Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước Việt Nam, thiên nhiên Việt Nam quả là một kho tàng dược liệu nhiệt đới vô cùng phong phú. Với điều kiện khí hậu và địa hình đa dạng, đặc thù, là nơi gặp gỡ của hai trung tâm giàu loài nhất thế giới: Trung Quốc và Inđônêxia, hệ thực vật nước ta có thành phần loài mang cả yếu tố thực vật nhiệt đới ẩm Inđônêxia – Malayxia, yếu tố thực vật nhiệt đới gió mùa, thực vật ôn đới nam Trung Hoa. Nước ta hiện có tới 10386 loài thuộc 2257 chi và 305 họ, chiếm 4
47 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1746 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Điều tra tính đa dạng nguồn gen cây thuốc ở xã Văn Hán, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
% tổng số loài, 15% tổng số chi và 57% tổng số họ của toàn thế giới [12].
Con số thống kê trên đã cho thấy sự giàu có, đa dạng của giới thực vật, đồng thời chỉ rõ vị trí, tầm quan trọng của nó đối với con người. Không chỉ với vai trò là lá phổi xanh khổng lồ điều hòa khí hậu, là khâu quan trọng trong chu trình tuần hoàn vật chất của tự nhiên, thảm thực vật rừng còn là nguồn tài nguyên vô giá cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp (gỗ, giấy, dệt…) là thức ăn cho động vật nói chung, đặc biệt là nguồn dược liệu quý giá đối với việc bảo vệ sức khỏe cho con người.
Trong cuộc đấu tranh hàng ngày với bệnh tật để bảo tồn sự sống và sức khỏe, trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, nhiều cây thuốc đã trở thành vị cứu tinh cho các chiến sĩ, nhiều loài thuốc cổ truyền được nhân dân sử dụng rộng rãi. Theo thống kê của viện dược liệu, đã phát hiện và sử dụng 1863 loài thuộc 238 họ [4], thu thập được 8000 tiêu bản thuộc 1296 loài . Qua đó, cho thấy việc nghiên cứu về các cây thuốc, bài thuốc đã được quan tâm chú ý.
Ngày nay, dược liệu làm từ thực vật ngày càng được ưa chuộng bởi những ưu điểm: vừa đáp ứng được nhu cầu người bệnh, có tác dụng chữa bệnh tốt lại rẻ tiền, việc sử dụng tương đối dễ dàng và đặc biệt là ít gây tác dụng phụ cho người bệnh. Những tính năng ưu việt trên cũng là lý do để chúng ta cần coi trọng nguồn dược liệu quý giá của thiên nhiên và coi đó như một loại cây công nghiệp cao cấp.
Đảng ta chủ trương đề ra đường lối phát triển nền y dược học Việt Nam là kết hợp y dược học hiện đại và y dược học cổ truyền, nhằm xây dựng nền y dược học dân tộc. Nhờ đó mà dược liệu Việt Nam đang được quan tâm chú ý phục vụ cho việc phòng, chữa bệnh.
Tiềm năng của thảm thực vật nước ta thật là lớn. Càng đi sâu vào lòng đất, lòng rừng, người Việt Nam càng cảm thấy tự hào và có trách nhiệm ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào nghiên cứu, bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên quý giá này. Tuy nhiên, một thực trạng đáng lo ngại ở nước ta trong những năm gần đây là nạn phá rừng, làm rẫy, khai thác gỗ quý vẫn liên tiếp xảy ra, diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, nhiều loài quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng, lâm tặc ngang nhiên lộng hành, quấy rối...Nếu không có biện pháp ngăn chặn kịp thời thì trong những năm tới, nguồn tài nguyên rừng nói chung và nguồn dược liệu tự nhiên nói riêng sẽ bị cạn kiệt hoàn toàn.
Xã Văn Hán, huyện Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên với đa số diện tích là đồi, rừng có số lượng và thành phần loài thực vật phong phú. Đó là nguồn cung cấp dược liệu rất quý. Trong vài năm trở lại đây, hiện tượng phá rừng làm rẫy, xây nhà, lấy gỗ vẫn ngày một gia tăng. Xuất hiện nhiều khu đồi trọc, xói mòn thành rãnh, rừng tái sinh sau nương rẫy nhiều. Chưa có tác giả nào nghiên cứu về nguồn dược liệu tại đây. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài: " Điều tra tính đa dạng nguồn gen cây thuốc ở xã Văn Hán, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên" làm khóa luận tốt nghiệp đại học của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu tính đa dạng nguồn gen cây thuốc ở một số quần xã thực vật thuộc xóm Cầu Mai, xã Văn Hán, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu đa dạng thành phần loài cây thuốc và đa dạng loài của các họ và chi sử dụng làm thuốc.
- Nghiên cứu đa dạng về sinh cảnh sống, giá trị sử dụng của các loài cây thuốc được phân theo các nhóm:
+ Nhóm cây chữa bệnh ngoài da.
+ Nhóm cây chữa bệnh cảm cúm, ho, sốt.
+ Nhóm cây chữa bệnh về đường tiêu hóa.
+ Nhóm cây chữa bệnh phụ nữ.
+ Nhóm cây chữa bệnh tê thấp ,đau nhức.
- Nghiên cứu đa dạng về các bộ phận được sử dụng làm thuốc.
