ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP
---------------------------------------
LUẬN VĂN THẠC SĨ KỸ THUẬT
ĐIỀU TRA ĐÁNH GIÁ TIỀM NĂNG VÀ KHẢ
NĂNG ĐÓNG GÓP CỦA CÁC NGUỒN
NLM&TT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
VÀO LƯỚI ĐIỆN CỦA TỈNH
Ngành : THIẾT BỊ MẠNG – NHÀ MÁY ĐIỆN
Mã số:23.0
Học Viên: HÀ THỊ NINH
Người HD Khoa học : PGS.TS. ĐẶNG ĐÌNH THỐNG
Khoa đào tạo SĐH
Người HD khoa học
Đặng Đình Thống
Học viên
Hà Thị Ninh
THÁI NGUYÊN - 2008
Số hóa b
102 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1448 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Điều tra đánh giá tiềm năng và khả năng đóng góp của các nguồn NLM&TT trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên vào lưới điện của tỉnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
Nội dung Trang
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƢƠNG 1. CÁC NGUỒN VÀ CÁC CÔNG NGHỆ NĂNG
LƢỢNG MỚI VÀ TÁI TẠO
3
1.1. CÁC NGUỒN NĂNG LƢỢNG MỚI VÀ TÁI TẠO VÀ CÁC
ĐẶC TÍNH CỦA CHÚNG
3
1.1.1. Các nguồn năng lƣợng mới và tái tạo 3
1.1.2. Các đặc tính của các nguồn năng lƣợng mới và tái tạo 6
1.2. CÁC CÔNG NGHỆ NĂNG LƢỢNG MỚI VÀ TÁI TẠO VÀ
CÁC ĐẶC TRƢNG CỦA CHÚNG
7
1.2.1. Công nghệ điện năng lƣợng mặt trời (NLMT) 7
1.2.2. Công nghệ thuỷ điện nhỏ (TĐN) 11
1.2.3. Công nghệ điện gió 12
1.2.4. Phát điện từ sinh khối 14
1.2.5. Công nghệ địa nhiệt và điện địa nhiệt 15
1.2.6. Phát điện từ nguồn năng lƣợng đại dƣơng 16
1.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG CÁC NGUỒN ĐIỆN
TỪ NLM & TT
18
1.3.1. Trên thế giới 18
1.3.2. Tại Việt Nam 20
CHƢƠNG 2. TIỀM NĂNG VÀ KHẢ NĂNG KHAI THÁC NĂNG
LƢỢNG MỚI VÀ TÁI TẠO Ở THÁI NGUYÊN
24
2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN – XÃ HỘI 24
2.1.1. Vị trí địa lý. 24
2.1.2. Dân số 24
2.1.3. Địa hình – Khí hậu 26
2.1.4. Tài nguyên 26
2.2. HIỆN TRẠNG VÀ DỰ BÁO NHU CẦU ĐIỆN 28
2.2.1. Hiện trạng phụ tải 28
2.2.2.Dự báo nhu cầu điện 29
2.2.3.Các nguồn cung cấp điện năng 35
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2.3. TIỀM NĂNG VÀ KHẢ NĂNG KHAI THÁC NĂNG LƢỢNG
MỚI VÀ TÁI TẠO Ở THÁI NGUYÊN
36
2.3.1. Vai trò của năng lƣợng mới và tái tạo 36
2.3.2. Các nguồn năng lƣợng mới và tái tạo ở Thái Nguyên. 38
2.3.3. Năng lƣợng thuỷ điện nhỏ. 38
2.3.4.Năng lƣợng sinh khối 45
2.3.5. Năng lƣợng mặt trời 50
2.4. HIỆN TRẠNG NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG
54
CHƢƠNG 3. PHÂN TÍCH LỰA CHỌN CÁC CÔNG NGHỆ PHÁT ĐIỆN
NĂNG LƢỢNG MỚI VÀ TÁI TẠO
58
3.1. CÁC TIÊU CHÍ LỰA CHỌN 58
3.2. CÁC CÔNG NGHỆ ĐƢỢC ĐỀ NGHỊ 58
3.2.1. Năng lƣợng thuỷ điện nhỏ 59
3.2.2. Năng lƣợng sinh khối để phát điện 63
3.2.3. Năng lƣợng mặt trời 67
CHƢƠNG 4. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƢỜNG 79
4.1. TÁC ĐỘNG TỚI MÔI TRƢỜNG TỰ NHIÊN 79
4.2. TÁC ĐỘNG TỚI ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI 81
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO 84
PHỤ LỤC 85
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
LỜI NÓI ĐẦU
Bước sang thế kỷ 21, cùng với nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội ngày một
gia tăng trong khuôn khổ của nguồn tài nguyên bị hạn chế, loài người đang đứng
trước nguy cơ cạn kiệt của các nguồn tài nguyên năng lượng cổ điển và phải đương
đầu với vấn đề ô mhiễm môi trường sống đã ở mức báo động trong phạm vi toàn
cầu gây ra bởi lượng khí thải độc hại trong quá trình sử dụng năng lượng.
Vì vậy, việc tìm kiếm các nguồn năng lượng bổ sung và nghiên cứu sử dụng
các nguồn năng lượng mới và tái tạo đang được các quốc gia trên toàn thế giới quan
tâm. Năng lượng mới và tái tạo là những nguồn năng lượng sạch, có trữ lượng to
lớn và có khả năng tái tạo hầu như vô tận.
Việt Nam nói chung và Thái Nguyên nói riêng nhu cầu sử dụng năng lượng
ngày càng tăng, nguồn năng lượng truyền thống dần dần không đáp ứng đủ nhu cầu
sử dụng năng lượng cho con người. Do vậy, việc điều tra, đánh giá tiềm năng và
khả năng đóng góp của các nguồn năng lượng mới và tái tạo là vấn đề cấp bách và
cần thiết.
Đề tài tốt nghiệp “Điều tra, đánh giá tiềm năng và khả năng đóng góp của
các nguồn NLM & TT trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên vào lưới điện của Tỉnh” được
nghiên cứu với mục đích góp phần vào chiến lược phát triển năng lượng chung của
Tỉnh và cả nước, hiện tại nguồn năng lượng này có thể đáp ứng nhu cầu sử dụng
điện cho những vùng miền núi xa xôi, hẻo lánh, những nơi chưa có điện lưới quốc
gia của Thái Nguyên, phục vụ cho việc phát triển kinh tế, xã hội, xoá đói, giảm
nghèo...Trong tương lai, nó có thể dần thay thế các nguồn năng lượng điện hiện nay.
Khi nghiên cứu đề tài này, tôi đã có được các tài liệu liên quan hiện có về các
nguồn năng lượng mới và tái tạo ở Việt Nam và Thái Nguyên. Tuy nhiên, đây là
một lĩnh vực hoàn toàn mới do vậy các tài liệu còn rất hạn chế và các số liệu chưa
đầy đủ, có sự sai lệch số liệu từ các nguồn khác nhau ( các bài báo, dự án, tạp chí,
quy hoạch phát triển...), không phải tất cả các số liệu sử dụng đều cập nhật.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ
tận tình của PGS.TS Đặng Đình Thống – Giám đốc trung tâm năng lượng mới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội, các sở Điện lực, Công nghiệp, Nông nghiệp, Tài
nguyên môi trường...cùng bạn bè, đồng nghiệp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 5 năm 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
CHƢƠNG 1
CÁC NGUỒN VÀ CÁC CÔNG NGHỆ NĂNG LƢỢNG MỚI
VÀ TÁI TẠO
1.1. CÁC NGUỒN NĂNG LƢỢNG MỚI VÀ TÁI TẠO VÀ CÁC ĐẶC TÍNH
CỦA CHÚNG
1.1.1. Các nguồn năng lƣợng mới và tái tạo
1.1.1.1 Năng lƣợng mặt trời.
Đây là nguồn năng lượng vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển
của sự sống trên trái đất. Đồng thời nó cũng là nguồn gốc của các dạng năng lượng
tái tạo khác như năng lượng gió, năng lượng sinh khối, năng lượng các dòng
sông...Năng lượng mặt trời có thể nói là vô tận. Tuy nhiên để khai thác sử dụng
nguồn năng lượng này cần phải biết các đặc trưng và tính chất cơ bản của nó đặc
biệt khi tới bề mặt quả đất.
1.1.1.2. Năng lƣợng gió
Năng lượng gió là một dạng chuyển tiếp của năng lượng mặt trời, bởi chính
ánh nắng ban ngày đã đun nóng bầu khí quyển, tạo nên tình trạng chênh lệch nhiệt
độ và áp suất giữa nhiều vùng khác nhau, và các khối không khí từ những khu vực
có áp suất cao sẽ dịch chuyển nhanh đến những vùng có áp suất thấp hơn, tạo ra
hiện tượng gió thổi đều khắp trên bề mặt địa cầu.
Năng lượng gió được đánh giá là thân thiện nhất với môi trường và ít gây
ảnh hưởng xấu về mặt xã hội.
1.1.1.3. Năng lƣợng thuỷ điện nhỏ.
Theo đánh giá chung về thủy điện nhỏ thì rất lớn, đặc biệt là ở những khu
vực miền núi nơi tập trung rất nhiều sông suối nhỏ, mặt khác đây là nguồn năng
lượng có giá thành rẻ nên cần có chính sách khai thác và sử dụng hiệu quả.
Từ các con sông, suối chảy từ nguồn xuống biển đều mang theo một tiềm
năng về năng lượng (gọi là thuỷ năng). Thông thường nguồn thuỷ năng phụ thuộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
vào độ dốc sông suối và lưu lượng nước chảy qua. Nguồn thuỷ năng có thể phân
bố đều hoặc không đều trên một đoạn sông suối. Để tập trung năng lượng của dòng
chảy, nghĩa là để tạo được độ chênh lệch mực nước giữa thượng lưu và hạ lưu
người ta sử dụng một số phương pháp kiểu trạm thuỷ điện như: Phương pháp tập
trung năng lượng bằng đập ngăn, phương pháp tập trung năng lượng bằng đường
dẫn và phương pháp tổng hợp tập trung năng lượng dòng chảy.
1.1.1.4. Năng lƣợng sinh khối.
Sinh khối bao gồm các loài thực vật sinh trưởng và phát triển trên cạn cũng
như ở dưới nước, các phế thải hữu cơ như: rơm rạ, vỏ trấu, bã mía, vỏ cà phê..., các
loại phế thải động vật như: phân người, phân gia súc, gia cầm.... Sinh khối là nguồn
năng lượng đầu tiên của loài người và mặc dù ngày nay các nguồn năng lượng hoá
thạch như: than đá, dầu mỏ, khí đốt là các nguồn năng lượng chính nhưng sinh khối
vẫn còn được sử dụng với một khối lượng và tỉ lệ khá lớn, nhất là ở các nước đang
phát triển.
Sinh khối là một nguồn năng lượng có khả năng tái sinh. Nó tồn tại và phát
triển được trên hành tinh chúng ta là nhờ có ánh sáng mặt trời. Các loài thực vật hấp
thụ ánh sáng mặt trời để thực hiện các phản ứng quang hợp, biến đổi các khoáng
chất, nước và các nguyên tố vô cơ khác thành các chất hữu cơ. Trong quá trình
quang hợp, thực vật còn hấp thụ khí cacbonic và tạo ra oxy là chất khí tạo ra sự
sống trên quả đất này. Các tính toán cho thấy rằng, hàng năm thực vật hấp thụ 0,1%
tổng năng lượng bức xạ mặt trời tới quả đất, và nhờ phản ứng quang hợp, tạo ra
2x10
11
tấn chất hữu cơ và cho một nguồn năng lượng rất lớn, khoảng 3x1012J.
Phần lớn các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam ta, được thiên
nhiên ban tặng cho nguồn tài nguyên năng lượng mặt trời rất dồi dào. Ở các nước
này mật độ năng lượng mặt trời khá cao, nằm trong khoảng từ 4 đến
7KWh/m
2.ngày, là điều kiện rất thuận lợi cho thực vật phát triển.
Phản ứng quang hợp còn là phản ứng cơ bản tạo ra thức ăn cho động vật.
Nếu kể đến cả sản phẩm oxy của phản ứng quang hợp ta có thể nói rằng sinh khối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
nói chung và thực vật nói riêng có ý nghĩa quyết định đối với sự sống trên hành
tinh chúng ta.
Năng lượng sinh khối hoàn toàn có thể thay thế các nguồn năng lượng hoá
thạch đang bị khai thác cạn kiệt và gây ra ô nhiễm môi trường nặng nề
1.1.1.5. Năng lƣợng địa nhiệt.
Địa nhiệt là nguồn năng lượng tự nhiên ở trong lòng quả đất, dưới lớp vỏ
không dày lắm của quả đất, nhiệt độ lên đến 10000C đến hơn 40000C, ở một số khu
vực áp suất cũng rất lớn, vượt quá 130MPa. Còn ở lớp trên cùng của vỏ Trái đất chỉ
có nhiệt độ bình quân trong năm là 150C, dưới lớp đó là một lớp có nhiệt độ bình
quân là 540
0C, còn tại lớp lõi trong nhiệt độ bình quân là 70000C. Khối năng lượng
khổng lồ đó tồn tại đồng hành với Trái đất và là nguồn năng lượng vô hạn sinh ra từ
các chuỗi phản ứng hạt nhân, sự phân hủy các chất phóng xạ tiến hành thường
xuyên trong lòng Trái đất như Thori (Th), Protactini (Pa), Urani (U)...vv, năng
lượng do các phản ứng phóng xạ được tích tụ trong lòng quả đất hàng triệu năm với
một lượng khổng lồ làm nóng chảy lõi quả đất dưới áp suất cao. Đi sâu xuống lòng
đất 2-40m (tùy địa điểm) ta sẽ gặp tầng Thường ôn, tức là tầng có nhiệt độ không
chịu ảnh hưởng của nhiệt độ Mặt Trời. Dưới tầng Thường ôn càng xuống sâu nhiệt
độ càng tăng.
Người ta gọi địa nhiệt cấp là độ sâu tính bằng mét đủ để nhiệt độ tăng lên
1
0C. Trị số trung bình là 33m. Nếu xuống sâu được đến 60km thì có nhiệt độ tới
1800
0C. Thường thường để khai thác nguồn năng lượng địa nhiệt người ta chỉ cần
khoan các giếng sâu 4-5km là tới vùng có nhiệt độ khoảng 2000C. Nước được làm
sôi lên sẽ theo ống dẫn lên và có thể làm chạy các máy phát điện...vv. Theo đánh
giá của các chuyên gia, có khoảng 10% diện tích vỏ quả đất có chữa các nguồn địa
nhiệt có thể đánh giá được tiềm năng của nó. Các nguồn này có thể cung cấp cho
nhân loại một nguồn năng lượng rất lớn.
