một số ít đồng bào dân tộc thiểu số ở Hà Giang có kiến thức đã chủ động trong sản xuất, số đồng bào này nhờ có kiến thức và kinh nghiệm làm ăn, họ đã huy động và sử dụng có hiệu quả các yếu tố của quá trình sản xuất, nhờ đó đã vươn lên tự làm giầu bằng chính sức lực và trí tuệ của mình. Ngược lại, còn nhiều hộ trong vùng định canh, định cư trình độ dân trí thấp, không có kinh nghiệm sản xuất, nặng về độc canh, thiếu kiến thức và kinh nghiệm sản xuất. Đó cũng là nhân tố khiến cho những hộ nghèo đói thuộc diện vận động định canh, định cư không huy động được các nguồn lực cho sản xuất, hoặc khi đã có tương đối đầy đủ các nguồn lực thì họ sử dụng nó có hiệu quả thấp hoặc không có hiệu quả, chẳng hạn nhiều hộ không có vốn nhưng không chịu vay vốn, không biết vay để làm gì, hoặc khi có đất cũng không biết sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào?
- Phong tục tập quán lạc hậu, đặc biệt là tập quán canh tác lạc hậu cũng là một yếu tố ảnh hưởng tới kết quả định canh, định cư ổn định. Do tập quán lạc hậu và tập tục nặng nề của một số vùng dân tộc như ma chay, đình đám, thả trâu bò rông, không tha thiết với việc học hành, tình trạng chặt phá rừng bừa bãi... Thực tế các hộ nghèo là đồng bào dân tộc thuộc diện vận động định canh, định cư ở Hà Giang vẫn còn sản xuất theo tập quán đã ăn sâu vào tiềm thức, hết sức thủ công lạc hậu, nên năng suất lao động lại thấp mà hao phí thời gian lao động lại cao. Mặt khác, tâm lý trông chờ ỷ lại vào Nhà nước không chịu suy nghĩ là tâm lý phổ biến, nhất là nhân dân các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
- Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm còn cao; cơ cấu lao động và chất lượng lao động chuyển dịch chậm, năng suất lao động thấp, việc làm chưa bền vững ở Hà Giang trong những năm qua đã dẫn đến nẩy sinh những cả trở rất lớn đến công tác định canh, định cư như các vấn đề tệ nạn cờ bạc, ma tuý, mê tín và di cư tự do do do bị lôi kéo, kích động.
Ngoài những nhân tố trên còn có các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả công tác định canh, định cư như các yếu tố từ phía tổ chức bộ máy hoạt động; cụ thể là năng lực tổ chức quản lý của ban lãnh đạo, trình độ khả năng của đội ngũ nhân sự làm công tác định canh, định cư.
2.2.3. Kết quả thực hiện công tác định canh định cư ở Hà Giang từ 2000 đến nay
Trong thời gian vừa qua, được sự hỗ trợ đầu tư của Nhà nước, công tác định canh, định cư tỉnh Hà Giang đã góp phần ổn định đời sống cho nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số, tăng diện tích canh tác bằng khai hoang phục hoá, làm ruộng bậc thang, nương xếp đá, nhiều hộ có vườn cây ăn quả, cây công nghiệp và đặc sản, có thêm sức kéo, nhiều khu vực rừng tự nhiên được khoanh nuôi bảo vệ, vùng đất trồng đồi trọc được phủ xanh. Chương trình định canh, định cư cũng đã hỗ trợ xây dựng một số cơ sở hạ tầng như giao thông nông thôn, thủy lợi, thủy điện... các công trình phúc lợi như trạm xá, trường học, trụ sở UBND xã...; hỗ trợ làm nhà cho những hộ gia đình quá nghèo; kết quả tiêu biểu cụ thể như sau:
- Kết quả vận động đồng bào định canh, định cư:
Với mục tiêu ổn định đời sống và sản xuất kết hợp sắp xếp lại dân cư trong vùng nhằm chấm dứt tình trạng du cư, không còn hộ đói, giảm hộ nghèo. Đối với tỉnh Hà Giang giai đoạn 2001 - 2005 đã tổ chức định canh, định cư cho 23.053 hộ, còn định cư, du canh và 37.050 hộ đã định canh, định cư nhưng chưa ổn định. Đến hết 2005 đã chấm dứt tình trạng du canh, ổn định đời sống và sản xuất.
- Một số kết quả cụ thể về khối lượng thực hiện kế hoạch định canh, định cư:
+ Phát triển sản xuất:
. ._. như: cam, quýt, xoài, lê... Xây dựng vành đai thực phẩm và một số vùng sản xuất rau, hoa chất lượng cao, phát huy lợi thế từng vùng để phát triển chăn nuôi, tăng nhanh đàn trâu, bò và đàn ong mật; đầu tư các điều kiện để hình thành nghề nuôi trồng thuỷ sản, nhất là lòng hồ của các nhà máy thuỷ điện. Tập trung việc trồng rừng kinh tế ở vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất giấy, có chính sách hỗ trợ đối với công tác trồng rừng đầu nguồn, rừng dọc biên giới.