- Thống kê các loài cây thuốc ở xã Văn Hán, huyện Đồng Hỷ, tỉnhThái Nguyên có nguy cơ tuyệt chủng và nguy cơ khan hiếm cần được bảo vệ.
4. Giới hạn nghiên cứu
Đề tài không tiến hành thực nghiệm về các loài thực vật làm thuốc và các bài thuốc chữa bệnh.
Vì thời gian có hạn, chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu ở một số quần xã thực vật như: rừng phục hồi tự nhiên, thảm cỏ, cây bụi, rừng trồng (keo, bồ đề), vườn nhà, ven đường đi thuộc xã Văn Hán, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
Chương 1
tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1. NHữNG NGHIÊN CứU Về cây thuốc, vị thuốc trên thế giới
Lịch sử nghiên cứu cây thuốc và vị thuốc đã xuất hiện cách đây hàng nghìn năm trước. Nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới (Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, ấn Độ...) đã chú ý sử dụng cây thuốc trong phòng và chữa bệnh, đặc biệt phát triển rộng rãi ở các nước phương Đông.
Tài liệu cổ về cây thuốc hiện còn lại không nhiều, tuy nhiên có thể coi năm 2838 trước Công nguyên (TCN) là năm hình thành bộ môn nghiên cứu cây thuốc và dược liệu. Cũng vào năm này, Thần Nông viết cuốn: "Bản thảo đầu tiên" đã ghi chép 365 vị thuốc. Đây là bộ sách cổ nhất của Đông y [12].
Năm 1595 (TCN), Lý Thời Châu (Trung Quốc) đã tổng kết tất cả kinh nghiệm về cây thuốc và dược liệu để soạn thành quyển: "Bản thảo cương mục". Đây là cuốn sách vĩ đại nhất của Trung Quốc về lĩnh vực này. Tác giả đã mô tả và giới thiệu 1094 cây thuốc và vị thuốc từ cây cỏ [12].
Năm 384 - 322 (TCN) Aristote người Hy Lạp đã ghi chép và lưu giữ sớm nhất về kiến thức cây cỏ ở nước này. Sau đó, năm340 (TCN) Theophraste với tác phẩm "Lịch sử thực vật" đã giới thiệu 500 loài cây cỏ và công dụng. Tuy công trình của ông mới chỉ dừng lại ở mức mô tả, thống kê, song nó mở đầu cho một giai đoạn tìm tòi, nghiên cứu sâu về lĩnh vực này [4].
Thầy thuốc người Hy Lạp Dioscorides năm 60 -20 (TCN) giới thiệu 600 loài cây cỏ chủ yếu để chữa bệnh. Đồng thời, ông cũng là người đặt nền móng cho nền y dược học [4].
Năm 79 -23 (TCN), nhà tự nhiên học người La Mã: Plinus soạn thảo bộ sách: "Vạn vật học" gồm 37 tập giới thiệu 1000 loài cây có ích[4].
Năm 890, cuốn: "Những cây làm thuốc" được tìm thấy ở Nhật Bản, thống kê gần 100 loài cây có tinh dầu trong số các cây sử dụng làm thuốc.
Đến thời kỳ Phục Hưng (đầu thế kỷ XV), nhiều bộ Bách khoa toàn thư về cây cỏ đã được biên soạn ở nhiều quốc gia.
Năm 1533 - 1617, nhà thực vật học người ý Piospiero Alpim phát hiện sự tồn tại của cá thể đực, cái của cây chà là, miêu tả được hình thái của cây cà phê [4].
Nhà thực vật học người Thụy Sỹ: Alphonse de Cadoue với tác phẩm: "Địa lý học tự nhiên" (1855) và "Nguồn gốc cây trồng" (1883) đã thống kê các loài cây có ích [4].
Năm 1952, tác giả người Pháp Ch.Crevost và A.Petelot có công trình nghiên cứu về cây thuốc và sản phẩm làm thuốc từ thực vật ở Đông Dương [12].
Như vậy, những công trình nghiên cứu về dược liệu đã có từ lâu đời, hình thành phát triển cùng với tiến trình lịch sử của nhân loại. Tuy nhiên, do sự hạn chế của trình độ khoa học đương thời nên những công trình này chỉ dừng lại ở mức độ mô tả, thống kê và chỉ ra công dụng của chúng, chưa có cơ sở khoa học để chứng minh thành phần hóa học của chúng có tồn tại trong đó và tham gia vào việc chữa bệnh như thế nào. Chỉ đến khi khoa học kỹ thuật phát triển thì vấn đề này mới được làm sáng tỏ tạo độ tin cậy đối với người bệnh khi sử dụng.
1.2. NHữNG NGHIÊn cứu Về cây thuốc và vị thuốc ở Việt Nam
ở Việt Nam, tập quán sử dụng cây thuốc đã có từ lâu. Có thể nói, nó xuất hiện từ buổi đầu sơ khai, khi con người còn sống theo lối nguyên thủy. Trong quá trình tìm kiếm thức ăn, tổ tiên chúng ta đã ngẫu nhiên phát hiện ra công dụng và tác hại của nhiều loại cây. Suốt một thời gian dài như vậy, tổ tiên chúng ta đã dần dần tích lũy được nhiều kinh nghiệm, biết lợi dụng tính chất của cây rừng để làm thức ăn và làm thuốc chữa bệnh.
