Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
------------ -------------
PHẠM THANH HUẾ
ĐIỀU TRA PHÂN VÙNG SINH THÁI VÀ ĐÁNH GIÁ
THỰC TRẠNG KHAI THÁC CÂY THỨC ĂN GIA SÚC
XÃ HÙNG SƠN HUYỆN ĐẠI TỪ - THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 60 – 42 - 60
LUẬN VĂN THẠC SỸ SINH HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hoàng Chung
Thái nguyên - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
CÔNG TRÌNH ĐƯỢC
116 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1633 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Điều tra phân vùng Sinh thái và đánh giá thực trạng khai thác cây thức ăn Gia súc xã Hùng Sơn huyện Đại Từ - Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÀN THÀNH TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC
SƯ PHẠM THÁI NGUYÊN
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Hoàng Chung
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Luận văn được bảo vệ tại hội đồng chấm luận văn họp tại trường
Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên
Vào hồi giờ ngày tháng năm 2009
Có thể tìm hiểu luận văn tại thư viện
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình của tôi, các số liệu, kết quả nghiên
cứu trong luận văn là trung thực và chưa ai công bố
Tác giả
Phạm Thanh Huế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS – TS Hoàng Chung đã
tận tình hướng dẫn để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Tôi xin cám ơn toàn thể các thày cô giáo, các cán bộ, nhân viên khoa
Sinh trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên. Xin cám ơn cán bộ, nhân viên
Viện Khoa học Sự sống – Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên và bạn bè
đồng nghiệp đã động viên giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu
khoa học.
Nhân đây tôi cũng xin cám ơn các vị lãnh đạo cũng như các cán bộ của
Ủy ban nhân dân xã Hùng Sơn – Đại Từ - Thái Nguyên, phòng Nông nghiệp
huyện, phòng Thống kê, phòng Địa chính huyện Đại Từ.
Thái Nguyên, ngày 24 tháng 09 năm2009.
Tác giả
Phạm Thanh Huế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
VCK: Vật chất khô
NC: Nghiên cứu
DS: Dạng sống
GTCT: Giá trị chăn thả
T0: Giá trị chăn thả tốt
TB: Giá trị chăn thả trung bình
Ke : Giá trị chăn thả kém
Ho: Không có giá trị chăn thả
ĐVTĂ: Đơn vị thức ăn
UBND: Ủy ban nhân dân
NXB: Nhà xuất bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1: Số lượng gia súc- gia cầm huyện Đại Từ qua các năm 32
Bảng 4.1: Thành phần loài trong các thảm cỏ ven sông 56
Bảng 4.2: Những dạng sống của thực vật trong các thảm cỏ ven sông 63
Bảng 4.3: Thành phần loài trong các đồi cỏ tự nhiên 67
Bảng 4.4: Những dạng sống của thực vật trong đồi cỏ tự nhiên 75
Bảng 4.5: Thành phần loài dưới tán rừng 79
Bảng 4.6: Những dạng sống của thực vật dưới tán rừng 86
Bảng 4.7: Năng suất một số thảm cỏ tự nhiên 90
Bảng 4.8: Năng suất cỏ dầy qua 5 lần cắt 91
Bảng 4.9: Thành phần hóa học của cỏ trồng 92
Bảng 4.10: Thu nhập từ chăn nuôi bò của gia đình ông Sơn 94
Bảng 4.11: Thu nhập từ chăn nuôi bò của gia đình ông Hùng 95
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC BẢN ĐỒ
Trang
Hình 2.1. Bản đồ hành chính xã Hùng Sơn 38
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1
MỤC LỤC
Mục lục 1
MỞ ĐẦU 3
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 5
1.1. Khái niệm về phân vùng, các dạng phân vùng 5
1.2. Phân vùng địa vật lý 7
1.3. Phân vùng khí hậu 7
1.4. Phân vùng thổ nhưỡng 11
1.5. Phân vùng sinh thái thảm thực vật 13
1.6. Những nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên 17
1.7. Tình hình về nghiên cứu đồng cỏ trồng 28
1.8. Tình hình nghiên cứu về thức ăn và chăn nuôi gia súc ở Đại Từ 30
CHƢƠNG 2. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI VÙNG NGHIÊN CỨU 33
2.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội của huyện Đại Từ 33
2.1.1. Điều kiện tự nhiên 33
2.1.2. Tình hình xã hội huyện Đại Từ 36
2.2. Điều kiện tự nhiên và xã hội xã Hùng Sơn 36
2.2.1. Điều kiện tự nhiên 37
2.2.2. Điều kiện xã hội 40
CHƢƠNG 3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 42
3.1. Đối tượng nghiên cứu 42
3.2. Phương pháp nghiên cứu 42
3.2.1. Điều tra cơ bản vùng nghiên cứu qua số liệu thứ cấp tại địa phương 42
3.2.2. Các phương pháp nghiên cứu ngoài thiên nhiên 42
Trang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2
3.2.3. Các phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm 43
3.2.4. Phương pháp thực nghiệm trồng cỏ 50
CHƢƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 51
4.1. Kết quả nghiên cứu các tiểu vùng sinh thái 51
4.1.1. Nguyên tắc và căn cứ để phân chia các tiểu vùng sinh thái 52
4.1.2. Kết quả phân loại các tiểu vùng sinh thái 53
4.1.3. Mức độ khai thác hiện nay của các tiểu vùng 54
4.2. Đánh giá thực trạng hiện nay về cây thức ăn gia súc ở xã Hùng Sơn 56
4.2.1. Thảm cỏ ven sông 56
4.2.2. Thảm cỏ trong đồi cỏ tự nhiên 67
4.2.3. Thảm cỏ dưới tán rừng 79
4.2.4. Sinh khối thảm cỏ tại một số điểm nghiên cứu 89
4.3. Thực nghiệm trồng cỏ 91
4.3.1. Kết quả thực nghiệm trồng cỏ 91
4.3.2. Về chất lượng cỏ trồng 92
4.4. Hiệu quả mô hình chăn nuôi trong xã 93
4.4.1. Đánh giá các mô hình chăn nuôi 93
4.4.2. Đề xuất mô hình khai thác thức ăn 96
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 98
1. Kết luận 98
2. Đề nghị 99
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
PHỤ LỤC 106
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3
MỞ ĐẦU
Việt Nam là một nước có nền nông nghiệp phát triển lâu đời với hai
ngành chính là trồng trọt và chăn nuôi. Trong đó chăn nuôi đặc biệt chiếm vị trí
quan trọng. Đây là một ngành kinh tế đem lại lợi nhuận cao và hiện đang là thế
mạnh của các tỉnh miền núi. Nhu cầu phát triển chăn nuôi của các hộ nông dân
ngày một lớn, hình thức chăn thả tự nhiên như trước đã không đáp ứng được,
do đó đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải nhanh chóng tìm ra phương hướng cho
việc phát triển các nguồn thức ăn xanh, đặc biệt là cỏ trồng đồng thời có biện
pháp khai thác, sử dụng nguồn thức ăn đó một cách có hiệu quả nhất.
Chúng ta biết rằng đồng cỏ là kho dự trữ năng lượng tiềm tàng, gia súc
sẽ chuyển hoá năng lượng chứa trong đồng cỏ thành thức ăn của con người. Sự
phát triển của đồng cỏ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như khí hậu, đất đai, các
hình thức tác động của con người... Sự sinh trưởng của thảm cỏ cũng có sự
biến động theo mùa rõ rệt. Ở các vùng sinh thái khác nhau thì thảm cỏ có sự
phát triển khác nhau, tạo nên các loại thảm cỏ với năng suất khác nhau. Chính
vì vậy mà việc phân vùng sinh thái có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó giúp ta
phân định các quy luật sinh thái đặc thù của từng vùng, tiểu vùng. Nó còn là cơ
sở cho việc quy hoạch, phân vùng kinh tế, đặc biệt là các vùng có khả năng
dùng làm đồng cỏ phục vụ cho phát triển chăn nuôi, lập phương án sử dụng
hợp lý các kiểu đồng cỏ, cây trồng làm thức ăn gia súc, góp phần phát triển bền
vững chăn nuôi địa phương.
Hiện nay, chăn nuôi gia súc ở các tỉnh miền núi phía Bắc đang chuyển
dịch dần từ hình thức quảng canh sang thâm canh, nuôi nhốt thu cắt thức ăn
xanh và cho ăn tại chuồng. Tuy nhiên diện tích cỏ trồng vẫn chiếm một tỷ lệ rất
nhỏ so với diện tích đất trống dẫn đến thiếu thức ăn cho gia súc, đặc biệt là thức
ăn cho gia súc.Trước nhu cầu thực tiễn đó đã có rất nhiều chương trình, dự án
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4
nhập nội một số giống cỏ năng suất cao có thể trồng trong điều kiện của Việt
Nam đã trồng thử nghiệm ở nhiều nơi trong đó có các tỉnh miền núi phía Bắc.
Đại từ là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên hiện đang rất cần sự
đầu tư cho việc phát triển nguồn thức ăn xanh để cung cấp cho chăn nuôi đại
gia súc. Cũng đã có nhiều dự án đưa một số giống cỏ năng suất cao vào trồng
và cũng đã thu được kết quả nhất định. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế do
thói quen hay do ý thức chưa thật đúng của dân địa phương, đồng thời cũng
thiếu mô hình có sức thuyết phục cao để dân học tập. Xuất phát từ nhu cầu thực
tiễn đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Điều tra phân vùng sinh thái và
đánh giá thực trạng khai thác cây thức ăn gia súc xã Hùng Sơn huyện Đại Từ
tỉnh Thái Nguyên”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái niệm về phân vùng, các dạng phân vùng
1.1.1. Khái niệm vùng
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã được rất nhiều tác giả đề cập đến
khái niệm vùng:
"Vùng" thường được dùng để chỉ một lãnh thổ có phổ biến một hiện
tượng nào đó về mặt không gian được đặc trưng bởi sự thống nhất về các đặc
điểm khác nhau. Lãnh thổ đất nước được chia thành những vùng khí hậu, thổ
nhưỡng, các vùng kinh tế lớn và nhỏ, các vùng cải tạo đất, các vùng hoang
mạc, rừng… [22].
Theo Lê Bá Thảo "Vùng là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia có một
sắc thái đặc thù nhất định, hoạt động như một hệ thống do có những mối
quan hệ tương đối chặt chẽ giữa các thành phần cấu tạo nên nó cũng như mối
quan hệ có chọn lọc với không gian các cấp bên ngoài" [31].
Vùng sinh thái được hiểu là một bộ phận lãnh thổ cụ thể có chung nguồn
gốc phát sinh và phát triển, đặc trưng bởi sự đồng nhất tương đối về các điều
kiện tự nhiên (địa chất, địa hình, khí hậu, thủy văn, đất) và trên đó phát triển
một phức hợp sinh quần lạc điển hình. Vùng sinh thái bao gồm một tập hợp
có quy luật các đơn vị sinh thái cảnh quan cấu trúc (đơn vị cấp thấp). Mỗi
vùng sinh thái có những chức năng xã hội (chức năng kinh tế) nhất định,
trước hết chúng phải phù hợp với điều kiện và tài nguyên tự nhiên của chính
vùng đó. Tại đây có những hình thức khai thác, sử dụng và cải tạo thiên nhiên
tương đối giống nhau của cộng đồng con người [32].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6
Như vậy có thể hiểu vùng là một hệ thống bao gồm các mối liên hệ của
các bộ phận cấu thành với các dạng liên hệ địa lý, kỹ thuật, kinh tế, xã hội bên
trong hệ thống cũng như bên ngoài hệ thống. Vùng có quy mô rất khác nhau,
song dù quy mô vùng thế nào, lớn hay nhỏ đều có điểm chung, đó là một lãnh
thổ có ranh giới nhất định, trong đó có sự tác động tương hỗ giữa các yếu tố
tự nhiên, môi trường và con người.
1.1.2. Khái niệm phân vùng
* Sự phân vùng: Là phân chia lãnh thổ, vùng biển ra thành các vùng hay
các phần, được phân biệt bởi mức độ đồng nhất bên trong của nó. Những dấu
hiệu được sử dụng để phân vùng có thể khác nhau về đặc điểm, theo mức độ
rộng hẹp của dấu hiệu nào đó về phân bố hoặc theo mục đích phân vùng. Thời
kỳ đầu nghiên cứu lãnh thổ thường phải phân vùng, từ đó cho phép sử dụng
hợp lý tài nguyên và lao động.
Các loại phân vùng thường gặp như: Phân vùng biển, phân vùng đất
(phân vùng thổ nhưỡng), phân vùng khí hậu, phân vùng cảnh quan… Sau này
phân vùng đi vào chi tiết hơn như phân vùng địa vật lý, phân vùng sinh thái,
phân vùng các kiểu thảm thực vật, phân vùng kinh tế, phân chia các tiểu vùng
trong một vùng lớn hay một đơn vị hành chính, tự nhiên nào đó…
* Nguyên tắc phân vùng:
Theo Lê Bá Thảo phân vùng dựa trên 3 nguyên tắc:
- Về tính đồng nhất tương đối, thường được áp dụng để phân định các
vùng - cảnh quan, vùng tự nhiên hay vùng văn hóa lịch sử.
- Sự khai lợi và trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trong đó sự gắn kết
của vùng được thể hiện thông qua vai trò của hệ thống các đô thị các cấp,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7
quan trọng nhất là của thành phố có sức hút và của vùng ảnh hưởng lớn nhất,
coi như cực tạo vùng.
- Tính hữu hiệu của các điều kiện đảm bảo sự quản lý lãnh thổ [31].
Trong phần tổng quan chúng tôi chỉ đề cập đến một số dạng phân vùng
như: Phân vùng địa vật lý, phân vùng thổ nhưỡng, phân vùng khí hậu, phân
vùng sinh thái thảm thực vật.
1.2. Phân vùng địa vật lý
Phân vùng địa vật lý là hệ thống phân chia bề mặt trái đất, cơ sở để phân
chia và nghiên cứu là tổ hợp các dấu hiệu bên trong và rất đặc trưng cho riêng
nó - thiên nhiên. Người ta có thể phân chia theo từng tổ hợp riêng (như địa
hình, khí hậu, đất…) hoặc phân chia theo cả một tập hợp các yếu tố (phân
vùng cảnh quan).
Lê Bá Thảo (1970), dựa trên chỉ tiêu địa mạo - kiến tạo, ông đã phân vùng
miền Bắc Việt Nam thành 6 miền thuộc á đới Bắc đó là: Đông Bắc, Tây Bắc,
Trường Sơn Bắc, đồng bằng Bắc Bộ, Thanh Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên [29].
Vũ Tự Lập (1976), khi nghiên cứu phân vùng cảnh quan miền Bắc ông đã
phân chia thành 2 miền: Miền Bắc và Đông Bắc, miền Tây Bắc và Bắc Trung
Bộ. Miền Bắc và Đông Bắc lại phân chia thành 3 khu: Khu Việt Bắc, khu
Đông Bắc và khu đồng bằng châu thổ Bắc Bộ. Miền Tây Bắc và Bắc Trung
Bộ phân chia thành 5 khu: Khu Tây Bắc, khu Phanxipăng - Puluong, khu Hòa
Bình - Thanh Hóa, khu Quảng Bình - Vĩnh Linh, khu Nghệ Tĩnh [23].
