Phạm Đức Thoan và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 128(14): 133 - 137
140
ĐIỀU KHIỂN BÁM HỆ TRUYỀN ĐỘNG BÁNH RĂNG
VỚI BỘ ĐIỀU KHIỂN DỰ BÁO CÓ RÀNG BUỘC
Lê Thị Thu Hà1, Đỗ Thị Tú Anh2
1Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp - ĐH Thái Nguyên,
2Đại học Bách Khoa Hà Nội
TÓM TẮT
Bài báo giới thiệu một phương pháp thiết kế bộ điều khiển dự báo phản hồi trạng thái để điều
khiển bám ổn định hệ truyền động qua bánh răng có các điều kiện ràng buộc. Bộ điều khiển dự
báo của bài báo sử dụn
9 trang |
Chia sẻ: huongnhu95 | Lượt xem: 580 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Điều khiển bám hệ truyền động bánh răng với bộ điều khiển dự báo có ràng buộc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g mô hình xấp xỉ tuyến tính của hệ truyền động bánh răng và sử dụng hàm
mục tiêu dạng toàn phương có tham số biến đổi, do đó luôn chuyển bài toán điều khiển có ràng buộc
thành bài toán không ràng buộc. Do sử dụng nguyên lý tối ưu sai lệch bám là nhỏ nhất nên mặc dù sử
dụng mô hình xấp xỉ tuyến tính, song bộ điều khiển vẫn cho thấy được chất lượng bám tốt.
Từ khóa: Điều khiển dự báo; Hệ truyền động bánh răng; Tối ưu hóa có ràng buộc
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Hệ truyền động qua bánh răng (hình 1) là một
trong số các hệ truyền động được sử dụng
rộng rãi nhất trong công nghiệp, vì vậy vấn đề
chất lượng điều khiển hệ truyền động qua
bánh răng cũng giữ một vai trò không nhỏ
trong chất lượng hệ thống điều khiển quá
trình nói chung. Từ lý do đó mà việc nâng cao
chất lượng điều khiển hệ truyền động qua
bánh răng luôn mang tính thời sự và nhận
được sự quan tâm đặc biệt của các nhà thiết
kế hệ thống điều khiển quá trình.
Bài toán điều khiển hệ truyền động qua bánh
răng được quan tâm trong bài báo này là phải
xác định được quy luật thay đổi moment dẫn
động tạo ra từ động cơ dẫn động để hệ có
được tốc độ góc của tải đầu ra luôn bám ổn
định được theo một quỹ đạo đặt trước và điều
này phải không được phụ thuộc vào các tác
động không mong muốn vào hệ. Tất nhiên để
điều khiển được hệ truyền động với chất
lượng cao cần phải có mô hình toán mô tả
chính xác hệ truyền động. Tài liệu [5] đã giới
thiệu một mô hình như vậy, trong đó nó chứa
đựng gần như đầy đủ tất cả những thành phần
phi tuyến rất khó xác định được một cách
chính xác, song lại giữ vai trò không nhỏ tới
chất lượng truyền động của hệ. Đó là các
thành phần như những lực ma sát khác nhau,
* Email: hahien1977@gmail.com
khe hở giữa các bánh răng, độ cứng vững của
vật liệu.
Tuy nhiên mô hình càng chính xác, cấu trúc
phi tuyến của mô hình càng rắc rối, kéo theo
phương pháp điều khiển cũng như bộ điều
khiển sau này càng phức tạp và tính tin cậy
cũng như tính bền vững của hệ điều khiển
càng giảm. Bởi vậy trong thực tế người ta
thường chỉ cần đến một mô hình toán vừa
đủ chính xác sao cho vẫn có thể đảm bảo
được chất lượng điều khiển đặt ra, mà lại
không làm phức tạp cấu trúc của bộ điều
khiển sau này.
2msM
1msM 4msM
3msM
Md 1
M
3
Biến tần
Bộ điều khiển
2
Mc
Tải
Hình 1: Điều khiển hệ truyền động qua bánh răng
Phương pháp điều khiển đơn giản nhất
thường được áp dụng là điều khiển PID [2].
Đây là phương pháp này đòi hỏi mô hình toán
hệ truyền động phải xấp xỉ được về dạng
tuyến tính. Song nếu xấp xỉ về dạng tuyến
tính như vậy ta đã phải giả thiết là trong hệ
truyền động không có khe hở, ma sát và
không có moment xoắn (vật liệu là tuyệt đối
cứng). Điều này đã vô tình làm giảm chất
Lê Thị Thu Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 128(14): 139 - 147
141
lượng hệ thống điều khiển, vì các giả thiết
nêu trên rất dễ bị phá vỡ trong thực tế.
Như vậy, muốn nâng cao chất lượng hệ thống
ta phải sử dụng mô hình phi tuyến của nó.
Tuy nhiên khi sử dụng mô hình phi tuyến
cùng với phương pháp điều khiển tuyến tính
ta phải tuyến tính hóa xấp xỉ mô hình phi
tuyến của nó xung quanh các điểm làm việc.
Các phương pháp đã được giới thiệu ở tài liệu
[7],[10] là những ví dụ về nhóm phương pháp
điều khiển này.