Từ những buổi đầu dựng nước, dưới thời các vua Hùng, tổ tiên chúng ta đã biết sử dụng hành, tỏi, gừng, riềng,...làm gia vị trong những bữa ăn hàng ngày.
Thế kỷ XI (TCN), nhân dân ta có tục ăn trầu cho ấm người, thơm miệng, uống nước chè xanh cho mát, nụ vối cho dễ tiêu,...Điều đó nói lên những hiểu biết về dinh dưỡng và sử dụng thuốc của dân tộc.[8]
Thế kỷ II (TCN), hàng trăm loại thuốc đã được phát hiện như: sắn dây, khoai lang, mơ, quýt,...và trong thời kỳ Bắc thuộc, nhiều vị thuốc của ta đã được xuất sang Trung Quốc [8].
Dưới triều vua nhà Lý (1010 - 1224) có nhiều lương y nổi tiếng, trong đó có nhà sư Minh Không (Nguyễn Chí Thành) ở chùa Giao Thủy đã có công chữa bệnh cho Lý Thần Tông. Nhà Lý đặt quan hệ với Tống Huy Tông (Trung Quốc) trao đổi thuốc Nam lấy thuốc Bắc [8].
Dưới triều Trần (1224 - 1399), đã có kế hoạch tự túc thuốc Nam để kháng chiến. Tướng Phạm Ngũ Lão đã trồng cây thuốc ở Vạn An và Dược Sơn (xã Hưng Đạo - Chí Linh - Hải Dương) để cung cấp cho quân y [8].
ở địa phương hạt Giao Thủy, Sơn Nam (Nam Định), Dạ Cẩm, Hồng Châu (Cẩm Bình, Hải Dương) nhà sư Tuệ Tĩnh đã mở nhiều cơ sở chữa bệnh làm phúc ở các chùa và gây phong trào trồng thuốc ở gia đình. Ông là một đại sư nước Việt dùng thuốc Nam giảm giá trị của thuốc Bắc, sắc thuốc chữa bệnh cho nhân dân với phương châm: "thuốc Nam chữa bệnh người Nam" ông đã truyền bá y dược cổ truyền cho nhân dân trong các tác phẩm:
- "Nam dược thần hiệu": gồm 499 vị và 3932 phương thuốc trị 184 loại bệnh, chia làm 10 khoa (1725). Đây là tập sách thứ hai xuất hiện trong lịch sử nghiên cứu cây thuốc ở nước ta sau tập: "Bản thảo thực vật toàn yếu" do Phan Phu Tiện biên soạn (1429) là tập cây thuốc và dược liệu đầu tiên của Việt Nam.
- "Các bài thuốc Nam và thập tam phương gia giảm": chép 13 cổ phương với bổ âm đơn do ông sáng chế để chữa các bệnh gia giảm theo chứng. Các tài liệu này được in lại trong "Nam dược chính bản". Sau được triều hậu Lê in lại trong "Hồng Nghĩa giác tư y thư" (1717 và 1723) và được lưu truyền đến nay [8].
- "Tuệ Tĩnh Y thư"
- "Thương hàn tam thập thất trùng pháp"
Thế kỷ XVIII, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1729 -1791) đã thừa kế dược học của Tuệ Tĩnh chép vào tập "Lĩnh Nam bản thảo" nội dung gồm 496 vị thuốc Nam của "Nam dược thần hiệu" và phát hiện thêm hơn 300 vị nữa. Tư liệu vĩ đại nhất của ông là bộ sách: "Hải Thượng y tông tâm lĩnh" gồm 66 quyển viết về lý luận cơ bản, phương pháp chẩn đoán, trị bệnh [2].
Ngoài các bộ sách trên, còn kể đến tập "Vạn phương thập nghiệm" của Nguyễn Nho và Ngô Văn Tĩnh gồm 8 tập, xuất bản 1763. Tập "Nam bang thảo mộc" của Trần Nguyệt Phương mô tả 100 loài cây thuốc Nam, xuất bản năm 1858 [12].
Triều Tây Sơn (1788 - 1808) Nguyễn Hoành đã để lại tập "Nam dược" với 620 vị thuốc, với các phương thuốc kinh nghiệm gia truyền [8].
Triều Nguyễn (1802 - 1845) có quyển "Nam dược tập nghiệm quốc âm"
của Nguyễn Quang Lương về phương thuốc dân gian.
Trong thời Pháp thuộc (1848 - 1945), nhiều nhà thực vật học người Pháp và người Việt góp công nghiên cứu cây thuốc Việt Nam. Ví dụ: bộ "Trung Việt dược tính hợp biên" của Đinh Nho Chân với 1600 vị thuốc Nam Bắc. Công trình nghiên cứu của Ch.Crevost và A.Petelote (1917), đã nghiên cứu và công bố kết quả điều tra về tài nguyên thực vật ở Việt Nam và Đông Dương. Năm 1954, A.Petelote đã xuất bản bộ sách:"Những cây thuốc của Campuchia, Lào, và Việt Nam" gồm 4 tập [8].
Sau cách mạng tháng 8 -1945, y dược học cổ truyền đạt được những thành tựu to lớn. Dưới sự lãnh đạo của Bộ y tế cùng y học hiện đại, sức khỏe của người dân được quan tâm và chăm lo chu đáo hơn.