1.3. Phân vùng khí hậu
1.3.1. Vấn đề phân vùng khí hậu trên thế giới
Về tự nhiên trái đất được chia thành 6 châu lục, mỗi châu lục có những
đặc điểm về khí hậu khác nhau. Trong mỗi châu lục lại có sự phân miền khí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8
hậu. Châu Âu chia làm 3 miền khí hậu: Miền khí hậu cực và cận cực, miền
khí hậu ôn đới đại dương và ôn đới lục địa, miền khí hậu á nhiệt đới khô (khí
hậu Địa Trung Hải, khí hậu cận nhiệt đới). Châu Á được chia ra thành 6 miền
khí hậu: Miền khí hậu xích đạo, miền khí hậu nhiệt đới gió mùa, miền khí hậu
nhiệt đới, miền khí hậu á nhiệt đới, miền khí hậu ôn đới, miền khí hậu ôn đới
lạnh và cận cực. Châu phi được phân ra 7 miền khí hậu: Miền khí hậu xích
đạo, 2 miền khí hậu cận xích đạo, 2 miền khí hậu nhiệt đới khô, 2 miền khí
hậu á nhiệt đới khô. Châu Mỹ gồm Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Bắc Mỹ gồm các
khu vực khí hậu: Khu vực khí hậu cực và cận cực, khu vực khí hậu ôn đới,
khu vực khí hậu á nhiệt đới, khu vực khí hậu nhiệt đới. Nam Mỹ gồm các khu
vực khí hậu: Khu vực khí hậu xích đạo, khu vực khí hậu cận xích đạo và nhiệt
đới, khu vực khí hậu á nhiệt đới, khu vực khí hậu ôn đới. Châu Đại Dương
chia ra các khu vực khí hậu: Khu vực khí hậu nhiệt đới, khu vực khí hậu nửa
hoang mạc, khu vực khí hậu ôn đới. Châu Nam Cực là một lục địa lạnh [39].
Các tác giả như H.Gaussen, P.Legris, P.blasco (1976) đã nghiên cứu và
thành lập bản đồ sinh khí hậu đối với vùng lãnh thổ Đông Nam Á [43].
Phân vùng khí hậu ngày nay, ngoài việc phân chia ra các đới, vùng còn
phân ra các đơn vị nhỏ hơn với sự giống nhau ít nhiều của các điều kiện khí
hậu chung hay những đặc điểm riêng biệt của khí hậu, nó có giá trị về mặt
khoa học hay kinh tế nông nghiệp. Thí dụ: M.I.Buđưko đã dùng tổng nhiệt
trong năm để phân chia, có thể dùng lượng mưa hay lượng bốc hơi… của năm
hay mùa nào đó. M.I.Buđưko đã chia vùng Kratnôđara 3 kiểu cơ bản, sau đó
theo điều kiện khí hậu mùa đông, ông chia tiếp ra 4 tiểu vùng (đông tuyết khô
- ít, đông tuyết khô, đông hơi ít tuyết và hơi khô, đông tuyết khô ôn hòa).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9
1.3.2. Vấn đề phân vùng khí hậu ở Việt Nam
Việt Nam có khí hậu nội chí tuyến gió mùa ẩm, đa dạng và thất thường.
Khí hậu Việt Nam có sự phân hóa từ Bắc vào Nam, từ Đông sang Tây và có cả
sự phân hóa từ thấp lên cao. Vấn đề phân vùng khí hậu Việt Nam từ trước đến
nay đã được nhiều nhà nghiên cứu khí hậu Việt Nam quan tâm và nghiên cứu.
Vào thế kỷ XV, Nguyễn Trãi đã có những nhận xét về đặc điểm khí hậu
các vùng địa lý và dựa trên đó đánh giá những thuận lợi khó khăn trong công
cuộc mở mang kinh tế ở từng vùng. Tiếp theo đó là Lê Tắc, Vân An, Lê Quý
Đôn, Ngô Thời Sỹ, Nguyễn Nghiễm và nhiều nhà địa lý khác bắt đầu đi sâu
vào nhiều khía cạnh khí hậu kinh tế các vùng của đất nước.
Những năm 1970, Phạm Ngọc Toàn và Phan Tất Đắc đã đưa ra những sơ
đồ đầu tiên về phân vùng khí hậu miền Bắc Việt Nam [38]. Đến những năm
80, khi xây dựng Atlat quốc gia, viện khí tượng thủy văn cũng đưa ra sơ đồ
phân vùng khí hậu Việt Nam ở tỷ lệ 1/3.000.000.
Phạm Ngọc Toàn, Phan Tất Đắc (1993) đã phân chia lãnh thổ Việt Nam
thành 3 miền khí hậu lớn: Miền khí hậu phía Bắc, miền khí hậu Đông Trường
Sơn và miền khí hậu phía Nam. Ngoài ra còn có thêm một miền khí hậu phụ
nữa là miền khí hậu Biển Ðông.
Miền khí hậu phía Bắc được chia thành 5 vùng khía hậu: Khí hậu khu
vực núi Đông Bắc, khu vực núi Việt Bắc - Hoàng Liên Sơn, khu vực núi Tây
Bắc, khu vực đồng bằng Bắc Bộ, khu vực Bắc Trung Bộ. Trong đó khí hậu
khu vực núi (Đông Bắc, Việt Bắc và Tây Bắc) đều được phân chia thành 3
vùng: Vùng thấp, vùng có độ cao trung bình và vùng núi cao.
Miền khí hậu Đông Trường Sơn có sự phân hóa thành 3 vùng khí hậu:
Vùng khí hậu khu vực Bình - Trị - Thiên, khu vực Trung Trung Bộ (được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10
chia thành 2 khu vực nhỏ hơn: Quảng Nam - Quảng Ngãi cũ và Bình Định -
Phú Yên cũ), khu vực Nam Trung Bộ.
Miền khí hậu phía Nam chia thành 2 vùng khí hậu sau: Vùng khí hậu khu
vực Tây Nguyên (được phân chia thành 3 khu vực nhỏ hơn: Bắc Tây Nguyên,
Trung Tây Nguyên và Nam Tây Nguyên), khu vực đồng bằng Nam Bộ.
Miền khí hậu Biển Đông chia thành 2 vùng khí hậu: Vùng khí hậu khu
vực phía Bắc Biển Đông, khu vực phía Nam Biển Đông [38].
Trong công trình Atlat khí hậu Thủy văn Việt Nam (1994) đã đưa ra một
sơ đồ về phân vùng khí hậu Việt Nam. Phân chia khí hậu ở Việt Nam có 2
miền khí hậu: Miền khí hậu miền Bắc và miền khí hậu miền Nam với ranh
giới là dãy núi Bạch Mã. Đồng thời nước ta còn được phân chia ra 7 vùng khí
hậu, trong đó có 4 vùng khí hậu thuộc miền khí hậu miền Bắc (khu vực núi
phía Bắc, khu vực núi Tây Bắc, khu vực đồng bằng Bắc Bộ và khu vực núi
phía Tây, khu vực Bắc Trung Bộ) và 3 vùng khí hậu thuộc miền khí hậu miền
Nam (khu vực Nam Bộ, khu vực ven biển Nam Trung Bộ, khu vực Tây
Nguyên) [40].
Mai Trọng Thông (1998) và một số tác giả khi nghiên cứu phân vùng khí
hậu Việt Nam đã nêu nguyên tắc và đưa ra sơ đồ phân vùng khí hậu Việt
Nam. Theo sơ đồ này khí hậu Việt Nam được chia thành 2 miền khí hậu:
Miền khí hậu phía Bắc (miền khí hậu nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh) và
miền khí hậu phía Nam (miền khí hậu nhiệt đới gió mùa không có mùa đông
lạnh). Trong phạm vi mỗi miền khí hậu, đã phân chia ra các vùng khí hậu
khác nhau: Miền khí hậu phái Bắc được phân thành 6 vùng khí hậu (vùng khí
hậu Đông Bắc, vùng khí hậu Tây Bắc, vùng khí hậu Việt Bắc - Hoàng Liên
Sơn, vùng khí hậu đồng bằng Bắc Bộ và bắc của Bắc Trung Bộ, vùng khí hậu
của Bắc Trung Bộ, vùng khí hậu ven biển Bình Trị Thiên), miền khí hậu phía
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11
Nam được phân thành 3 vùng khí hậu (vùng khí hậu Tây Nguyên, vùng khí
hậu Trung và Nam Trung Bộ, vùng khí hậu đồng bằng Nam Bộ) [36].
1.4. Phân vùng thổ nhƣỡng
Phân vùng thổ nhưỡng được coi như là cơ sở khoa học để phân vùng quy
hoạch nông nghiệp đồng thời tạo tiền đề để phân vùng sinh thái nông nghiệp.
Phân vùng thổ nhưỡng cũng là một căn cứ quan trọng để đánh giá các đặc
điểm và sự phân hóa về mặt lãnh thổ của thổ nhưỡng trong các mối quan hệ
chặt chẽ với các thành phần khác của tự nhiên phục vụ cho nghiên cứu sự
phân hóa của tự nhiên và phân vùng địa lý tự nhiên [24].
1.4.1. Những nghiên cứu về phân vùng thổ nhưỡng trên thế giới
Để phân loại đất, người ta dựa vào các kiểu đá mẹ, đặc điểm và phẫu
diện của các kiểu đất, độ phì của đất, cấu trúc và chế độ nước, chế độ nhiệt.
Nó được thể hiện trên bản đồ đất.
V.V.Dokutsaev đã căn cứ vào kinh nghiệm và những tài liệu điều tra thổ
nhưỡng trên một đơn vị rộng lớn, đề ra học thuyết về tính địa đới của thổ
nhưỡng: Theo chiều ngang, theo chiều cao, tính địa phương hay tính vùng [30].
E.N.Ivanova và cộng sự (1962) đã công bố sơ đồ phân vùng địa lý thổ
nhưỡng của Liên Xô. Trong đó lãnh thổ Liên Xô được chia theo các dấu hiệu
tự nhiên thành các dải, miền, đới và tỉnh thổ nhưỡng - khí hậu sinh vật [19].
Ở phía Đông, Đông Bắc Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, từ Bắc
xuống Nam phân bố 3 vùng đất: Vùng đất nâu rừng, vùng đất nâu của các
rừng khô và cây bụi, vùng đất cận nhiệt và đất đỏ [20].
Kết quả sự phân bố thổ nhưỡng trên thế giới gồm: Nhóm đất thuộc đới
Bắc cực và đài nguyên (chia thành 5 đới phụ), nhóm đất thuộc đới rừng Taiga,
nhóm đất thuộc đới rừng cây lá rộng ôn đới, nhóm đất thuộc đới thảo nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12
ôn đới, nhóm đất rừng và rừng cây bụi cận nhiệt đới, nhóm đất thuộc vành đai
nhiệt đới [30].
1.4.2. Những nghiên cứu về phân vùng thổ nhưỡng ở Việt Nam
Một vùng địa lý thổ nhưỡng là một thành phần cấu tạo lãnh thổ toàn vẹn,
tương đối đồng nhất về cấu trúc lớp phủ thổ nhưỡng bao gồm 2 đến 3 loại đất
trong đó có một loại đất chính có diện tích lớn nhất trong vùng và quyết định
phương hướng sản xuất của vùng [18]. Vấn đề phân vùng thổ nhưỡng ở nước
ta từ lâu đã được các nhà khoa học quan tâm.
Năm 1930, Jve Henry đã nghiên cứu về đất đỏ và đất đen phát triển trên
đá mẹ bazan ở Đông Dương ông đã nêu đầy đủ điều kiện phát sinh, phát triển
tính chất các nhóm đất trên đá mẹ bazan và các tiểu vùng phân bố của chúng
ở Việt Nam [44].
Năm 1958, dựa trên sơ đồ thổ nhưỡng miền Bắc Việt Nam tỷ lệ
1/1.000.000 (xây dựng năm 1957), V.M.Fridland và Lê Duy Thước đã xây
dựng bản dự thảo Phân vùng địa lý thổ nhưỡng miền Bắc Việt Nam phân chia
miền Bắc Việt Nam thành 40 vùng địa lý thổ nhưỡng, quy lại thành 17 liên
vùng. Năm 1975, dựa trên bản đồ thổ nhưỡng miền Bắc Việt Nam tỷ lệ
1/500.000, Ban biên tập bản đồ đất Việt Nam chủ trì cho xây dựng bản dự
thảo Phân vùng địa lý thổ nhưỡng miền Bắc Việt Nam thành 63 vùng địa lý tự
nhiên. Sau khi nhà nước thống nhất (1975), dựa trên bản đồ đất Việt Nam tỷ
lệ 1/1.000.000, Ban biên tập bản đồ đất Việt Nam đã xây bản dự thảo phân
vùng địa lý thổ nhưỡng Việt Nam phân chia lãnh thổ cả nước thành 154 vùng
địa lý tự nhiên (kể cả các đảo) [18].
Lê Văn Khoa (1993), căn cứ vào địa hình có thể chia ra 3 vùng đất: Vùng
núi hay vùng thượng du, vùng đồi gò hay trung du, vùng đồng bằng [20].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13
Dựa vào đặc điểm chủ yếu của đất đai, khí hậu, tổ nghiên cứu sinh thái
và môi trường - Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam đã chia ra 5 vùng đất:
Vùng đất cát và cồn cát ven biển, vùng đất phèn, vùng ngập mặn ven biển,
vùng đồng bằng châu thổ và vùng đồi núi [10].
Tổng hợp những kết quả nghiên cứu phân vùng thổ nhưỡng năm 1996 đã
xác định hệ thống phân vị trong phân vùng thổ nhưỡng Việt Nam có 4 cấp là:
Miền thổ nhưỡng, á miền thổ nhưỡng, khu thổ nhưỡng và vùng thổ nhưỡng.
Theo kết quả nghiên cứu này, nước ta được phân thành 2 miền thổ nhưỡng, 6
á miền thổ nhưỡng, 16 khu thổ nhưỡng và 142 vùng thổ nhưỡng. Hai miền
thổ nhưỡng là miền thổ nhưỡng phía Bắc và miền thổ nhưỡng phía Nam.
Miền thổ nhưỡng phía Bắc được chia thành 3 miền á thổ nhưỡng (á miền thổ
nhưỡng Bắc và Đông Bắc Bộ; á miền thổ nhưỡng Tây Bắc; á miền thổ
nhưỡng Trường Sơn Bắc) và 8 khu thổ nhưỡng. Miền thổ nhưỡng phía Nam
cũng được chia thành 3 miền thổ nhưỡng (Á miền thổ nhưỡng Nam và Đông
Nam Bộ) và 8 khu thổ nhưỡng. Các khu thổ nhưỡng trên lại được phân chia ra
142 vùng thổ nhưỡng, trong đó miền thổ nhưỡng phía Bắc có 77 vùng thổ
nhưỡng và miền thổ nhưỡng phía Nam có 65 vùng thổ nhưỡng [17].