- Một khía cạnh cần quan tâm khi phát triển kinh tế ở vùng định canh, định cư đó là:
Số hộ thuộc diện định canh, định cư của Hà Giang hiện nay chủ yếu là khu vực nông thôn miền núi, do vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá và tăng việc làm phi nông nghiệp là hướng đi có tính quyết định đến phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nông thôn. Thực tiễn đã chứng minh tại các vùng định canh, định cư nếu chỉ sản xuất thuần nông, tự cung, tự cấp thì rất khó để thoát nghèo và vươn lên giầu có. Do vậy để giải quyết tốt vấn đề này cần gắn sản xuất nông nghiệp với chế biến và tiêu thụ hàng hoá nông sản chế biến; liên kết chặt chẽ giữa: nhà khoa học, nhà nông, nhà doanh nghiệp, nhà nước và ngân hàng trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản.
Hai là, xây dựng môi trường văn hoá - xã hội tốt cho vùng định canh, định cư cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực theo hướng: phát triển mạng lưới trường lớp một cách đồng bộ, thực hiện tách trường một cách đồng bộ, thực hiện tách trường để hoàn thiện cấp học theo luật giáo dục.
Đa dạng hoá các hình thức dạy và học, tiếp tục mở mới và nâng cấp các trường phổ thông dân tộc nội trú cho con em đồng bào dân tộc thiểu số vùng định canh, định cư, khuyến khích mở rộng loại hình bán trú dân nuôi; củng cố kết quả xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, đẩy mạnh tốc độ hoàn thành phổ cập trung học cơ sở. Nâng cao chất lượng giáo dục của tất cả các cấp học, ngành học; mở rộng việc sử dụng các phương tiện thông tin văn hoá nhằm phổ biến kiến thức mới, nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào, và tổ chức dạy nghề thiết thực như trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông lâm sản... cho con em đồng bào vùng định canh, định cư.
Tỉnh đã xoá được "xã trắng" về trường học, các thôn bản đã có lớp học. Song cơ sở trường lớp của các xã vùng sâu, vùng xa vẫn còn tạm bợ, tình trạng bỏ học, tái mù chữ vẫn còn. Do đó, cần tập trung đầu tư củng cố nâng cấp trường lớp và các trang thiết bị phục vụ dạy và học. Tiếp tục duy trì cấp sách giáo khoa, vở viết, miễn giảm học phí và các khoản đóng góp xây dựng trường đối với con em nhà nghèo, tạo điều kiện cho 100% trẻ em vùng định canh, định cư được đến trường.
- Tăng cường các biện pháp hỗ trợ về y tế, tạo cơ hội cho đồng bào tiếp cận thuận lợi các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ, dân số và kế hoạch hoá gia đình. Củng cố mạng lưới y tế cơ sở, nhất là y tế xã và thôn bản, tập trung đầu tư cơ sở vật chất cho các trạm y tế và đào tạo đội ngũ y bác sĩ về làm việc tại xã. Thực hiện chính sách hỗ trợ miễn phí khám chữa bệnh đối với người nghèo thuộc diện vận động định canh, định cư.
- Nâng cao chất lượng hoạt động các thiết chế văn hoá và phong trào văn hoá. Đổi mới nâng cao hoạt động của báo chí, văn học nghệ thuật ở địa phương. Thực hiện có hiệu quả cuộc vận động xây dựng cơ sở lành mạnh, không có tệ nạn xã hội gắn với cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá. Phấn đấu đạt tỷ lệ 70% số gia đình văn hoá, 65% số làng văn hoá, từng bước xây dựng xã, huyện văn hoá. 100% huyện thị và các xã có khu vui chơi giải trí nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu hoạt động văn hoá, thể dục thể thao của nhân dân trong tỉnh.
- Ba là, phát triển kinh tế - xã hội gắn với đảm bảo quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại. Làm tốt công tác giáo dục quốc phòng toàn dân và phổ biến giáo dục pháp luật trong nhân dân. Chủ động phòng ngừa đi đôi với kiên quyết đấu tranh có hiệu quả đối với các loại tội phạm. Phát hiện và ngăn chặn kịp thời, không để xẩy ra các vụ việc bất ngờ, điểm nóng về an ninh trật tự và khiếu kiện đông người.
Có coi trọng việc củng cố xây dựng đảm bảo quốc phòng an ninh trên địa bàn là góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, xây dựng địa bàn tỉnh, huyện, thị trở thành khu vực phòng thủ vững chắc, giữ vững ổn định chính trị xã hội; xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định hợp tác cùng phát triển, đồng thời góp phần chống truyền đạo trái pháp luật, di cư tự do. Đấu tranh, phòng chống giảm thiểu các tai tệ nạn xã hội...
Chính việc phát triển kinh tế bền vững, văn hoá-xã hội ngày một nâng cao, quốc phòng an ninh được đảm bảo trên đây đã tạo điều kiện thuận vào sự nghiệp xoá đói giảm nghèo nói chung và định canh, định cư ổn định của Hà Giang.