Chỉ thị số 210 TTG /VG ngày 6/12/1966 của Thủ tướng chính phủ đã nhận định như sau: "Dược liệu nước ta rất nhiều, gồm các loài cây thuốc và một số động vật. Có nhiều loài quý, hiếm ở trên thế giới. Dược liệu ở nước ta chẳng những là cơ sở cho nền y học dân tộc mà còn có một vị trí quan trọng trong nền y học hiện đại, chẳng những là nguồn tự cung tự cấp về các loài cây thuốc Nam, thuốc Bắc, thuốc Tây, mà còn là loại hàng xuất khẩu có giá trị...Phải coi trọng dược liệu như cây công nghiệp cao cấp" [4].
Vì vậy, sau khi nước nhà thống nhất, việc nghiên cứu cây thuốc ở nước ta được quan tâm nhiều hơn. Có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu, tìm tòi và phát hiện thêm nhiều loài cây thuốc mới.
Dược điển Việt Nam tập 2 (1983) của NXB Y học do nhiều thành viên và các cơ quan tham gia xây dựng, đã mô tả và nêu công dụng của hơn 430 loài cây thuốc [18].
Lương y lão thành, thầy thuốc ưu tú Lê Trần Đức với tác phẩm: "Cây thuốc Việt Nam "(1995) đã giới thiệu hơn 830 loài cây thuốc chính, phụ [8].
Đỗ Tất Lợi (1986-1995) khi nghiên cứu các loài cây thuốc đã công bố 793 loài thuộc 164 họ ở hầu hết các tỉnh nước ta [9].
Võ Văn Chi, 1996 [8] với bộ sách "Cây cỏ có ích ở Việt Nam" gồm 4 tập đã giới thiệu 600 loài cây mọc hoang và trồng ở Việt Nam [4].
Giáo sư Nguyễn Văn Dân với cuốn sách: "Cây thuốc Việt Nam" giới thiệu 200 loài cây thuốc kèm theo tranh màu minh họa sống động, rất thuận tiện cho việc tra cứu.
Đặng Quang Châu (2001) đã công bố một số dẫn liệu về cây thuốc của dân tộc Thái ở huyện Nghĩa Đàn (Nghệ An) gồm 177 loài, thuộc 149 chi, thuộc 71 họ khác nhau [5].
Đặng Quang Châu, Bùi Hồng Hải (2003) khi điều tra các loài cây thuốc của dân tộc Thái ở huyện Quỳ Châu (Nghệ An) đã thu được 93 loài thuộc 7 chi, 42 họ [6].
Các tác giả đã phân loại cây được sử dụng theo các nhóm bệnh: bệnh ngoài da, bệnh về đường tiêu hóa, bệnh về gan, bênh về xương...
Lưu Đàm Cư, Hà Tuấn Anh, Trương Anh Thư (2004) khi điều tra các loài cây có ích của dân tộc H'mông ở vùng núi cao phía Bắc đã phân loại được 4 nhóm theo công dụng: cây lương thực - thực phẩm, cây làm thuốc, cây có độc, cây để nhuộm màu, cây ăn quả. Trong nhóm cây làm thuốc, các tác giả đã thống kê được 657 loài thuộc 118 họ mà người H'Mông sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho người và gia súc [7].
Nguyễn Thị Thủy, Phạm Văn Thính (2004) đã xây dựng các mô hình vườn bảo tồn cây thuốc ở vùng cao Sa Pa, như vườn rừng, trang trại, vườn các hộ gia đình. Bước đầu đã bảo tồn được 52 loài cây thuốc thuộc 28 họ, trong đó nhiều loài đang có nguy cơ bị tuyệt chủng [16].
Cùng với sự ra đời của các công trình nghiên cứu, nhiều tổ chức về y học dân tộc được thành lập: hội Đông y Việt Nam, Viện nghiên cứu Đông y... đã có thành công trong việc điều tra, sưu tầm dược liệu: sưu tầm được 1863 loài cây thuốc thuộc 238 họ thực vật, thu thập 8000 tiêu bản của 1296 loài [4].
Các công trình nói trên đều có một hướng nghiên cứu chung: mô tả các loài, nêu thành phần hóa học, đặc biệt nói đến công dụng, cách chế biến và liều lượng. Nhờ đó giúp cho người sử dụng có thêm hiểu biết cơ bản về loại dược liệu mình sử dụng, có độ tin cậy cao.
1.3. ý nghĩa kinh tế - xã hội của cây thuốc
Để duy trì sự tồn tại và phát triển của con người, ngoài các yếu tố dinh dưỡng, môi trường sống và các yếu tố xã hội khác, thì chống lại bệnh tật, phòng và chữa bệnh là một trong những yếu tố quan trọng giúp con người thích nghi sống khỏe và lâu hơn. Vì vậy có thể nói thuốc nói chung, trong đó cây thuốc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Theo đánh giá của tổ chức y tế thế giới (WHO), 80% dân số thế giới sử dụng cây thuốc cho việc chăm sóc sức khỏe ban đầu . Một tài liệu khác (IBPGR, 1992) cho thấy ở các nước đang phát triển, 70 - 80% dân số vùng nông thôn sử dụng cây thuốc là nguồn chữa bệnh chủ yếu. Qua số liệu trên cho thấy, mặc dù hiện nay khoa học công nghệ phát triển, việc sử dụng cây thuốc và y học cổ truyền vẫn có vai trò vô cùng quan trọng [12].