1.5. Phân vùng sinh thái thảm thực vật
1.5.1. Những nghiên cứu về phân vùng sinh thái thảm thực vật trên thế giới
Trên trái đất khí hậu thay đổi từ lạnh sang nóng, từ khô sang ẩm. Mỗi
loại hình lớn của nó có thành phần thực vật, động vật đặc trưng - người ta gọi
nó là các biomes. Biomes theo trường phái Anh Mỹ đó là hệ sinh thái xâm
chiếm vùng rộng lớn có sự giống nhau về khí hậu và sinh vật. Cũng có thể coi
biomes đó là hệ sinh thái mà ở đó có một số nơi sống cùng tồn tại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14
Humboldt (1805), có xu hướng địa lý trong việc nghiên cứu mối quan hệ
giữa phân bố thực vật với sự phân bố nhiệt độ trên lục địa, ông đã hệ thống
hóa những tri thức địa lý thực vật, vẽ được một bản đồ chung về sự phân bố
lớp phủ thực vật trên trái đất. Tiếp đó K.F.Lêđêbur cũng công bố cuốn thực
vật chí đầu tiên của Nga (4 tập) về các hệ thực vật thuộc các vùng khác nhau
trên trái đất [42].
Năm 1865, cuốn sách giáo khoa tiếng Nga đầu tiên về địa lý thực vật do
A.N.Beketov viết được xuất bản. Sách bao gồm những đặc điểm chung của
lớp phủ thực vật trên trái đất viết theo từng miền, phân tích những nguyên
nhân lịch sử của sự phân bố thực vật [42].
Năm 1903, G.I.Tanfilev công bố công trình nghiên cứu về thảm thực vật
ở Nga kèm theo bản đồ tỷ lệ 1/25.000.000. Đây là tấm bản đồ địa lý thực vật
đầu tiên của Nga [42].
A.Hensen (1920) dựa trên khu hệ thực vật đã phân chia hệ thực vật thế
giới theo các vành đai vĩ độ và độ cao (8 vành đai). Các vành đai đó đặc trưng
cho các vùng nhiệt độ khác nhau, với các thảm thực vật khác nhau gọi là vành
đai khí hậu [9].
Dựa vào vĩ độ địa lý, độ cao so với mặt nước biển và độ lục địa. Meusel
(1943) đã có những nghiên cứu phân chia hệ thực vật thành các vành đai khác
nhau (4 vành đai).
Poronov (1955), khi nghiên cứu mối quan hệ giữa thực vật và động vật
của các vành đai tự nhiên đã phân chia ra thành 3 vùng: Vùng rừng, vùng
Tunđra (đài nguyên cực Bắc) và vùng thảo nguyên [35].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15
Josef Schimithusen (1959) đã phân biệt các vùng thực vật theo quần xã
ưu thế, chủ đạo và ổn định. Ông đã phân biệt được các đơn vị không gian tự
nhiên nhỏ nhất của thảm thực vật, đó là "các tiểu khu thực vật"
(Wuchsdistrikte), các tiểu khu này họp thành các đơn vị lớn hơn: Khu, vùng,
miền, khu hệ [28].
A.G.Voronov (1976), trên cơ sở tổng hợp những kết quả nghiên cứu
trước đó đã phân chia thành 6 miền thực vật trên lục địa: Cổ nhiệt đới
(Palaeotropic), Toàn Bắc (Holarctic), Tân nhiệt đới (neotropic), Capsk, Châu
Úc (Australia), Châu Nam Cực (Antarctic). Trong đó miền Toàn Bắc chia
thành 9 phân miền (Âu châu - Xibia, Actic, Trung Hoa - Nhật Bản, Pông Tích -
Trung Á - Địa Trung Hải, Bắc Mỹ - Thái Bình Dương), miền cổ nhiệt đới
được chia thành 3 phân miền (Châu Phi - Ấn Độ, Mã Lai, Tân Tây Lan), miền
Tân nhiệt đới được chia thành 3 phân miền (Trung Mỹ, nhiệt đới, Angđơ) [42].
Olson (1983), trong bảng phân vùng sinh thái được nhiều người công
nhận ông dùng khái niệm biomes; theo ông biomes là một vùng sống rộng lớn
trên trái đất, nó được phân biệt với nhau bởi khí hậu và sinh vật. Trong bảng
phân loại các biomes ông chia ra 4 dạng: Các biomes trên đất liền gồm 10 kiểu
lớn, các biomes nước ngọt gồm 8 kiểu, các biomes nước mặn gồm 8 kiểu, các
biomes nhân tạo gồm 3 kiểu [46]. Phần biomes trên đất liền (Terrestial biomes)
ông chia ra các kiểu sau: Tundra (lãnh nguyên), Temperate deciduous forest,
Boreal coniferous forest (rừng lá kim phương Bắc hoặc rừng Taiga), Tropical
grassland and savanna (thảm cỏ nhiệt đới và savan), Temperate rainforest
(rừng mưa ôn đới), Temperate grassland (thảm cỏ ôn đới), Chaparal (dạng
thảo nguyên), Semi-evergreen tropical forest (rừng mưa mùa nhiệt đới), Desert
(hoang mạc), Evergreen tropical rainforest (rừng mưa nhiệt đới)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16
Về sự phân bố cây trồng, theo Nguyễn Phi Hạnh, Đặng Ngọc Lân
(1980), cây trồng được phân bố ở 10 trung tâm trên thế giới, trong đó có 6
trung tâm nằm hoàn toàn trong vành đai nhiệt đới (Trung Mỹ, Nam Mỹ,
Êtiopi, Tây Xu - đăng, Ấn Độ, Đông Nam Á); hai trung tâm nằm trong vành
đai cận nhiệt đới (Địa Trung Hải, Tiền Á) và hai trung tâm nằm chủ yếu ở
vành đai cận nhiệt, có một phần lan sang cả vùng ôn đới (Trung Quốc và
Trung Á) [14].
1.5.2. Những nghiên cứu về phân vùng sinh thái thảm thực vật ở Việt Nam
Các công trình nghiên cứu về phân vùng sinh thái thảm thực vật ở Việt
Nam còn rất ít. Maurand P (1943), khi nghiên cứu thảm thực vật ở Đông
Dương đã chia thảm thực vật này thành 3 vùng: Vùng Nam Đông Dương,
vùng Bắc Đông Dương và vùng trung gian [45].
Trần Ngũ Phương (1970), khi nghiên cứu phân loại rừng miền Bắc Việt
Nam đã chia rừng miền Bắc thành 3 đai lớn theo độ cao phân bố: Đai rừng
nhiệt đới mưa mùa, rừng Á nhiệt đới mưa mùa và rừng Á nhiệt đới mưa mùa
núi cao [27].
Theo phân hóa độ cao so với mặt biển, Thái Văn Trừng (1978) đã phân
chia thảm thực vật thành 2 nhóm kiểu chính: Nhóm các kiểu thảm thực vật
nhiệt đới ở vùng thấp và vùng có độ cao trung bình nhỏ hơn 700m (ở miền
Bắc), nhỏ hơn 100m (ở miền Nam); nhóm các kiểu thảm thực vật vùng núi có
độ cao lớn hơn 700m (ở miền Bắc) và lớn hơn 1000 (ở miền Nam) [41].
Dương Hữu Thời (1981) khi nghiên cứu về thảm cỏ Bắc Việt Nam, ông
chia Bắc Việt Nam thành 5 vùng tự nhiên với sự phân bố các loài: vùng Bắc
Trung Bộ, vùng Trung Bộ, vùng Đông Bắc, vùng Việt Bắc, vùng Tây Bắc [34].
Lê Trần Chấn, Nguyễn Hữu Trí, Huỳnh Nhung (1994) trên cơ sở những
hiểu biết về điều kiện tự nhiên và sự phân hóa về thành phần loài của hệ thực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17
vật, phân chia ra các vùng sinh thái thực vật sau: Vùng núi Đông Bắc, vùng
núi Việt Bắc - Hoàng Liên Sơn, vùi núi Tây Bắc, vùng Đông Bắc Bộ, vùng
Bắc Trung Bộ, vùng Bình Trị Thiên, vùng Trung Trung Bộ, vùng Nam Trung
Bộ, vùng Tây Nguyên, vùng đồng bằng Nam Bộ [5].
Nguyễn Nghĩa Thìn (1999), nghiên cứu các kiểu khu phân bố địa lý thực
vật của các chi thực vật có hoa ở Việt Nam, ông cho rằng điều kiện địa hình,
địa chất và khí hậu quyết định cấu trúc hệ thực vật đó và ở mỗi vùng địa lý
của Việt Nam được đặc trưng bởi một số yếu tố địa lý nhất định. Đó là kết
quả của lịch sử biến đổi về địa chất, địa lý, khí hậu và đã tạo ra 4 vùng hệ
thực vật chính: Khu Đông Bắc Bộ và Đông Bắc Trường Sơn; khu Tây Bắc và
dãy Trường Sơn; khu Đông Nam Trường Sơn được chia thành 2 phân khu
(phân khu 1 và phân khu 2); khu Tây Nguyên và Nam Bộ được chia thành 2
phân khu (Tây Nguyên và Nam Bộ) [21].
Hoàng Chung (2004), khi nghiên cứu về đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt
Nam đã chia đồng cỏ Bắc Việt Nam thành 2 vùng: Vùng Đông Bắc và vùng
Tây Bắc, mỗi vùng có một tổ hợp các quần hệ, quần hợp khác nhau [7].
1.6. Những nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên
1.6.1. Vấn đề nguồn gốc và phân bố đồng cỏ trong đai nhiệt đới.
Nguồn gốc của đồng cỏ là không đồng nhất, có nhiều loại hình đồng cỏ
được hình thành bằng con đường tự nhiên, nhưng cũng có những đồng cỏ được
hình thành do hoạt động của con người trên vùng đất rừng, thảo nguyên hay
đầm lầy… làm thay đổi điều kiện môi trường và hình thành ra đồng cỏ [8].
Nguồn gốc của đồng cỏ trong đai nhiệt đới, giữa các tác giả có các ý
kiến khác nh._.au. Đa số cho rằng trong điều kiện khí hậu nhiệt đới không có
đồng cỏ tồn tại, các quần xã cỏ ở đây là loại hình savan [7].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18
Khi nghiên cứu về nguồn gốc thứ sinh của các thảm cỏ trong vùng nhiệt
đới khác nhau, các tác giả đã đi đến kết luận rằng: Các đồng cỏ và cây bụi
trong vùng nhiệt đới đều hình thành trên những quần xã rừng bị chặt hạ. Con
người khi chặt phá rừng và đốt nương làm rẫy đã làm đất bị cháy và khô đi,
những tác động này được kết thúc vào cuối mùa khô. Đầu mùa mưa ở đây sẽ
được gieo trồng các loại cây trồng nông nghiệp. Trải qua nhiều lần như vậy
đất sẽ được bỏ hoang, trên nó lại phục hồi dần rừng thứ sinh và lại tiếp tục bị
chặt hạ để trồng trọt. Kết quả dẫn đến rửa trôi mạnh lớp đất mặt, cây gỗ
không có điều kiện tái sinh nữa, hình thành nên lớp cỏ hay còn lẫn một số loài
cây thảo và cây bụi hạn sinh. Về ngoại mạo nó gần giống thảo nguyên vùng
ôn đới. Vì nguồn gốc thứ sinh như thế nên đồng cỏ phân bố rải rác ở các vành
đai khác nhau, tồn tại dạng đồng cỏ thấp hay cao tùy thuộc vào mức độ sử
dụng của con người.
Đối với vùng núi Bắc Việt Nam tồn tại nhiều kiểu savan, đồng cỏ và các
dạng trung gian. Trong đai nhiệt đới, trên những vùng đã bị chặt phá, khi mà
đất còn khá tốt, độ ẩm còn khá cao, thì sẽ hình thành ở đây loại hình đồng cỏ
vì thảm cỏ ở đây gồm các cây cỏ có thân rễ dài, búi thưa thuộc nhóm trung
sinh sống lâu năm ngừng sinh trưởng vào mùa đông. Trong quá trình tác động
tiếp theo con người sẽ làm cho lớp đất bề mặt bị bào mòn, khả năng giữ nước
của đất kém, đất có độ chua cao, trong thảm cỏ tỷ lệ cây hạn sinh tăng lên,
cuối cùng chỉ tồn tại ở đây các loài cỏ, cây bụi hạn sinh và cây đoản mệnh,
hình thành savan cỏ, savan cây bụi hoặc thảm cây bụi hạn sinh. Có thể tóm tắt
quá trình trên như sau: Rừng nguyên sinh – rừng thứ sinh – đồng cỏ - savan
cỏ hoặc savan bụi – thảm cây bụi hạn sinh [7].
1.6.2. Những nghiên cứu về khu hệ thực vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19
Nghiên cứu về khu hệ thực vật là một trong những nghiên cứu được tiến
hành từ lâu trên thế giới. Người ta có thể nghiên cứu khu hệ thực vật ở từng
vùng hay trên từng thảm thực vật khác nhau. Đối với loại hình đồng cỏ, thảo
nguyên, ở Liên Xô (cũ), đã có nhiều công trình nghiên cứu về thành phần loài
thực vật trong đồng cỏ, thảo nguyên đã công bố: Alekhin (1904), Vưsotxki
(1915), Graxits (1927), Sennhicop (1938), Creepva (1978),…[6].
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về khu hệ thực vật trong đồng cỏ, savan
hoặc một số loại hình thuộc thảo khác mới chỉ được tiến hành từ những năm
1950 trở về đây. Các tác giả đã tiến hành nghiên cứu khu hệ thực vật trong
đồng cỏ như:
(1) Nguyễn Đình Ngỗi, Võ Văn Chi (1964), khi nghiên cứu thành phần
loài của thảm thực vật ở Hữu Lũng (Lạng Sơn) đã gọi đây là loại hình này là
savan cỏ[25].
(2) Dương Hữu Thời, Nguyễn Ngọc Chất, Hoàng Chung, Phạm Quang
Anh (1969), khi nghiên cứu thành phần loài đồng cỏ Ngân Sơn (Bắc Kạn) đã
gọi đây là đồng cỏ [33].
(3) Hoàng Chung (1980) nghiên cứu thành phần loài và dạng sống của
đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam đã đưa ra bảng phân loại các kiểu đồng cỏ,
savan, thảo nguyên. Tác giả đã công bố thành phần loài thu được là 233 loài
thuộc 54 họ và 44 chi [6]. Trong cuốn “ Đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt
Nam” năm 2004 là 79 họ, 402 loài [7].