3.2.4. Xây dựng cơ sở hạ tầng và phúc lợi vùng định canh định cư
Cơ sở hạ tầng yếu kém là một trong những khó khăn trở ngại chính của đồng bào vùng định canh, định cư, vì vậy muốn phát triển kinh tế - xã hội cho đồng bào, cần phải quan tâm xây dựng cơ sở hạ tầng và phúc lợi cho vùng định canh, định cư sau đây:
* Giao thông
Cần tiếp tục hỗ trợ xây dựng, nâng cấp, sửa chữa các tuyến đường giao thông vào các xã định canh, định cư, phát triển mạnh giao thông liên thôn, liên bản, đảm bảo cho người, ngựa và các phương tiện cơ giới nhỏ đi lại thuận tiện. Dự kiến đến 2010 sẽ làm mới 32,3 km, nâng cấp 146km đường ô tô, làm mới 23 cầu treo, 2.477km đường dân sinh, và đảm bảo tất cả các xã trong vùng định canh, định cư có đường ô tô đến trung tâm xã.
Việc xây dựng đường giao thông theo tinh thần Nhà nước và nhân dân cùng làm, với vật liệu tại chỗ là chính. Đường ô tô đến trung tâm xã do Nhà nước hỗ trợ, đường dân sinh do Nhà nước và nhân dân cùng làm, Nhà nước hỗ trợ thuốc nổ, xi măng, sắt thép và lương thực để làm đường.
* Thuỷ lợi
Thuỷ lợi là một trong những công trình thiết thực nhất góp phần phát triển kinh tế của các xã vùng định canh, định cư, và là tiền đề có ý nghĩa quyết định cho việc bố trí sử dụng đất đai, bố trí lao động, dân cư và môi trường sinh thái.
Do điều kiện địa hình và nguồn nước nên phần lớn các công trình thuỷ lợi nhỏ phục vụ sản xuất của vùng định canh, định cư là các phai chắn nước và hồ đập nhỏ. Tuy nhiên, cũng cần nắm lại tình hình và xác định các công trình hiện có cần gia cố, những công trình cần xây dựng mới và tính toán vốn đầu tư cần thiết, kết hợp thuỷ lợi nhỏ với thuỷ điện nhỏ ở nơi có điều kiện. Cần xây dựng một số công trình mới tại các vùng sản xuất tập trung. Ngoài ra cần tăng cường trồng cây rừng kết hợp với làm hồ chứa nước nhỏ, ruộng bậc thang nhằm giảm lũ, giữ nước, giữ ẩm.
Trong thời gian tới cần tập trung vốn hỗ trợ đầu tư xây dựng các công trình cấp nước sinh hoạt cho đồng bào định canh, định cư vùng cao; cơ bản giải quyết đủ nước, đảm bảo nước sạch, hợp vệ sinh. Vì hiện có 60% số hộ của vùng còn thiếu nước sinh hoạt, đặc biệt là tìnhtr thiếu trầm trọng vào mùa khô ở vùng cao, do đó:
+ Với tiểu vùng cao núi đá cần tu sửa, tận dụng các công trình đã có, xây dựng mới một số công trình chủ yếu là các bẻ xây chứa nước mưa, bể hốc đá, các đường ống dẫn nước.
+ Tiểu vùng cao núi đất: Đầu tư các bể chứa nước cho các xã vùng cao, biên giới và hệ thống nước tự chảy cho các xã vùng thấp.
+ Tiểu vùng thấp: Đầu tư giếng và hệ thống nước tự chảy
Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí để các hộ sống sơ tán ở vùng cao đào giếng, xây bể nước dự trữ 1 triệu đồng/hộ.
* Các công trình phúc lợi công cộng
Tỉnh cần tiếp tục đầu tư xây dựng trường học, trạm xá, nhà văn hoá xã, trụ sở Uỷ ban nhân dân xã, trụ sở phòng Dân tộc tôn giáo định canh, định cư huyện, nhằm giúp đồng bào có nơi sinh hoạt vui chơi giải trí, từ đó xoá bỏ được các tập tục lạc hậụ, nâng cao và được hỗ trợ đầy đủ về vật chất và tinh thần. Trong đó cần xây dựng ở những nơi đồng bào sống tập trung, phù hợp với yêu cầu và nguyện vọng của đồng bào vùng định canh, định cư.
3.2.5. Giải pháp về huy động vốn
Nhu cầu về vốn cho công tác định canh, định cư trên địa bàn Hà Giang khá lớn, mặt khác do Hà Giang là một trong những tỉnh trọng điểm đầu tư của Nhà nước cho nên có rất nhiều ngành với rất nhiều chương trình tham gia triển khai trên. địa bàn như chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình xây dựng trung tâm cụm xã, chương trình hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn, chương trình 06, chương trình nước sạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở các xã đặc biệt khó khăn, ở miền núi, vùng sâu, vùng xa...