1.1.1.6. Năng lƣợng đại dƣơng.
Tiềm năng năng lượng của các đại dương chứa trong sóng và thuỷ triều cũng
như trong sự chênh lệch nhiệt độ giữa lớp nước nóng trên bề mặt và các lớp nước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
lạnh ở dưới đáy các đại dương là vô cùng to lớn. Gió thổi trên một khoảng không
gian bao la trên các đại dương sẽ tạo ra sóng biển dữ dội, liên tục và mang theo một
nguồn năng lượng có thể nói là vô tận. Thuỷ triều là kết quả giữa lực hút của mặt
trời, mặt trăng với quả đất và do sự chuyển động của quả đất xung quanh mặt trời,
cũng như sự quay xung quanh trục nghiêng của quả đất. Ở một số khu vực trên thế
giới, mức nước biển dâng lên và hạ xuống trên 12m hai lần trong một ngày. Đại
dương còn là một bộ thu năng lượng khổng lồ, hấp thụ năng lượng mặt trời dưới
dạng nhiệt năng làm nóng lớp nước ở bề mặt và tạo ra sự chênh lệch nhiệt độ giữa
lớp nước nóng ở bề mặt và nước lạnh dưới sâu.
1.1.2. Các đặc tính của các nguồn năng lƣợng mới và tái tạo
1.1.2.1. Đặc tính phong phú và có thể tái sinh:
Có thể nói các nguồn năng lượng mới và tái tạo (NLM & TT) rất phong phú
và có sẵn do thiên nhiên ban tặng cho chúng ta, không những thế hầu hết các nguồn
năng lượng này đều có thể tái tạo được. Về nguồn mà nói thì năng lượng mặt trời
hết sức dồi dào, rồi gió, năng lượng thủy điện nhỏ, năng lượng sinh khối, năng
lượng thủy triều, sóng biển, địa nhiệt cũng có trữ lượng khá lớn nếu không muốn
nói là khó có thể cạn kiệt được. Tiềm năng của năng lượng tái tạo hay năng lượng
tái sinh là năng lượng từ những nguồn liên tục mà theo chuẩn mực của con người là
vô hạn. Vô hạn có hai nghĩa: Hoặc là năng lượng tồn tại nhiều đến mức mà không
thể trở thành cạn kiệt vì sự sử dụng của con người (thí dụ như năng lượng Mặt Trời)
hoặc là năng lượng tự tái tạo trong thời gian ngắn và liên tục (thí dụ như năng lượng
sinh khối) trong các quy trình còn diễn tiến trong một thời gian dài trên Trái Đất.
Ngược lại với việc sử dụng các quy trình này là việc khai thác các nguồn năng
lượng như than đá hay dầu mỏ, những nguồn năng lượng truyền thống mà ngày nay
được tiêu dùng nhanh hơn là được tạo ra rất nhiều. Theo ý nghĩa của định nghĩa tồn
tại "vô tận" thì phản ứng tổng hợp hạt nhân (phản ứng nhiệt hạch), khi có thể thực
hiện trên bình diện kỹ thuật, và phản ứng phân rã hạt nhân (phản ứng phân hạch)
với các lò phản ứng tái sinh, khi năng lượng hao tốn lúc khai thác uranium hay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
thorium có thể được giữ ở mức thấp, đều là những nguồn năng lượng tái tạo mặc
dù là thường thì chúng không được tính vào loại năng lượng này.
1.1.2.2. Nguồn năng lượng sạch và không gây ô nhiễm môi trường
Tất cả các nguồn NLM & TT đều sạch nên việc sử dụng các nguồn năng
lượng này sẽ mang lại nhiều lợi ích về sinh thái cũng như là lợi ích gián tiếp cho
kinh tế. So sánh với các nguồn năng lượng truyền thống như: Than đá, hoá thạch
hay thuỷ điện, năng lượng tái tạo có nhiều ưu điểm hơn vì tránh được các hậu quả
có hại đến môi trường. Năng lượng gió được đánh giá là thân thiện nhất với môi
trường và ít gây ảnh hưởng xấu về mặt xã hội. Để xây dựng một nhà máy thủy điện
lớn cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng các rủi ro có thể xảy ra với đập nước. Ngoài ra,
việc di dân cũng như việc mất các vùng đất canh tác truyền thống sẽ đặt gánh nặng
lên vai những người dân xung quanh khu vực đặt nhà máy, và đây cũng là bài toán
khó đối với các nhà hoạch định chính sách. Hơn nữa, các khu vực để có thể quy
hoạch các đập nước tại Việt Nam cũng không còn nhiều.
Song hành với các nhà máy điện hạt nhân là nguy cơ gây ảnh hưởng lâu dài
đến cuộc sống của người dân xung quanh nhà máy. Các bài học về rò rỉ hạt nhân
cộng thêm chi phí đầu tư cho công nghệ, kĩ thuật quá lớn khiến càng ngày càng có
nhiều sự ngần ngại khi sử dụng loại năng lượng này.
Các nhà máy điện chạy nhiên liệu hóa thạch thì luôn là những thủ phạm gây
ô nhiễm nặng nề, ảnh hưởng xấu đến môi trường và sức khỏe người dân. Hơn thế
nguồn nhiên liệu này kém ổn định và giá có xu thế ngày một tăng cao.
Theo báo cáo từ Tổ chức Hoà Bình Xanh và Hội đồng Năng lượng Tái tạo
châu Âu việc đầu tư vào năng lượng xanh tới năm 2030 sẽ giảm một nửa lượng phát
thải CO2. Bản báo cáo này cung cấp một luận cứ kinh tế về sự luân chuyển các
khoản đầu tư toàn cầu sang năng lượng mặt trời, năng lượng gió, thuỷ điện, địa
nhiệt và năng lượng sinh khối trong hơn nửa thế kỷ tới.
1.2. CÁC CÔNG NGHỆ NĂNG LƢỢNG MỚI VÀ TÁI TẠO VÀ CÁC
ĐẶC TRƢNG CỦA CHÚNG
1.2.1. Công nghệ điện năng lƣợng mặt trời (NLMT)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Có thể xem mặt trời là một quả cầu cách quả đất 150 triệu km. Đường kính
mặt trời 1,39 triệu km, lớn hơn 109 lần đường kính quả đất, áp suất ở phần trong
mặt trời rất cao, cao hơn áp suất khí quyển ở quả đất khoảng chục triệu lần. Nhiệt
độ trên mặt trời biến đổi từ hơn 15 triệu độ ở trong lõi tới 6 000 độ ở mặt ngoài của
nó.
Khí quyển mặt trời chứa khoảng 78,4% khí Hydro (H2), 19,8% Heli (He), các
nguyên tố kim loại và các nguyên tố khác chỉ chiếm 1,8%.
Các điều kiện về áp suất, nhiệt độ và thành phần khí quyển trên mặt trời là điều
kiện lý tưởng cho phản ứng nhiệt hạt nhân và tạo ra nguồn năng lượng khổng lồ.
Mỗi giây nó phát ra năng lượng tương đương với năng lượng đốt cháy hết 1,32.1016
tấn than đá.
Tuy nhiên bề mặt quả đất chỉ nhận được 17,57.1016 W, tương đương năng lượng
đốt cháy hết 6 triệu tấn than đá.
NLMT rất lớn, nhưng phân bố lại mỏng, chỉ khoảng 800-1000W/m2 nên việc
khai thác khá khó khăn.
Bản chất bức xạ mặt trời (BXMT) là sóng điện từ có phổ bước sóng rất rộng, từ
hàng km đến phần tỷ m. ánh sáng nhìn thấy có bước sóng từ 0.4 đến 0,7 m, chỉ
chiếm một phần rất nhỏ phổ BXMT (hình 1.1).
Hình 1.1. Phổ BXMT
Tuy nhiên khi BXMT xuyên qua lớp khí quyển tới bề mặt quả đất, do các
phân tử khí, hơi nước, các hạt bụi,… làm tán xạ, hấp thụ, nên phổ và cường độ
BXMT trên mặt đất bị giảm đi rất đáng kể.
1.2.1.1. Công nghệ nhiệt mặt trời (NMT)
10
-10
10
-8
10
-6 10
10
10
-4
10
-2
10
0
10
2
10
4 10
6
10
8 10
12
10
14
Tia
vũ
trụ
Tia
Rơnghen
Tia tử
ngoại
Tia
nhìn
thấy
Tia
hồng
ngoại
Sóng
ngắn
Sóng vô tuyến điện
( )
m)
Tia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
a. Hiệu ứng nhà kính
Hiệu ứng nhà kính là một trong những hiệu ứng quan trọng nhất được ứng
dụng để khai thác năng lượng mặt trời. Nguyên lý hoạt động như sau: Các loại
kính xây dựng cho các tia BXMT có bước sóng truyền qua một cách dễ dàng, trong
khi đó các bức xạ có > 0,7 m (các tia này còn được gọi là tia nhiệt) thì bị kính
phản xạ trở lại.
Trước hết ta khảo sát một hộp thu nhiệt mặt trời như hình 1.2. Mặt trên hộp
được đậy bằng tấm kính (1). Thành xung quanh và đáy hộp có lớp vật liệu cách
nhiệt dày (2). Đáy trong của hộp được làm bằng tấm kim loại dẫn nhiệt tốt, mặt trên
của nó phủ một lớp sơn đen, hấp thụ nhiệt tốt và được gọi là tấm hấp thụ (3).
Hình 1.2. Sơ đồ hộp thu NLMT theo nguyên lý hiệu ứng nhà kính
Các tia bức xạ mặt trời (BXMT) có bước sóng < 0,7 m tới mặt hộp thu, đi
qua tấm kính phủ phía trên (1), tới bề mặt tấm hấp thụ (3). Tấm này hấp thụ năng
lượng BXMT và chuyển hoá thành nhiệt làm cho tấm hấp thụ nóng lên, khi đó nó
trở thành nguồn phát xạ thứ cấp phát ra các tia bức xạ nhiệt có bước
sóng
m7,0
, hướng về mọi phía. Các tia đi lên phía trên bị tấm kính ngăn lại,
không ra ngoài được. Nhờ vậy, hộp thu liên tục nhận BXMT nên tấm hấp thụ được
nung nóng dần lên và có thể đạt đến nhiệt độ hàng trăm độ. Như vậy năng lượng
nhiệt mặt trời bị "giam" trong hộp, giống như một cái bẫy nhiệt - năng lượng vào
được nhưng không thể ra được. Đó là nguyên lý “hiệu ứng nhà kính”. Nhiệt độ của
tấm hấp thụ càng cao, phát xạ nhiệt từ mặt hấp thụ càng lớn, cho đến khi năng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
lượng mà tấm hấp thụ nhận được từ BXMT cân bằng với năng lượng mất mát cho
môi trường xung quanh thì trạng thái cân bằng nhiệt được thiết lập.
b. Bộ thu phẳng
Bộ thu phẳng có cấu tạo dựa trên nguyên lý hiệu ứng nhà kính như đã mô tả
trên, nhưng tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng nhiệt khác nhau phần thu nhiệt có thể
có các dạng kết cấu khác nhau. Bộ thu Năng lượng mặt trời (NLMT) có thể được
ứng dụng trong nhiều mục đích khác nhau như để sản xuất nước nóng, sấy nông hải
sản phẩm, chưng cất nước, sưởi ấm nhà cửa v.v…Nó có thể có nhiều hình dạng
khác nhau được thiết kế cho phù hợp với mục đích sử dụng.
1.2.1.2. Công nghệ điện mặt trời (ĐMT)
Hiện nay có hai công nghệ để sản xuất điện bằng NLMT. Đó là công nghệ
Nhiệt điện mặt trời và công nghệ Pin mặt trời (hay pin quang điện). Trong công
nghệ thứ nhất, năng lượng mặt trời được hội tụ nhờ các hệ thống gương hội tụ như
máng parabol, đĩa parabol, gương cầu...để tập trung ánh sáng mặt trời thành các
nguồn nhiệt có mật độ năng lượng và do đó có nhiệt độ rất cao, có thể làm bốc hơi
nước ở nhiệt độ và áp suất lớn và sau đó hơi làm quay các Tuabin để sản xuất ra
điện năng. Còn trong công nghệ pin mặt trời, năng lượng mặt trời được biến đổi
trực tiếp thành điện năng nhờ các tế bào quang điện bán dẫn được chế tạo từ các vật
liệu bán dẫn điện. Các pin mặt trời sản xuất ra điện năng một cách liên tục chừng
nào còn bức xạ mặt trời tới nó. Các hệ thống pin mặt trời rất đơn giản, không có
phần chuyển động, không đòi hỏi phải bảo dưỡng chăm sóc thường xuyên như các
hệ thống năng lượng khác, nên các hệ thống rất được quan tâm nghiên cứu, phát
triển và ứng dụng. Ngay từ năm 1950 các pin mặt trời đã trở thành nguồn điện rất
tin cậy cho các vệ tinh nhân tạo và hiện nay là các tàu vũ trụ. Đặc biệt từ cuộc
khủng hoảng dầu lửa năm 1973, các hoạt động nghiên cứu hoàn thiện công nghệ pin
mặt trời đã phát triển mạnh mẽ. Hiện nay sản xuất pin mặt trời đã trở thành một
trong các ngành công nghiệp quan trọng ở nhiều nước công nghiệp phát triển trên
thế giới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
1.2.2. Công nghệ thuỷ điện nhỏ (TĐN)
1.2.2.1. Công nghệ thuỷ năng và các đặc điểm
Các con sông, suối chảy từ nguồn xuống biển đều mang theo một tiềm năng
về năng lượng (gọi là thuỷ năng). Thông thường các nguồn thuỷ năng phụ thuộc
vào độ dốc sông suối và lưu lượng nước chảy qua. Nguồn thuỷ năng có thể phân bố
đều hoặc không đều trên một đoạn sông suối. Để tập trung năng lượng của dòng
chảy, nghĩa là để tạo được độ chênh mực nước giữa thượng lưu (TL) và hạ lưu (HL)
người ta sử dụng ba phương pháp ứng với ba kiểu trạm thuỷ điện sau đây:
a. Phương pháp tập trung năng lượng bằng đập ngăn
Phương pháp này là đắp đập tạo nên độ chênh mực nước giữa TL và HL.