(4) Đặc biệt Dương Hữu Thời (1981) đã công bố công trình tổng hợp “
Đồng cỏ Bắc Việt Nam”, tác giả đã đề cập khá đầy đủ về loại hình đồng cỏ
của vùng này với sự phân chia 5 vùng đồng cỏ Bắc Việt Nam [34].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20
(5) Nguyễn Thế Hưng, Hoàng Chung (1995), khi nghiên cứu một số đặc
điểm sinh thái, sinh vật học của savan Quảng Ninh và các mô hình sử dụng,
đã phát hiện được 60 họ với 131 loài thực vật khác nhau.[16]
(6) Lê Ngọc Công, Hoàng Chung (1997), nghiên cứu thành phần loài,
dạng sống của savan bụi ở vùng đồi Trung du Bắc Thái (cũ) đã phát hiện
được 123 loài thuộc 47 họ khác nhau [4]…
1.6.3. Những nghiên cứu về dạng sống
Humbon (1805) là người đầu tiên đặt cơ sở cho môn địa lý thực vật, ông
đề nghị phân loại thực vật theo hình dạng bên ngoài và đã xác định được 19
dạng thực vật như hòa thảo, dương xỉ, dây leo…Sau Humbon, kiểu phân loại
như vậy đã được hàng loạt các nhà nghiên cứu tiến hành, cùng với thời gian
đó người ta đã dùng không chỉ dấu hiệu bên ngoài mà cả tổ chức cơ thể thực
vật để phân loại. Từ đó đã hình thành khái niệm dạng sống thực vật. Người
đầu tiên đề cập đến khái niệm này là Warming (1901). Ông sử dụng các đặc
điểm sinh vật học như: đặc điểm chồi, những phương thức sinh sản, sự kéo
dài đời sống, sự phát triển…để nghiên cứu và phân chia dạng sống của thực
vật thuộc thảo thuộc vùng ôn đới.
Drude (1913), Raunkiner (1905,1934) khi phân chia dạng sống đã sử
dụng vị trí của chồi và khả năng tồn tại trong điều kiện bất lợi làm tiêu chuẩn
để phân chia [7]. I.K.Patsoxki (1915), chia thảm thực vật làm 5 nhóm: Thực
vật thường xanh, thực vật rụng lá vào thời kỳ bất lợi, thực vật có thời kỳ sinh
trưởng phát triển ngắn, thực vật có thời kỳ sinh trưởng và phát triển lâu năm.
Braun Blanquet (1951) đánh giá cách mọc của thực vật dựa vào tính liên tục
hay đơn độc của loài chia thành 5 thang: Mọc lẻ, mọc thành vạt, mọc thành
dải nhỏ, mọc thành vạt lớn và mọc thành khóm lớn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21
Đối với cây thuộc thảo phân loại dạng sống đã được Cannon thực hiện
(1911), ở Liên Xô (cũ) có G.N.Vưsoxki (1915), L.T. Kadakevich (1922), V.r.
Villiams (1922)…Đặc biệt trong phân loại dạng sống thực vật của T.Isatrenko
(1954), I.V.Brixova (1960, 1961)… đã sử dụng những đặc điểm cấu trúc phần
dưới đất. Dodulin (1959), Xêbêbriacôp cũng đã đưa ra một số hệ thống tương
tự. Nhưng hệ thống dạng sống hoàn thiện hơn cả cho hòa thảo có lẽ là của
Gôlubép (1957, 1962, 1968) [7].
Ở Việt Nam có Doãn Ngọc Chất (1969) có nghiên cứu dạng sống của
một số loài họ hòa thảo. Hoàng Chung và các cộng sự (2002) thống kê thành
phần dạng sống cho loại hình đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam đã đưa ra 18
kiểu dạng sống cơ bản và bảng phân loại kiểu đồng cỏ, savan, thảo nguyên
của miền Bắc Việt Nam. Bảng phân loại dạng sống thực vật của đồng cỏ Bắc
Việt Nam của ông dựa trên nguyên tắc phân loại của Golulbép [7].
1.6.4. Những nghiên cứu về năng suất
Năng suất sinh học là một đặc điểm quan trọng của hệ sinh thái. Năng
suất sinh học có ý nghĩa lớn nhất trong nghiên cứu về quy trình trao đổi chất
và năng lượng, tất cả các quá trình chuyển hóa vật chất và năng lượng trong
hệ sinh thái đều có quan hệ mật thiết với quá trình tạo thành và biến đổi của
sản phẩm sinh học.
Công trình nghiên cứu về năng suất của các thảm thực vật bắt đầu từ thế
kỉ XIX, ban đầu chủ yếu là những công trình nghiên cứu có tính chất thống kê
trong kinh tế nông nghiệp. Sang đầu thế kỉ XX, những công trình nghiên cứu
về năng suất sinh học của quần xã cỏ tự nhiên và cỏ cho chăn nuôi đã được
nghiên cứu nhiều hơn.
Cuối thế kỉ XX những công trình nghiên cứu tập trung chủ yếu vào
nghiên cứu phần trên mặt đất, hoặc là số lượng các chất hữu cơ ở trạng thái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22
sống và chết, sự tăng trưởng của nó, phần chết hàng năm, thảm mục…
Nghiên cứu năng suất sinh học các thảm cỏ vùng Đông Nam Á có Ogawa và
cộng sự (1961); Iwaki và cộng sự (1964, 1969); Iwaki (1979). Riêng nghiên
cứu cả phần dưới mặt đất của đồng cỏ có tác giả: Baranopskaia (1954); Krưm
(1960), Xemnop (1966), Kharitonop (1967), Gawood (1968).
Ở Việt Nam từ năm 1960 đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu
về năng suất cỏ được tiến hành trong các quần xã cỏ trồng (chăn thả hay đồng
cỏ cắt), những nghiên cứu trên đồng cỏ tự nhiên này chỉ tập trung ở một số
cây có giá trị kinh tế cao như các tác giả: Dương Hữu Thời (1981), Nguyễn
Đăng Khôi, Nguyễn Hữu Hiến (1985).
Hoàng Chung (1981, 2002, 2004); Hoàng Chung và cộng sự (2003)
nghiên cứu năng suất các quần xã cỏ vùng núi Bắc việt Nam đã nghiên cứu
năng suất cả phần trên mặt đất và phần dưới mặt đất. Từ những nghiên cứu đó
ông đã rút ra kết luận: "Trong các thảm thực vật thuộc thảo (savan-đồng cỏ)
của miền Bắc Việt Nam, năng suất sinh học tăng lên dần theo trình tự: Đồng
cỏ á Thảo Nguyên – Savan - Đồng Cỏ".
1.6.5. Giá trị chăn thả của tập đoàn cây cỏ trong đồng cỏ Bắc Việt Nam:
Chất lượng của các giống cỏ được đánh giá bằng thành phần hoá học có
trong giống cỏ đó.
- Độ ăn được:
Những loài trong đồng cỏ Bắc Việt Nam có giá trị chăn thả khá tốt,
theo thành phần loài thì trên 95% là thuộc nhóm hòa thảo, trong đồng cỏ tồn
tại một số loài cây bụi và cây thuộc thảo khác, phần lớn những loài cây này
cũng được gia súc ăn. Tuy nhiên, giá trị chăn thả của đồng cỏ cũng thay đổi
theo thời gian và theo từng kiểu thảm, điều này có quan hệ mật thiết với đặc
điểm sinh thái, với các giai đoạn sinh trưởng, với thành phần thực vật, với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23
chiều cao thảm cỏ và thành phần hoá học của nó cùng các hình thức tác động
của con người vào thảm cỏ.
Ở một số loài chăn thả hầu như không thay đổi trong suốt cả thời kì
dinh dưỡng như: Ischaemum indicum, Paspalum scrobiculatum, Paspalum
conjugatum và một số loài một năm. Một số loài khác thì giá trị chăn thả giảm
dần theo thời gian, ở những loài này tuổi càng tăng thì tỷ lệ phần thân tăng và
phần trăm chất xơ trong thân và lá tăng lên. Lá nhiều loài trở lên cứng và sắc
như cỏ tranh, Chè vè, ...
Thành phần họ Đậu trong đồng cỏ Bắc Việt Nam rất ít, một số loài
trong đó giá trị chăn thả kém, lá cứng, có nhiều lông cứng như: Desmodium
triquetum, một số loài khác thì năng suất lại rất thấp – sinh khối tập trung chủ
yếu ở thành phần thân như: Desmodium microphyllum. Trong thành phần cỏ
của một số quần xã có nhiều cây họ Cói những loài này lá cứng và sắc như
Carex, Rhynchospora, ... một vài loài khác năng suất rất thấp [7].
- Thành phần hoá học của thực vật:
Giá trị dinh dưỡng của các loài cây cỏ quan hệ mật thiết với thành phần
hoá học của nó và với hàm lượng của các chất chứa trong chúng, đó là những
chất rất cần thiết cho sự hoạt động bình thường của động vật, cũng như sự
vắng mặt của các chất có hại đến sức khoẻ của động vật.
Thành phần hoá học có trong các giống cỏ tập trung chủ yếu vào 4 chỉ
tiêu đó là: Vật chất khô (VCK), portein, đường, chất béo và xơ. Hoàng Chung
và cộng sự (2004) đã tiến hành nghiên cứu và theo dõi một số chỉ tiêu về
thành phần hoá học của một số loài chính trong đồng cỏ Bắc Việt Nam [7].
Những giống cây thức ăn tốt là giống cho năng suất vật chất khô,
protein, đường cao, tỉ lệ xơ trong thức ăn thấp, tỉ lệ lá/thân cao, trong đó chỉ
tiêu protein được chú ý nhiều hơn cả.
1.6.6. Những nghiên cứu về động thái đồng cỏ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24
Nghiên cứu về động thái của quần xã tự nhiên đã được tiến hành từ lâu.
Nhiều nhà sinh thái học Đông Âu như Raunkier, Warming và Braun-Blanquet
có chiều hướng coi đồng cỏ là một quần hợp tĩnh [14]. Tuy nhiên, trong quá
trình nghiên cứu các tác giả chỉ đề cập đến từng phần riêng biệt. Phần trên
mặt đất có các tác giả như: Kalininna (1954), Xemennova-Chian-Sanskia
(1960), Xemennova-Chian Sanskia và Nhiconskaia (1960). Phần dưới mặt đất
có các tác giả: Baranopskaia (1954), Krưm (1960), Xemenop (1966),
Kharitonop (1967), Garwood (1968), Igonachenko, … [6].
Theo Larin I.V (1965) khi nghiên cứu động thái thảm thực vật đồng cỏ
ở miền tây Cazacstan đã đưa ra hai nhóm yếu tố làm thảm thực vật thay đổi
là: động thái ngoài (do tác động bên ngoài gây nên mà chủ yếu là khí hậu và
con người) và động thái trong (do tác động bên trong gây nên mà chủ yếu là
giữa cây cỏ với nhau) [26].
Theo Hoàng Chung (1974), Uchekhin (1977) khi nghiên cứu biến động
mùa của các quần xã đã phân chia ra các kiểu thực vật theo phân bố không gian và
thời gian. Tính chất quan trọng của các quần xã thực vật có quan hệ mật thiết với
cấu trúc không gian và thời gian là năng suất. Đồng thời với nó là vẫn đề tích luỹ
và biến động của các thành phần trong sinh khối của thực vật thuộc thảo, đặc biệt
là trong thảo nguyên đồng cỏ nó có ý nghĩa lớn trong nghiên cứu không chỉ thảm
thực vật mà trong quá trình mùn hoá, quá trình tích luỹ và phân huỷ các hợp chất
hữu cơ [6].
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về động thái đồng cỏ còn rất ít. Hoàng
Chung (1980) đã nghiên cứu biến động mùa của quần xã cỏ vùng Bắc Việt
Nam. Công trình nghiên cứu của ông được bắt đầu từ năm 1975 đã đề cập đến
đầy đủ các chi tiết về khí hậu, thổ nhưỡng, trên mặt đất và phần dưới mặt đất
và đưa ra những kết luận, những quy luật của động thái, đồng cỏ vùng Bắc
Việt Nam [6].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25
1.6.7. Vấn đề thoái hoá đồng cỏ do chăn thả
Hiện nay, trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề thoái
hoá của đồng cỏ do chăn thả cũng như thảo nguyên của các vùng khác nhau.
Ở Liên Bang Nga đã tích luỹ khá nhiều tư liệu của đới thảo nguyên và bán sa
mạc: G.I Vusoxki (1915) đã xác định 4 giai đoạn thái hoá của thực bì thảo
nguyên dưới tác động của chăn thả. Patrôtxki (1917) nghiên cứu đới nam của
thảo nguyên Stipa longifolia, ông phân chia một số giai đoạn thoái hoá khác
nhau. Nó bao gồm cả giai đoạn chăn thả hay không chăn thả được.
V.V Alekhin (1934) nghiên cứu ở vùng Kursk thuộc đới phụ (phía bắc)
của thảo nguyên đồng cỏ đã xác định được các giai đoạn thoái hoá do chăn
thả ở đây như sau: “Khi chăn thả nặng nề thì stipa sẽ mất đi và thành phần hệ
thực vật trở nên nghèo nàn hơn, đồng thời rất nhiều loài có số lượng cá thể
không nhiều, thường đơn độc, rồi cũng mất dần đi, bắt đầu trội hẳn lên là
Bromus. Sau nữa còn lại chủ yếu là cây thuộc thảo và trên thảo nguyên phát
triển mạnh ở tầng trên là cây Bromus riparius, tầng thấp là Festuce đồng thời
trong vùng đó biểu hiện hai tầng rất rõ ràng; Bromux – Festuca; cuối cùng chỉ
còn lại Festuca, những sự chèn ép sau này của thảm cỏ qua hàng loạt những
trạng thái nhỏ nhặt sẽ dẫn đến giai đoạn phân bố rộng rãi của bào tử thực vật
trên thảo nguyên” [7].
B.D.Andreev (1958) khi nghiên cứu các giai đoạn hình thành và thoái
hoá của thực bì thảo nguyên ở nam Nga đã chia thành 8 giai đoạn: Giai đoạn
đầu là sự chặt hạ và cuối cùng là sự hình thành thảm bào tử thực vật.
A.V.Abramtruk, P.L Gortriakopski (1980) khi đánh giá mức độ thoái
hoá của các quần xã cỏ do tác động của con người, ông đã đề ra bảng thang
bậc riêng gồm có 3 mức, sự khác nhau giữa các mức là phụ thuộc vào mức độ
thoái hoá do con người tạo ra (1 – ít; 2 – trung bình; 3 – nhiều).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26
Sự biến đổi các thảm thực vật (đồng cỏ) dưới tác động của yếu tố do
con người tạo ra ở vùng nhiệt đới đã từ lâu trở thành vấn đề nóng bỏng cho
nền kinh tế và cho chăn nuôi ở xứ nhiệt đới. Nhưng những nghiên cứu về vấn
đề này cho đến nay vẫn còn rất ít: Cooper I.P. Taiton N.M và pleming G
(1968); Dương Hữu Thời (1981); Hoàng Chung (1981, 1983)...
Đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam là loại hình đồng cỏ thứ sinh.
Đặc biệt trong điều kiện khí hậu nhiệt đới đồng thời đồng cỏ ở đây phân bố
chủ yếu ở vùng núi, các sườn đồi có độ dốc khá lớn (15 – 400), nên vấn đề
thoái hoá của đồng cỏ do chăn thả là một trong những vấn đề nan giải hiện
nay của các nhà nghiên cứu đồng cỏ Bắc Việt Nam.
Những nghiên cứu về sự thoái hoá của đồng cỏ do chăn thả ở Việt Nam
hiện nay đã được Dương Hữu Thời (1981) đề cập trong cuốn “Đồng cỏ Bắc
Việt Nam” khi phân tích thành phần loài và các điều kiện sinh thái của đồng
cỏ đã đề cập đến 2 nguyên nhân của sự thoái hoá đồng cỏ Bắc Việt Nam là do
cường độ chăn thả và điều kiện khí hậu.