Ngoài nguồn vốn trong nước, hiện nay Tỉnh còn có một số nguồn vốn nước ngoài cũng được huy động để phát triển kinh tế - xã hội của các xã trong vùng như IFAD, SIDA, UNICEF... Do đó để có vốn thực hiện công tác định canh, định cư ngoài việc sử dụng có hiệu quả vốn định canh, định cư, cần phải có kế hoạch lồng ghép các nguồn vốn trên một cách đồng bộ trên từng địa bàn cụ thể để thực thi dự án, tránh đầu tư chồng chéo, cũng như tránh hiện tượng có nơi thì có quá nhiều chương trình dự án triển khai, có nơi cần thì không có dự án đầu tư.
- Trong quá trình thực hiện, phải sử dụng nguồn vốn đúng mục đích, đúng đối tượng, đúng chính sách, có như vậy mới nhanh chóng hoàn thành được sự nghiệp định canh, định cư trong tương lai.
- Trước khi đầu tư cần phải xem xét lấy hiệu quả kinh tế là hàng đầu, kết hợp với các mục tiêu xã hội. Đầu tư có trọng điểm để phát huy hiệu quả, gắn đầu tư với các biện pháp hỗ trợ về kỹ thuật và phương thức làm ăn phù hợp với điều kiện của từng vùng định cư.
- Tăng cường vốn đầu tư với nhiều hình thức huy động từ nhiều nguồn vốn khác nhau để nâng cao vốn đầu tư. Có thể huy động vốn trong dân và vốn ngành, thu hút nguồn vốn nước ngoài bằng cách thực hiện chính sách ưu tiên đối với các dự án và tài trợ quốc tế vào công tác định canh, định cư.
- Thực hiện hỗ trợ vón trong nông lâm nghiệp, cơ quan chức năng thực hiện chương trình định canh, định cư sau khi đã xác định giống cây trồng vật nuôi phù hợp thì thực hiện hỗ trợ giống, công cụ lao động cho đồng bào, có như vậy thì vốn đầu tư mới phát huy hiệu quả. Trên thực tế một số đồng bào vay vốn xoá đói giảm nghèo với nguồn vốn ưu đãi ở vùng đặc biệt khó khăn đã sử dụng sai mục đích, không đầu tư vào sản xuất mà tiến hành mua sắm vật dụng, thực phẩm để giải quyết những thiếu thốn tạm thời.
Như vậy, việc tăng cường huy động, quản lý và sử dụng vốn trong công tác định canh, định cư đòi hỏi có những biện pháp tổng hợp cần được kiểm tra, giám sát chặt chẽ không để thất thoát trong lúc nguồn ngân sách còn eo hẹp mà đời sống của đồng bào còn quá khó khăn.
3.2.6. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực phục vụ công tác định cạnh định cư
Do đặc thù của công tác định canh, định cư cho nên việc thành công hay không thành công phụ thuộc chủ yếu vào cán bộ làm công tác định canh, định cư. Với năng lực, trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp, họ là những người trực tiếp hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào định canh, định cư đồng thời là cầu nối giữa đồng bào dân tộc miền núi với Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy việc tuyển chọn cán bộ làm công tác định canh, định cư ở Ban Dân tộc-tôn giáo, Định canh định cư tỉnh và các phòng ở huyện cần tuyển chọn những người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kiến thức sâu về các ngành nông - lâm - ngư nghiệp và hiểu biết về phong tục, tập quán của đồng bào; nắm vững mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực dân tộc, miền núi; nhất là phải được đào tạo qua thực tế. Ưu tiên những người có kinh nghiệm, những người ở địa phương thuộc vùng định canh, định cư. Mặt khác, đòi hỏi người cán bộ phải có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình công tác, có sức khoẻ, sắn sàng nhận nhiệm vụ công tác tại mọi địa bàn khó khăn. Đồng thời tiếp tục nâng cao trình độ, đào tạo và đào tạo lại cho cán bộ thực hiện công tác định canh, định cư.
ã Không chỉ chú ý đến đội ngũ cán bộ chuyên môn trực tiếp tại cơ quan làm công tác định canh, định cư, mà còn cần phải phát huy nguồn lực cán bộ cấp cơ sở phối kết hợp thực hiện công tác định canh, định cư ở địa phương. Do đó phải nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ cán bộ làm công tác này ở địa phương, nhất là ở các vùng định canh, định cư. Họ phải là những người có trình độ, chủ động sáng tạo trong công tác. Ngoài việc biểu biết về các lĩnh vực nông, lâm nghiệp, chăn nuôi, họ có thể giúp xã xây dựng những dự án nhỏ về công tác định canh, định cư một cách thiết thực và hiệu quả. Chính vì vậy cần phải thường xuyên nâng cao trình độ cho cán bộ ở cơ sở theo hướng:
- Thực hiện chương trình đào tạo chính thức đối với các cán bộ chủ chốt làm công tác định canh, định cư ở xã chưa có kinh nghiệm, đặc biệt là chú trọng việc đào tạo cho con em đồng bào dân tộc thiểu số. Nội dung đào tạo bao gồm các kiến thức về: công tác vận động quần chúng; quản lý kinh tế, quản lý tài chính; phát triển cộng đồng và xã hội; kỹ thuật nông, lâm, ngư nghiệp, kỹ thuật xây dựng; các kiến thức về quản lý môi trường; kiến thức pháp luật...