Ngoài việc sử dụng trực tiếp cây thuốc để chữa bệnh, hàng năm ngành bào chế dược phẩm trên thế giới tiêu thụ một khối lượng rất lớn dược liệu cho các dây chuyền sản xuất. ở Mỹ, hàng năm có 25% nguyên liệu làm thuốc lấy từ thực vật. Sản phẩm này đóng góp 1,5 tỷ đô la và giữ vai trò đáng kể trong cán cân thương mại.
Một tài liệu khác tính toán rằng, nếu phát triển tối đa nguồn thuốc thảo mộc từ các nước nhiệt đới, hàng năm có thể thu lại được 900 tỉ đô la Mỹ cho các nước thứ 3 (News Week, Feb 9/1992).
Tinh dầu được chiết xuất từ các loài cây làm thuốc có tác dụng rõ rệt lên hệ tuần hoàn, hô hấp, thần kinh. Hiện nay, trong một số xí nghiệp ở Mỹ, Nga, người ta đã thử nghiệm thành công trong việc làm tăng năng xuất lao động, chống mệt mỏi, giảm các lỗi kỹ thuật trong dây chuyền sản xuất khi phun một lượng nhỏ tinh dầu vào không khí. Kim ngạch xuất khẩu tinh dầu hàng năm sang các nước: Mỹ, Nhật, Pháp, ý, Hà Lan, Đức lên tới 40 tỷ đô la Mỹ/năm.
Ngoài lợi ích kinh tế xã hội nói trên, việc sử dụng, phát triển cây thuốc còn mang lại lợi ích về môi trường, sinh thái rất to lớn.
1.4. Tiềm năng, tình hình khai thác và sử Dụng cây thuốc ở
nước ta
Nước ta nằm trong vành đai nhiệt đới - gió mùa, có hệ thực vật phong phú và đa dạng nên tiềm năng về cây thuốc là rất lớn. Theo tài liệu thống kê của hội nghị châu á về cây thuốc và cây tinh dầu ở Băng Cốc (12/1996), Việt Nam có khoảng 3200 loài làm thuốc. Con số này sẽ không ngừng tăng lên trong những năm tới đây, do nhiều loài cây thuốc Việt Nam được sử dụng trong y học cổ truyền của các dân tộc chưa được điều tra nghiên cứu.
Các cây làm thuốc phân bố chủ yếu ở các vùng trung du và miền núi (70%). Những vùng có nhiều loài cây thuốc tập trung chủ yếu ở các loại hình rừng nhiệt đới thường xanh. Đặc biệt là các khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia, rừng rậm nguyên sinh như: Cúc Phương, vườn Quốc gia Cát Bà, Ba Vì, Tam Đảo, Nam Cát Tiên...Đây là những nơi thảm thực vật được bảo vệ tương đối tốt là môi trường thuận lợi cho các nhà nghiên cứu điều tra thống kê, khám phá thêm những loài mới.
Thấy được những tiềm năng to lớn của cây thuốc Việt Nam, trong những năm 60, 70 của thế kỷ 20, phong trào phát triển và sử dụng cây thuốc Nam được khuyến khích và phát triển rầm rộ. Vào thời gian này 60% số xã ở miền Bắc có vườn thuốc Nam, các cơ sở y tế địa phương và trong dân gian sử dụng cây thuốc để phòng và chữa bệnh là chính và đạt nhiều kết quả tốt.
Hiện nay, y học hiện đại đang phát triển như vũ bão. Những thành tựu mà y học hiện đại đạt được thật đáng kinh ngạc, đã đưa con người thoát khỏi một số căn bệnh hiểm nghèo, giành lấy sự sống cho mình. Thị trường thuốc Tây ở nước ta cũng đang ngày một mở rộng. Tuy vậy, việc sử dụng cây thuốc trong nước vẫn được dùng nhiều ở một số bộ phận cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, các dân tộc miền núi.
Trong công tác trị liệu bằng y học cổ truyền, mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề của y học Trung Quốc (thuốc Bắc) nhưng các vị thuốc trong nước vẫn chiếm vị trí quan trọng. Nhiều vị thuốc hoàn toàn trồng ở Việt Nam, chưa từng nhập ở Trung Quốc (Bồ công anh, Sài đất, Kim ngân, Quế...). Nhiều loài có thể thay thế cho dược liệu nhập nội mặc dù chất lượng chưa cao (Đẳng sâm, Bạch truật, Cánh kiến, Kỷ tử ...). Nhiều loài cây thuốc khai thác ở Việt Nam có chất lượng cao hơn sản phẩm cùng loại ở Trung Quốc. Rõ ràng, cây thuốc đã có khả năng đáp ứng nhu cầu phòng và chữa bệnh bằng y học cổ truyền.
Trong những năm qua, một số loài cây thuốc đã là những nguyên liệu không thể thiếu trong công nghiệp dược liệu hiện đại. Những thành tựu quan trọng đã thu được là:
- Chiết xuất Berberin từ cây Vàng đắng.
- Sản xuất nhiều loại tinh dầu thực vật.
- Sản xuất Rotundin, Stihox từ củ Bình vôi.
- Chiết xuất Rutin từ Hoa hòe.
Ngoài ra, chúng ta đã có những thành công bước đầu trong việc sử dụng cây thuốc để chữa một vài căn bệnh hiểm nghèo và bệnh xã hội. Đáng kể trong lĩnh vực này là sử dụng cây thuốc chữa bệnh ung thư tuyến tiền liệt, hạn chế phát triển khối u sau giải phẫu. Đồng thời các bài thuốc đông y đang có triển vọng trong việc cắt cơn nghiện ma túy.
