Điều kiện ra đời Xã hội chủ nghĩa giai đoạn đầu của hình thái kinh tế XHCSCN & các giai đoạn phát triển của nó

ă Lời nói đầu Lịch sử phát triển của loài người đã trải qua các hình thái kinh tế xã hội khác nhau, bắt đầu từ cộng sản nguyên thuỷ sang chiếm hữu nô lệ rồi phong kiến, tư bản chủ nghĩa và hiện nay là xã hội chủ nghĩa (giai đoạn dầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa). Xã hội ngày càng phát triển thì những mong muốn, đòi hỏi của con người ngày càng cao, họ không thoả mãn với những gì họ có hiện nay mà họ còn muốn mình phát triển hơn nữa đó là hình thái kinh tế chủ nghĩa cộng sản.

doc12 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2499 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Điều kiện ra đời Xã hội chủ nghĩa giai đoạn đầu của hình thái kinh tế XHCSCN & các giai đoạn phát triển của nó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở Việt Nam ta hiện nay, là một đất nước mới đang bắt đầu chuyển mình thoát ra khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu và đang trên đà phát triển, công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước. Để có được như ngày nay đất nước ta đã phải trải qua nhiều thời kỳ kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Bác Hồ và Đảng đã lãnh đạo nhân ta kháng chiến chống giặc xâm lược đưa nhân dân ta thoát khỏi cảnh lầm than, chịu ách nô lệ của chúng và đưa đất nước ta độc lập tự do và tiến lên con đường XHCN_giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, và truyền bá tư tưởng Mác - Lênin sâu rộng trong toàn dân. Mục tiêu của nhiều nước nói chung cũng như của Việt Nam ta nói triêng là hướng tới chủ nghĩa cộng sản đó là lý tưởng cao đẹp của con người. Nội dung I> Điều kiện ra đời XHCN giai đoạn đầu của hình thái kinh tế XHCSCN và các giai đoạn phát triển của nó: 1>Tính tất yếu của hình thái kinh tế XHCSCN (khái niệm): Sự phát triển xã hội loài người là một quá trình phát triển lịch sử tự nhiên là sự phát triển kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế xã hội khác nhau đó là các hình thái kinh tế: CSNT-CHNL-PK-TBCN và ngày nay là XHCN_giai đoạn đầu của hình thái kinh tế XHCSCN. Sự phát triển đó là do sự phát triển của LLSX đóng vai trò quyết định. Dưới chế độ TBCN với sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp của khoa học công nghệ ngày càng cao trình độ của LLSX phát triển mang tính xã hội hoá cao vượt ra khỏi QHSX dựa trên chế dộ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX sự phát triển đó của LLSX đòi hỏi xoá bỏ QHSX TBCN mặt khác tạo tiền dề vật chất kỹ thuật cho sự ra đời hình thái kinh tế xã hội mới dựa trên chế độ sở hữu xã hội đó là hình thái kinh tế xã hội XHCS. 2> Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế XHCN: Đây là thời kỳ xây dựng giai cấp vô sản trở thành giai cấp thống trị giành lấy chính quyền nhà nước ở đó giai cấp vô sản phải đạt được mọi tư liệu sản xuất chủ yếu, trong giai cấp tư sản tập trung Nhà nước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Thi hành nghĩa vụ đối với người lao động dần dần xoá bỏ sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn tiến hành phổ cập giáo dục kết hợp giáo dục với lao động sản xuất. Do tính kết quả của cách mạng XHCN. Những cơ sở kinh tế chính trị cho sự tồn tại của Nhà nước không còn. Nhà nước tiêu vong cộng đồng xã hội mới xây dựng trong đó sự phát triển tự do mỗi người là điều kiện để phát triển tự do của tất cả mọi người. Từ đó không còn sự phân biệt lao động trí óc và chân tay. Lao động trở thành nhu cầu cần thiết đối với con người. Từ quá trình lao động đó chúng ta thiết lập quan hệ lao động mới thực hiện theo nguyên tắc làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu. Tóm lại, mục đích của hai giai đoạn: Có cùng chung một điểm là tạo mọi điều kiện để phát huy năng lực con người thoả mãn ngày càng đầy đủ hơn những nhu cầu ngày càng cao của con người. II> Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa: Trong quá trình xây dựng học thuyết của mình, các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội đã phác thảo ra một số nét về xã hội tương