Có thể thực hiện bằng cách mở những lớp ngắn ngày, dài ngày, đào tạo theo các chương trình, dự án, vừa học vừa làm, tập huấn theo chuyên đề v.v... nhưng phải gắn sát với công tác thực tế; các chương trình đào tạo cán bộ phải được chuyên môn hoá cao, đặc biệt đối với vấn đề xây dựng kế hoạch, quản lý tổ chức, kiến thức nông, lâm nghiệp.
ã Sau cùng, phải chú ý nâng cao trình độ cho đồng bào thuộc vùng định canh, định cư. Bởi vì trở ngại lớn nhất đối với sự phát triển khu vực định canh, định cư hiện nay vẫn là mặt bằng dân trí của người dân. Xét một cách toàn diện, để giải quyết dứt điểm vấn đề định canh, định cư thì mấu chốt và lâu dài là phải nâng cao dân trí cho đồng bào các dân tộc vùng định canh, định cư. Chỉ trên cơ sở dân trí ngày càng cao, đồng bào mới có khả năng và điều kiện chinh phục tự nhiên, thấy rõ cái lợi ích trước mắt và lâu dài của việc định canh, định cư để tự lo ổn định và nâng cao đời sống của mình.
3.2.7. Các giải pháp về cơ chế chính sách
Công tác định canh, định cư muốn thực hiện thành công thì trước hết các chính sách định canh, định cư cần phải phù hợp với tình hình mới. Tỉnh cần ban hành các chính sách đồng bộ, kích thích được sản xuất, cần cụ thể hoá các chính sách của Trung ương cho phù hợp với điều kiện của Hà Giang nhằm tiếp tục củng cố, ổn định cuộc sống và phát triển sản xuất cho đồng bào định canh, định cư, đảm bảo cho đồng bào làm ăn lâu dài và có hiệu quả. Do vậy, tỉnh cần thực hiện đầy đủ và phù hợp các chính sách sau:
- Chính sách hỗ trợ di chuyển, ổn định dân cư:
Với các hộ di chuyển đến địa điểm mới, Nhà nước cần hỗ trợ kinh phí di chuyển, làm nhà và trợ cấp lương thực trong thời gian đầu từ 6 tháng đến 1 năm.
Hiện nay Tỉnh mới hỗ trợ di chuyển là 0,8 triệu đồng/hộ, hỗ trợ làm nhà 2 triệu đồng/hộ. Với điều kiện đi lại, vận chuyển và mặt bằng giá cả như ở Hà Giang thì mức đầu tư trên còn thấp, rất khó thực hiện, Tỉnh cần xem xét tăng mức hỗ trợ thêm cho các hộ.
- Chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất:
Tỉnh cần có chính sách ưu tiên khuyến khích phát triển sản xuất như: tạo điều kiện cho người dân được vay vốn thuận lợi, thủ tục vay vốn đơn giản, lãi suất ưu đãi hoặc vay không lãi.
Đối với nghề rừng có thể nghiên cứu để nâng mức đầu tư khoanh nuôi bảo vệ và trồng rừng lên để cho người dân thực sự có thể sống được bằng nghề rừng, đồng thời cho phép các chủ rừng được khai thác các sản phẩm phụ trợ của rừng theo quy định của Nhà nước với điều kiện duy trì vốn rừng và không làm giảm chức năng phòng hộ của rừng.
- Chính sách về hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nông - lâm:
Do trình độ sản xuất và tiếp thu khoa học công nghệ của đồng bào trong vùng định canh, định cư tương đối hạn chế, vì vậy để nước ta sản xuất theo hướng thâm canh, đa dạng hoá cây trồng, từng bước tạo ra sản phẩm hàng hoá ở khu vực định canh, định cư, một trong nhiều giải pháp quan trọng là phải đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, xây dựng một số mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất nông - lâm nghiệp phù hợp với các xã miền núi, vùng cao để từ đó nhân ra diện rộng.
- Đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm: Đây là công việc hết sức quan trọng và đối tượng định canh, định cư là đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao, vùng sâu, vùng xa, trình độ dân trí thấp, có người không biết tiếng phổ thông, nên công tác khuyến nông, khuyến lâm phải được tiến hành sao cho thật đơn giản, thực tế và dễ hiểu, chủ yếu là tham quan, thực hành "mắt thấy, tai nghe, tay sờ". Do đó, cần phải trang bị kiến thức và kỹ năng về khuyến nông thông qua việc áp dụng khuyến nông có sự tham gia của dân, hội nghị đầu bờ, tập huấn trên cơ sở mô hình thực tế. Gắn kết chặt chẽ khuyến cáo tiến bộ kỹ thuật với giới thiệu phương pháp tổ chức sản xuất, bảo quản, chế biến, hạch toán kinh tế và tiêu thụ sản phẩm; hỗ trợ việc hình thành và tổ chức hoạt động của các tổ chức khuyến nông tự quản như câu lạc bộ khuyến nông, nhóm tín dụng - tiết kiệm, nhóm nông dân cùng sở thích; tăng cường đội ngũ cán bộ khuyến nông, khuyến lâm của tỉnh, huyện, cần tăng cường đội ngũ cán bộ này tại các xã trong vùng định canh, định cư. Có cơ chế phù hợp về tổ chức, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đối với cán bộ khuyến nông cơ sở. Có thể nhân rộng hình thành cán bộ khuyến nông khuyến lâm cơ sở theo kiểu "dân nuôi" như ở một số địa phương thuộc huyện Hoàng Su Phì, Bắc Quang. Mỗi cộng đồng (thôn, bản - xã) chọn ra 1 - 2 nông dân trẻ, có hiểu biết, đào tạo họ thành cán bộ khuyến nông, khuyến lâm về hướng dẫn bà con trong thôn bản. Kinh phí cho cán bộ khuyến nông, khuyến lâm làm cơ sở chủ yếu do dân đóng góp, tỉnh, huyện chỉ hỗ trợ một phần.