Đập có nhiều loại: đập đất, đập đá và đập bêtông. Còn trạm thuỷ điện có thể bố trí
sau đập hay trong lòng đập. Trạm thuỷ điện này gọi là trạm thuỷ điện sau đập hay
trạm thuỷ điện trong lòng đập. Vì độ cao đập hạn chế nên phương pháp này được sử
dụng chỉ cho các đoạn sông suối có độ dốc nhỏ. Cột nước toàn phần của trạm thuỷ
điện được xác định bằng hiệu mực nước TL và HL.
b. Phương pháp tập trung năng lượng bằng đường dẫn
Phương pháp này sử dụng đường dẫn để tạo độ chênh mực nước giữa thượng
lưu và hạ lưu. Trạm thuỷ điện này gọi là trạm thuỷ điện đường dẫn. Đường dẫn có
thể bằng đường ống hoặc kênh dẫn. Trạm thuỷ điện dạng này thích hợp với các con
sông, suối có độ dốc lớn hay có bậc thác.
c. Phương pháp tổng hợp tập trung năng lượng dòng chảy
Phương pháp này tạo độ chênh mực nước bằng đập ngăn và bằng đường dẫn
đối với đoạn sông có độ dốc khác nhau. Độ chênh mực nước của trạm bằng tổng độ
chênh mực nước đập tạo nên và độ chênh của đường dẫn. Trạm thuỷ điện dạng này
gọi là trạm thuỷ điện tổng hợp. Cột áp toàn phần được xác định bằng tổng cột áp do
đập và đường dẫn tạo nên.
1.2.2.2. Các ứng dụng
Đối với một trạm thuỷ điện nhỏ quan trọng nhất là phương pháp xác định
kích thước tuabin. Tuabin nước được sử dụng chủ yếu để kéo máy phát điện nhằm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
cung cấp điện cho các hộ sử dụng. Ở các vùng miền núi, tuabin nước còn được sử
dụng để làm quay trực tiếp máy bơm cấp nước sinh hoạt và tưới cây. Ngoài ra
tuabin nước còn được sử dụng để chạy các máy công cụ khác: Máy gia công cơ khí,
máy xay xát, ...vv.
a. Tuabin nước chạy máy phát điện
Tuabin được nối trực tiếp với máy phát điện hoặc gián tiếp thông qua các bộ truyền
động. Công suất của máy phát điện sẽ được xác định theo công suất của tuabin, còn
vòng quay của máy phát được chọn theo số vòng quay đồng bộ.
* Tuabin kéo trực tiếp máy phát
Loại này có số vòng quay của tuabin bằng số vòng quay của máy phát
* Tuabin kéo máy phát qua bộ truyền
Loại này thì số vòng quay của tuabin thường nhỏ hơn vòng quay của máy phát và
được xác xác định theo tỷ số truyền của bộ truyền đai hay hộp số cơ khí.
b. Tuabin kéo bơm
Để phục vụ cho việc cung cấp nước sinh hoạt và nước tưới cho vùng sâu,
vùng xa, nơi có nguồn thuỷ năng nhỏ, người ta sử dụng tuabin để trực tiếp kéo bơm.
Tổ hợp như vậy gọi là bơm thuỷ luân. Tuabin kéo bơm có hai loại: Buồng hở và
buồng kín
* Tuabin buồng hở cột nước thấp 0,4 đến 4m, cột áp bơm đạt 2 đến 24m.
Loại này thường là tuabin hướng trục, được nối trực tiếp với máy bơm. Máy bơm
được sử dụng có thể là bơm ly tâm một cấp hay nhiều cấp
* Tuabin buồng kín cột nước tuabin từ 2m trở lên, cột áp bơm từ 7m đến
hàng trăm mét. Loại này có thể nối trực tiếp hay gián tiếp với máy bơm qua bộ
truyền đai hay hộp số. Bơm sử dụng có thể là bơm một cấp hay nhiều cấp, bơm
thường có lưu lượng nhỏ và cột áp cao, có thể sử dụng bơm xoáy hay bơm ly tâm,
trường hợp bơm nước sạch cho sinh hoạt có thể dùng bơm piston.
1.2.3. Công nghệ điện gió
1.2.3.1. Năng lượng gió (NLG) và đặc điểm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Năng lượng gió thường được khai thác từ các trạm đặt ở độ cao (20-70)m
so với bề mặt trái đất. Trên độ cao lớn (8-12)km gọi là tầng đối lưu, có gió thường
xuyên hơn và gọi là dòng chảy luồng (hay luồng khí). Gió loại này có vận tốc lớn
(25-80)m/s. Tiềm năng năng lượng của chúng lớn hơn nhiều. Đặc tính gió ở tầng
này khác nhiều so với đặc tính gió trên mặt đất. Song sử dụng gió ở độ cao này gặp
phải một số khó khăn rất lớn về mặt kỹ thuật khi chuyển tải điện từ độ cao lớn tới
mặt đất.
Đặc tính quan trọng nhất đánh giá động năng của gió là vận tốc. Dưới ảnh
hưởng của một loạt các yếu tố khí tượng (sự nhiễu loạn khí quyển, sự thay đổi tác
động của mặt trời và lượng năng lượng nhiệt truyền tới mặt đất...), đồng thời các
điều kiện địa hình tại chỗ, tốc độ gió thay đổi cả về giá trị và hướng. Hướng véctơ
vận tốc cho thấy vị trí tính theo góc của nó ứng với hướng được lấy làm gốc tính
toán (thường là hướng Bắc).
Vận tốc gió có tác động đáng kể tới động cơ gió và ảnh hưởng tới hệ thống
điều chỉnh tự động, việc sản sinh ra năng lượng phụ thuộc trước hết vào vận tốc gió
trung bình theo thời gian và diện tích bề mặt bánh công tác động cơ gió. Vận tốc gió
trung bình theo thời gian xác định bằng tỷ số của tổng các giá trị vận tốc gió tức
thời đo được với số lần đo trong khoảng thời gian đo.
Vận tốc gió trung bình thay đổi đáng kể trong thời gian khác nhau trong
ngày, trong các tháng và các mùa. Do vậy người ta phân biệt diễn biến vận tốc theo
ngày, tháng, mùa đặc trưng cho xu hướng chung thay đổi vận tốc trong các chu kỳ
thời gian kể trên. Việc nghiên cứu sự biến đổi của vận tốc sẽ thuận lợi hơn nhờ sự
phân tích tổng hợp tính quy luật và sự biến đổi ngẫu nhiên cường độ gió trong một
khoảng thời gian chọn trước cũng như trên một diện tích không gian hữu hạn.
Thông thường ở các trạm khí tượng vận tốc gió trung bình được xác định trong
khoảng thời gian là 2 phút.
Đặc trưng của NLG là tập hợp các dữ liệu cần thiết và đủ độ tin cậy đặc
trưng cho gió như là một nguồn năng lượng và cho phép làm rõ giá trị năng lượng
của nó. Đó cũng là một hệ thống các dữ liệu đặc trưng cho chế độ gió ở các vùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
khác nhau, trên cơ sở đó có thể tính toán các chế độ và thời gian làm việc của tổ
máy với công suất này hoặc khác, và năng lượng tổng cộng có thể khai thác được.
Đặc tính đặc trưng quan trọng nhất là mật độ phân bố các vận tốc gió khác
nhau, diễn biến các chu kỳ làm việc và sự lặng gió, các chế độ vận tốc cực đại
(bão). Các giá trị vận tốc gió trung bình năm và trung bình mùa cũng là những đặc
trưng quan trọng, thuận lợi để đánh giá tiềm năng NLG.
Đặc tính quan trọng hơn cần phải kể đến là hàm quy luật thống kê tần số biến
đổi vận tốc gió trong khoảng thời gian xác định. Khi biết quy luật xác định và thông
số của hàm này và khi có các đặc tính của các tổ máy NLG, có thể đánh giá được
năng lượng sản ra, thời gian dừng làm việc, hệ số sử dụng, công suất lắp đặt, hiệu
quả kinh tế...vv.
Trong lĩnh vực NLG, mô hình toán có ý nghĩa quan trọng để đánh giá dung
lượng thiết bị Ắcquy, dự trữ công suất và đồng thời các biểu đồ cung cấp năng
lượng của tổ máy, vì rằng không thể tích trữ năng lượng gió cho tới khi nó thực hiện
được công hữu ích. Nói cách khác động cơ gió không có Ắcquy chỉ có thể làm việc
theo biểu đồ không điều khiển.
Gió là một nguồn năng lượng có đặc tính ưu việt là có ở tất cả mọi nơi. Song
việc ứng dụng NLG trong các quá trình sản suất là hết sức khó khăn, để nhận được
công suất lớn cần có động cơ gió kích thước rất lớn. Thêm vào đó là NLG không ổn
định theo thời gian nên khó sử dụng rộng rãi trong công nghiệp và giao thông.
1.2.3.2. Các ứng dụng
Từ lâu con người đã biết sử dụng năng lượng gió để tạo ra cơ năng thay thế
cho sức lao động nặng nhọc, điển hình như các thuyền buồm chạy bằng sức gió, cối
xay gió...Ngày nay việc nghiên cứu, ứng dụng năng lượng gió được rất nhiều nước
quan tâm. Ứng dụng quan trọng nhất của năng lương gió là dùng để sản xuất ra điện
năng thông qua các động cơ gió, ứng dụng quan trọng thứ hai là bơm nước. Người
ta sử dụng các loại bơm khác nhau ghép nối với động cơ gió để bơm nước.
1.2.4. Phát điện từ sinh khối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Có hai công nghệ để làm biến đổi sinh khối ra các dạng năng lượng. Đó là
công nghệ nhiệt hoá và công nghệ sinh hoá. Công nghệ sinh hoá sử dụng các phản
ứng lên men sinh khối như lên men rượu, lên men kỵ khí nhờ các chủng loại vi sinh
để biến đổi sinh khối ở áp suất và nhiệt độ thấp thành các loại nhiên liệu khí (khí
sinh học) hoặc lỏng (ethanol, methanol…). Ngược lại công nghệ nhiệt hoá sử dụng
các quá trình nhiệt độ cao để biến đổi sinh khối nhờ các quá trình đốt cháy, nhiệt
phân, khí hoá, chất lỏng.
Khí sinh học có rất nhiều ứng dụng như thắp sáng, dùng làm nhiên liệu đun
nấu, phát điện, v.v... Ngoài ra công nghệ khí sinh học còn là một công nghệ làm
sạch môi trường.
1.2.5. Công nghệ địa nhiệt và điện địa nhiệt
Địa nhiệt là nguồn năng lượng nhiệt tự nhiên ở trong lòng Quả đất. Có 5 loại
nguồn địa nhiệt. Đó là: nguồn nước nóng, nguồn áp suất địa nhiệt, nguồn đá nóng
khô, các núi lửa hoạt động và magma. Nhiệt từ các nguồn hay từ mỏ địa nhiệt có thể
khai thác nhờ sử dụng một số chất lỏng tự nhiên của quả đất để làm chất làm việc
vận chuyển nhiệt. Năng lượng nhiệt này có thể cho qua tuabin để phát điện hoặc
dùng một cách trực tiếp cho các quá trình gia nhiệt hoặc chế biến nhiệt công nghiệp.
Để khai thác các nguồn địa nhiệt người ta thường sử dụng phương pháp khoan như:
._.khai thác dầu hay khí đốt.
Đối với các nguồn địa nhiệt nông và nhiệt độ không cao (thấp hơn 1700C)
thường người ta khai thác nhiệt một cách trực tiếp hoặc sử dụng gián tiếp qua bộ
trao đổi nhiệt. Để sử dụng năng lượng địa nhiệt có hiệu quả thông thường người ta
sử dụng ngay tại chỗ, nơi có nguồn địa nhiệt khai thác, vì khi dẫn nhiệt đi xa (ống
dẫn) hao phí nhiệt sẽ lớn.
Để phát điện người ta có thể sử dụng một số hệ thống như:
a. Hệ thống hơi khô: Người ta lấy hơi nước từ các giếng đá khô và sau đó
cho trực tiếp qua tuabin để phát điện.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
b. Hệ thống hoá hơi đơn: Nước nóng từ nguồn địa nhiệt được làm bốc
hơi theo kiểu xung (nổ) và sau đó dẫn qua tuabin phát điện. Nước thải còn lại được
đưa trở lại nguồn (mỏ) địa nhiệt.
c. Hệ thống hoá hơi kép: Trong hệ thống này hơi nước được tạo ra trong
hai giai đoạn để tận dụng được nhiều hơn năng lượng địa nhiệt. Trong giai đoạn đầu
hơi nước được tách ra khỏi hỗn hợp nước nóng và hơi khi lấy dưới mỏ lên và cho
qua tuabin phát điện. Nước nóng được tách ra lại được hoá hơi theo kiểu xung và lại
được cho qua tuabin phát điện. Cuối cùng nước nóng thải còn lại được bơm trở lại
nguồn địa nhiệt.
d. Hệ thống hai tầng: Để tránh được hiện tượng ăn mòn và đóng cặn sinh
ra khi chất lỏng địa nhiệt đi trực tiếp qua hệ thống phát điện người ta dùng hệ thống
hai tầng nhờ bộ trao đổi nhiệt. Ở tầng thứ nhất chất lỏng địa nhiệt được bơm từ
giếng lên, đi qua bộ trao đổi nhiệt để truyền nhiệt cho chất lỏng làm việc, sau đó nó
được làm ngưng tụ và cho trở về nguồn địa nhiệt. Ở tầng thứ hai, một chất lỏng
khác hoạt động theo chu trình kín, nhận nhiệt ở bộ trao đổi nhiệt, tới tuabin phát
điện, qua bộ ngưng tụ, trở về bộ trao đổi nhiệt. Các nhà máy điện địa nhiệt hoạt
động theo hệ thống hai tầng này có thể được thiết kế theo nhiều kiểu khác nhau để
tận dụng tối đa nguồn năng lượng địa nhiệt.
e. Hệ thống kết hợp: Là hệ thống sử dụng đồng thời cả hơi nước và áp suất
địa nhiệt. Trong hệ thống này hơi nước ở áp suất cao được dẫn qua hệ thống ống
dẫn với vận tốc rất lớn và cho xả vào các tuabin hơi để phát điện. Động năng rất lớn
của các dòng hơi trong các ống qua tuabin đã được chuyển thành điện năng.
Ngoài ứng dụng phát điện năng lượng địa nhiệt có nhiệt độ thấp hay trung
bình có thể dùng để sưởi ấm hay sản xuất nước nóng cho các mục đích sinh hoạt
trong các gia đình hay các cơ sở công cộng như: trường học, bệnh viện, nhà hàng,
khách sạn...vv.
1.2.6. Phát điện từ nguồn năng lƣợng đại dƣơng
1.2.6.1. Năng lượng thuỷ triều:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
Năng lượng thuỷ triều có tính chu kỳ, có thể là nửa ngày, nửa năm hoặc dài
hơn. Các chu kỳ này ảnh hưởng đến độ chênh lệch của thuỷ triều. Để khai thác
nguồn năng lượng dạng này cần hiểu biết đầy đủ các quy luật vận động của thuỷ
triều. Biên độ của các chu kỳ thuỷ triều tăng lên một cách rất đáng kể, ở một số
vùng biển có địa hình đặc biệt như ở các cửa sông, ở các vịnh dạng hình phễu, ở các
khu vực có các đảo hay các doi đất chia mặt biển thành từng ngăn tạo ra sự phản xạ
và cộng hưởng sóng biển.