lai. Các ông đã đưa ra quan niệm về quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa cộng sản, mà chủ nghĩa xã hội là giai đoạn thấp của nó, là điểm bắt đầu lịch sử chân chính của loài người. Dựa trên quan niệm của Mác, Ăngghen và Lênin, có thể nêu lên 6 đặc trưng cơ bản sau đây của chủ nghĩa xã hội: 1> Cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội là nền đại công nghiệp cơ khí: Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, mỗi chế độ xã hội đều có cơ sở vật chất - kỹ thuật của nó. Nếu công cụ thủ công là đặc trưng cho cơ sở vật chất - kỹ thuật của các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa thì nền đại công nghiệp cơ khí là cơ sở vật chất của chủ nghĩa tư bản. Xã hội xã hội chủ nghĩa nảy sinh với tính cách là phủ định biện chứng chủ nghĩa tư bản, thì cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội nhất thiết phải là nền đại công nghiệp phát triển và hoàn thiện trên một trình độ cao của nó. 2> Chủ nghĩa xã hội xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất: Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. C.Mác, Ph.Ăngghen đã cho rằng: thủ tiêu chế độ tư hữu là cách nói vắn tắt nhất, tổng quát nhất về thực chất của cuộc cải tạo xã hội theo lập trường của giai cấp vô sản. Tuy nhiên, đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xoá bỏ chế độ sở hữu nói chung mà là xoá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Theo Ph.Ăngghen, việc thủ tiêu chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất sẽ dẫn tới việc thủ tiêu nền sản xuất hàng hoá; nèn kinh tế có kế hoạch trên quy mô toàn xã hội sẽ được thiết lập. ở Liên Xô, măc dù vào năm 1918 có lúc V.I.Lênin đã nêu ra tư tưởng phải phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mở rộng quan hệ hàng hoá tiền tệ,… nhưng thực tế bức bách của tình hình những năm 1918 - 1921, trong điều kiện nội chiến và chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc hòng bóp chết chính quyền Xô viết, V.I.Lênin đã buộc phải áp dụng chính sách đặc biệt: Chính sách cộng sản thời chiến. Những kết quả do chính sách đó mang lại trong chiến tranh đã khiến cho V.I.Lênin có lúc nghĩ rằng có thể bằng những chính sách như thế mà có thể trực tiếp đạt tới những nguyên tắc cộng sản chủ nghĩa. Đến năm 1912, sau khi kết thúc nội chiến, trước thực tế kinh tế - xã hội khủng hoảng nghiêm trọng, V.I.Lênin đã sớm nhận ra tính sai lầm của quan niệm đó và dứt khoát chuyển sang Chính sách kinh tế mới (NEP). Tinh thần căn bản của NEP là đẩy mạnh phát triển nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần nên sử dụng thị trường và thương nghiệp; giải phóng mọi tiềm năng sản xuất của xã hội để phát triển lực lượng sản xuất; quan tâm lợi ích thiết thân của người lao động… 3> Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới: Trong sự nghiệp kiến thiết chế độ xã hội mới, các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học rất quan tâm và coi trọng việc tổ chức lao động và kỷ luật lao động nhằm khắc phục những tàn dư của tình trạng lao động bị tha hoá trong xã hội cũ, xây dựng thái độ lao động mới phù hợp với địa vị làm chủ của người lao động. Các ông nhấn mạnh rằng chỉ có tổ chức hết sức chặt chẽ và kỷ luật lao động nghiêm ngặt mới dẫn tới chủ nghĩa xã hội. Theo các ông, lao động được tổ chức có kế hoạch và kỷ luật tự giác, tự nguyện là đặc trưng cảu xã hội xã hội chủ nghĩa. 4> Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động: Theo nguyên tắc này, mỗi người sản xuất sẽ được nhận từ xã hội một số lượng sản phẩm tiêu dùng trị giá ngang số lượng, chất lượng và hiệu quả lao động mà họ đã cung cấp cho xã hội, sau khi đã trừ đi một số khoản đóng góp nhất định cho hoạt động vì lợi ích chung. Trong chủ nghĩa xã hội còn sử dụng nguyên tắc này, bởi vì trong xã hội đó, của cải làm ra chưa đạt tới mức thật dồi dào như trong chủ nghĩa cộng sản. Phân phối theo lao động là nguyên tắc thể hiện sự công bằng dưới chủ nghĩa xã hội. 5> Nhà nước trong chủ nghĩa xã hội là nhà nước kiểu mới, thể hiện sâu sắc bản chất giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động: Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề cập tới khái niệm chuyên chính vô sản khi xác định bản chất, chức năng và nhiệm vụ của nhà nước kiều mới - nhà nước được xác lập do thắng lợi của cách mạng xã hộ chủ nghĩa. Thực chất của chuyên chính vô sản là sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công nhân đối với Nhà nước và toàn xã hội nhằm bảo đảm quyền dân chủ thuộc về nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. 