- Chính sách về chế biến và tiêu thụ sản phẩm:
Vấn đề bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm không chỉ đặt ra khi sản xuất hàng hoá đã phát triển mà cần phải quan tâm ngay từ khi bố trí sản xuất, đặc biệt là đối với địa điểm của Hà Giang là hầu hết các vùng định canh, định cư đều ở xa các trung tâm, thị trường lớn, bảo quản và vận chuyển hàng hoá khó khăn.
Ngoài biện pháp phát triển hệ thống giao thông, đảm bảo lưu thông hàng hoá, cần phải tăng cường đầu tư các cơ sở bảo quản chế biến nông - lâm sản, đảm bảo các sản phẩm làm ra có chất lượng cao, giá cả hợp lý, mẫu mã đa dạng phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, tích cực tìm kiếm thị trường, đa dạng hoá các hình thức tiếp thị sản phẩm, tạo điều kiện và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các hoạt động thương mại, dịch vụ.
- Chính sách hỗ trợ về giải quyết việc làm cho người lao động vùng định canh, định cư:
Để định canh, định cư bền vững bên cạnh việc phát triển kinh tế, hỗ trợ sản xuất thì giải quyết việc làm cho người lao động là một trong những giải pháp quan trọng, bởi vì ở Hà Giang nói chung và các xã vùng định canh, định cư nỏi riêng tỷ lệ lao động thiếu việc làm còn cao; cơ cấu lao động và chất lượng lao động chuyển dịch chậm, năng suất lao động thấp, việc làm chưa bền vững, bên cạnh đó còn có một bộ phận người lao động chưa nhận thức đầy đủ về việc làm. Nhằm đạt được mục tiêu trong 5 năm )2006 - 2010) hỗ trợ giải quyết việc làm cho 60.000 lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp của tỉnh dưới 4%, nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 85% vào năm 2010 cần phải:
+ Đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động, hình thành vùng sản xuất nông nghiệp mang tính hàng hoá.
+ Mở rộng phát triển thương mại - dịch vụ với chất lượng ngày càng cao
+ Thực hiện việc sắp xếp, chuyển đổi, cổ phần hoá các doanh nghiệp, có chính sách hỗ trợ đối với doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh tạo việc làm ổn định cho người lao động.
+ Có chính sách thích hợp, tạo cơ chế thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực ngoài quốc doanh, nhất là kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm thu hút lao động vào làm việc.
+ Tổ chức giải quyết việc làm thông qua vốn vay hỗ trợ việc làm cho người thất nghiệp, người thiếu việc làm, mà các cơ sở doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vay vốn với lãi suất ưu đãi để tạo việc làm.
Trên cơ sở đó cần tiếp tục thực hiện các chương trình, dự án hỗ trợ người lao động như:
+ Đẩy mạnh công tác dạy nghề tại trường trung cấp nghề của tỉnh, thành lập trung tâm dạy nghề khu vực phía Bắc đặt tại huyện Yên Minh và trung tâm dạy nghề khu vực phía Nam đặt tại huyện Bắc Quang. Hỗ trợ dạy nghề gắn với giải quyết việc làm mới trong các cơ sở sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ, làng nghề, trang trại... nhận lao động chưa qua đào tạo vào làm việc từ 1 năm trở lên.
+ Cho vay vốn tạo việc làm với lãi suất ưu đãi đối với các dự án tạo việc làm mới, tạo việc làm cho lao động trong khu vực đang đô thị hoá, lao động thất nghiệp, thiếu việc làm.
+ Tăng cường thực hiện công tác xuất khẩu lao động.
+ Tổ chức hội chợ việc làm để người lao động có cơ hội tìm việc làm phù hợp với trình độ chuyên môn được đào tạo, có thu nhập ổn định.
3.2.8. Giải pháp về tổ chức thực hiện
Để khắc phục những mặt hạn chế trong tổ chức chỉ đạo thực hiện trong những năm qua, tăng cường quản lý công tác định canh, định cư một cách có hiệu quả, tránh chồng chéo, xác lập rõ ràng trách nhiệm của cơ quan tham mưu cần cói sự đổi mới trong công tác tổ chức chỉ đạo thực hiện.