Các hệ thống năng lượng thuỷ triều có hồ chứa có thể được thiết kế để hoạt
động theo một trong ba phương thức sau:
- Phát điện khi triều lên
- Phát điện khi triều xuống
- Phát điện cả hai chiều
1.2.6.2. Năng lượng nhiệt đại dương
Nước nóng ở bề mặt và nước lạnh ở dưới tầng sâu của đại dương, nếu đem
lại gần nhau có thể sử dụng như là các nguồn nóng và nguồn lạnh trong một máy
nhiệt. Một máy nhiệt hoạt động với hai nguồn nhiệt như thế cũng giống như các
máy nhiệt trong các nhà máy nhiệt điện, nhưng máy nhiệt đại dương lại không cần
dùng một loại nhiên liệu nào cả. Một điều rất quan trọng đối với các nhà máy nhiệt
điện đại dương là cần phải lựa chọn sử dụng các vật liệu và thiết bị vừa phải chịu
được điều kiện môi trường biển rất khắc nghiệt, lại phải vừa đảm bảo hiệu quả kinh
tế.
1.2.6.3.Năng lượng sóng biển
Đây cũng là một nguồn năng lượng rất lớn và hấp dẫn. Tiềm năng năng
lượng sóng biển phụ thuộc vào vị trí địa lý, thậm chí ngay ở một vị trí đã cho năng
lượng sóng biển cũng biến đổi theo thời gian từng giờ, từng ngày và từng mùa. Tuỳ
theo nguyên lý hoạt động mà các thiết bị khai thác sóng biển được nghiên cứu, thiết
kế và chế tạo theo từng loại khác nhau. Trên thế giới đã có nhiều công ty nghiên
cứu, thiết kế và chế tạo các thiết bị khai thác năng lượng sóng biển, nhưng nói
chung số lượng cũng như công suất thiết bị còn nhỏ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
1.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG CÁC NGUỒN ĐIỆN
TỪ NLM & TT
1.3.1. Trên thế giới
Hiện nay trên thế giới việc nghiên cứu ứng dụng của các nguồn năng lượng
mới và tái tạo đang phát triển rất mạnh mẽ. Xuất phát từ tình hình thực tiễn là nguồn
năng lượng truyền thống đang ngày càng cạn kiệt, thêm vào đó là nhu cầu sử dụng
năng lượng phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau ngày càng tăng. Chính vì vậy
mà việc nghiên cứu và ứng dụng các nguồn năng lượng có thể tái sinh, các nguồn
năng lượng thân thiện với môi trường, và đặc biệt là các nguồn năng lượng này có
thể nói rất dồi dào cần được quan tâm và có chính sách cụ thể.
Quốc gia đầu tiên phát triển ở lĩnh vực này đó phải kể đến là Đức. Tại quốc
gia này chủ yếu ứng dụng nguồn năng lượng mặt trời và năng lượng gió để phục vụ
nhu cầu sử dụng. Hệ thống cung cấp điện đã tương đối ổn định dựa trên một hạ tầng
cơ sở tập trung với các nhà máy phát điện lớn và mạng lưới dẫn điện đường dài.
Việc cung cấp điện ngày một tăng thông qua các thiết bị dùng năng lượng gió hay
quang điện có thể sẽ thay đổi hạ tầng cơ sở này trong thời gian tới.
Bảng: 1.1: Tỷ lệ của năng lượng tái tạo trong sản xuất điện tại Đức
Sản xuất điện tại Đức (GWh)
Năm
Tổng số
lƣợng điện
tiêu dùng
Tổng số
năng
lƣợng tái
tạo
Tỷ lệ
năng
lƣợng tái
tạo ( %)
Sức
nƣớc
Sức
gió
Sinh
khối
Quang
điện
Địa
nhiệt
1990 550.700 17.045 3,1 15.579,7 43,1 1.422 0,6
1991 539.600 15.142 2,8 13.551,7 140 1.450 0,7
1992 532.800 17.975 3,4 16.152,8 275,2 1.545 1,5
1993 527.900 18.280 3,5 16.264,3 443 1.570 2,8
1994 530.800 20.233 3,8 17.449,1 909,2 1.870 4,2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
1995 541.600 21.923 4,0 18.335 1.563 2.020 5,3
1996 547.400 20.392 3,7 16.151,0 2.031,9 2.203 6,1
1997 549.900 21.249 3,9 15.793 2.966 2.479 11
1998 556.700 24.569 4,4 17.264,0 4.489,0 2.800 15,6
1999 557.300 28.275 5,1 19.707,6 5.528,3 3.020 19,1
2000 576.400 35.399 6,1 21.700 9.500 4.129 70
2001 580.500 36.480 6,3 19.800 11.500 5.065 115
2002 581.700 42.697 7,3 20.200 15.900 6.417 180
2003 44.697 7,7 18.700 18.500 6.909 255
2004 55.756 9,6 20.900 25.000 9.356 500 0,4
Nguồn:
Tại Nhật Bản đang nghiên cứu và sẽ tung ra thị trường các tế bào năng lượng
mặt trời nhỏ hình cầu có thể nhận ánh sáng mặt trời từ mọi hướng với hiệu suất
chuyển đổi quang điện cao. Các tế bào này có tên gọi Sphelar, đường kính 1 - 1,5
mm. Sphelar có thể tạo ra năng lượng điện từ ánh sáng mặt trời trực tiếp hay gián
tiếp và có thể thu năng lượng theo bất cứ hướng nào (không nhất thiết phải đối diện
trực tiếp với mặt trời). Ngoài ứng dụng trong việc tạo năng lượng điện dùng cho
sinh hoạt, các nhà nghiên cứu công ty Kyosemin hiện đang nghiên cứu ứng dụng
Sphelar vào trong điện thoại di động.
Điện gió đã được sử dụng phổ biến ở Châu Âu và là một nguồn điện rất có
tiềm năng. Đứng đầu về sản xuất điện gió ở châu Âu hiện nay là Đức, Tây Ban Nha
và Đan Mạch. Mỗi năm, người ta lại cho xây dựng thêm khoảng 30% số nhà máy
điện gió mới đem lại sản lượng 15 tỷ kWh. Hiện Đan Mạch là nước có nhà máy
điện gió ven bờ biển lớn nhất thế giới. Hà Lan cũng có trang trại gió lớn, chạy dài 5
km ven biển. Tổ chức đa quốc gia AMEC và Năng lượng Anh tới đây sẽ lắp 300
tuốc bin gió trên các bãi hoang và đầm lầy của mũi đảo phía bắc Hebrit Scotland.
Với vốn đầu tư 500 triệu bảng Anh, dự tính đây sẽ là nhà máy điện gió lớn nhất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
châu Âu, cho khoảng 1% tổng nhu cầu điện của Anh. Người ta cũng lắp đặt tuốc
bin từ suốt phía Tây Ireland đến biển Baltic. Nước Mỹ đã có một số trạm gió đầu
tiên tại Bắc Dakota. Chính phủ thuê đất của nhân dân với giá 2.000 USD/năm (bình
thường họ thu được 500USD/năm từ nông nghiệp). Điện khí hydro chỉ vài năm nữa
sẽ hết sức thông dụng. Ở Ireland, từ các năm 70, người ta đã lắp đặt các giàn địa
nhiệt để tận dụng tiềm năng to lớn của các núi lửa và suối nước nóng đang hoạt
động, nhằm sản xuất điện. Đến nay, họ đã tìm cách tách khí hydro nguyên chất ra
khỏi hơi nước để chạy máy. Những thử nghiệm quy mô đầu tiên về loại khí này đã
được các hãng Demler Critler, Shell và Liên minh châu Âu tài trợ, khoảng vài chục
triệu Euro. Vào năm 2005, tại đây xe buýt, xe hơi, các tàu đánh bắt cá sử dụng
nguyên liệu hydro đã được thử nghiệm và thu được kết quả tốt. Trong tương lai sẽ
triển khai ứng dụng rộng rãi vào tất cả các phương tiện (khoảng 30 - 40 năm tới).
Khí hydro có rất nhiều trên mặt nước các sông hồ, đại dương và sẽ là một nguồn
năng lượng vô tận, sạch, không độc, không gây ô nhiễm.
Điện mặt trời đem lại cho kinh tế thế giới 2,2 tỷ USD/năm. Nước đã lắp đặt
giàn pin mặt trời 15 triệu Watt đầu tiên là Tây Ban Nha, rồi Đức, Mỹ. Mới đây,
Nam Phi, Italia, Australia và ấn Độ đã cho lắp đặt các giàn pin mặt trời lớn, mỗi cái
có thể sinh được hơn 100 triệu Watt. Một số dự án đã được hoàn thành năm 2002,
phí tổn hiện tại là 0,15 USD cho 1 kWh và trong 8 - 10 năm nữa giá thành sẽ hạ
xuống chỉ còn 0,08 USD cho 1 kWh.
Điện hạt nhân mặc dù có những sự cố nhỏ, nhưng vẫn là một nguồn năng
lượng sạch hữu hiệu nay mai (ích lợi của điện hạt nhân không phụ thuộc vào thời
tiết). Theo đánh giá của các chuyên gia nguyên tử, điều quan trọng khi xây dựng các
lò điện là phải cẩn thận, an toàn. Ngoài ra, xử lý, chôn cất rác thải nguyên tử rất
quan trọng: nơi chôn dưới lòng đất phải thật ổn định, không xói mòn và nếu phát xạ
vẫn thăm dò và tránh nhiễm độc được.
1.3.2. Tại Việt Nam
Về vấn đề này hiện nay ở Việt Nam nói chung vẫn còn khá mới mẻ. Trước
đây thì nhà nước chưa quan tâm, nhưng 5 năm trở lại đây thì có chuyển biến khá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
mạnh về nguồn năng lượng tái tạo. Từ đó có chính sách hỗ trợ nghiên cứu và đầu
tư cho nguồn này. Cũng do thiếu điện nên đây là cơ hội cho năng lượng tái tạo phát
triển. Đầu tư nay cũng khá lớn như vay tiền WB, tổng kinh phí 400 triệu đô la, để
điện khí hóa nông thôn, trong đó có nghiên cứu đánh giá các nguồn năng lượng tái
tạo và xây dựng khai thác năng lượng tái tạo để phục vụ điện khí hóa nông thôn. Dự
án này thực hiện từ năm 2000 đến 2010.
Dự án ODA Phần Lan với kinh phí 30 triệu đô la. Ủy ban Dân tộc Miền Núi
làm chủ đầu tư. Dự án này cung cấp điện mặt trời cho khoảng 300 xã miền núi khó
khăn, các xã vùng sâu vùng xa. Ngoài ra những dự án dưới 10 triệu đô thì nhiều
lắm.
Việc hợp tác với các Tổ chức Phi chính phủ trong lĩnh vực này cũng nhiều.
Hiện nay tại trung tâm Năng Lượng Mới trường Đại học Bách Khoa Hà Nội có
nhiều hợp tác trong lĩnh vực này, song song với việc quan hệ hợp tác với các tổ
chức này thì trung tâm này còn thường xuyên nghiên cứu và đưa vào lắp đặt nhiều
dự án cung cấp điện bằng những nguồn năng lượng tái tạo tại những vùng chưa có
điện lưới quốc gia như: Tỉnh Bắc Giang, Tỉnh Bình Định, Tỉnh Quảng Trị hay một
số địa phương khác trong cả nước.
Đánh giá chung nhất ở Việt Nam các dạng năng lượng tái tạo hay năng lượng
mới đều có. Về nguồn mà nói thì năng lượng mặt trời rất phong phú, rồi gió, năng
lượng thủy điện nhỏ, năng lượng sinh khối, năng lượng thủy triều, sóng biển, địa
nhiệt.
Trữ lượng thì khá lớn, tiềm năng của các nguồn thì: về thủy điện nhỏ rất lớn
như khu vực miền núi phía Bắc, phía Tây dọc biên giới Việt Lào. Năng lượng mặt
trời là khá nhất là từ Đà Nẵng trở vào. Năng lượng sinh khối trong rừng cũng rất lớn
, ngoài ra còn hai nguồn năng lượng sinh khối khác là bã mía thì chưa tận dụng hết
nguồn hoàn toàn chưa sử dụng là vỏ trấu.
Khí sinh học tiềm năng cũng lớn vì chăn nuôi nay cũng ở qui mô công
nghiệp, trang trại. Năng lượng đại dương gồm nguồn sóng biển, thủy triều và nhiệt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
đại dương thì cho đến nay ở Việt Nam vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào để
khai thác.
Năng lượng gió Việt Nam thì không tốt bằng các nước châu Âu , thế nhưng
dọc bờ biển và hải đảo thì Việt Nam cao nhất so với các nước trong khu vực. Nay
do số liệu về gió trên độ cao 40 mét thì Việt Nam chưa có nhiều.
Hiện nay đang xây dựng một số cột đo gió độ cao trên 40 mét; khi đánh giá
được thì mới có thể khai thác. Năng lượng địa nhiệt của Việt Nam cũng khá nhiều
nguồn, có đến 300 vị trí có thể khai thác nhưng đến nay chưa có nghiên cứu sâu để
khai thác ứng dụng.
Từ các đánh giá về thực trạng ngành năng lượng của Việt Nam trong thời
gian qua cho thấy để đảm bảo an toàn cung cấp năng lượng, cần phải có một kế
hoạch phát triển năng lượng dài hạn và đề ra các chính sách năng lượng quốc gia
theo quan điểm chỉ đạo đã được nêu trong Nghị quyết Đại hội IX của Đảng: “Phát
triển năng lượng đi trước một bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, bảo
đảm an toàn năng lượng quốc gia”.
Với quan điểm chỉ đạo đã được nêu trên, để góp phần thực hiện thành công
mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng, mục tiêu tổng quát phát triển
ngành năng lượng nước ta trong giai đoạn tới là:
“Khai thác và sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng
trong nước; Cung cấp đầy đủ năng lượng với chất lượng ngày càng cao, giá cả hợp
lý cho phát triển kinh tế xã hội; đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia; Đa dạng hoá
phương thức đầu tư và kinh doanh trong lĩnh vực năng lượng, từng bước hình thành
và phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh; Đẩy mạnh phát triển nguồn năng
lượng mới và tái tạo để đáp ứng cho nhu cầu, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới,
hải đảo. Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững ngành năng lượng, phát triển đi đôi
bảo vệ môi trường”.