6> Chủ nghĩa xã hội giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, thực hiện sự bình đẳng xã hội, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện: Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi mọi ách bóc lột về kinh tế và nô dịch về tinh thần, tạo điêu kiện cho con người phát triển toàn diện. Nhờ xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất cơ bản khi lực lượng sản xuất đã phát triển tới mức cho phép thực hiện được sự xoá bỏ đó và, do vậy, xoá bỏ đối kháng giai cấp, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản sẽ loại bỏ tai hoạ lớn nhất của loài người : tình trạng người bóc lột người, tình trạng nô dịch và áp bức dân tộc; thực hiện được sự công bằng, bnình đẳng xã hội, trước hết là bình đẳng về địa vị xã hội của con người. Chủ nghĩa xã hội tạo ra sự bình đẳng nam - nữ, thực hiện mối quan hệ bình đẳng và hữu nghị giữa các dân tộc. Trên cơ sở toàn bộ những cải biến xã hội lịch sử nói trên, chủ nghĩa xã hội tạo ra những điều kiện để từng bước tiến tới giải phóng triệt để con người. Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được các nhà kinh điển đưa ra là kết quả của việc nhận thức tình hình kinh tế xã hội cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX trong sự đối chiếu, so sánh với chủ nghĩa tư bản đương thời. Những đặc trưng đó đã thể hiện trình độ phát triển cao hơn, tốt đẹp hơn của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản. Đ) Đối với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thì đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà ta đang xây dựng gồm có 6 đăc trưng sau: Do nhân dân lao động làm chủ . Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu. Có một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi ách áp bức bất công để có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. III> Chủ nghĩa xã hội với vấn đề con người và phát huy nguồn lực con người: Trong giai đoạn phát triển hiện nay loài người đã tạo ra những điều kiện để nâng mình lên một trình độ chủ thể mới, có vai trò quyết định hơn đối với tiến trình phát triển của lịch sử. Nhưng điều đó đồng thời cũng đặt ra với mức độ bức thiết chưa từng thấy sự lựa chon của loài người về một con đường thực sự đưa mình tới tự do, hạnh phúc. Chủ nghĩa tư bản đã có trên 5 thế kỷ tồn tại và phát triển. Mức độ mà chế độ đó đạt được trong việc giải phóng con người - so với chế độ nô lệ và phong kiến - là rất to lớn. Thế nhưng, chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn cao nhất của nó hiện nay, đẩy phần lớn nhân loại vào tình trạng bị áp bức, bóc lột về giai cấp và nô dịch về dân tộc. Chủ nghĩa tư bản hiện đang lâm vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về vấn đề con người. Xét trên tiến trình phát triển của lịch sử, chủ nghĩa xã hội xuất hiện là một hướng đi hoàn toàn mới đưa loài người tới sự giải phóng. Thế nhưng trên bảy thập niên tồn tại và phát triển, bên cạnh những thành tựu to lớn chưa từng có trong việc giải quyết vấn đề con người, các nước xã hội chủ nghĩa cũng không tránh khỏi những khuyết điểm, khiến cho mục tiêu giải phóng con người còn bị hạn chế về nhiều mặt. Trong tình hình ấy chủ nghĩa xã hội khoa học cần khẳng định và phát triển thêm lý luận về con người nhằm chỉ đạo việc xây dựng và thực hiện có hiệu quả một chiến lược về con người, trong đó con người được khẳng định là mục tiêu cao nhất, đồng thời cũng là động lực to lớn nhất để xây dựng thành công xã hội mới. 1> Con người và nhân tố con người XHCN: a> Khái niệm con người xã hội chủ nghĩa: Con người xã hội chủ nghĩa được xem xét từ cơ sở lý luận và xuất phát điểm từ quan niệm của Mác về bản chất con người đó là