- Uỷ ban nhân dân tỉnh là cơ quan chỉ đạo thực hiện công tác định canh, định cư trên cơ sở lấy chi cục Định canh định cư –kinh tế mới thuộc Ban Dân tộc - tôn giáo định canh, định cư là cơ quan tham mưu và các ngành là cơ quan phối hợp. Tuyệt đối tránh việc khoán trắng sự nghiệp định canh, định cư cho cơ quan chuyên trách. Chính vì vậy, cần phải đổi mới, nâng cao hiệu lực của bộ máy chuyên trách, và có cơ chế phối hợp với các ban ngành liên quan như: Sở nông nghiệp phát triển nông thôn, Sở giao thông vận tải, Sở y tế, Sở tài chính, Ngân hàng, Sở kế hoạch đầu tư...
- Thành lập ban quản lý dự án định canh, định cư huyện giúp Uỷ ban nhân dân huyện trực tiếp chỉ đạo thực hiện dự án định canh, định cư trên địa bàn huyện, trên cơ sở lấy phòng dân tộc - tôn giáo, định canh, định cư huyện là cơ quan thường trực. Trong ban quản lý dự án cần có cán bộ kỹ thuật nông - lâm nghiệp để giúp việc giao đất, giao rừng và khuyến nông - khuyến lâm.
- Tiến hành lồng ghép các chương trình kinh tế - xã hội trên địa bàn cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị quản lý các dự án để tránh việc đầu tư trùng lắp, chồng chéo, mặt khác cũng tận dụng được nhiều nguồn vốn đầu tư để thực hiện có hiệu quả việc định canh, định cư, xoá đói giảm nghèo cho các hộ trong vùng.
- Để đảm bảo lấy hộ gia đình làm đơn vị tự chủ sản xuất làm động lực để thực hiện dự án, đầu tư đến tận hộ gia đình, trong quá trình thực hiện, nếu việc gì dân tự làm được thì tổ chức cho dân làm, hạn chế việc đưa người từ nơi khác đến. Khuyến khích các già làng, trưởng bản tham gia ban quản lý dự án để làm cầu nối giữa ban quản lý dự án và các hộ gia đình. Các cán bộ, già làng, trưởng bản này được tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ định canh, định cư và được hưởng các quyền lợi trích từ nguồn quản lý dự án.
Đề xuất, kiến nghị
Để công tác định canh, định cư ở Hà Giang đạt kết quả cao trong thời gian tới, xin đề xuất một số kiến nghị sau:
- Đối tượng thuộc diện vận động định canh, định cư ở Hà Giang ở 174/195 xã trong toàn tỉnh, trong đó có 34 xã biên giới, nơi có bộ đội biên phòng đóng trên địa bàn. Vì vậy cần có sự phối hợp chặt chẽ của cả lực lượng biên phòng và các tổ chức đoàn thể khác. Do đó tỉnh cần tăng cường chỉ đạo các lực lượng đóng trên địa bàn tích cực tham gia vào công tác định canh, định cư, xoá đói giảm nghèo ở đó.
- Các dự án định canh, định cư đã được UBND tỉnh phê duyệt và đầu tư cần được bố trí đủ vốn theo tiến độ hàng năm. Tránh tình trạng bố trí nhỏ giọt kém hiệu quả và giảm lòng tin của nhân dân.
- Đối với đồng bào dân tộc H'Mông sau khi triệt phá cây thuốc phiện chuyển đổi sang trồng các loại cây khác để thay thế nhưng hiệu quả kinh tế lại rất thấp, nguy cơ tái trồng cây thuốc phiện là có thể xẩy ra. Vì vậy, cần có chính sách đặc biệt đầu tư ưu tiên và đồng bộ hơn nữa kể cả sản xuất, đời sống và xây dựng cơ sở hạ tầng để đồng bào yên tâm định canh, định cư, xây dựng bản làng, giữ gìn an ninh trật tự vùng biên giới.
- Tăng nguồn vốn đầu tư hàng năm cho các chương trình dự án xoá đói giảm nghèo, định canh, định cư, đồng thời tạo cơ chế để cơ quan, đầu mối và các cơ quan chuyên ngành ở các cấp có đủ thẩm quyền, năng lực và điều kiện để quản lý các chương trình, dự án triển khai trên địa bàn tỉnh. Khắc phục tình trạng trách nhiệm không đi đôi với thẩm quyền như giai đoạn vừa qua.
Kết luận
Công tác định canh, định cư cho đồng bào dân tộc còn du canh, du cư ở miền núi đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm từ những năm 60 của thế kỷ XX. Đây là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của đồng bào. Kết quả công tác định canh, định cư trong suốt quá trình đó đặc biệt là từ năm 1986 đến nay đã đáp ứng yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng, đem lại hiệu quả nhiều mặt: chính trị, kinh tế, xã hội và an ninh quốc phòng. Cho đến nay diện đồng bào cơ bản định canh, định cư khá lớn, số du canh, du cư không còn nhiều và còn một số đã định cư nhưng du cư ở mức độ khác nhau.