Hoàng Chung (1981, 1983, 2003) sau hơn 10 năm nghiên cứu tại đồng
cỏ ở vùng Thôm Luông (Ngân Sơn) đã phân tích ảnh hưởng của sự chăn thả
không có kế hoạch trên sự thay đổi thành phần loài, cấu trúc và năng suất của
thảm cỏ và đã đưa ra kết luận về quá trình thoái hoá đồng cỏ Bắc Việt Nam
như sau: “Những thay đổi đầu tiên của lớp phù thực vật đã dẫn đến sự hình
thành các quần xã cỏ ở đây, những thảm cỏ này dưới tác động thường xuyên
nhưng không thật nặng nề của con người như chăn thả, đốt nương rẫy, sẽ dẫn đến
hình thành loại hình đồng cỏ khô, á thảo nguyên và đồng cỏ. Khi chăn thả nặng
nề hơn sẽ dẫn đến sự thay đổi phức tạp thành phần loài ở từng quần xã, đó là sự
thay đổi các loài đang mọc bằng những loài từ ngoài đi vào, loài bản địa bị thay
thế bởi loài phổ biến rộng rãi, đồng thời đơn giản hoá cấu trúc quần xã, giảm bớt
khoảng không phân bố của lớp phủ thực vật, giảm năng suất của nó.” Trên cơ sở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27
đó đã chia quá trình thoái hoá đồng cỏ do sự sử dụng thành 5 giai đoạn: Bắt đầu từ
trạng thái đồng cỏ đến giai đoạn hình thành savan cây bụi [7].
1.6.8. Những nghiên cứu về sử dụng đồng cỏ Việt Nam
Đồng cỏ phía Bắc Việt Nam chủ yếu là có nguồn gốc thứ sinh do hoạt
động khai phá rừng mà thành, nên diện tích đồng cỏ được sử dụng với nhiều
mục đích khác nhau như làm bãi chăn thả, trồng cây lương thực, cây ăn quả, cây
công nghiệp, trồng rừng...
Trong thực tế hiện nay, tại các vùng có sử dụng đồng cỏ vào mục đích
chăn nuôi, hầu như chưa có phương thức sử dụng hợp lý, khai thác một cách
cạn kiệt làm cho thảm cỏ ngày càng thoái hoá mạnh. Cho đến nay, những
nghiên cứu về sử dụng hợp lý đồng cỏ vẫn còn mới mẻ, tài liệu còn quá ít.
Những công trình nghiên cứu dành cho việc sử dụng hợp lý đồng cỏ rải
rác ở một số công trình như: Nguyễn Vũ Hùng, Bùi Văn Minh (1968), có
nghiên cứu về sử dụng luân phiên đồng cỏ ở Ba Vì và đề nghị chia thành 6 ô,
mùa hè sử dụng 5 ô. Trong một đàn gia súc số lượng nên là 100 – 150 con,
diện tích đồng cỏ là 50 – 80 ha.
Võ Văn Trị (1983) đã chia đồng cỏ trồng ra thành những ô nhỏ, sự luân
phiên mùa hè theo ông có khoảng cách 40 - 50 ngày, mùa đông là 60 ngày.
Dương Hữu Thời (1981) có đề cập đến một số vấn đề sử dụng hợp lý
như: Luân phiên đồng cỏ, trồng cỏ, diệt trừ cây bụi.
Hoàng Chung (1988) nghiên cứu về vấn đề sử dụng hợp lý đồng cỏ Bắc
Việt Nam.Trên cơ sở tương đối đầy đủ những tư liệu về đồng cỏ vùng này
ông đã chia đồng cỏ Bắc Việt Nam thành 3 hệ thống ( 3 loại theo độ dốc):
Loại 1: Đồng cỏ có độc dốc sườn dao động từ 0 – 70, loại 2: Đồng cỏ có độ
dốc sườn dao động từ 7 - 250, loại 3: Đồng cỏ có độ dốc sườn dao động từ 25
– 300 trở lên. Từ việc phân chia này ông đã đề xuất các biện pháp sử dụng hợp
lý đồng cỏ ở từng nhóm. Vấn đề cải tạo đồng cỏ Bắc Việt Nam ông đã đề cập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28
đến 2 vấn đề lớn: Cải tạo điều kiện môi trường sống, cải tạo lớp đất mặt. Qua
những nghiên cứu trên ông đề xuất một số ý kiến về vấn đề sử dụng hợp lý
đồng cỏ của vùng núi phía Bắc Việt Nam.
1.7. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ trồng
1.7.1. Tình hình phát triển đồng cỏ trên thế giới.
Để phát triển chăn nuôi, một trong những vấn đề cơ bản đầu tiên cần
phải giải quyết là nguồn thức ăn gia súc. Trong hai hệ thống nuôi dưỡng:
a) Dựa vào thức ăn tinh ( trên 40% nhu cầu dinh dưỡng được thoả mãn
bằng thức ăn tinh).
b) Dựa vào thức ăn thô (trên 60% nhu cầu dinh dưỡng được thoả mãn
bằng thức ăn thô) thì hệ thống b được đặc biệt chú ý nhất là ở các nước có khả
năng phát triển đồng cỏ. Ở những nước này việc sử dụng đồng cỏ không chỉ để
chăn thả mà còn cung cấp thức ăn xanh và dự trữ cho đàn gia súc nuôi nhốt, ở
Úc sản phẩm chăn thả tới 50 % sản phẩm xuất khẩu, tỷ lệ này còn cao hơn: 90%
ở Tân Tây Lan [12]. Theo Davies (1960) đồng cỏ tự nhiên cung cấp gần 1/2 gia
súc chăn thả, tạo ra 1/3 lượng thịt và 1/6 sản lượng sữa trên thế giới [11].
Sau cuộc “Cách mạng về thức ăn gia súc” ở Tây Âu mà đặc biệt là ở
Anh đã tạo điều kiện thuận lợi cho chăn nuôi phát triển, đồng cỏ ngày càng
được chú ý và sử dụng đúng với vai trò của nó. Nếu như trước khi ở Pháp
(1842) chỉ có 4 triệu ha trồng cỏ và 15 triệu ha ngũ cốc thì hiện nay con số ấy
đã thay đổi: 12 triệu ha trồng cỏ và 8 triệu ha ngũ cốc [15].
Ở Anh các diện tích ngũ cốc giảm đi và diện tích trồng cỏ, các loại cây
thức ăn gia súc khác tăng lên và được thâm canh một cách đáng kể.
Ở Liên Xô, diện tích trồng cỏ tăng từ 2,1 triệu ha năm 1913 lên 7,3
triệu ha năm 1933 và đến năm 1961 diện tích nãy đã lên tới 51,9 triệu ha
[12]. Không những diện tích trồng cỏ tăng lên, việc nghiên cứu chọn lọc các
giống cỏ có năng suất và giá trị dinh dưỡng cao đã được chú trọng , nhiều loại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29
cỏ như cỏ Voi, cỏ Ghinê, cỏ Bermuda, cỏ Pangola, v.v… đã được sử dụng ở
nhiều nước trên thế giới, lai tạo những giống cỏ mới có năng suất cao và giá
trị dinh dưỡng cao như Coartcross (cỏ Bermuda lai), cỏ Ghinê từ một loài đã
tạo ra nhiều giống mới, cỏ Voi cũng vậy… đây là thành tựu khoa học đáng kể
để góp phần giải quyết thức ăn cho gia súc ngày càng phát triển không chỉ về
số lượng mà còn cả chất lượng.
Ở các nước nhiệt đới khả năng phát triển đồng cỏ rất lớn nếu được sử
dụng một cách hợp lý có thể cung cấp prôtêin động vật không những cho
vùng nhiệt đới mà cho cả vùng lân cận.
1.7.2. Tình hình phát triển đồng cỏ ở Việt Nam
Việt Nam cũng có rất nhiều cố gắng mở rộng diện tích gieo trồng, vừa
đảm bảo lương thực cho người vừa đảm bảo cho thức ăn gia súc. Từ năm
1960, chúng ta đã có chủ trương phát triển đồng cỏ cho trâu bò ở những vùng
thiếu cỏ. Nếu như năm 1960 ở miền Bắc chỉ có 96 ha trồng cỏ thì qua năm
1961 và 1962 diện tích này đã tăng lên 323 ha và 678 ha. Sang năm 1963,
theo số liệu ở 6 tỉnh đồng bằng, diện tích trồng cỏ và ngô làm thức ăn cho trâu
bò đã đạt tới 3585 mẫu Bắc bộ [12].
Nông trường Mộc Châu với sự giúp đỡ tận tình và toàn diện của Chính
phủ cùng với các chuyên gia Cu Ba đã xây dựng thành công nghệ hệ thống
đồng cỏ kết hợp chặt chẽ với kết cấu chuồng trại thể hiện rõ một phương thức
chăn nuôi đồng bộ trên đồng cỏ thâm canh.
Nông trường Đồng Giao từ năm 1969 việc xây dựng đồng cỏ trồng
bằng các giống mới, chăm sóc và sử dụng thích hợp. Nếu năm 1969 ở đây chỉ
có 3 ha cỏ trồng thì tới năm 1975 đã có tới 1179 ha ( Báo cáo của nông trường
Đồng Giao, 1976). Bên cạnh việc xây dựng và cải tạo đồng cỏ, vấn đề về dự
trữ, phơi khô và ủ xanh và thực hiện có kế hoạch, có chất lượng như ở Sao
Đỏ, Mộc Châu. Nhiều nông trường và hợp tác xã cũng đã trồng cỏ Voi, cỏ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30
Xuđăng, cỏ Pangola… Kết quả thu hoạch các loại cỏ đó cho biết, nếu mỗi
năm cắt được 3-4 lứa thì có thể đạt năng suất 50 - 60 tấn/ha, trồng qua 3-4
năm cỏ vẫn phát triển tốt [1].
Nguyễn Ngọc Hà và CTV (1985) đã tiến hành nghiên cứu, tuyển chọn
tập đoàn cỏ nhập nội và đưa ra nhận xét: Nhóm cỏ thân cụm Panicum
maximum Liconi và K280 cho năng suất trung bình 17 - 18 tấn VCK/ha/năm
với 7 - 8 lứa cắt [13].
Tháng 7/2004, viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp và phát triển nông
thôn đã triển khai thực hiện dự án “Trồng thử nghiệm tập đoàn giống cỏ nhập
nội nuôi bò” tại xã Cẩm Sơn, An Thạch ( Mỏ Cày), Hữu Định ( Châu Thành)
và An Đức (Ba Tri) đã đưa ra kết luận: Cỏ Voi chiếm ưu thế hơn cả, nếu trồng
chuyên canh trên nền đất trống, năng suất đạt 29,04 tấn/ha/lứa; trồng xen vườn
dừa là 15,18 tấn/ ha, trồng xen vườn ăn trái là 25 – 27 tấn/ha. Đứng thứ hai là
cỏ Sả lá lớn, trồng thâm canh là 23,11 tấn/ha, trồng xen vườn dừa là 11,77 tấn/
ha, trồng xen vườn dứa là 11,77 tấn/ha, trồng xen vườn cây ăn trái là 20,4 –
21,4 tấn/ ha. Tiếp theo là cỏ Ruzi, cỏ sả lá nhỏ và cỏ lông tây… [2].
1.8.Tình hình nghiên cứu về thức ăn và chăn nuôi gia súc ở Đại Từ
1.8.1.Tình hình nghiên cứu về thức ăn xanh của huyện Đại Từ
Cây thức ăn xanh bao gồm sản phẩm cây mùa vụ còn lại, cây cỏ hoà
thảo, cây đậu, cây thân thảo hoặc thân gỗ có thể sử dụng là thức ăn cho gia
súc. Nói chung thức ăn xanh bao gồm cỏ tươi, thân lá cây tươi xanh, củ quả
nhiều nước. Thức ăn xanh nhiều nước, nhiều kali, tiêu hóa dễ, có một số chất
kích thích sinh trưởng và tiết sữa. Do vậy thức ăn xanh rất quan trọng đối với
bò thịt, bò mẹ tiết sữa. Cỏ là thức ăn chủ yếu cho trâu bò, vì trong cỏ có đầy
đủ chất dinh dưỡng như bột, đường, khoáng, vitamin mà các loài gia súc nhai
lại có nhả năng sử dụng và hấp thu tốt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31
Đại Từ là một huyện miền núi với thế mạnh là kinh tế đồi rừng, tập
trung vào phát triển chăn nuôi gia súc, phát triển cây chè, cây ăn quả, trồng
rừng, cải tạo và thâm canh chè… Trong đó chăn nuôi gia súc là một bộ phận
quan trọng trong hệ thống sản xuất nên được huyện quan tâm, đầu tư đáng kể
đặc biệt là khâu thức ăn cho gia súc.
Từ năm 2003 trở về trước do chăn nuôi còn mang nặng tính chất quảng
canh nên thức ăn cho gia súc chủ yếu là cỏ tự nhiên mọc ven đường, trong đồi
cỏ tự nhiên hoặc ở ven sông, ngoài ra còn tận dụng các sản phẩm phụ trong
nông nghiệp. Nhưng từ năm 2003 trở về đây, cùng với các phương án nuôi bò
nhốt, cải tạo đàn bò vàng, cải tạo đàn trâu… huyện đã đưa một số giống cỏ
trồng vào trồng tại địa phương như cỏ Voi, cỏ Ghinê, cỏ Ấn độ trong đó cỏ
Voi chiếm 80%, cỏ Ghinê chiếm 15%, còn lại là các giống cỏ khác (cỏ họ
đậu…). Sau này chỉ còn cỏ Voi vì năng suất cao hơn và gia súc cũng thích ăn
hơn. Cỏ khi trồng được bón lót phân chuồng, mỗi năm cắt khoảng 3 – 4 lứa
năng suất đạt khoảng 200 tấn/ha/năm.
Qua theo dõi thì những diện tích cỏ lớn nhất của huyện là trong các
năm 2004, 2005, 2006, diện tích cỏ trồng lên tới 30ha chủ yếu tận dụng trên
những diện tích đất một vụ hoặc trên những diện tích đất chưa sử dụng, đất bờ
rào, ven đường, đồi…Bắt đầu từ năm 2007 trở về đây diện tích cỏ giảm dần
do chăn nuôi bò không phát triển, đến năm 2009 diện tích cỏ trồng toàn huyện
còn 13,5ha.
1.8.2. Tình hình chăn nuôi gia súc ở huyện Đại Từ
Chăn nuôi là một ngành quan trọng của huyện, bao gồm chăn nuôi gia
súc và gia cầm tuy nhiên trong những năm trước đây người dân vẫn chăn nuôi
theo hình thức quảng canh nên quy mô đàn nhỏ, chưa mạnh dạn vào đầu tư
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32
theo hướng chăn nuôi công nghiệp với quy mô đàn lớn. Một số xã còn lúng
túng trong việc chỉ đạo định hướng phát triển chăn nuôi.