Có chính sách ưu đãi về tài chính và mở rộng hợp tác quốc tế để tăng cường
công tác tìm kiếm thăm dò nhằm nâng cao trữ lượng và khả năng khai thác than,
dầu, khí đốt, năng lượng mới và tái tạo. Đảm bảo trữ lượng về nhiên liệu hoá thạch
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
trong nước (than, dầu và khí đốt), trên quan điểm tối ưu hoá sử dụng và kéo dài độ
sẵn sàng trữ lượng năng lượng.
Tổ chức điều tra đánh giá tiềm năng nguồn năng lượng mới và tái tạo, xây
dựng quy hoạch sử dụng năng lượng mới.
Các doanh nghiệp phát điện đến năm 2010 phải có 3%, năm 2020 có 5%,
năm 2040 có 10% công suất nguồn sử dụng nguồn năng lượng và tái tạo. Các đơn
vị công cộng, dịch vụ (bệnh viện, trường học, cơ quan nhà nước, nhà hàng…) có sử
dụng nước nóng, có 10% được cấp từ thiết bị sử dụng năng lượng mặt trời.
Nhà nước khuyến khích việc khai thác, sử dụng năng lượng mới và tái tạo:
hỗ trợ kinh phí cho các chương trình điều tra, nghiên cứu, chế tạo thử, xây dựng các
điểm điển hình sử dụng năng lượng mới tái tạo; miễn thuế nhập khẩu, thuế sản xuất,
lưu thông các thiết bị, công nghệ năng lượng mới và tái tạo.
Lựa chọn công nghệ thích hợp với điều kiện của Việt Nam, đưa nhanh vào
đời sống, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, miền núi.
Phối hợp, lồng ghép chương trình phát triển năng lượng mới và tái tạo với
các chương trình khác ở nông thôn như chương trình điện khí hoá nông thôn, trồng
rừng, xoá đối giảm nghèo, chương trình nước sạch…
Tổ chức điều tra đánh giá tiềm năng nguồn năng lượng mới và tái tạo, xây
dựng quy hoạch sử dụng năng lượng mới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
CHƢƠNG 2
TIỀM NĂNG VÀ KHẢ NĂNG KHAI THÁC NĂNG LƢỢNG MỚI
VÀ TÁI TẠO Ở THÁI NGUYÊN
2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN – XÃ HỘI
2.1.1. Vị trí địa lý.
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi, nằm trong vùng Trung du và Miền núi Bắc
bộ với diện tích tự nhiên là 3.541,5015 km2
Đường quốc lộ 3 từ Hà Nội lên Bắc Kạn, Cao Bằng cắt dọc toàn bộ tỉnh là
cửa ngõ phía nam nối Thái Nguyên với Hà Nội, các tỉnh đồng bằng Sông Hồng, với
các tỉnh khác trong cả nước, đồng thời là cửa ngõ phí bắc qua các tỉnh Bắc Kạn,
Cao Bằng thông sang biên giới Trung Quốc.
Với vị trí địa lý là một trong những trung tâm kinh tế chính trị của Việt Bắc
nói riêng và đồng bằng Trung du miền núi Đông Bắc nói chung, Thái Nguyên là
một cửa ngõ giao lưu kinh tế xã hội giữa vùng trung du miền núi và vùng đồng bằng
Bắc bộ.
Tóm lại, Thái Nguyên có điều kiện địa lý thuận lợi cho phát triển kinh tế, văn
hoá và xã hội không chỉ hiện nay mà cả trong tương lai.
2.1.2. Dân số
Theo Cục Thống kê tỉnh Thái Nguyên, dân số Thái Nguyên năm 2005 là
1.108.775 người, tốc độ tăng dân số năm 2005 là 1,17%/năm. Mật độ dân số năm
2005 là 313,08 người/km2. Cơ cấu dân số thành thị và nông thôn năm 2005 là
23,41-76,59%. Năm 2005 lao động nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ tương đối cao
78,64%. Thái Nguyên có 8 dân tộc là: Kinh, Tày, Nùng, Dao, Sán Dìu, Cao lan,
Mông & Hoa trong đó dân tộc kinh chiếm khoảng 76% và 7 dân tộc còn lại khoảng
24%.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
H
ìn
h
2
.1
B
ản
đ
ồ
h
àn
h
ch
ín
h
tỉn
h
T
h
ái N
g
u
y
ên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 26 -----
2.1.3. Địa hình – Khí hậu
Thái Nguyên có nhiều dẫy núi cao chạy theo hướng Bắc Nam, thấp dần
xuống phía nam và chấm dứt ở đèo Khế. Cấu trúc ở vùng núi phía Bắc chủ yếu là
đá phong hoá mạnh tạo thành nhiều hang động, thung lũng nhỏ. Mặc dù là tỉnh
trung du miền núi nhưng địa hình tỉnh Thái Nguyên không phức tạp so với các tỉnh
khác trong vùng. Đây cũng là một trong những thuận lợi của tỉnh trong việc canh
tác nông lâm nghiệp, phát triển kinh tế - xã hội mà nhiều tỉnh trung du miền núi
phía bắc khác không có.
Khí hậu Thái Nguyên chia làm hai mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng
10 với lượng mưa trung bình hàng năm từ 2.000 – 2.500mm. Mùa khô từ tháng 11
đến tháng 4 năm sau với nhiệt độ trung bình 21 – 220C. Riêng tháng 8 lượng mưa
chiếm đến gần 30% tổng lượng mưa cả năm. Nhiệt độ chênh lệch giữa tháng nóng
nhất (tháng 6: 38,90C) với tháng lạnh nhất (tháng 1: 15,20C) là 23,70C. Tổng số giờ
nắng trong năm dao động từ 1.300 đến 1.750 giờ và phân phối tương đối đều cho
các tháng trong năm. Nhìn chung, khí hậu Thái Nguyên tương đối thuận lợi cho
việc phát triển một hệ sinh thái đa dạng và bền vững, thuận lợi cho phát triển ngành
nông-lâm nghiệp, là nguồn nguyên liệu phục vụ cho ngành công nghiệp chế biến
nông-lâm sản, thực phẩm.
Với đặc điểm trên Địa hình – Khí hậu Thái Nguyên rất thuận lợi cho việc
phát triển NLTT, địa hình đồi núi, độ dốc cao, lượng mưa hàng năm lớn tạo cho
Tỉnh một tiềm năng lớn về thuỷ điện nhỏ.
2.1.4. Tài nguyên
2.1.4.1. Tài nguyên đất:
Tổng diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh 354.150,15ha, trong đó:
+ Đất nông nghiệp: 265.386,65ha, chiếm 74,94% (trong đó đất lâm nghiệp quy
hoạch đến năm 2010 là 179.883,78ha)
+ Đất phi nông nghiệp: 39.173,90ha, chiếm 11,21% (trong đó đất chuyên dùng
đến năm 2010 là26.499ha)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 27 -----
+ Đất chưa sử dụng: 49.049,60 ha, chiếm 13,85%
Tài nguyên đất của Thái Nguyên rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế.
2.1.4.2. Tài nguyên nước:
Thái Nguyên có hệ thống sông suối khá dày đặc với hai sông chính là: Sông
Công có lưu vực 951 km2 bắt nguồn từ vùng núi Ba Lá huyện Định Hoá chạy dọc
theo chân núi Tam Đảo. Sông Cầu nằm trong hệ thống sông Thái Bình có lưu vực
3480 km
2
bắt nguồn từ chợ Đồn chảy theo hướng Bắc - Đông Nam. Ngoài ra, Thái
Nguyên còn có trữ lượng nước ngầm khá lớn, khoảng 3 tỷ m3, nhưng việc khai thác
sử dụng còn hạn chế.
Theo đánh giá của các cơ quan chuyên môn, trên các con sông chảy qua có thể
xây dựng các công trình thuỷ điện kết hợp với thuỷ lợi quy mô nhỏ. Việc xây dựng
các công trình này sẽ góp phần làm cho nông thôn vùng cao tiến bộ nhanh trên các
mặt chế biến quy mô nhỏ, đặc biệt là bảo vệ khôi phục rừng phòng hộ đầu nguồn,
góp phần đưa ánh sáng và công nghiệp nông thôn phát triển.
2.1.4.3. Tài nguyên rừng:
Theo tài liệu của cục thống kê tỉnh Thái Nguyên, Thái Nguyên còn khoảng
205.816,20 ha đất lâm nghiệp, chiếm khoảng 58,10% diện tích tự nhiên toàn tỉnh,
trong đó diện tích rừng tự nhiên là 103.774,03 ha, rừng trồng là 48.500,30 ha. Rừng
phòng hộ là 49.473ha, rừng đặc dụng là 28.190, rừng kinh tế là 74.612ha. Diện tích
đất chưa sử dụng là 53.533,60 ha, chiếm 15,10% diện tích tự nhiên, đây là diện tích
đất trống, đồi trọc. Diện tích đất trống đồi trọc này (phần lớn là diện tích rừng tự
nhiên trước kia bị tàn phá) có thể được coi như là một tiềm năng cho việc phát triển
ngành lâm nghiệp vừa là nhiệm vụ của tỉnh trong việc nhanh chóng phủ xanh đất
trống, đồi trọc.
Tóm lại, Thái Nguyên có điều kiện tự nhiên – xã hội rất thuận lợi cho việc
phát triển kinh tế và với tốc độ tăng dân số khá cao thì nhu cầu sử dụng điện của
tỉnh ngày càng tăng. Hơn nữa, dân cư gồm nhiều dân tộc ít người đời sống kinh tế,
văn hoá còn thấp cần được quan tâm phát triển. Do đó điện lưới quốc không đáp
ứng đủ nhu cầu, việc sử dụng điện từ các nguồn năng lượng mới và tái tạo sẽ khắc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 28 -----
phục được tình trạng thiếu điện. Mặt khác, Thái Nguyên có nguồn năng lượng mới
và tái tạo khá dồi dào. Với lượng mưa hàng năm tương đối lớn và một hệ thống
sông suối khá dày đặc tạo cho Thái Nguyên một tiềm năng phong phú về thuỷ điện.
Diện tích tự nhiên của tỉnh chủ yếu là rừng núi, nền kinh tế nông – lâm nghiệp là
chính cung cấp cho tỉnh tiềm năng sinh khối rất lớn, nguồn năng lượng mặt trời
cũng rất đáng kể.
2.2. HIỆN TRẠNG VÀ DỰ BÁO NHU CẦU ĐIỆN
2.2.1. Hiện trạng phụ tải
Trong những năm gần đây, cơ cấu kinh tế của tỉnh phát triển đều và nhanh
trên nhiều lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, nông lâm nghiệp, thương mại , dịch vụ.
Bởi vậy nhu cầu sử dụng điện cũng tăng theo.
Năm 2005 điện thương phẩm của tỉnh 811,2 triệu kWh, tăng 7,5 % so với
năm 2004, Pmax đạt 183 MW. Tốc độ tăng điện thương phẩm 2001 – 2005 là
16,33% trong khi tốc độ tăng trưởng bình quân GDP giai đoạn 2001- 2005 là
8,92%. Bình quân điện năng thương phẩm tính theo đầu người của tỉnh năm 2005 là
733,6kWh, gấp 1,5 lần so với toàn quốc ( 560kWh/người/năm).
Bảng 2.1: Hiện trạng tiêu thụ điện năng giai đoạn 2000 – 2005
Đơn vị: Triệu kWh
Ngành 2000 2001 2002 2003 2004 2005
1.Công nghiệp – XD 246,62 302,72 376,52 406,73 548,32 581,94
2.Nông, lâm, thuỷ sản 0,91 1,08 1,28 1,52 1,79 2,07
3.Thương mại, dịch vụ 2,07 2,15 2,59 3,18 4,70 5,72
4.Quản lý và TDDC 122,69 127,54 143,53 166,87 185,79 205,97
5.Các nhu cầu khác 8,43 10,05 11,31 12,59 13,65 15,51
Tổng thƣơng phẩm 380,72 443,54 535,23 644,88 754,26 811,21
Nguồn: Viện năng lượng – Quy hoạch phát triển điện lực tỉnh Thái Nguyên giai đoạn
2006-2010, có xét tới 2015
Hiện trạng tiêu thụ điện thương phẩm của tỉnh trong những năm gần đây
được tổng hợp một cách cụ thể trong bảng 2.1 Từ các số liệu trên ta có nhận xét:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 29 -----
- Cơ cấu tiêu thụ điện năng thương phẩm của Thái Nguyên không có sự thay
đổi nhiều, điện cho Công nghiệp – Xây dựng chiếm tỷ trọng cao nhất ( trên 70%) ,
kế đến là điện cho quản lý và tiêu dùng dân cư, thương mại, dịch vụ và nông
nghiệp.
- Điện thương phẩm của các phụ tải không ngừng tăng lên theo hàng năm
Nhu cầu phụ tải ngày càng tăng, trong tương lai cùng với sự phát triển kinh tế nhu
cầu phụ tải sẽ tăng cao hơn. Vì vậy việc phát triển các nguồn cung cấp điện là rất
quan trọng.
2.2.2.Dự báo nhu cầu điện
2.2.2.1. Lựa chọn mô hình và phƣơng pháp dự báo nhu cầu điện
a. Các phương pháp dự báo nhu cầu điện năng:
- Phương pháp hệ số đàn hồi:
Đây là phương pháp thích hợp với các dự báo trung và dài hạn.
Phương pháp này dựa trên cơ sở dự báo của các kịch bản phát triển kinh tế - xã hội.
Nhu cầu điện năng được mô phỏng theo quan hệ đàn hồi với tốc độ tăng trưởng
kinh tế.
Hệ số đàn hồi ( ) được tính theo công thức sau:
Tốc độ tăng nhu cầu điện (%)
Hệ số đàn hồi =
Tốc độ tăng trưởng GDP (%)
Các hệ số đàn hồi được xác định theo từng ngành theo chuỗi phân tích qúa
khứ.
- Phương pháp ngoại suy theo thời gian:
Nội dung của phương pháp này là nghiên cứu sự diễn biến của điện
năng trong một khoảng thời gian quá khứ tương đối ổn định để tìm ra một quy luật
nào đó, rồi dùng nó để dự báo cho tương lai. Nhược điểm của phương pháp này là
chỉ cho kết quả chính xác nếu tương lai không có nhiễu và quá khứ phải tuân theo
một quy luật.
- Phương pháp chuyên gia:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 30 -----
Nội dung chính là sự hiểu biết sâu sắc của các chuyên gia giỏi. Các chuyên
gia sẽ đưa ra các dự báo của mình.