Do chính sách mở cửa cũng như sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, trong những năm trở lại đây, một số loài cây thuốc đã bị khai thác quá mức, không được bảo vệ và dần đi tới khan hiếm hoặc có nguy cơ tuyệt chủng như: Hoàng đằng, Hoàng liên, Trầm hương...[12]
1.5. Tình hình nghiên cứu cây thuốc ở Thái Nguyên
Những công trình nghiên cứu về dược liệu ở tỉnh Thái Nguyên còn rất ít. Gần đây, Nguyễn Trọng Lạng (1996) [10] nghiên cứu về cây thuốc ở một số tỉnh miền núi phía Bắc (trong đó có Thái Nguyên) đã công bố 160 loài cây thuốc và công dụng của chúng. Còn lại, chủ yếu nghiên cứu về: thành phần loài, giá trị kinh tế và một số mô hình nông lâm kết hợp, biện pháp phục hồi rừng (Lê Ngọc Công, 2004 [3], Nguyễn Phú Quang 2001 [20]). Tuy nhiên, việc tìm hiểu đa dạng nguồn gen cây thuốc và giá trị sử dụng của chúng ở địa phương xã Văn Hán chưa có tác giả nào nghiên cứu. Vì vậy, khóa luận tốt nghiệp đại học này của tôi nhằm tìm hiểu sự đa dạng nguồn gen cây thuốc ở địa phương.
Chương 2
đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu toàn bộ các loài thực vật có giá trị làm thuốc trong một số quần xã: rừng phục hồi tự nhiên, thảm cỏ, cây bụi, rừng trồng (keo, bồ đề), vườn nhà, ven đường đi tại xã Văn Hán, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp điều tra theo tuyến.
Trước hết là xác định địa điểm và quần xã thực vật nghiên cứu. Sau đó lập các tuyến đi điều tra tùy từng địa hình và quần xã cụ thể.
+ Nếu là đồi thì tuyến đi vuông góc với đường đồng mức.
+ Nếu là địa hình bằng phẳng thì tuyến đi là các đường ngang hoặc dọc quần xã.
Các tuyến này cách nhau 50 - 100m. trên tuyến đi tiến hành thống kê tất cả các loài, dạng sống trong phạm vi chiều rộng của tuyến từ 2-4m. Những loài chưa biết tên lấy mẫu về tra cứu.
2.2.2. Phương pháp lập ô tiêu chuẩn
Chúng tôi tiến hành lập các ô tiêu chuẩn. Các ô tiêu chuẩn được bố trí theo tuyến đi.
Kích thước ô tiêu chuẩn tùy theo loại quần xã:
+ Đối với rừng phục hồi tự nhiên,rừng trồng,ô tiêu chuẩn có diện tích là 100m2 (10m x 10m ).
+ Đối với thảm cây bụi ô có diện tích 16m2(4m x 4m).
+ Đối với thảm cỏ ô có diện tích là 4m2 (2m x 2,)
Trong mỗi ô, tiến hành thống kê thành phần loài, dạng sống. Loài nào chưa biết tên ,lấy mẫu về tra cứu.
2.2.3. Phương pháp điều tra trong nhân dân
Chúng tôi tiến hành phỏng vấn một số người dân vùng nghiên cứu về các loài cây làm thuốc, công dụng và bộ phận sử dụng làm thuốc trong việc phòng, chữa bệnh ở địa phương.
2.2.4. Phương pháp phân tích mẫu
Sau khi thu thập mẫu tại các điểm nghiên cứu, chúng tôi tiến hành xác định tên loài theo các tài liệu của Lê Khả Kế và cộng sự (1969) [13], Phạm Hoàng Hộ (1993) [19], Nguyễn Tiến Bân (1997), Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn (2000) [2].
Tên họ và tên loài cây được xếp theo vần ABC (theo tên Latinh) và xếp theo hệ thống tiến hóa của Takhtazan (1981).
Xác định dạng sống, công dụng của các loài và nhóm loài làm thuốc dựa vào các tài liệu: "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam" của Đỗ Tất Lợi (1986) [9], "Cây thuốc Việt Nam" của Lê Trần Đức (1995) [8].
Xác định cây thuốc có nguy cơ tuyệt chủng và nguy cơ khan hiếm cần được bảo vệ trong sách đỏ Việt Nam [21]Chương 3
điều kiện tự nhiên xã hội vùng nghiên cứu
3.1. Điều kiện tự nhiên vùng nghiên cứu
3.1.1. Vị trí địa lý, ranh giới vùng nghiên cứu
- Vị trí địa lý, ranh giới của tỉnh Thái Nguyên
Thái Nguyên có giới hạn từ 21001' đến 22003' vĩ Bắc và từ 105028' đến 106014' kinh Đông.
Về ranh giới: phía Bắc giáp tỉnh Bắc Cạn, phía Tây giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Tây nam giáp tỉnh Vĩnh Phúc, phía Đông giáp tỉnh Bắc Giang, phía Đông bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Nam giáp thủ đô Hà Nội.
- Địa điểm nghiên cứu thuộc xã Văn Hán, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Đây là xã nằm ở phía Đông bắc của tỉnh, cách trung tâm thành phố 20 km.