bản chất con người không phải là một cái gì trừu tượng cố hữu của cá nhân riên biệt trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Trong giai đoạn hiện nay khi giai cấp công nhân_nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã dần dần tạo lập được những mối quan hệ mới ngày càng hoàn thiện hơn những mối quan hệ xã hội đó. Thông qua đó để hình thành nên bản chất con người mới của xã hội chủ nghĩa cũng dần dần được hoàn thiện. Xét theo ý nghĩa đó thì con người mới xã hội chủ nghĩa là sản phẩm tổng hợp của các mối quan hệ xã hội, của xã hội xã hội chủ nghĩa được từng bước hình thành trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. b> Những đặc trưng cơ bản của con người mới xã hội chủ nghĩa: Con người xã hội chủ nghĩa là con người có ý thức có trình độ năng lực làm chủ đồng thời có đầy đủ các điều kiện để thực hiện chức năng làm chủ của mình. Con người lao động mới có tri thức sâu sắc về công việc của mình, có trình độ, có sức khoẻ, lao động có năng suất cao biết tự đánh giá chất lượng công việc của mình. Con người có văn hoá sống có tình nghĩa. Con người giàu lòng yêu nước, trung thành với chủ nghĩa xã hội, với sự nghiệp cách mạng, có tinh thần yêu giai cấp, yêu đồng loại và tinh thần quốc tế chân chính. c> Nhân tố con người (nguồn lực con người): Khái niệm nguồn lực con người coa phạm vi bao quát. Đó là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất và tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội … tạo thành năng lực của con người và của công đồng người. Năng lực đó khi được sử dụng, phát huy sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Theo đó, con người không chỉ là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên và xã hội mà còn là chủ thể tích cực cải biến tự nhiên và xã hội; con người là điểm khởi đầu và điểm kết thúc của mọi quá trình lịch sử; con người là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất, là lực lượng sản xuất quyết định nhất của xã hội, và cách mạng xã hội cũng là sự nghiệp của quần chúng lao động. Chỉ có thể đánh giá vai trò quyết định của nguồn lực con người khi đạt nó trong mối quan hệ với các nguồn lực khác. Sự tồn tại bền vững và sự phát triển theo con đường tiến bộ của bất cứ quốc gia nào cũng phụ thuộc vào nhiều nhân tố: vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn đã được tích luỹ trong nước và nguồn vốn có thể tranh thủ từ nước ngoài… Mỗi nhân tố có vai trò riêng, nhưng sự hội nhập đủ các nhân tố cơ bản thường tạo ra kết quả lớn hơn tổng số các nhân tố cộng lại với tư cách là “phép cộng đơn thuần”. Ngược lạ, sự thiếu hụt của một nhân tố cơ bản nào đó, có khi gây nên sự giảm tác dụng của các nhân tố khác, nghĩa là gây nên hậu quả tiêu cực lớn hơn vai trò của nhân tố thiếu hụt đó. Tuy thế, những nhân tố kể trên chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, tự chúng là những khách thể bất động. Chúng chỉ trở thành nhân tố “động” và phát huy tác dụng khi kết hợp với nguồn lực con người tức là được nguồn lực con người khơi dậy. Bởi vì, con người là nhân tố chủ động, có đầy đủ khả năng lợi dụng các nhân tố khác, gắn kết các nhân tố khác thành một tổng thể các nhân tố cần thiết và định hướng tác động của mọi nhân tố vào mục tiêu phát triển đất nước. Sở dĩ nguồn lực con người có vai trò quyết định trong các nhân tố, các nguồn lực của sự phát triển lịch sử, trước hết là do năng lực sáng tạo, trí tuệ của bản thân con người và cộng đồng người theo chiều hướng tiến bộ của lịch sử. Do đó, nguồn lực con người phải được nhìn nhận trong môi trường của nền văn minh và phát triển mạnh mẽ trong điều kiện chịu ảnh hưởng của một hệ tư tưởng tiên tiến và của một trình độ phát triển khoa học công nghệ hiện đại trong đó chân lý khoa học không tách rời chủ nghĩa nhân văn. 2> Con người xã hội chủ nghĩa Việt Nam: a> Phương hướng phát triên nguồn lực con người ở Việt Nam: Trong tất cả các giai đoạn cách mạng, đặc biệt là giai đoạn hiện nay, Đảng ta luôn đặt con người vào vị trí trung tâm với tư cách là nhân tố quyết định nhất. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định: Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, và chính từ đó, những thành quả của sự phát triển đất nước lại nhằm phục vụ nhân dân Việt Nam, con người Việt Nam và góp phần cho nhân loại. Công cuộc đổi mới đất nước tạo ra những thuận lợi chưa từng có, đồng thời đòi hỏi con người Việt Nam vượt qua những thách thức gay gắt để nâng cao phẩm chất toàn diện phù hợp với đòi hỏi chung của thời đại, kế tục và nâng cao những giá trị truyền thống của dân tộc lên một trình độ mới. Phẩm chất toàn diện của con người Việt Nam thể hiện ở đức - trí - thể - mỹ. Cấu trúc nhân cách con người Việt Nam hiện nay cũng bao gồm những thành tố đó, những giá trị đó, nhưng ở mức độ đáp ứng những đòi hỏi của thời đại. Do đó, chiến lược phát triển con người ở nước ta, về thực chất, là tổng thể những giải pháp nhằm nâng cao nhân cách con người Việt Nam lên ngang tầm thời đại. ở một cấp độ khái quát cao hơn, có thể nói, nhân cách là một tổng thể những giá trị được sắp xếp trong một cấu trúc chặt chẽ với sự nổi bật của hai nhân tố cốt lõi: Đức - Tài. Chính vì thế khi nói vê vấn đề con người, Chủ tich Hồ Chí Minh thường nói về đức - tài . Người luôn nhấn mạnh việc trau dồi, rèn luyện đạo đức cách mạng và chỉ rõ những nội dung cơ bản của đạo đức cách mạng là “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, “phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng”, “Gột sạch chủ nghĩa cá nhân”, “hoà mình với quần chúng”. Nhưng, Người rất quan tâm đến tài năng và luôn tạo mọi điều kiện để mỗi người rèn luyện tài năng, đem tài năng cống hiến cho xã hội . Tuy vậy, Người luôn gắn tài năng với đạo đức. Theo Người, có tài mà không có đức thì hỏng. Ngược lại, nếu không có tài thì không thể làm việc được. Cũng như vậy, Người luôn gắn phẩm chất chính trị với trình độ học vấn chuyên môn. Tư tưởng trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cơ sở của một phương hướng phát triển con người ở nước ta. Đại hộ đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã gắn việc phát huy nguồn lực con người với sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc ta. Đại hội neu lên chủ trương lớn: “Thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc ở Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài”. b> Con người mới ở XHCN Việt Nam: Trong xu thế phát triển và hội nhập với thế giới của Việt Nam hiện nay chúng ta cần hội tụ những nhân tố: Đức - trí - thể - mỹ . Cần có một lối sống lành mạnh trong sạch, trình độ học vấn chuyên môn cao, thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Biết học hỏi, tiếp thu những cái tốt của nước khác. Gìn giữ và phát triển nền văn hoá dân tộc ngày càng phong phú và đa dạng. IV> Liên hệ với bản thân: Đối với tôi là một người Việt Nam, sống trong thời kỳ đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tôi cũng như bao người Việt Nam khác đều muốn đất nước mình phát triển ngày càng giàu mạnh, mọi người đều có cuộc sống ấm no hạnh phúc. Nhưng trên thực tế Việt Nam của chúng ta còn đang rất nghèo và lạc hậu và để đất nước phát triển thì nhiệm vụ của tôi bây giờ là một học sinh đang còn ngồi trên ghế nhà trường tôi cần phải trau dồi kiến thức, học hỏi thật nhiều. Tiếp thu những cái hay cái tốt, bài trừ những thứ đem lại cuộc sống không lành mạnh như: tệ nạn xã hội (HIV AIDS, ma tuý, mại dâm…). Hưởng ứng các phong trào vì người nghèo, khuyến học…Rèn luyện thể dục thể chất để có một cơ thể khoẻ mạnh để học tập và làm việc tốt. Trên đây là những nhiệm vụ mà một học sinh như tôi cần phải làm có thể là chưa đủ và tuy nhỏ bé nhưng phần nào có thể có ích cho xã hội với một Việt Nam đang trên đà phát triển và hội nhập vào thế giới hiện nay. Kết luận Sự hình thành và phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa_giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa là tính tất yếu của quá trình phát triển của loài người. Con người càng phát triển thì những đòi hỏi của họ ngày càng cao và hình thái kinh tế xã hội xã hội chủ nghĩa_giai đoạn đầu của xã hội cộng sản là lý tưởng cao đẹp mà con người cần vươn tới. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0209.doc
Tài liệu liên quan