- Phương pháp dự báo trực tiếp:
Nội dung của phương pháp là xác định nhu cầu điện năng của năm dự báo
dựa trên tổng sản lượng kinh tế của các ngành năm đó và suất tiêu hao điện năng
của từng loại sản phẩm hoặc suất tiêu hao trung bình cho một hộ gia đình, bệnh
viện, trường học, khách sạn. Phương pháp này tỏ ra khá chính xác khi có tương đối
đầy đủ các thông tin về tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, các phụ tải dự kiến mới và
phát triển mở rộng của các ngành kinh tế, mức độ áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ
thuật ... Với các ưu điểm về độ chính xác, bám sát thực tế phát triển của khu vực dự
báo, không quá phức tạp nên phương pháp này được dùng phổ biến cho các dự báo
ngắn hạn 1-3 năm và trung hạn từ 5-7 năm, trong các đề án quy hoạch tỉnh, thành
phố ...
b. Lựa chọn phương pháp dự báo nhu cầu điện năng:
Phù hợp với hoàn cảnh thực tế của địa phương và số liệu điều tra, thu thập
được từ các tài liệu pháp lý, nhu cầu điện của tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn quy
hoạch được dự báo theo hai phương pháp:
+ Phương pháp tính trực tiếp được sử dụng cho giai đoạn 2006 - 2010,
2011-2015.
+ Phương pháp hệ số đàn hồi được áp dụng để kiểm chứng lại kết quả của
phương pháp trực tiếp trong giai đoạn 2006 - 2010 và dự báo nhu cầu điện của tỉnh
trong giai đoạn từ 2010 – 2015.
Quá trình tính toán dự báo nhu cầu điện tỉnh Thái Nguyên theo cơ cấu 5
thành phần bao gồm:
- Nhu cầu điện cho công nghiệp – xây dựng;
- Nhu cầu điện cho nông – lâm - thuỷ sản;
- Nhu cầu điện cho thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng;
- Nhu cầu điện cho quản lý và tiêu dùng dân cư;
- Nhu cầu điện cho phục vụ các hoạt động khác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 31 -----
2.2.2.2. Tính toán dự báo nhu cầu điện tỉnh Thái Nguyên
Nhu cầu điện giai đoạn 2015 của tỉnh Thái Nguyên được dự báo theo
phương pháp trực tiếp trên cơ sở dự báo nhu cầu cho từng thành phần phụ tải sau đó
tổng hợp thành nhu cầu điện của toàn tỉnh.
Bảng 2.2: Kết quả tính toán nhu cầu điện toàn tỉnh Thái Nguyên
Năm Thành phần Nhu cầu điện
2005 Công suất (MW) 183
85
415,9
811,2
Trong đó Gang thép (MW)
Điện TP không kể Gang thép (106 kWh)
Điện TP kể cả Gang thép (106 kWh)
Điện nhận (106 kWh) 855,8
14,7%
16,3%
Tăng trưởng bình quân điện TP (01-05)
- Không kể Gang thép
- Kể cả Gang thép
2010 Công suất (MW) 323
110
940,6
1512,6
1598,0
17,7%
13,3%
Trong đó Gang thép (MW)
Điện TP không kể Gang thép (106 kWh)
Điện TP kể cả Gang thép (106 kWh)
Điện nhận (106 kWh)
Tăng trưởng bình quân điện TP (01-05)
- Không kể Gang thép
- Kể cả Gang thép
2015 Công suất (MW) 510
135
1850
2685,0
2850,5
Trong đó Gang thép (MW)
Điện TP không kể Gang thép (106 kWh)
Điện TP kể cả Gang thép (106 kWh)
Điện nhận (106 kWh)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 32 -----
Năm Thành phần Nhu cầu điện
Tăng trưởng bình quân điện TP (01-05)
- Không kể Gang thép
- Kể cả Gang thép
14,5%
12,2%
Nguồn: Viện năng lượng – Quy hoạch phát triển điện lực tỉnh Thái Nguyên giai đoạn
2006-2010, có xét tới 2015
Sự tăng trưởng về nhu cầu điện được thể hiện ở hình 2.2
Trong đó:
*Nhu cầu điện cho Nông – Lâm - Thuỷ sản
Chủ yếu là nhu cầu điện cho các chạm bơm tưới tiêu, được tính theo công
suất và số máy bơm được huy động theo từng giai đoạn của từng trạm bơm. Dự
kiến từ nay đến năm 2010 toàn tỉnh sẽ xây dựng thêm 33 trạm bơm mới.
Kết quả tính toán nhu cầu điện cho thành phần này như sau:
Bảng 2.3: Nhu cầu điện cho Nông – Lâm - Thuỷ sản
Năm Thành phần Nhu cầu % so với điện
TP
2005 Công suất tưới/tiêu (MW)
điện năng A (106 kWh)
Tốc độ tăng trưởng (01-05)
1,29/0,45
2,07
17,7%
0,25%
0
500
000
1500
2000
2500
3000
Năm 2005 N ăm 2010 N ăm 2015Sản
l
ư
ợ
n
g
(
1
0
6
k
W
h
)
Hình 2.2: Tốc độ tăng trưởng điện năng thương phẩm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 33 -----
2010 Công suất tưới/tiêu (MW)
điện năng A (106 kWh)
Tốc độ tăng trưởng (06-2010)
2,18/0,45
4,03
14,3%
0,3%
2015 Công suất tưới/tiêu (MW)
điện năng A (106 kWh)
Tốc độ tăng trưởng (11-15)
2,83/0,45
6,65
10,2%
0,2%
Nguồn: Viện năng lượng – Quy hoạch phát triển điện lực tỉnh Thái Nguyên giai đoạn
2006-2010,, có xét tới 2015
*Nhu cầu điện cho tiêu dùng dân cư
Phụ tải điện cấp cho sinh hoạt gia đình được tính theo định mức tiêu thu điện
năng cho từng hộ gia đình trong một năm theo từng khu vực đặc trưng (Thành phố,
thị trấn huyện, nông thôn). Định mức này được tính theo tài liệu hướng dẫn của
tổng công ty Điện lực Việt Nam có căn cứ hiệu chỉnh theo tiê._. cũng được đúc bằng bêtôn hay gạch – xi măng, có
nắp một ống dẫn có van để lấy khí. Phần dưới của bể phân huỷ hình trụ được nối
thống với các bể nạp liệu và bể chứa nước thải, cũng xây bằng gạch- xi măng, bằng
các ống bằng bêtông, sành hay ống nhựa. Nguyên liệu (như phân gia súc, gia cầm,
phân người...) được cho vào bể nạp nhiên liệu trộn khuấy đều với nước và theo ống
nạp vào bể phân huỷ. Quá trình phân huỷ kỵ khí xảy ra trong bể phân huỷ. Khí sinh
học được tạo ra được đẩy lên phía trên mặt thoáng của hỗn hợp nhiên liệu - nước
trong bể phân huỷ. Phần bã thải sẽ theo ống dẫn vào bể chứa nước thải. Áp suất khí
sinh học ở dưới nắp hầm khá cao nên để an toàn người ta còn có thể nắp một thiết bị
an toàn. Khi dùng khí người ta dùng một đường ống bằng kim loại, bằng nhựa cứng
hay ống chất dẻo nối từ ống lấy khí ở nắp hầm đến bếp đun, đèn thắp sáng hay các
thiết bị sử dụng khác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 67 -----
Quy mô của hầm có thể vài ba mét khối đến hàng trăm mét khối phụ thuộc
vào nguồn nguyên liệu và nhu cầu sử dụng khí. Năng suất sản xuất khí của hầm phụ
thuộc rất lớn vào nguyên liệu đầu vào.
Khí sinh học có rất nhiều ứng dụng như thắp sáng, dùng làm nhiên liệu đun
nấu, phát điện v.v... Ngoài ra công nghệ khí sinh học còn là một công nghệ làm sạch
môi trường. Trong tương lai việc ứng dụng khí sinh học để phát điện ngày càng
tăng cả về số lượng và công suất.
Sinh khối sau khi qua quá trình khí hoá hoặc sinh hoá tạo ra các chất khí có
nhiệt trị lớn được dùng trực tiếp qua Tuabin để phát điện.
Hình 3.9. Công nghệ phát điện từ sinh khối
Công nghệ phát điện từ sinh khối dự tính chi phí lắp đặt khoảng
2000USD/1kW. Đến nay, các công nghệ biến đổi sinh hoá, kỹ thuật xây dựng hầm
khí không còn mấy khó khăn một số mẫu đã được định hình phổ biến. Hiện tại, sở
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Thái Nguyên đang triển khai dự án khí sinh
học do chính phủ Hà Lan tài trợ và đã tổ chức rất nhiều cuộc hội thảo, tuyên truyền,
tập huấn cho người sử dụng tại tất cả các đơn vị hành chính của tỉnh, đào tạo được
một đội ngũ kỹ thuật viên. Đây là một điều kiện thuận lợi để có thể đưa công nghệ
phát điện từ sinh khối vào ứng dụng thực tế tại một số địa phương có tiềm năng sinh
khối như các cơ sở sản xuất mía đường tại Võ Nhai, Đồng Hỷ với diện tích 700ha
mía, các cơ sở chế biến lâm sản, các trang trại chăn nuôi...
3.2.3. Năng lƣợng mặt trời
Có 2 cách chính sử dụng năng lượng mặt trời:
- Sử dụng dưới dạng nhiệt năng: dựa trên cơ sở hiệu ứng nhà kính
- Sử dụng thông qua sự chuyển hoá thành điện năng: hệ thống pin quang điện
(hay pin mặt trời) và công nghệ nhiệt điện mặt trời.
3.2.3.1. Nhiệt mặt trời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 68 -----
Dựa trên nguyên lý “ hiệu ứng nhà kính” người ta chế tạo các bộ thu phẳng.
Bộ thu phẳng có thể được ứng dụng trong nhiều mục đích khác nhau như để sản
xuất nước nóng, sấy nông hải sản phẩm, chưng cất nước, sưởi ấm nhà cửa v.v…Nó
có thể có nhiều hình dạng khác nhau được thiết kế cho phù hợp với mục đích sử
dụng.
3.2.3.2. Điện mặt trời
Hiện nay có hai công nghệ để sản xuất điện bằng NLMT. Đó là công nghệ
Pin mặt trời (hay Quang- Điện) và công nghệ Nhiệt điện mặt trời.
a. Công nghệ nhiệt điện mặt trời
Năng lượng mặt trời được hội tụ nhờ các hệ thống gương hội tụ như máng
Parabol, đĩa Parabol, gương cầu... để tập trung ánh sáng mặt trời thành các nguồn
nhiệt có mật độ năng lượng và do đó có nhiệt độ rất cao, có thể làm bốc hơi nước ở
nhiệt độ và áp suất lớn và sau đó hơi làm quay các tuabin để phát ra điện năng.
Hình 3.10. Các loại bộ hội tụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 69 -----
Đối với công nghệ nhiệt mặt trời, do sự có mặt của hệ thống quang học nên
bộ thu hội tụ thường đi kèm thêm bộ dõi theo Mặt trời (Tracker) để hội tụ các tia
mặt trời đúng diện tích cần thiết, nên việc thiết kế, tính toán và vận hành, bảo dưỡng
phức tạp, khó khăn.
Đối với các bộ thu không yêu cầu độ hội tụ cao thì sự định hướng bộ thu có
thể chỉ cần điều chỉnh vài ba lần trong một ngày và có thể thực hiện bằng tay.
Nhưng với các bộ thu yêu cầu độ hội tụ cao thì cần phải điều chỉnh sự định hướng
bộ thu một cách liên tục nhờ một thiết bị gọi là bộ theo dõi mặt trời. Sự có mặt của
các bộ theo dõi mặt trời này làm cho việc thiết kế, chế tạo các hệ bộ thu hội tụ phức
tạp hơn nhiều. Yêu cầu bảo dưỡng cũng tăng lên. Tất cả những vấn đề này dẫn tới
làm tăng chi phí hệ thống bộ thu. Một nhược điểm khác của bộ thu hội tụ là chỉ thu
được một phần nhỏ bức xạ nhiễu xạ.
Đối với địa bàn tỉnh Thái Nguyên, hiện nay nguồn NLM mới chỉ được ứng
dụng để cung cấp điện cho vùng sâu, vùng xa, những nơi chưa có điện lưới quốc
gia, vùng đồng bào dân tộc ít người trình độ dân trí thấp, công suất sử dụng nhỏ chủ
yếu chỉ dùng để thắp sáng, nghe đài, xem Tivi.... Vì vậy công nghệ nhiệt điện mặt
trời không thích hợp. Công nghệ nhiệt điện mặt trời người ta thấy chỉ có hiệu quả
khi nhà máy có qui mô công nghiệp, tức là có công suất từ hàng chục đến hàng trăm
MW.
b. Công nghệ Pin mặt trời
* Cấu tạo và nguyên lý hoạt động Pin mặt trời:
Một lớp tiếp xúc bán dẫn PN có khả năng biến đổi trực tiếp năng lượng bức
xạ Mặt trời thành điện năng nhờ hiệu ứng quang điện bên trong gọi là Pin mặt trời.
Pin mặt trời được sản xuất và ứng dụng phổ biến hiện nay là các Pin mặt trời được
chế tạo từ vật liệu tinh thể bán dẫn Silicon (Si).
Hình 3.11 là sơ đồ cấu tạo một pin mặt trời tình thể Silicon (Si). Phần chính
của nó là một lớp tiếp xúc bán dẫn pn (4) giữa lớp vật liệu Si loại n (lớp (3)) và lớp
vật liệu Si loại p (lớp (5)). Lớp bán dẫn loại n (3) khá mỏng, độ dày khoảng vài
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 70 -----
chục m ( m = micro-mét = 1 phần triệu mét) để cho ánh sáng có thể xuyên vào
sâu trong các lớp chất bán dẫn.
Hình 3.11- Sơ đồ cấu tạo một pin mặt trời tinh thể Si
Để đảm bảo độ bền cơ học cho PMT người ta phải chế tạo lớp bán dẫn p (5)
khá dày, 300 500 m. Điện cực mặt trên (2) làm bằng kim loại và có dạng lưới để
ánh sáng có thể lọt qua và vào được lớp (4). Điện cực mặt dưới cũng bằng kim loại
(6). Trên cùng là một màng chống phản xạ ánh sáng (1) để giảm sự phản xạ ánh
sáng trên bề mặt trên của Pin.