Về ranh giới: phía Bắc giáp huyện Võ Nhai, phía Tây giáp xã Khe Mo, phía Nam giáp xã Nam Hòa, phía Đông giáp xã Cây Thị.
3.1.2. Các yếu tố tự nhiên của vùng nghiên cứu
3.1.2.1. Đặc điểm chung về địa hình
Địa hình của tỉnh không bằng phẳng, chủ yếu là đồi núi thấp. Diện tích đồi núi có độ cao hơn 100m chiếm 2/3 diện tích tự nhiên, còn lại là thung lũng, vùng phù sa của sông Cầu, sông Kông và đồi thấp. Vùng có độ cao lớn nhất là 1591m thuộc dãy Tam Đảo, vùng thấp nhất là Phổ Yên 15m (so với mực nước biển). Các dãy núi nằm ở vùng phía Nam của cánh cung Đông bắc. Đồi núi cao thường tập trung ở khu vực phía Tây, Bắc của tỉnh.
Điểm nghiên cứu tại xã Văn Hán, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên thuộc phía Đông Bắc của tỉnh. Địa hình chủ yếu là đồi núi đất xen lẫn với đồi núi đá vôi. Độ cao trung bình 500-600m, xen lẫn là những dải thung lũng.
3.1.2.2. Diện tích
Toàn tỉnh có 356801 ha đất tự nhiên, diện tích có rừng là 139420 ha trong đó 99795 ha rừng tự nhiên và 39625 ha rừng trồng.
Điểm nghiên cứu xã Văn Hán, có tổng diện tích đất tự nhiên là 7784 ha, trong đó đất có rừng là 2027,4 ha chiếm 26% diện tích đất tự nhiên.
3.1.2.3. Khí hậu
Do vị trí địa lý, địa hình như trên, tỉnh Thái Nguyên nằm trong điều kiện nhiệt đới gió mùa, hàng năm có hai mùa rõ rệt. Mùa hạ từ tháng 4 đến tháng 10, có gió mùa Đông nam, nhiệt độ cao, lượng mưa lớn, độ ẩm cao. Mùa đông từ tháng 11 đến tháng 3, có gió mùa Đông bắc, trời rét đậm, nhiệt độ thấp, độ ẩm không khí thấp, nắng hanh, có sương muối, mưa phùn về cuối đông.
- Về nhiệt độ: có sự phân mùa rõ rệt, mùa hè nhiệt độ cao nhất vào tháng 6, 7, 8. Mùa đông từ tháng 11 đến tháng 3, nhiệt độ trung bình thấp nhất trong 4 năm (từ 2000 -2004) tại Thái Nguyên là 17,20C (tháng 1). Nhiệt độ trung bình cao nhất trong 4 năm (2000 - 2004) là 28,60C (tháng 7). Nhiệt độ không khí trung bình từ 2000 đến 8/2004 là 23,740C.
- Về độ ẩm: độ ẩm ở năm 2003 - 2004 khá cao, biến động theo mùa. Độ ẩm lớn nhất vào tháng 7 - 8 là tháng có lượng mưa lớn trong năm. Độ ẩm thấp nhất vào tháng 11 - 12 do chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông bắc khô và lạnh.Độ ẩm trung bình từ năm 2000- 8/2004 là 81,2%.
- Về lượng mưa: Tháng 6, 7, 8 do tác động của gió mùa Đông nam nên lượng mưa lớn. Trong khi đó các tháng 11, 12, 1, 2 lượng mưa thấp nhất.Tổng lượng mưa trung bình từ năm 2000-2004 là 1719,7mm.
Bảng 3.1: Nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa trung bình giai đoạn 2000 - 2004 của tỉnh Thái Nguyên
( Theo số liệu của trung tâm khí tượng thủy văn tỉnh Thái Nguyên)
Chỉ tiêu
Tháng
Nhịêt độ trung bình (0C)
Độ ẩm trung bình (%)
Lượng mưa trung bình (mm)
1
17,2
77,1
20,1
2
17,9
82,8
32,7
3
20,8
83,4
55,2
4
24,4
84,8
77,9
5
27,0
82,2
275,3
6
28,6
81,8
240,3
7
28,6
84,8
464,8
8
28,5
84,4
264,4
9
27,2
81,7
127,9
10
25,1
81
123,2
11
21,2
75
21,8
12
18,2
75,5
16,1
Trung bình năm
23,7
81,2
1719,7
3.2. Điều kiện dân cư, xã hội
Theo số liệu điều tra năm 1999, dân số tỉnh Thái Nguyen có 1092000 người với mật độ trung bình 300 người/km2, tập trung cao nhất ở thành phố Thái Nguyên với 2500 người/km2, thấp nhất là Sảng Mộc (huyện Võ Nhai) 8 người/km2. 70% số dân sống trong khu vực nông nghiệp.
Tỉnh Thái Nguyên có 43 dân tộc anh em, chiếm đa số là các dân tộc: Kinh, Tày, Nùng, Sán Chỉ, Dao, Mông. Do tỷ lệ tăng dân số nhanh, lại phân bố không đều nên ảnh hưởng tới sự phát triển nông nghiệp và văn hóa xã hội trong tỉnh.