Trước tình hình đó huyện cùng với phòng nông nghiệp đã chỉ đạo thực
hiện các đề án phát triển chăn nuôi qua các giai đoạn 2002 – 2005, giai đoạn
2006 – 2010 và đã đạt được những kết quả khả quan, đàn gia súc gia cầm luôn
tăng về số lượng, chất lượng, các sản phẩm chăn nuôi ngày càng tốt hơn, cơ
cấu giống vật nuôi được chuyển đổi rõ rệt. Hình thức chăn nuôi chăn nuôi đầu
tư thâm canh ngày càng phổ biến, chăn nuôi quảng canh đã thu hẹp, sản phẩm
hàng hóa từ sản xuất ngành chăn nuôi ngày một lớn tạo ưu thế tập trung vốn
cho phát triển kinh tế hộ.
Bảng 1.1. Số lượng gia súc – gia cầm huyện Đại Từ (Số lượng – Con)
Năm Trâu Bò
Lợn
Gia cầm
Tổng số Lợn nái Lợn thịt
2000 23911 1664 57904 7909 49995 579000
2003 21523 1550 62574 8540 54034 503561
2004 20730 2004 61886 8740 53146 496678
2005 21077 2133 58679 7924 50773 508324
2006 20240 2985 58141 7849 50292 724277
2007 19566 3063 59457 9216 50241 732610
2008 19255 3011 61990 8030 53960 751984
2009 19053 2893 64271 8677 55594 789950
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33
CHƢƠNG 2
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – XÃ HỘI VÙNG NGHIÊN CỨU
2.1 Điều kiện tự nhiên và xã hội của huyện Đại Từ:
2.1.1. Điều kiện tự nhiên:
2.1.1.1 Vị trí địa lý, địa hình:
Huyện Đại Từ là một huyện miền núi, nằm ở phía tây bắc thuộc tỉnh
Thái Nguyên có tọa độ địa lý: Từ 21032’đến 21050’ vĩ bắc và 105032’ đến
105
042’ kinh đông, phía Bắc giáp với huyện Định Hoá, phía Nam giáp với
huyện Phổ Yên, phía Đông giáp với huyện Phú Lương và thành phố Thái
Nguyên, phía Tây giáp với Tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang
Diện tích đất tự nhiên của huyện Đại Từ khoảng 57.790ha, chiếm
16,58% diện tích tự nhiên của tỉnh Thái Nguyên, có địa hình tương đối phức
tạp, gồm các dãy núi nối tiếp của dãy Tam Đảo, Núi Hồng, Núi Chúa, Núi
Pháo. Địa hình toàn Huyện là một hình lòng chảo chạy dọc lưu vực sông
Công, đồi núi thấp có tầng đất dày, có nhiều suối, hồ nước, hai bên là các dải
núi cao liên tiếp xen kẽ với rừng là các khu dân cư phân bố dọc các triền đồi,
dọc theo vùng đệm vườn quốc gia Tam Đảo.
2.1.1.2 Khí hậu, thuỷ văn:
Khí hậu: Đại Từ nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, có 2 mùa rõ rệt:
Mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 10 hàng năm,
mùa khô từ cuối tháng 10 năm trước đến đầu tháng 4 năm sau.
Nhiệt độ trung bình hàng năm là 220C. Nhiệt độ trung bình tháng cao
nhất tuyệt đối là 350C vào tháng 8, thấp nhất tuyệt đối là 40C vào tháng 1.
Lượng mưa trung bình hàng năm 1.200mm. Tháng cao nhất là tháng 8 vào
khoảng 2.000mm/tháng, tháng thấp nhất là tháng 12 vào khoảng 7,5mm. Có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34
hai loại gió chính là: Đông Nam và Đông Bắc. Do khí hậu thường xuyên ẩm
ướt nên độ ẩm trung bình năm từ 70% đến 80%.
Về thuỷ văn: Đại Từ có hệ thống dòng chảy chằng chịt phân bố theo địa
hình, chủ yếu bắt nguồn từ dãy Tam Đảo, Núi Hồng, Núi Chúa, Núi Pháo…
chảy ra sông Công. Sông Công là con sông lớn chảy qua các xã Minh Tiến,
Phú Cường, Phú Thịnh, Bản Ngoại, Hùng Sơn chảy ra hồ Núi Cốc.
Toàn huyện có nhiều hồ chứa nước lớn như: Hồ Núi Cốc, Hồ Vai
Miếu(Ký Phú); Hồ Đoàn Uỷ( Khôi Kỳ); Hồ An Mỹ( Mỹ Yên)…
Ngoài ra còn nhiều ao đập xen kẽ với các khu rừng, khu dân cư… hệ
thống nước tự chảy cho nông nghiệp, đồng thời là nguồn nước dự trữ cho
công tác chữa cháy rừng thuận lợi.
2.1.1.3 Các nguồn tài nguyên
- Tài nguyên đất: Tổng diện tích đất tự nhiên toàn huyện là 57.790 ha,
trong đó đất nông nghiệp c._.topus scarber),
Ké đầu ngựa (Xanthium inaequiaterum).
Nhóm họ có 3 loài bao gồm: Họ Sim (Myrtaceae), họ Vang
(Caesalpiniaceae), họ Xoài (Anacardiaceae), nhóm họ này chiếm 18% tổng số
loài trong điểm nghiên cứu với các loài đặc trưng như: Trám trắng (Canarium
album), Cây muối (Rhus chinensis), Cây sơn (Rhus succedanea), Móng bò
(Bauhinia alba), Lim xẹt (Peltophorum pterocarpum), Muồng lạc (Cassia
tora), Chổi sể (Baeckea frutescens), Ổi (Psidium guyava), Sim (Rhodomyrtus
tomentosa).
Các họ gồm có 2 loài bao gồm: Họ Bòng bong (Schizaeaceae), họ Thầu
dầu (Euphorbiaceae), họ Ban (Hypericaceae), họ Mua (Melastomaceae), họ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 85
Xoan (Meliaceae), họ Dâu tằm (Moraceae), họ Hoa hồng (Rosaceae), họ Cam
(Rutaceae), nhóm họ này chiếm 32% tổng số loài trong điểm nghiên cứu, bao
gồm các loài sau: Bòng bong (Lygodium flexuosum), Bòng bong leo (Lygodium
scandens), Chó đẻ (Phyllanthus urinaria), Trẩu (Vernica montana), Thành
ngạnh nam (Clatoxylum cochinchinensis), Đỏ ngọn (C.formosum
subsp.prunifolium), Mua đồi (Melastoma sanguineum), Mua đất (Melastoma
septemnervium), Gội (Aglaia gigantean), Xoan (Melia azedarach), Vả (Ficus
auricaculata), Ngái (Ficus hispida), Mâm xôi (Rubus alcaefolius), Mơ (Prunus
armeniaca), Chanh (Citrus media), Ba chạc (Evodia lepta).
Các họ còn lại như: Họ Cu li (Dicksoniaceae), họ Thiên lý
(Asclepiaceae), họ Dương xỉ (Dryopteridaceae), họ Guột (Gleicheniaceae), họ
Khoai lang (Convolvulaceae), họ Dẻ (Fagaceae), họ Óc chó (Juglandaceae),
họ Ngọc lan (Magloniaceae)), họ Bông (Malvaceae), họ Trinh nữ
(Mimosaceae), họ Cà phê (Rubiaceae), họ Cỏ roi ngựa (Verbanaceae), họ
Nho (Vitaceae), họ Đậu (Fabaceae), họ Long não (Lauraceae), mỗi họ có 1
loài, nhóm họ này chiếm 30% tổng số loài trong điểm nghiên cứu với các loài
như: Dương xỉ vảy(Dryopteris inetgriloba), Guột (Gleicheniaceae), Lông cu
li (Cibotium barometz), Hà thủ ô trắng (Streptocaulon juventas), Bìm bìm
(Ipomoea chrysoides), Dẻ gai (Castanopsis sinensis), Chẹo (Engelhardtia
roxburghiana), Mỡ (Manglietia glauca), Keo tai tượng (Acacia mangium)…
Qua quá trình nghiên cứu các thảm cỏ chúng tôi rút ra một số nhận xét:
Điểm nghiên cứu số7 là rừng trồng đã khép tán, số lượng loài không cao
chỉ có 25 loài thuộc 16 họ. Chính vì vậy mà thành phần loài dưới tán rừng cũng
như số lượng loài và cá thể ít hơn. Thảm cỏ dưới tán rừng thưa thớt, ít loài.
Điểm nghiên cứu số 8 là kiểu rừng phục hồi tự nhiên, có thành phần loài
phong phú với 50 loài thuộc 29 họ khác nhau, trong rừng xuất hiện nhiều cây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 86
leo, bì sinh, nhiều cây bụi và cây thuộc thảo. Trong 29 họ thì họ Lúa (Poaceae)
có số lượng loài cao nhất với 6 loài nhưng số lượng cá thể thì ít, mọc thưa thớt.
4.2.3.2. Thành phần dạng sống trong các điểm nghiên cứu
Các dạng sống được chúng tôi sắp xếp theo phương pháp của Hoàng
chung (1980) và được thống kê ở bảng 4.6.
Bảng 4.6.Những dạng sống chính của thực vật trong các điểm nghiên cứu
Tt
Kiểu dạng sống
Điểm
số 7
Điểm
số 8
1 Kiểu 1: Cây gỗ 4 17
2 Kiểu 2: Cây bụi 3 5
3 Kiểu 3: Cây bụi thân bò 2 3
4 Kiểu 4: Cây bụi nhỏ 2 2
5 Kiểu 5: Cây bụi nhỏ thân bò 0 0
6 Kiểu 6: Cây nửa bụi 1 2
7 Kiểu 7: Cây thảo lâu năm có hệ rễ cái 0 0
8 Kiểu 8: Cây có chồi mọc từ rễ 2 2
9 Kiểu 9: Cây thảo lâu năm có hệ rễ cái, có thân rễ ngắn 1 1
10 Kiểu 10: Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm 1 4
11 Kiểu 11: Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm, có thân bò 1 4
12 Kiểu 12: Cây thảo mọc thành búi thưa, sống lâu năm 0 0
13 Kiểu 13: Cây thảo mọc thành búi dầy, sống lâu năm 3 3
14 Kiểu 14: Cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài 2 3
15 Kiểu 15: Cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài và thân bò 1 0
16 Kiểu 16: Cây thảo một năm có rễ cái 1 3
17 Kiểu 17: Cây thảo một năm có hệ rễ cái, có thân bò 0 0
18 Kiểu 18: Cây thảo một năm có hệ rễ chùm 1 1
Tổng số loài 25 50
Tổng số kiểu dạng sống 14 13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87
a.Thành phần dạng sống trong điểm nghiên cứu số 7
Trong điểm nghiên cứu này có 25 loài thuộc 14 dạng sống khác nhau,
trong đó dạng sống có số loài nhiều nhất là Cây gỗ (kiểu 1) với 4 loài chiếm
16% tổng số loài trong điểm nghiên cứu với các loài có thể kể đến như: Thành
ngạnh nam (Clatoxylum cochinchinensis), Đỏ ngọn (C.formosum
subsp.prunifolium), Keo tai tượng (Acacia mangium), Ổi (Psidium guyava).
Những dạng sống có 3 loài như: Cây thảo mọc thành búi dầy, sống lâu
năm (kiểu 13), Cây bụi (kiểu 2), nhóm kiểu dạng sống này chiếm 24% tổng số
loài trong điểm nghiên cứu với các loài như: Mua đồi (Melastoma
sanguineum), Sim (Rhodomyrtus tomentosa), Chanh (Citrus media), Cỏ xả
(Cymbopogon caesius), Cỏ gà (Cynodon dactylon), Chè vè (Miscanthus
floriduslus)
Những dạng sống có 2 loài bao gồm: Cây thảo sống lâu năm có thân rễ
dài (Kiểu 14), Cây có chồi mọc từ rễ (Kiểu 8), Cây bụi nhỏ (Kiểu 4), Cây bụi
thân bò (Kiểu 3). Nhóm kiểu dạng sống này chiếm 32% tổng số loài trong điểm
nghiên cứu với các loài đặc trưng như: Dương xỉ vảy (Dryopteris inetgriloba),
Guột (Gleicheniaceae), Hà thủ ô trắng (Streptocaulon juventas), Bìm bìm
(Ipomoea chrysoides), Bọ mẩy (Clerodendron cyrtophyllum), Chổi sể (Baeckea
frutescens), Mâm xôi (Rubus alcaefolius), Chó đẻ (Phyllanthus urinaria).
Những dạng sống còn lại bao gồm: Cây nửa bụi (Kiểu 6), Cây thảo lâu
năm có hệ rễ cái, có thân rễ ngắn (Kiểu 9), Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu
năm, có thân bò (Kiểu 11), Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm (Kiểu 10),
Cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài và thân bò (Kiểu 15), Cây thảo một năm
có rễ cái (Kiểu 16), Cây thảo một năm có hệ rễ chùm (Kiểu 18). Nhóm kiểu
dạng sống này chiếm 28% tổng số loài có trong điểm nghiên cứu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 88
b.Thành phần dạng sống trong điểm nghiên cứu số 8
Trong điểm nghiên cứu này có 50 loài thuộc 13 kiểu dạng sống khác
nhau trong đó dạng sống cây gỗ (kiểu 1) chiếm ưu thế về số loài với 17 loài,
dạng sống này chiếm 34% tổng số loài trong điểm nghiên cứu.
Dạng sống có 5 loài là cây bụi (kiểu 2), dạng sống này chiếm 10% tổng
số loài trong điểm nghiên cứu với các loài đặc trưng như Mua đồi (Melastoma
sanguineum), Ngái (F.hispida), Găng trắng (Randia dasycarpa), Chanh
(Citrus media), Ba chạc (Evodia lepta).
Những dạng sống có 4 loài bao gồm: Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu
năm (Kiểu 10); cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm, có thân bò (kiểu 11),
nhóm kiểu dạng sống này chiếm 16% tổng số loài trong điểm nghiên cứu gồm
các loài như: Lông cu li (Cibotium barometz), Ngải cứu dại (Astemisia
japonica Thunb), Cúc chỉ thiên (Elephantopus scarber), Bòng bong
(Lygodium flexuosum), Bòng bong leo (Lygodium scandens), Sắn dây rừng
(Pueraria montala), Cỏ lá tre (Centosteca lappacea).
Những dạng sống có 3 loài bao gồm: Cây bụi thân bò (kiểu 3); Cây thảo
mọc thành búi dầy, sống lâu năm (kiểu 13); Cây thảo sống lâu năm có thân rễ
dài (kiểu 14); Cây thảo một năm có rễ cái (kiểu 16), nhóm kiểu dạng sống này
chiếm 24% tổng số loài trong điểm nghiên cứu. Có thể kể đến các loài như:
Móng bò (Bauhinia alba), Muồng lạc (Cassia tora), Cỏ xả (Cymbopogon
caesius), Cỏ tranh (Imperata cylindrical), Lau (Sacccharum arundinaceum),
Chè vè (Miscanthus floridusl), Cỏ cứt lợn (Ageratum conyzoides), Ké đầu ngựa
(Xanthium inaequiaterum), Dương xỉ vảy (Dryopteris integriloba), Guột
(Dcranopteris linearis).
Những dạng sống có 2 loài như: Cây bụi nhỏ (kiểu 4); Cây nửa bụi
(kiểu 6); Cây có chồi mọc từ rễ (kiểu 8), nhóm kiểu dạng sống này chiếm
12% tổng số loài trong điểm nghiên cứu với một số loài như: Hà thủ ô trắng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89
(Streptocaulon juventas, Bọ mẩy (Clerodendron cyrtophyllum), Chổi sể
(Baeckea frutescens), Chó đẻ (Phyllanthus urinaria).