Hoạt động của pin mặt trời như sau:
Khi chiếu ánh sáng mặt trời vào mặt trên của pin, ánh sáng sẽ tạo ra trong
các lớp bán dẫn lân cận lớp tiếp xúc pn (4) các cặp điện tử – lỗ trống. Các cặp này
là các hạt dẫn điện mang điện tích âm (điện tử) và điện tích dương (lỗ trống). Do
tính chất đặc biệt của lớp tiếp xúc bán dẫn, nên tại lớp tiếp xúc (4) đã có sẵn một
điện trường tiếp xúc Etx. Điện trường này lập tức tách điện tử và lỗ trống trong các
cặp điện tử, lỗ trống vừa được ánh sáng tạo ra và bắt chúng chuyển động theo các
chiều ngược nhau để tạo thành dòng điện. Vì vậy nếu nối các điện cực trên và dưới
bằng một dây dẫn có bóng đèn (7) thì sẽ có một dòng điện qua bóng đèn và đèn
sáng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 71 -----
Hiện tượng chiếu ánh sáng vào lớp tiếp xúc bán dẫn pn ta thu được dòng điện ở
mạch ngoài được gọi là hiệu ứng Quang - Điện. Như vậy PMT hoạt động dựa trên
hiệu ứng quang- điện để sản xuất điện.
Hơn 90% PMT được sản xuất và ứng dụng hiện nay là PMT làm bằng chất bán
dẫn tinh thể Si. Đối với PMT loại này, thì khi chiếu ánh sáng mặt trời với cường độ
Eo= và ở nhiệt độ To= 25
oC thì hiệu điện thế giữa 2 cực của pin là khoảng
0,55V và cường độ dòng điện cực đại đạt được 25 30 mA/cm2.
Vì hiệu điện thế và dòng điện nhỏ như vậy, nên để ứng dụng PMT, trong thực tế
người ta phải nối nối tiếp hay song song nhiều pin lại với nhau tạo thành modun
PMT. Ngoài ra việc chế tạo modun còn nhằm bảo vệ PMT khỏi sự phá hoại của môi
trường. Việc vận chuyển và lắp đặt các hệ thống PMT cũng thuận lợi và an toàn
hơn.
Hình 3.12- Sơ đồ cấu tạo PMT Si Hình 3.13- Một mô đun PMT hoàn thiện
(nhìn từ mặt trên)
Các PMT sau khi đã được nối điện xong (3) được đặt vào giữa 2 tấm keo
EVA (Ethylene Vinyl Acetate) trong suốt (2). Trên cùng người ta đặt tấm kính (1)
và dưới đáy người ta đặt tấm đế (5) bằng kính, chất dẻo hoặc vật liệu không thấm
nước vào đó. Người ta nung trong buồng chân không cả hệ thống trên đến 100
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 72 -----
110
oC thì các tấm keo EVA bị nóng chảy. Sau đó người ta ép khi làm nguội cả hệ
thống, các lớp keo EVA sẽ đông cứng và kết dính tất cả các lớp và các tấm thành
một khối vững chắc. Các PMT do đó được cách ly hoàn toàn với môi trường và
được bảo vệ trước mọi va đập cơ học. Hình 3.3 là hình ảnh một mô đun PMT đã
hoàn thiện.
Cho đến nay nước ta chưa sản xuất được PMT thương mại mà phải nhập của
nước ngoài, giá khoảng 4USD/Wp.
Công suất của modun PMT được đo bằng Oát- đỉnh (peak Watt- viết tắt là
Wp) là công suất điện mà modun PMT phát ra được khi ánh sáng mặt trời có cường
độ 1000W/m2 chiếu vào mặt modun và ở nhiệt độ 25oC. Ví dụ 1 modun PMT 75Wp
có nghĩa là khi đặt tấm PMT dưới ánh sáng mặt trời có cường độ 1000W/m2 (nắng
lúc giữa trưa vào mùa hè) thì modun đó phát ra 75W điện năng. Vào các thời gian
nắng kém hơn, ví dụ buổi sáng hay buổi chiều, mùa đông,v.v.... modun không phát
ra đủ 75W.
* Ưu điểm của Pin mặt trời
Với công nghệ Pin mặt trời năng lượng mặt trời được biến đổi trực tiếp
thành điện. Các Pin mặt trời sản xuất ra điện một cách liên tục chừng nào còn có
bức xạ mặt trời tới nó. Các hệ thống năng lượng Pin mặt trời rất đơn giản, không có
phần chuyển động, không đòi hỏi phải bảo dưỡng, chăm sóc thường xuyên như các
hệ thống năng lượng khác, nên nó là hệ thống rất được quan tâm nghiên cứu, phát
triển và ứng dụng.
c. Ứng dụng của Pin mặt trời
PMT được ứng dụng để sản xuất điện. Hiện nay có 2 phương pháp sử dụng
điện mặt trời. Đó là các phương pháp nguồn điện PMT nối lưới và nguồn điện PMT
độc lập.
*Nguồn điện Pin Mặt trời nối lưới
Hình 3.14 : là sơ đồ một hệ thống nguồn điện mặt trời nối lưới. Dàn PMT
gồm nhiều modun PMT được ghép nối lại với nhau (nối nối tiếp, song song hay hỗn
hợp) và lắp đặt trên mái nhà hay nơi có nắng suốt ngày. Khi có nắng dàn PMT phát
ra dòng điện một chiều. Dòng điện này được cho qua Bộ biến đổi điện IN để biến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 73 -----
đổi thành dòng điện xoay chiều (ví dụ dòng điện 220V, 50Hz) và qua công tơ điện
CT1 đưa vào lưới điện quốc gia (hay địa phương). Khi sử dụng người ta lấy điện
trực tiếp từ lưới điện qua công tơ điện CT2 cấp điện cho các thiết bị tiêu thụ điện
như Tivi (TV), tủ lạnh (TL), quạt (Q), đèn (Đ),v.v... Như vậy công tơ điện CT1 sẽ
ghi số điện năng dàn PMT phát lên lưới, còn công tơ điện CT2 ghi số điện năng mà
hộ sử dụng. Căn cứ vào chỉ số CT1 và CT2 mà hộ có hệ thống điện PMT được trả
hoặc phải nộp thêm tiền điện. Trong phương pháp này mạng lưới điện quốc gia hay
địa phương đóng vai trò như một hệ thống tích trữ điện năng (hay một nhà băng
điện năng). Phương pháp trên rất kinh tế và an toàn, nên các nước phát triển như
Nhật, Mỹ, Pháp, Đức,... đều sử dụng công nghệ này. Tuy nhiên phương pháp này
chỉ ứng dụng được những khu vực có lưới điện.
Hình 3.14 : Sơ đồ hệ thống điện mặt trời nối lưới
Ở các khu vực miền núi, hải đảo,... nơi không có lưới điện hay khi sử dụng
với công suất nhỏ thì người ta phải dùng phương pháp hay công nghệ nguồn điện
PMT độc lập.
*Nguồn điện Pin mặt trời độc lập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 74 -----
Hình 3.15 là sơ đồ khối của một hệ nguồn điện PMT độc lập. Nó bao gồm một
số thành phần như Dàn PMT, Bộ điều khiển (BĐK), Bộ ác qui, Bộ biến đổi điện
(BDD) và các thiết bị tiêu thụ điện (tải).
Hình 3.15- Sơ đồ khối hệ nguồn điện mặt trời độc lập
Dàn PMT gồm một hay một số modun PMT nối ghép lại. Hàng ngày lúc có ánh
sáng mặt trời, dàn PMT hấp thụ năng lượng ánh sáng mặt trời và biến đổi thành
điện năng của dòng điện một chiều.
BĐK là một thiết bị điện tử, nó có nhiệm vụ kiểm soát tự động các quá trình nạp
và phóng điện của ác quy, bảo vệ ác quy và bảo vệ các thiết bị tiêu thụ điện (gọi
chung là tải). Khi ác quy đã được nạp điện no, dung lượng của ác quy đạt 100%, thì
BĐK sẽ tự động cắt hoặc giảm dòng nạp điện cho ác quy từ dàn PMT. Nhờ vậy ác
quy tránh được trạng thái “quá no” giảm tuổi thọ của nó. Ngược lại, khi ác quy bị
đói quá, ví dụ dung lượng của nó chỉ còn lại 30% thì BĐK cũng tự động cắt hay
giảm dòng điện cấp cho các tải, nhờ vậy ác quy không bị phóng điện quá kiệt, dẫn
đến hư hỏng ác quy.
Bộ ác quy là thành phần dự trữ điện năng. Vì dàn PMT chỉ phát điện lúc có
nắng, trong khi đó các thiết bị điện lại có thể phải dùng vào các thời gian không có
nắng (như bóng đèn chỉ dùng vào ban đêm, xem chương trình Tivi ban đêm, v.v...).
Thông thường ác quy được sử dụng là ác quy chì- axit, giá không quá cao, có bán ở
mọi địa phương. Nhược điểm của ác quy loại này là tuổi thọ không cao (trung bình
chỉ được 2 – 3 năm nếu được chăm sóc, bảo dưỡng tốt), yêu cầu phải chăm sóc và
bảo dưỡng thường xuyên. Các loại ac quy khác như ac quy kiềm, Cat-mi, v.v... Tốt
hơn nhưng lại rất đắt.
Thông số quan trọng của một bộ ác quy là hiệu điện thế và dung lượng của nó.
Hiệu điện thế tính bằng V, còn dung lượng được tính bằng Am-pe-giờ (Ah) hay oát-
giờ (Wh). Ví dụ các loại ác quy 12V-100Ah, 24V-400Ah, 48V-600Ah,v.v...Hiệu
điện thế và dung lượng của bộ ác quy phải được tính toán phù hợp với các tải tiêu
thụ và công suất dàn PMT.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 75 -----
Trong trường hợp các thiết bị tiêu thụ điện một chiều 12V, 24V, 48V.... thì
người ta có thể sử dụng điện ngay sau BĐK. Còn nếu có các thiết bị tiêu thụ điện
dùng dòng điện xoay chiều, ví dụ 220V, 50Hz, như TV màu quạt, bơm nước, tủ
lạnh,v.v... thì trong hệ nguồn cần có thêm một BDD.
Công suất và các đặc trưng điện của BĐK và BDD (như hiệu điện thế vào, hiệu
điện thế ra, giải hiệu điện thế làm việc,v.v...) phải được tính toán cho phù hợp với
hệ thống.
* Công nghệ phát điện hỗn hợp
Nguồn điện Pin mặt trời nối lưới chỉ ứng dụng ở những nơi có lưới điện,
công nghệ này phức tạp về mặt kỹ thuật, vấn đề đồng bộ hoá, chi phí đầu tư lớn ...
Vì vậy nó mới chỉ được ứng dụng ở các nước phát triển. Đối với Thái Nguyên
nguồn điện NLTT hiện tại đáp ứng nhu cầu cho các vùng xa xôi, hẻo lánh, chưa có
điện quốc gia, nguồn điện Pin mặt trời độc lập và hệ thống phát điện Diêzen có thể
đáp ứng được nhu cầu đó. Nhưng đối với các vùng nông thôn phụ tải thay đổi lớn
trong ngày, phụ tải đỉnh thường xảy ra trong một vài giờ vào buổi tối, khi không có
bức xạ mặt trời còn phụ tải vào các giờ khác thường thấp hơn.Việc điều chỉnh điện
năng của nguồn PMT độc lập kém linh hoạt. Hệ thống phát điện Diezen độc lập là
giải pháp tỏ ra hữu hiệu, song lại khó khăn và thất thường về nhiên liệu, đặc biệt giá
nhiên liệu ngày một tăng. Các nghiên cứu cho thấy hệ thống phát điện lai ghép giữa
NLTT và Diezen cung cấp điện linh hoạt và mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn
nguồn phát độc lập.
Hệ thống điện hỗn hợp (còn gọi là hệ lai ghép) NLTT-Diezen là sự ghép nối
giữa nguồn NLTT và máy phát điện Diezen đã và đang được sử dụng ở nhiều nước
trên thế giới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 76 -----
Hình 3.16. Sơ đồ hệ thống phát điện hỗn hợp Pin mặt trời – Diêzen
Các hệ thống này có một số ưu điểm so với các hệ thống phát điện năng
dùng lượng tái tạo độc lập như sau:
- Khai thác tốt hơn nguồn NLTT: Các hệ thống sử dụng nguồn NLTT độc
lập thường được thiết kế ở các điều kiện bất lợi nhất. Đó là do nguồn NLTT thay
đổi thất thường nên hệ thống phải được thiết kế sao cho nhu cầu phụ tải vẫn có thể
được đáp ứng khi năng lượng sản ra ở mức tối thiểu. Do vậy ở các điều kiện bình
thường hoặc tốt hơn sẽ xảy ra tình trạng công suất nguồn lớn hơn nhu cầu phụ tải,
năng lượng sản ra ở thời điểm công suất phụ tải đỉnh sẽ không được sử dụng và bị
lãng phí.
Trái lại hệ thống lai ghép được thiết kế ở điều kiện trung bình theo năm nên
sẽ khai thác tốt hơn nguồn NLTT. Do đó, một hệ thống lai ghép được thiết kế hợp
lý có công suất các thiết bị nhỏ hơn và sẽ giảm bớt lãng phí năng lượng.
- Cân đối tốt hơn với phụ tải: một ưu điểm khác của hệ lai ghép là khả năng
cân đối tốt hơn giữa cung với cầu. Đối với một khu vực nông thôn, nhu cầu phụ tải
đỉnh thường xảy ra vào các giờ cao điểm buổi tối, chủ yếu phục vụ nhu cầu thắp
sáng và sinh hoạt. Điều này tạo cho ta hướng thiết kế và vận hành hệ thống hợp lý
bằng cách đáp ứng nhu cầu phụ tải ở phần lớn thời gian trong ngày sử dụng nguồn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 77 -----
NLTT và sau đó tăng công suất phát vào các giờ cao điểm khi chạy thêm cả máy
phát điện
- Nguồn có khả năng đáp ứng cao hơn: Với hệ PMT độc lập thông thường,
luôn xảy ra trường hợp năng lượng không đủ đáp ứng nhu cầu phụ tải. Đó là do
năng lượng thu được luôn theo một mẫu thống kê nhất định, và luôn có khả năng
trong một khoảng thời gian dài nguồn năng lượng mặt trời rất yếu hoặc thậm chí là
không có. Một hệ thống lai ghép với nguồn phát “theo nhu cầu” có thể tránh được
vấn đề trên do máy phát diezen sẽ chạy trong thời gian khó khăn đó.
- Giảm chi phí đầu tư: Các hệ PMT thuần tuý đòi hỏi chi phí về bảo dưỡng
thấp nhưng chi phí đầu tư lại cao. Còn máy phát diezen thì ngược lại, chi phí nhiên
liệu và bảo dưỡng tăng và chi phí đầu tư thấp.
Đối với hệ lai ghép, chi phí ban đầu sẽ thấp hơn các hệ pin mặt trời độc lập
và sử dụng nhiên liệu cũng ít hơn hệ chỉ dùng máy phát diezen.