Hà Giang là một trong những tỉnh nghèo của cả nước, có nhiều dân tộc cùng chung sống, tỷ lệ đói nghèo còn cao. Hầu hết các địa bàn huyện, xã đều thuộc vùng cao, miền núi, thuộc diện vận động định canh, định cư cho nên định canh, định cư ở Hà Giang là một trong những chương trình quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nhằm thực hiện ổn định dân cư, xoá đói giảm nghèo, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc trong tỉnh, giữ vững cân bằng sinh thái môi trường, củng cố an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội. Đây là một công việc khó khăn, phức tạp vì phải làm thay đổi cả cuộc sống, tập quán đã tồn tại lâu đời của người dân vốn đã nghèo nàn, lạc hậu, dân trí thấp, nhận thức bị hạn chế. Do đó công tác định canh, định cư đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ về chiến lược, về quy hoạch, về vốn, về các giải pháp thực hiện, phải có sự thống nhất từ tỉnh xuống huyện, xuống xã, giữa các ban, ngành với nhau để đảm bảo việc tổ chức định canh, định cư có hiệu quả cao và bền vững.
Thực chất của công tác định canh, định cư tỉnh Hà Giang từ nay đến năm 2010 là nhằm hỗ trợ cho 60.103 hộ, 370.193 khẩu (trong đó có 23.053 hộ, 138.155 khẩu định canh cư du canh) sinh sống trên 1.361 thôn, bản của 174 xã trong tỉnh có điều kiện ổn định đời sống và sản xuất, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, phát triển ngành nghề theo hướng sản xuất hàng hoá, tạo cho đồng bào dân tộc trong vùng vươn lên theo kịp với đà phát triển chung của tỉnh và cả nước.
Từ thực tiễn Hà Giang cho thấy định canh, định cư và xoá đói giảm nghèo là những nội dung kinh tế - xã hội có quan hệ tác động, lồng ghép với nhau. Chúng vừa là mục tiêu vừa là điều kiện, động lực cho nhau. Trong đó định canh, định cư được coi là tiền đồ, điều kiện cần có.
Với những khó khăn về đời sống và sản xuất, thiếu thốn về cơ sở hạ tầng và phúc lợi, hạn chế về nhận thức và trình độ sản xuất, để ổn định và nâng cao đời sống của các hộ trong vùng định canh, định cư, trên cơ sở khai thác có hiệu quả những nguồn lực hiện có, ngoài việc bố trí sắp xếp lại dân cư, Nhà nước cần có sự hỗ trợ đầu tư cần thiết để phát triển sản xuất cho các hộ, xây dựng những cơ sở hạ tầng và phúc lợi thiết yếu như giao thông, thủy lợi, nước sinh hoạt, điện, trường học, trạm xá... Mặt khác cũng cần có bước đi và những giải pháp phù hợp với những nét đặc thù của vùng định canh, định cư Hà Giang.
Danh mục tài liệu tham khảo
Ban Dân tộc tôn giáo, Định canh định cư tỉnh Hà Giang, Báo cáo tổng kết công tác định canh định cư 5 năm 2001-2005.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (1997), Tổng quan định canh định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi thời kỳ 1998-2010.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Cục Định canh định cư và vùng kinh tế mới (2001), Hệ thống các văn bản chính sách về công tác định canh, định cư, di dân phát triển kinh tế mới, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (10/1999), Quyết định của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về tiêu chí định canh định cư.
Cục Định canh định cư và vùng kinh tế mới (1999), Di dân kinh tế mới, định canh định cư - lịch sử và truyền thống, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
Cục Thống kê Hà Giang, Niên giám thống kê Hà Giang năm 2000-2005.
Cục Thống kê tỉnh Hà Giang (6/2000), Báo cáo thực hiện tham luận về công tác xây dựng đề án di chuyển và điều động dân cư.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đề án xoá đói năm 2000 và giảm nghèo những năm tiếp theo trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Giang (12/2006), Nghị quyết phê duyệt kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2006 - 2010.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Giang - Chi cục định canh định cư và vùng kinh tế mới (5/2000), Báo cáo thực hiện 10 năm công tác định canh định cư và vùng kinh tế mới tỉnh Hà Giang.
PGS,TS Lê Ngọc Thắng (2005), Một số vấn đề về dân tộc và phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Uỷ ban Dân tộc - Viện Dân tộc (2004), Kỷ yếu Hội thảo xoá đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
Uỷ ban Dân tộc - Viện Dân tộc (2006), Giải pháp cải thiện đời sống cho đồng bào các dân tộc thiểu số, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Giang (3/1999), Đề án định canh định cư tỉnh Hà Giang giai đoạn 1999-2010.
Uỷ ban nhân dân tỉnh HàGiang (7/2000), Báo cáo đánh giá diện vận động định canh định cư.
Uỷ ban nhân dân tỉnh hà Giang (2/2006), Nghị quyết phê duyệt chương trình giảm nghèo và giải quyết việc làm giai đoạn 2006 - 2010 trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
._.