Vùng nghiên cứu xã Văn Hán có 10 dân tộc là: Kinh (5141 người), Nùng (3299 người), Sán Chỉ (119 người), Tày (53 người), Sán dìu (28 người)… Là huyện có nhiều dân tộc ít người cùng chung sống, trình độ văn hóa chưa cao, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Do vậy, ý thức bảo vệ rừng của người dân chưa cao. Hiện tượng chặt cây lấy gỗ phục vụ cho làm nhà, làm nguyên liệu vẫn diễn ra. Tuy nhiên có giảm trong những năm gần đây, song cần phải quan tâm, chú ý hơn nữa. Địa phương cần hoàn thành tốt hơn nữa chính sách giao đất giao rừng đến từng hộ gia đình, giúp cho việc khoanh nuôi, bảo vệ rừng ngày một hiệu quả. Nhờ đó sự đa dạng các loài thực vật nói chung và đa dạng các loài làm thuốc mới được bảo tồn và phát triển.
Chương 4
kết quả nghiên cứu và thảo luận
4.1. Đa dạng về thành phần loài cây thuốc, đa dạNG LOàI CủA CáC Họ Và CHI Sử DụNG LàM THUốC ở xã văn hán, huyện đồng hỷ, tỉnh thái nguyên.
Sau một thời gian điều tra nghiên cứu, chúng tôi đã thu được 184 loài, thuộc 151 chi, 59 họ, phân bố trong các ngành: Thông đất (Lycopodiophyta), Dương xỉ (Polypodiophyta), Hạt trần (Gymnospermatophyta), Hạt kín (Angiospermatophyta). Số lượng các họ, chi, loài chúng tôi thống kê ở bảng 4.1.
Bảng 4.1: Số lượng các họ, chi, loài cây thuốc ở xã Văn Hán, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên
STT loài
Tên khoa học
Tên địa phương
Dạng sống
Sinh cảnh sống
Cây gỗ
Cây bụi
Cây thảo
Cây leo
I. lycopodiophyta
ngành thông đất
1. Lycopodiaceae
họ thông đất
1
. Lycopodium cernua L.
Thông đất
+
A
II. polypodiophyta
ngành dương xỉ
2. Adiantaceae
họ đuôi chồn
2
Adiantum capillus L
Tóc thần vệ nữ
+
AB
3. Aspleniaceae
họ tổ chim
3
Asplenium nidus L.
Tổ chim
+
A
4. Dryopteridaceae
họ dương xỉ
4
Cibotium barometz(L)J.Sm.
Cu li
+
A
5
Cyclosorus parasitica (L) Fawell.
Dương xỉ thường
+
AB
6
Drynaria forunei J.Sm.
Bổ cốt toái
+
A
III. Gymnosperma Tophita
Ngành hạt trần
5. Cycadaceae
họ tuế
7
Cycas pectinata Griff.
Thiên tuế
+
E
8
Cycas repoluta Thunb.
Vạn tuế
+
E
6. Cupressaceae
họ bách
9
Araucaria excelsa R.Br.
Bách tán
+
E
10
Thuj a oeientalis L.
Trắc bách diệp
+
E
7. Pinaceae
họ thông
11
Pinus morkusii Coolet Gauss.
Thông nhựa
+
F
IV. ngiospermatophytA
Ngành hạt kín
(A) dicotyledoneae
lớp 2 lá mầm
8. Acanthaceae
họ ô rô
12
Ruellia tuberosa L.
Quả nổ
+
CD
9. AMRYLLIDACEAE
Họ THủY TIÊN
13
Crinum asiaticum L.
Náng hoa trắng
+
E
10. ANACARDIACEAE
Họ đào lộn hột
14
Mangifera indica L.
Xoài
+
E
15
Rhus chinensis L.
Muối
+
AB
11. AnnonaCeae
họ na
16
Annona squamosa L.
Na
+
E
12. AmaRanthaceae
họ dền
17
Celosiac cristata L.
Mào gà đỏ
+
E
13. Apocynaceae
họ trúc đào
18
Alstonia scholaris (L) R.Be.
Hoa sữa
+
EF
14. Araliaceae
họ nhân sâm
19
Scheffleera octophylla Har.
Ngũ gia bì
+
E
20
Nothopanax fruticosum Miq.
Đinh lăng
+
E
15. AsteraCeae
họ cúc
21
Ageratum conyzoides L.
Cứt lợn
+
BCDF
22
Artemisia vulgaris L.
Ngải cứu
+
E
23
Bidens polisa L
Đơn kim
+
CDEF
24
Blumea lanceolaria Roxb Duee.
Xương sông
+
E
25
Cirsium japonicus (DC) Maxim.
Ô rô
+
AE
26
Crassocephalum crepidioides (Beth)
Rau tàu bay
+
AC
27
Elephantopus scaber L.
Cúc chỉ thiên
+
BCD
28
Eclipta prostata L
Cỏ nhọ nồi
+
E
29
Eupatorium odoratum L
Cỏ lào
+
ABC
30
Lactuca indica L
Bồ công anh
+
ACE
31
Paethenium hysterophorus L
Cúc liên chi dại
+
C
32
Pluchea indica (L) Lees
Cúc tần
+
EF
33
Wedelia chinensis (Osh) Merr.
Sài đất
+
E
34
Xalthium strumarinm L.
Ké đầu ngựa
+
DF
16. Bignoniacea
họ núc nác
35
Oroxylum indicum (L) Vent.
Núc nác
+
DF
36
Heliot._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34164.doc