- Đáp ứng phụ tải linh hoạt hơn: Máy phát diezen có thể cung cấp bổ sung
năng lượng bằng cách đơn giản là kéo dài thời gian vận hành, nhờ vậy mà hệ lai
ghép sẽ dễ dàng chấp nhận sự tăng của phụ tải. Các hệ PMT độc lập không thể đối
phó được khi phụ tải tăng nhiều so với thiết kế và biện pháp duy nhất để giải quyết
vấn đề này là tăng cỡ dàn lớn hơn phụ tải ban đầu. Tương tự như vậy, máy phát
diezen độc lập cũng không dễ dàng chấp nhận điều này và cũng chỉ có cách chọn lại
cỡ máy theo phụ tải thực tế và hạn chế không cho phụ tải tăng, hoặc chọn cỡ máy
lớn hơn và cho chạy non tải ở giai đoạn đầu.
Cũng như các hệ thống kỹ thuật khác, hệ thống điện lai ghép cũng có một số
các nhược điểm nhất định sau đây:
-. Phức tạp hơn trong điều khiển:
Việc sử dụng kết hợp các nguồn phát điện với nhau dẫn đến sự phức tạp hơn
trong điều khiển. Ngoài việc vận hành riêng rẽ, hệ điều khiển cũng cần phải cho
phép có sự tương hỗ và phối hợp vận hành giữa các nguồn. Tuy nhiên, với sự phát
triển của bộ vi xử lý, việc điều khiển và vận hành hệ thống sẽ bớt phức tạp hơn.
- Yêu cầu kỹ thuật cao hơn:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 78 -----
Các hệ lai ghép phức tạp hơn các hệ PMT và diezen độc lập về mặt thiết kế.
Do vậy việc chế tạo và xây dựng đòi hỏi phải có kiến thức rộng về các thiết bị cũng
như khả năng lắp giáp, vận hành.
- Bảo dưỡng thường xuyên hơn các hệ PMT thuần tuý
Tuy các hệ lai ghép yêu cầu ít bảo dưỡng hơn hệ diezen thuần tuý, nhưng nó
đòi hỏi bảo dưỡng nhiều hơn hệ PMT thuần tuý. Việc bảo dưỡng là yêu cầu cơ bản
để duy trì vận hành của hệ thống. Do ăcquy làm việc ở chế độ khắc nghiệt hơn nên
việc duy trì, vận hành là rất cần thiết.
- Cần có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao hơn trong việc xử lý những sự cố
- Gây tiếng ồn và tăng ô nhiễm môi trường:
Hệ PMT thuần tuý tạo ra điện năng không gây ồn và ô nhiễm môi trường.
Việc đưa thêm vào hệ lai ghép máy phát diezen sẽ thải ra khí CO2 và các khí phát
thải không mong muốn khác. Ngoài ra tiếng ồn từ động cơ diezen có thể gây khó
chịu đối với khu vực dân cư xung quanh.
*Khả năng ứng dụng ở Thái Nguyên
Do đặc điểm tự nhiên và xã hội của Thái Nguyên, địa hình chủ yếu là rừng
núi, một số vùng sâu, vùng xa việc kéo điện lưới gặp nhiều khó khăn, dân cư gồm
nhiều dân tộc ít người, trình độ lạc hậu, rất cần được ưu tiên phát triển. Công nghệ
nhiệt điện mặt trời chỉ có hiệu quả khi nhu cầu phụ tải lớn, các nhà máy quy mô
công nghiệp, vốn đầu tư lớn. Công nghệ Pin mặt trời độc lập hoặc hỗn hợp là phù
hợp, khả thi và có khả năng ứng dụng cao nhất trong thời điểm hiện nay. Nhưng
lâu dài thì phải là nguồn nối lưới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 79 -----
CHƢƠNG 4
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƢỜNG
4.1. TÁC ĐỘNG TỚI MÔI TRƢỜNG TỰ NHIÊN
Nói chung các nguồn điện năng lượng mới và tái tạo ít ảnh hưởng tiêu cực
đến môi trường so với các nguồn điện truyền thống. Để đánh giá tác động môi
trường ta phân tích cụ thể tác động môi trường của các dạng năng lượng mới và tái
tạo.
* Đối với một trạm thuỷ điện nhỏ:
Bảng 4.1. Ảnh hưởng của trạm thuỷ điện nhỏ
Tiêu chí môi trƣờng Tác động
Chất lượng không khí Không ảnh hưởng
Tiếng ồn và rung Không ảnh hưởng
Chất lượng nước Không ảnh hưởng
Hệ thống cấp nước Không ảnh hưởng
Hệ thống tưới Không ảnh hưởng
Thoát nước Không ảnh hưởng
Bệnh dịch do nước Không ảnh hưởng
Ngập lụt Không ảnh hưởng
Vui chơi giải trí Không ảnh hưởng
Khai mỏ Không ảnh hưởng
Xói mòn Không ảnh hưởng
Bồi lắng Không ảnh hưởng
Đổi vị trí canh tác Không ảnh hưởng
Chiếm dụng đất Ảnh hưởng tiêu cực
Cây cối và mùa màng Ảnh hưởng xấu
Tác động đất ngập nước Không ảnh hưởng
Tái định cư Không ảnh hưởng
Tác động cảnh quan Ảnh hưởng tốt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 80 -----
Sinh thái học và bảo vệ tự nhiên Ảnh hưởng tốt
Di sản văn hoá Không ảnh hưởng
Phá hủy do xây dựng Ảnh hưởng xấu
Tác động xã hội Ảnh hưởng tốt
Kết luận:
Các trạm thuỷ điện nhỏ có thể gây một số ảnh hưởng tự nhiên. Các tác động
tích cực vẫn chiếm ưu thế, có một số tác động tiêu cực nhỏ khi xây dựng các trạm
thuỷ điện nhỏ nhưng có thể áp dụng các biện pháp giảm thiểu.
Ví dụ như sử dụng đất hoang hoá, phục hồi lại cảnh quan môi trường sau khi
xây dựng, đền bù ảnh hưởng tới cây cối và mùa màng ...
* Đối với nhà máy điện sinh khối:
Để thấy rõ ảnh hưởng tới môi trường ta đi so sánh tác động của nhà máy
nhiệt điện sinh khối và nhà máy nhiệt điện đốt than
Bảng 4.2. Bảng so sánh về ô độ ô nhiệm giữa phát điện bằng sainh khối và than
Các ảnh hƣởng Than Sinh khối
Phát thải CO2 880g/kWh Trung hoà
Phát thải SO2 1,20g/kWh Lượng S 0
Phát thải NOx 2,20g/kWh Nhỏ (Cháy nhiệt độ thấp)
Phát thải bụi 0,16g/kWh Có
Phát thải CH4 3,00g/kWh -
Phát thải N2O 0,50/kWh -
Khí nhà kính CO2, CH4, N2O -
Chất lượng mùa vụ, cây
trồng ...
Mưa axít -
Kết luận:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 81 -----
Điện sinh khối từ các nguồn phế thải phụ phẩm là trung hoà về phát CO2, ít
tạo mưa axit, là cơ hội để phát triển cây trồng nông lâm nghiệp. Công nghệ khí hoá
sinh khối còn có tác động chống ô nhiễm, bảo vệ môi trường...
* Điện mặt trời
Tác động cơ bản của điện mặt trời đến môi trường là diện tích chiếm chỗ lớn,
che khuất mặt trời làm ảnh hưởng đến sinh thái, nhưng có thể khắc phục được bằng
cách lắp đặt các tấm pin mặt trời trên các mái nhà hoặc các vùng đất không sử dụng
cho sản xuất nông nghiệp ...
4.2. TÁC ĐỘNG TỚI ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI
Các nguồn điện năng từ năng lượng tái tạo trước mắt cung cấp điện cho vùng
xa xôi, hẻo lánh, những nơi chưa có điện lưới quốc gia tạo ra các ảnh hưởng xã hội
như sau:
Góp phần điện khí hoá nông thôn miền núi bằng các nguồn NLTT có tiềm
năng lớn tại chỗ. Góp phần xoá đói, giảm nghèo, xoá bỏ cách biệt giữa miền núi và
miền xuôi, nông thôn và thành thị.
Ảnh hưởng có lợi về thông tin và văn hoá nhờ đài và tivi...
Ảnh hưởng có lợi đối với giáo dục trẻ em nhờ có khả năng học khi trời tối.
Ảnh hưởng có lợi đối với các hoạt động của người lớn trong gia đình nhờ có
khả năng tiếp tục làm việc ngay cả khi trời tối, giảm cường độ lao động khi sử dụng
điện thay thế các nguồn truyền thống trong sinh hoạt nông thôn ( củi, dầu..)
Việc xây dựng, lắp đặt các nguồn điện năng lượng tái tạo không đòi hỏi phải
tái định cư, không gây ảnh hưởng tới các hoạt động nông nghiệp, các công trình
thủy lợi, văn hoá...Tạo ra một nguồn năng lượng tin cậy góp phần cải thiện mức
sống của người dân, xoá đói giảm nghèo, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Tuy nhiên, điện năng từ NLTT còn cao so với mức sống, mức thu nhập của
dân Việt Nam, điện mặt trời giá cao gấp khoảng 10 lần so với giá điện Việt Nam,
thuỷ điện nhỏ, sinh khối giá tương đối cạnh tranh... Vì vậy, việc ứng dụng nguồn
điện NLTT hiện nay còn gặp một số khó khăn. Vấn đề phát triển NLTT hiện nay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 82 -----
cần có sự hỗ trợ của nhà nước thông qua các chính sách về trợ giá, về đầu tư...Các
nước trên thế giới đều có những chính sách này.
Trong tương lai, do các công nghệ NLTT hoàn thiện hơn, giá sản xuất năng
lượng từ các nguồn NLTT sẽ giảm. Năng lượng hoá thạch cạn kiệt, khai thác khó
khăn, giá năng lượng hoá thạch sẽ tăng. Và do các đòi hỏi về bảo vệ môi trường,
các nguồn NLTT hoàn toàn có thể cạnh tranh về mặt kinh tế so với giá các nguồn
năng lượng khác.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Với mục đích và yêu cầu của đề tài là điều tra đánh giá tiềm năng và khả
năng đóng góp của các nguồn và công nghệ năng lượng mới và tái tạo trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên vào lưới điện của tỉnh, đề tài đã tập trung nghiên cứu, giải quyết
các nội dung chính như sau:
1. Đã điều tra, thu thập số liệu về nguồn tài nguyên NLM&TT ở Thái
Nguyên, cụ thể là:
- Đã đánh giá điều kiện tự nhiên, xã hội đặc thù của tỉnh Thái Nguyên
- Đã đánh giá hiện trạng và dự báo sản xuất, tiêu thụ cũng như độ tăng
trưởng nhu cầu năng lượng của Tỉnh hiện nay và trong những năm tới.
- Đã đánh giá tiềm năng các nguồn NLTT của Tỉnh
- Đánh giá hiện trạng khái thác, sử dụng các nguồn và công nghệ NLTT của
tỉnh Thái Nguyên.
2. Đã phân tích, lựa chọn các công nghệ NLTT khả thi để có thể khai thác
các nguồn tài nguyên NLTT trên địa bàn tỉnh góp phần vào sự cân bằng cung
cầu về năng lượng nói chung và điện năng nói riêng.
3. Đã đánh giá tác động của các nguồn NLTT tới môi trường tự nhiên, xã
hội
Qua việc điều tra, phân tích và đánh giá, rút ra một số kết luận và kiến nghị
sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 83 -----
KẾT LUẬN
Điều kiện tự nhiên của Thái Nguyên rất thuận lợi cho phát triển khai thác,
ứng dụng một số nguồn và công nghệ NLTT. Do các yêu cầu về phát triển kinh tế,
xã hội của tỉnh nhu cầu sử dụng điện tăng nhanh.
Thái Nguyên có tiềm năng lớn về các nguồn năng lượng tái tạo đặc biệt là
thuỷ điện nhỏ. Tuy nhiên việc nghiên cứu, ứng dụng các nguồn này chưa nhiều,
chưa được quan tâm đúng mức.
Các công nghệ phát điện NLTT có tính khả thi cao đối với Thái Nguyên,
đem lại lợi ích lớn về tự nhiên, xã hội.
KIẾN NGHỊ
NLM & TT là loại nguồn sẽ có vị trí quan trọng trong thế kỷ 21 trong cân
bằng năng lượng Việt Nam và bảo vệ môi trường. Hơn nữa, nó là nguồn thích hợp
nhất hiện nay để giải quyết vấn đề cung cấp năng lượng cho nông thôn, vùng sâu,
vùng xa.
- Vì vậy, tỉnh cần có sự đầu tư thích đáng cho các hoạt động điều tra, thăm
dò, đánh giá tiềm năng và khả năng khái thác, ứng dụng các nguồn năng lượng mới
và tái tạo. Đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển công nghệ phát điện NLM & TT phù
hợp với điều kiện của tỉnh.
- Giá cả các nguồn năng lượng mới hiện nay nói chung còn khá cao vì vậy
cần có sự hỗ trợ của nhà nước thông qua các chính sách về trợ giá, về đầu tư...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 84 -----
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Đình Thống – Lê Danh Liên (2006), Cơ sở năng lượng mới và tái
tạo, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
2. UBND tỉnh Thái Nguyên (7-2006), Quy hoạch phát triển điện lực tỉnh
Thái Nguyên giai đoạn 2006-2010 có xét đến 2015, Hà Nội.
3. Viện Khoa học thuỷ lợi (1998), Báo cáo kết quả nghiên cứu nhánh đề tại
tiềm năng, hiện trạng và phương hương phát triển thuỷ điện nhỏ ở Việt Nam, Hà
Nội.
4. TS. Phạm Khánh Toàn (2005), Báo cáo tổng kết KH&KT đề tài Nghiên cứ
định hướng tính khả thi của việc sử dụng năng lượng mặt trời, thuỷ điện nhỏ và sinh
khối quy mô công nghiệp ở Việt Nam, Hà Nội.
5. PGS.TS. Đặng Đình Thống (2005), Năng Lượng mặt trời và ứng dụng, Hà
Nội.
6. GS.TS. Trần Đình Long (1999), Quy hoạch phát triển năng lượng và điện
lực, NXB khoa học và kỹ thuật, Hà Nội
7. Tập đoàn điện lực Việt Nam (2007), Báo cáo đề tài nghiên cứu, tính toán múc
hỗ trợ giá trong chiến lược phát triển các nguồn điện năng năng lượng tái tạo độc
lập ở Việt Nam.
8. Sở NN& PTNT tỉnh Thái Nguyên (2007), Báo cáo kết quả thực hiện dự án
khí sinh học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
----- 84 -----
PHỤ LỤC
1. Tiềm năng năng lượng mặt trời
2. Tiềm năng thuỷ điện nhỏ
3. Tiềm năng năng lượng gió
4. Diện tích các loại cây công nghiệp
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9111.pdf