Những dạng sống còn lại bao gồm: Cây thảo lâu năm có hệ rễ cái, có
thân rễ ngắn (kiểu 9), cây thảo một năm có hệ rễ chùm ( kiểu 18), mỗi kiểu
dạng sống có 1 loài, nhóm này chiếm 4% tổng số loài trong điểm nghiên cứu.
Qua quá trình nghiên cứu về thành phần dạng sống của thảm cỏ dưới
tán rừng chúng tôi có nhận xét như sau: Do đặc điểm thảm thực vật ở từng
khu vực là khác nhau nên thành phần loài thuộc các kiểu dạng sống khác
nhau, nhưng có một điểm chung là thảm cỏ dưới tán rừng thưa thớt, rừng
càng khép tán thì mật độ các loài hòa thảo ngày càng giảm đi, các dạng sống
có giá trị cho chăn thả tuy vẫn có trong điểm nghiên cứu nhưng số lượng cá
thể ít, không đáp ứng được cho chăn nuôi đại gia súc.
4.2.4. Sinh khối thảm cỏ tại một số điểm nghiên cứu
Chúng tôi đã nghiên cứu sinh khối của thảm cỏ tại một số điểm trong các
điểm nghiên cứu và kết quả thu được thống kê trong bảng 4.7.
Số liệu bảng 4.7 cho thấy Hòa Thảo đạt cao nhất là thảm cỏ ven sông
480g/m
2
(cỏ hòa thảo 60%), thấp nhất là thảm cỏ dưới rừng keo lai đạt
235g/m2 (25,7%). Cây thuộc thảo cao nhất là thảm cỏ dưới rừng keo lai (475g
- 51,9%), thấp nhất là rừng phục hồi tự nhiên (60g - 11%). Khối lượng thực
vật dưới 2 kiểu rừng thì phần cây bụi và dương xỉ gần tương đương nhau.
Thảm cỏ ven sông trong thành phần còn có xa thảo và cây họ đậu, nhưng tỷ lệ
không lớn, dưới 10%. Tỷ lệ % vật chất khô của Hòa Thảo ở cả 3 kiểu thảm
dao động từ 31% đến 34,7%, so với các nơi khác nó thuộc loại trung bình. Về
tổng sinh khối thì thảm cỏ dưới rừng keo lai là đạt cao nhất 915g/ m2, thấp
nhất là rừng phục hồi tự nhiên 545g/m2. Nhưng về giá trị chăn thả thì điểm
nghiên cứu số 1 - Thảm cỏ ven sông đạt cao nhất 100%, rừng keo lai đạt
khoảng 77%, rừng phục hồi chỉ đạt khoảng 68%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90
Bảng 4.7: Sinh khối các thảm cỏ tự nhiên
Địa
điểm
Tên quần
xã
Sinh khối phần sống g/m2
Phần chết
(tƣơi/khô)
%
vck
Nhóm cỏ Tƣơi % Khô %
1
Thảm cỏ
ven sông
Hòa thảo 480 59,8 156,76 68,9
75,0/30,33
32,66
Xa thảo 50 6,2 10,64 4,7 21,28
Cây thuộc thảo 247 30,8 51,47 22,6 20.84
Cây họ đậu 25 3,1 8,46 3,7 33,84
Tổng cộng 802 100 227,33 100 28,34
2
Thảm cỏ
dưới rừng
phục hồi
tự nhiên
Hoà thảo 315 57,8 109,49 65,9 55,0/23,11 34,76
Cây thuộc thảo 60 11,0 9,2 5,5 15,34
Dương xỉ 95 17,4 25,65 15,4 27,0
Cây bụi 75 13,8 21,75 13,0 28,92
Tổng cộng 545 100 166,09 100 30,45
3
Thảm cỏ
dưới rừng
keo lai
Hoà thảo 235 25,7 72,85 34,4 60/22,06 30,96
Cây thuộc thảo 475 51,9 87,87 41,4 18,5
Dương xỉ 120 13,1 28,72 13,5 23,94
Cây bụi 85 9,3 22,61 10,7 26,6
Tổng cộng 915 100 212,05 100 23,16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 91
4.3. Thực nghiệm trồng cỏ.
4.3.1. Kết quả thực nghiệm trồng cỏ
Xã Hùng Sơn tham gia các dự án phát triển đàn gia súc nên nhiều gia
đình đã được huyện cấp giống cỏ đó là cỏ Voi, cỏ Ghinê. Cả huyện trồng
được 13,5 ha, sau này chỉ còn cỏ Voi vì năng suất cao hơn, riêng xã Hùng
Sơn có khoảng 2 ha cỏ trồng được trồng trên đất soi bãi, bờ đường, trong
vườn đồi. Cỏ khi trồng có bón lót phân chuồng, mỗi năm cắt khoảng 3 - 4 lần
(cắt khi cần, vì chăn thả là chính) năng suất đạt khoảng 200 tấn/ha/năm. Để
giải quyết khó khăn về thức ăn xanh nhất là thức ăn xanh cho mùa đông,
chúng tôi đã trồng thử nghiệm một loài cỏ có nguồn gốc tự nhiên của Việt
Nam, lần đầu tiên được một gia đình nuôi bò ở Bắc Ninh đưa vào trồng, có
tên là cỏ Thừng (hay cỏ Dầy). Cỏ Thừng có tên khoa học là Rottboellia
striata (tên mới là Coelorachis striata) là loài ưa ẩm, thường mọc bờ mương
hay bờ đường có thân rễ dài mọc bò, trồng bằng thân. Chúng tôi đưa về trồng
trên đất ruộng tại Thị Trấn Đại Từ từ ngày 20/5/2008 với diện tích là 60m2.
Trước khi trồng có bón lót bằng phân gà 1kg/1m2 tưới ẩm. Kết quả thu được
trình bày ở trong bảng 4.8.
Bảng 4.8. Năng suất cỏ Dầy qua 5 lần cắt
Lần cắt Ngày cắt Năng suất tƣơi (kg/m
2
)
Trồng 20/5/2008 -
1 01/8/2008 5,9
2 15/9/2008 4,8
3 15/11/2008 4,9
4 15/01/2009 4,7
5 15/3/2009 5,0
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92
Sau mỗi lần cắt có tưới nước, làm cỏ, bón phân NPK 3g/m2. Theo lịch
trình lứa cắt như trong bảng 4.8 thì một năm có thể cắt 6 lứa, năng suất trung
bình khoảng 5kg/m2/lứa cắt. Như vậy 1m2/1năm có thể thu được 30kg cỏ tươi
và 1 ha sẽ cho 300 tấn/năm. Cỏ này có ưu điểm là mùa đông vẫn có thể cắt và
lứa cắt khoảng 60 ngày, năng suất đạt gần 95% năng suất trung bình năm.
Đây là loài cỏ có thân lá mềm, gia súc thích ăn, ăn hết không để thừa. Đối với
huyện cũng như xã Hùng Sơn thì cỏ Dầy được trồng lần đầu tại đây, do đó
sau lần cắt cỏ đầu tiên cúng tôi đã tiến hành cho trâu, bò ăn thử đặc biệt là
trâu bò non thì thấy chúng rất thích loại cỏ này.
Nói tóm lại cỏ Thừng là loài cỏ ưa ẩm, có thân nhỏ mềm, có thể trồng và
khai thác được quanh năm, sau khi trồng được 70 ngày có thể cắt, mùa hè 45
ngày cắt 1 lứa, mùa đông thì 60 ngày cắt 1 lứa. Năng suất có thể đạt 300
tấn/ha/năm.
4.3.2 Về chất lượng cỏ trồng:
Về mặt chất lượng cỏ Thừng còn tốt hơn cỏ Voi, kết quả phân tích được
trình bày trong bảng 4.9. Trong bảng 4.9 chúng tôi lấy số liệu cỏ Voi của
Viện Chăn nuôi để so sánh (1995).
Bảng 4.9. Thành phần hóa học của cỏ trồng (Trạng thái tươi)
Tên cây
VCK
(%)
Prôtêin
TS (%)
Lipít
TS
(%)
Chất
xơ TS
(%)
Khoáng
TS (%)
Đƣờng
khử
(%)
ĐVTA
Cỏ Dầy 60 ngày 10,84 2,21 0,28 34,37 1,62 1,29 0,25
Cỏ Voi 60 ngày
(Mùa khô) Số liệu
viện chăn nuôi
20,20 1,76 0,51 1,93 1,58 0,16
Qua số liệu bảng 4.9 cho ta thấy vật chất khô cỏ Dầy thấp hơn cỏ Voi
nhưng hàm lượng protein cao hơn nhiều. Còn các thành phần khác thì tương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93
đương nhau. Về giá trị đơn vị thức ăn thì cỏ Thừng là 0,25 đv/kg cỏ tươi, còn
cỏ Voi chỉ đạt 0,16đv/kg cỏ tươi. Như vậy giá trị chăn nuôi của cỏ Thừng cao
hơn nhiều so với cỏ Voi. Do đó theo chúng tôi nên trồng cỏ Thừng nhiều hơn.
4.4. Hiệu quả mô hình chăn nuôi trong xã.
4.4.1. Đánh giá các mô hình chăn nuôi.
Để có thể đề xuất được mô hình chăn nuôi hợp lí cho xã chúng tôi tiến
hành điều tra một số hộ chăn nuôi điển hình của xã như gia đình ông Nguyễn
Ngọc Sơn và gia đình ông Dương Văn Hùng.
- Gia đình ông Nguyễn Ngọc Sơn, cuối năm 2004 mua 7 con bò vàng
làm giống, 2005 mua thêm 6 con trong đó có1 đực giống laisind. Vùng chăn
thả thường xuyên là các bãi ven sông. Bãi cỏ ven sông có năng suất và chất
lượng khá tốt, năng suất có thể đạt 8 tấn/ha/năm đủ nuôi 1 bò trong cả năm
với điều kiện có thức ăn bổ xung như gia đình ông Sơn. Gia đình ông Sơn
trồng cỏ voi cuối năm 2004 với diện tích 0,15 ha, đến 2005 là 1 ha, sang 2008
chỉ còn 0,7 ha, cỏ không cắt theo lứa, chỉ cắt khi cần cho ăn bổ sung và
thường là già, mùa hè (từ cuối tháng 3 đến tháng 9) cỏ trồng ít dùng. Mùa
đông cho ăn thêm rơm và mua thân lá ngô già của dân cho ăn thêm, bò đẻ
mùa đông ăn thêm bột. Hiệu quả thu nhập chăn nuôi của gia đình trình bày
trong bảng 4.10. Qua số liệu bảng 4.10 ta thấy, gia đình ông Sơn đầu tư 43,2
triệu mua 13 con bò, sau 5 năm bán ra 38 con thu 151,5 triệu, bình quân thu
nhập 21,6 triệu/năm (Sau khi đã trừ vốn đầu tư mua bò).
Trong phần lãi này bao gồm công chăn dắt, đầu tư cho đồng cỏ trồng,
chuồng trại và các chi phí khác phục vụ cho chăn nuôi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 94
Bảng 4.10. Thu nhập từ chăn nuôi bò của gia đình ông Sơn.
Năm Mua vào (con)
Giá (triệu
đồng)
Bán ra (con)
Giá (triệu
đông)
2004 7 20
2005 6 23,2 3 9,5
2006 6 20
2007 10 35
2008 13 62
2009 6 25
Tổng cộng 13 43,2 38 151,5
Lãi
151,5 - 43,2 = 108,3 triệu/5 năm
= 21,6 triệu/năm
Gia đình ông Nguyễn Văn Hùng nuôi bò từ cuối 2004 mua 3 con, vùng
chăn thả thường xuyên là ven đường đi và rừng trồng, trồng cỏ voi từ 2005,
diện tích là 2,5 sào, đất bờ đường và vườn nhà. Khi trồng có bón lót phân
chuồng và hàng năm bón 1 lần phân chuồng. Cỏ cắt khi cần, không theo lứa,
thường là cho ăn bổ sung. Mùa đông cho ăn thêm rơm, cây chuối, thân lá ngô
già. Hiệu quả chăn nuôi được trình bày trong bảng 4.11. Số liệu bảng 4.11 cho
thấy, gia đình Ông Hùng đầu tư ban đầu cho chăn nuôi là 10triệu, mua ba con
bò, sau 5 năm bán 16 con và thu về 55 triệu, bình quân thu nhập từ chăn nuôi
là 9 triệu/năm. Gia đình ông Hùng cũng chăn thả là chính, vùng chăn thả năng
suất và chất lượng cỏ thuộc loại thấp vì vậy kết quả đem lại không cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95
Bảng 4.11: Thu nhập từ chăn nuôi bò
Năm
Mua vào
(con)
Giá (triệu
đồng)
Bán ra (con)
Giá (triệu
đông)
2004 3 10
2005 2 7
2006 3 9
2007 3 9
2008 4 15
2009 4 15
Tổng cộng 3 10 16 55
Lãi
55 triệu - 10 triệu = 45 triệu/5năm
= 9triệu /năm
Từ kết quả thu được của 2 gia đình ông Sơn và ông Hùng ta có một số
nhận xét sau:
- Hai gia đình có sự giống nhau trong cách làm là nuôi bò thịt, chăn thả
quanh năm để tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, có cỏ trồng để bổ xung
khi cần, cỏ trồng chăm sóc và thu hái không theo quy trình, năng suất thấp,
mùa đông bổ xung thức ăn thêm bằng rơm, thân lá ngô già…
- Ông Sơn vốn đầu tư ban đầu có lớn hơn ông Hùng, vốn mua bò cao gấp
4 lần, diện tích trồng cỏ cao gấp 10 lần, hiệu quả mang lại cao gấp 2,1
lần/năm.
- Ông Sơn có điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn, bãi chăn thả là các thảm
cỏ ven sông, có năng suất và chất lượng cao hơn, thời gian có thể khai thác
các thảm cỏ dài hơn. Ông Hùng bãi chăn thả là ven đường đi và thảm cỏ dưới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96
rừng vì thế không thể đầu tư lớn được, năng suất chất lượng thảm cỏ đều kém,
địa hình phức tạp nên gia súc kiếm ăn kém hơn.
- So sánh với nhiều nơi thì hiệu quả chăn nuôi của cả 2 ông đều chưa thật
thoả đáng, về quy mô và mô hình có thể chấp nhận là mô hình nhà ông Sơn,
nhưng cần có điều chỉnh khâu cung cấp thức ăn để có thể nâng hiệu quả lên
gấp khoảng 3 lần nữa
4.4.2. Đề xuất mô hình khai thác.
Qua kết quả thực thi của 2 gia đình ông Sơn và ông Hùng chúng ta thấy
hiệu quả chăn nuôi của gia đình ông Sơn cao hơn gia đình ông Hùng. Từ thực tế
quan sát và tính toán, chúng tôi thấy mô hình chăn nuôi gia đình nên là 20 con bò.
Để phục vụ cho mô hình nuôi 20 con bò, nguồn thức ăn hiện nay tại xã
Hùng Sơn là khai thác các thảm cỏ tự nhiên kết hợp với cỏ trồng. Với thảm cỏ
ven sông của xã Hùng Sơn, sự chênh lệch sinh khối nơi thường xuyên chăn thả
và không chăn thả là 0,4kg/m2, nếu 01 bò cần 30kg/ngày thì cả đàn cần
600kg/ngày và 1ha đồng cỏ chăn thả được 7 ngày với chu kỳ luân phiên là 60
ngày thì cần gần 9 ha cỏ. Trong một năm các bãi cỏ có thể khai thác là 7 tháng,
vậy cần bổ xung thêm cỏ trồng là 5 tháng với khối lượng khoảng 90 tấn.
Với thảm cỏ dưới rừng sinh khối chỉ đạt bằng 1/2 bãi cỏ ven sông, vì vậy
nếu có chăn thả thi cần tăng diện tích thảm cỏ tự nhiên lên gấp đôi hay tăng
diện tích cỏ trồng tuỳ hoàn cảnh địa phương
Để bù đắp khối lượng cỏ thiếu trong năm thì cần trồng cỏ. Hai loài cỏ có
thể trồng VA06 năng suất cao, chất lượng tung bình và cỏ Dầy năng suất khá
cao, chất lượng tốt. Với đàn bò như trên thì cần 0,5 ha đồng cỏ trồng, trồng
hai loài để bổ xung cho nhau cả về chất và lượng. Cỏ trồng sẽ thu trên 150
tấn, như vậy cỏ trồng mùa hè nên làm cỏ khô hay ủ ướp để dùng trong mùa
đông và cho ăn bổ xung thêm trong mùa hè. Mùa đông ngoài cỏ trồng, cỏ khô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97
hay ủ ướp có thể cho ăn thêm rơm, thân lá ngô già. Ngoài ra để bổ xung năng
lượng mỗi ngày nên cho ăn thêm 1 kg bột ngô hay cám gạo (thức ăn tinh).
Với điều kiện thức ăn như trên, về mặt năng lượng 1 ngày 1 bò được
cung cấp khoảng 7 đơnvị thức ăn, nếu giống bò tốt, chăm sóc tốt thì 1 con
trong 1 ngày có thể tăng trọng 1kg, Với cả đàn bò sẽ là 20kg/ngày. Theo
nguyên tắc trên 10 tháng đàn bò sẽ cho 6 tấn tăng trọng, với giá 30.000
đồng/kg thì thu được 180 triệu đồng. Thức ăn tinh cần 6 tấn với giá 4.500
đồng thì chi hết 27 triệu đồng. Như vậy còn 150 triệu đồng thu từ cỏ. Với
đồng cỏ trồng 0,5ha đã đem lại trên 70 triệu.
Nói tóm lại chăn nuôi đại gia súc là một việc làm phức tạp, nó gồm hai
quy trình sản xuất, một là tạo nguồn thức ăn tốt, hai là chăn nuôi tốt, vì thế để
có hiệu quả cần có đầu tư nghiên cứu và thử nghiệm. Thực tế hiện nay chăn
nuôi đại gia súc đang gặp rất nhiều khó khăn, với các tỉnh miền núi thì điều
đó còn khó khăn hơn nhiều.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1.Kết luận:
1.1. Hùng Sơn là xã trung tâm của huyện Đại Từ, có điều kiện tự nhiên thuận
lợi cho phát triển chăn nuôi đại gia súc. Hiện nay nguồn thức ăn gia súc của
xã là các bãi cỏ ven sông, dưới rừng có chất lượng khá tốt, đặc biệt là thảm cỏ
ven sông có thể đạt năng suất 8 tấn/ha/năm, vì các thảm cỏ ở đây được khai
thác ở mức độ cao và không hợp lý dẫn đến thành phần loài trong các thảm cỏ
ngày càng tăng, các dạng sống như cây bụi, cây nửa bụi và các cây mà gia súc
không ăn được ngày càng nhiều về số lượng.
1.2. Thông qua việc thống kê tập đoàn cây thức ăn gia súc chúng tôi thấy các
loài cỏ tự nhiên và cây trồng của xã khá phong phú. Nhiều loài cỏ và cây
trồng dùng làm thức ăn cho gia súc có chất lượng cao như Cỏ lạc vừng, Cỏ lá
tre, Lạc, Đậu, thân Ngô, ngọn Mía…Mùa đông người dân địa phương còn hay
dùng rơm làm thức ăn cho gia súc, đây là nguồn thức ăn dự trữ đại trà cho bò
ở các vùng trồng lúa.
1.3. Dựa vào kết quả điều tra phân vùng các khu vực sinh thái của xã chúng
tôi xác định được 6 tiểu vùng sinh thái có đặc điểm địa hình và thổ nhưỡng
khác nhau. Hiện nay nhiều tiểu vùng đang được người dân sử dụng vào các
hoạt động trồng trọt và chăn nuôi. Theo chúng tôi, những vùng đất chưa sử
dụng hay sử dụng chưa hiệu quả cần được quy hoạch để sử dụng vào trồng cỏ
phục vụ cho chăn nuôi.
1.4. Mặc dù có nhiều điều kiện để phát triển chăn nuôi đại gia súc nhưng
trong những năm gần đây đàn gia súc của xã đặc biệt là đàn trâu bò lại có xu
hướng giảm dần, có nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân là thức ăn thô
xanh cho gia súc chưa được quan tâm và đầu tư chính đáng, thể hiện ở chỗ
các bãi cỏ trồng diện tích nhỏ, đầu tư thấp, khai thác không hợp lý, vì thế hiệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99
quả đem lại từ chăn nuôi nhất là chăn nuôi đại gia súc còn thấp. Vì vậy để
phát triển chăn nuôi cần thực hiện theo mô hình đề xuất, kết hợp chăn thả trên
các thảm cỏ tự nhiên và trồng cỏ Dầy, chăm sóc thu hái theo đúng quy trình,
hiệu quả đem lại sẽ cao gấp nhiều lần hiện nay.
2. Đề nghị:
2.1. Cần tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về quy hoạch sử dụng các tiểu vùng sinh
thái và có những thực nghiệm để đề xuất hướng trồng trọt và chăn nuôi hợp lí
hơn đối với từng tiểu vùng sinh thái.
2.2. Chính quyền địa phương cần có những định hướng, đề án cụ thể để đẩy
mạnh phát triển ngành chăn nuôi nhất là chăn nuôi đại gia súc như:
- Tổ chức triển khai nhiều mô hình thực tế để người dân tham gia học tập và
làm theo, đặc biệt phải có chính sách hỗ trợ và khuyến khích cho những người
đầu tiên tham gia thực hiện.
- Có chính sách hỗ trợ và đầu tư vốn cho các hộ chăn nuôi đại gia súc.
- Có phương hướng, kế hoạch tìm kiếm đầu ra cho thị trường tiêu thụ sản
phẩm chăn nuôi ổn định.
- Nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ trong công tác chuyển
giao khoa học kĩ thuật.
- Cần mạnh dạn chuyển đổi dần diện tích trồng cỏ voi sang trồng giống cỏ
mới là VA 06 và cỏ Dầy có năng suất, chất lượng cao để tăng hiệu quả chăn
nuôi và tăng đàn gia súc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Hoàng Chung, Phạm Thanh Huế (2009), Tiềm năng và thực trạng khai thác
thức ăn gia súc của xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, Thái Nguyên,Tạp chí Kinh tế
sinh thái, số 32, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 101
Tài liệu tham khảo
Tài liệu tiếng việt
1. Đoàn Ẩn, Võ Văn Trị (1976), Gây trồng và sử dụng một số giống cỏ năng
suất cao, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
2. Báo Lao Động (2005), số 59, “Tìm cỏ tốt cho nghề nuôi bò”.
3. Lê Hòa Bình và các cộng sự (1992), Khảo sát năng suất cây thức ăn mới
nhập nội ở một số vùng và ứng dụng của trong hộ chăn nuôi, Công trình
nghiên cứu KHKT chăn nuôi 1991 – 1992, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
4. Lê Ngọc Công, Hoàng Chung (1997), Nghiên cứu cấu trúc một số mô
hình phục hồi rừng trên savan cây bụi ở Bắc Thái, Tạp chí Khoa học và
Công nghệ - Đại học Thái Nguyên, số 2.
5. Lê Trần Chấn, Nguyễn Hữu Chí, Huỳnh Nhung (1994), “Thành lập bản
đồ phân bố một số nhóm cây có ích, tỷ lệ 1/1000.000 và đánh giá tiềm
năng hệ Thực vật Việt Nam”, Các công trình nghiên cứu địa lý.
6. Hoàng Chung (1980), Đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam, Công trình nghiên
cứu khoa học – Trường Đại học Sư Phạm Việt Bắc.
7. Hoàng Chung (2004), Đồng cỏ vùng núi phía Bắc Việt Nam, NXB Nông
nghiệp, Hà Nội.
8. Hoàng Chung (2006), Tập bài giảng đồng cỏ học, Tài liệu nội bộ của
trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
9. Vũ Văn Chuyên, Lê Trần Chấn, Trần Hợp (1987), Địa lý các họ cây Việt
Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102
10. Phan Củng (1999), Giáo trình sử dụng đất, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
11. V.Davies (1960), Quá trình phát triển của kỹ thuật nghiên cứu đồng cỏ.
Đồng cỏ nhiệt đới, Tập 1, NXB Khoa học, Hà Nội.
12. Thái Đình Dũng, Đặng Đình Liệu (1979), Đồng cỏ nhiệt đới, NXB Hà
Nội.
13. Nguyễn Ngọc Hà, Lê Hòa Bình, Bùi Xuân An, Ngô Văn Mận (1985), Kết
quả nghiên cứu tuyển chọn tập đoàn cỏ nhập nội, NXB Khoa học và Kỹ
thuật Nông nghiệp, tháng 8.
14. Nguyễn Phi Hạnh, Đặng Ngọc Lân (1980), Địa lý cây trồng, NXB Giá
dục, Hà Nội.
15. Điền Văn Hưng (1974), Cây thức ăn gia súc miền Bắc Việt Nam, NXB
Nông thôn.
16. Nguyễn Thế Hưng, Hoàng Chung (1995), Thành phần loài và dạng sống
thực vật trong loại hình savan vùng đồi Quảng Ninh, Thông báo khoa học
Trường Đại học Sư phạm Việt Bắc, số 13.
17. Hội khoa học đất Việt Nam (1996), Đất Việt Nam, NXB Nông nghiệp,
Hà Nội.
18. Hội Khoa học đất Việt Nam (2000), Đất Việt Nam, NXB Nông nghiệp,
Hà Nội.
19. E.N.Ivanova và cộng sự (1962), Phân vùng địa lý thổ nhưỡng Liên Xô,
NXB Viện hàn lâm khoa học Liên Xô, Matxơcơva (bản dịch).
20. Lê Văn Khoa (1993), Địa lý thổ nhưỡng, NXB Giáo dục, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103
21. Lê Vũ Khôi, Nguyễn Nghĩa Thìn (2001), Địa lý sinh vật, NXB Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
22. G.A.Kuznetxov (1975), Địa lý và quy hoạch các vùng sản xuất nông
nghiệp (bản dịch), NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
23. Vũ Tự Lập (1976), Cảnh quan địa lý miền Bắc Việt Nam, NXB Khoa học
và Kỹ thuật, Hà Nội.
24. Đặng Duy Lợi, Nguyễn Thục Nhu (2001), Địa lý tự nhiên Việt Nam
(phần khái quát), NXB Giáo dục, Hà Nội.
25. Nguyễn Đình Ngỗi, Võ Văn Chi (1964), Sơ bộ điều tra Thảm thực vật
savan trên một vùng đồi phía Nam Hữu Lũng (Lạng Sơn), Tập san sinh
vật địa học- số 1.
26. Nhiều tác giả (1969), Đồng cỏ nhiệt đới, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà
Nội.
27. Trần Ngũ Phương (1970), Bước đầu nghiên cứu rừng miền Bắc Việt
Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
28. Schmithusen J (1976), Địa lý đại cương thảm thực vật (người dịch: Đinh
Ngọc Trụ), NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
29. Lê Bá Thảo (1970), Phân vùng địa lý tự nhiên miền Bắc Việt Nam, Tập 1,
NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
30. Lê Bá Thảo, Nguyễn Dược, Đặng Ngọc Lân (1984), Cơ sở địa lý tự nhiên
(tập 3), NXB Giá dục, Hà Nội.
31. Lê Bá Thảo (1998), Việt Nam – Lãnh thổ và các vùng địa lý, NXb Thế
giới, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104
32. Đặng Trung Thuận, Trương Quang Hải (1999), Hệ kinh tế sinh thái phục
vụ phát triển nông thôn bền vững, NXB Nông thôn, Hà Nội.
33. Dương Hữu Thời, Nguyễn Ngọc Chất, Hoàng Chung, Phạm Quang Anh
(1969), Kêt quả điều tra đồng cỏ Ngân Sơn (Bắc Cạn), Thông báo khoa
học Trường Đại học Tổng hợp – Khoa Sinh vât.
34. Dương Hữu Thời (1981), Đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam, Trong quyển
“Nghiên cứu cây thức ăn gia súc Việt Nam”, Hà Nội.
35. Dương Hữu Thời (1998), Cơ sở sinh thái học, NXB Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
36. Mai Trọng Thông và một số tác giả (1998), “Phân vùng khí hậu Việt
Nam”, Tuyển tập các công trình nghiên cứu địa lý, NXB Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội.
37. Phạm Ngọc Toàn, Phan Tất Đắc (1975), Khí hậu Việt Nam, NXB Khoa
học và Kỹ thuật, Hà Nội.
38. Phạm Ngọc Toàn, Phan Tất Đắc (1993), Khí hậu Việt Nam, NXB Khoa
học và Kỹ thuật, Hà Nội.
39. Ngô Quý Toản, Dương Đức Đỉnh (1976), Địa lý tự nhiên các châu, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
40. Tổng cục Khí tượng Thủy văn Việt Nam (1994), Atlas Khí hậu – Thủy
văn Việt Nam, Hà Nội.
41. Thái Văn Trừng (1978), Thảm thực vật rừng Việt Nam, NXB Khoa học
và Kỹ thuật, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105
42. A.G.Voronov (1976), Địa lý sinh vật (Người dịch: Đặng Ngọc Lân), Nxb
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
Tài liệu tham khảo tiếng nước ngoài
43. Gaussen H, Legris P, Blasco P (1976), Bioclimates of Southeast Asia.
44. Henry J, Terre rouge et terre noire bazalfitique de I’.Indochine Ha Noi.
45. Maurand P (1943), L’Indochine forestiere BEL Ha Noi (une carte
fpretiere).
46. Olson J.S.Watts J.A and Allison L.T (1983), Carbon in live vegetation of
Mafor World Ecosystem. Report ONRL. 5862, Oak Ridge National
Laboratory, Oak Ridge, Tenn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106
PHỤ LỤC
ẢNH CHỤP QUANG CẢNH CÁC ĐIỂM NGHIÊN CỨU
RỪNG KEO TAI TƢỢNG
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 107
RUỘNG LÚA 2 VỤ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 108
THẢM CỎ VEN SÔNG
ĐỒI CHÈ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 109
CỎ DẦY VÀ CỎ VOI
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9113.pdf