Song việc tuyến tính hóa xung quanh điểm
làm việc mà không phải trả giá cho sự sụt
giảm chất lượng điều khiển không phải lúc
nào cũng thực hiện được, đặc biệt là khi có sự
tham gia của các thành phần phi tuyến mạnh
như ma sát, khe hở, độ cứng vững của vật
liệu. Do đó, để vẫn không làm giảm chất
lượng hệ thống khi phải tuyến tính hóa người
ta đã sử dụng thêm các cơ cấu nhận dạng ma
sát, khe hở hay độ cứng vững của vật liệu để
điều khiển bù sự ảnh hưởng của chúng tới
thành phần động học tuyến tính trong mô
hình, trước khi sử dụng bộ điều khiển tuyến
tính. Một số tài liệu như [3], [12], [17] đã
công bố các kết quả điều khiển đi theo hướng
giải quyết này. Tất nhiên với hướng giải
quyết bằng cách bổ sung thêm các cơ cấu điều
khiển bù đó, cấu trúc bộ điều khiển sẽ càng
phức tạp thêm, kéo theo độ tin cậy và tính bền
vững của chất lượng điều khiển càng giảm.
Bởi vậy, cuối cùng xu hướng thiết kế bộ điều
khiển trực tiếp trên nền mô hình phi tuyến của
hệ truyền động là một giải pháp đúng đắn. Nó
hứa hẹn sẽ không làm tăng thêm tính phức tạp
của cấu trúc hệ điều khiển mà vẫn đảm bảo
được chất lượng điều khiển đặt ra ban đầu.
Các tài liệu [6], [8], [13], [14] đã công bố một
số kết quả về xu hướng điều khiển thích nghi
bền vững phi tuyến này.
Mặc dù vậy tất cả các phương pháp điều
khiển nêu trên, kể cả phương pháp điều khiển
thích nghi bền vững phi tuyến, sẽ vẫn bị hạn
chế nếu như trong yêu cầu chất lượng điều
khiển đặt ra ban đầu có thêm giả thiết về tính
bị chặn của tín hiệu điều khiển, ở đây được
hiểu là moment đặt ở bánh răng chủ động,
hoặc khoảng giá trị biến thiên cho phép của
các trạng thái trong hệ, chẳng hạn như các
giới hạn về tốc độ, gia tốc của các bánh răng.
Những giả thiết này, từ yêu cầu về tính bền
vững của hệ thống, luôn phải được thỏa mãn,
nhằm có thể đảm bảo được vật liệu của hệ
bánh răng không quá bị mỏi trong thời gian
làm việc.
Một trong các bộ điều khiển được xây dựng
từ mô hình phi tuyến của đối tượng điều
khiển mà vẫn thỏa mãn các điều kiện bị chặn
về dải biến thiên giá trị của các tín hiệu điều
khiển và trạng thái của hệ là bộ điều khiển dự
báo theo mô hình, được viết tắt thành MPC
(model predictive controller).
Bài báo này sẽ trình bày phương pháp thiết kế
bộ điều khiển dự báo cho hệ truyền động qua
bánh răng, có mô hình phi tuyến chứa đầy đủ
các thành phần lực ma sát, khe hở và độ không
cững vững của vật liệu bên trong là [5]:
0
1 1 1 ( 1)
0 1 1 1
( ) ( )
( )
( ) ( )
Si i i msi i i i
Si i i ms i
i i i
J M M d t r F D
J M M
d t r F D
(1)
trong đó, ở (1) ta đã bỏ qua hiện tượng va đập
bánh răng [5]. Việc bỏ qua này là hợp lý vì
với bài toán điều khiển thì khoảng thời gian
xẩy ra quá trình va đập bánh răng là vô cùng
nhỏ so với quá trình quá độ, nên có thể xem
như xấp xỉ bằng 0. Ngoài ra:
- ( )d t là hàm mô tả khe hở,
- msiM là tổng các moment ma sát tại cặp
bánh răng thứ i ,
- 1, i iM M là các moment vào và ra ở bánh
răng thứ i có 1 dM M là moment đặt ở đầu
vào, được tạo bởi động cơ,
- ( )i iF D là lực biến dạng đàn hồi và lực
giảm chấn giữa hai bánh răng trong cặp bánh
răng thứ i được xác định theo công thức:
2
0 , 1 1( ) cos ( )i i i i L i i i iF D c r i (2)
với 0ir , i , , 1i ii , ic lần lượt là bán kính vòng
tròn cơ sở, góc quay, tỷ số các răng giữa hai
bánh răng và độ cứng vững vật liệu của cặp
bánh răng thứ i .
Lê Thị Thu Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 128(14): 139 - 147
142
Nhiệm vụ điều khiển bám ổn định bền vững
cho hệ truyền động bánh răng (1) được đặt ra
ở đây cho bài báo là phải thiết kế được bộ
điều khiển MPC phản hồi trạng thái để hệ
truyền động gồm n cặp bánh răng có góc
quay đầu ra n bám theo được quỹ đạo mong
muốn ref :
n ref
đồng thời tín hiệu điều khiển và các biến
trạng thái phải có giá trị biến thiên trong dải
cho phép là:
max , , 1,2, ,d i iM M i n (3)
với max , , 1,2, , iM i n là những hằng số
dương cho trước.
THIẾT KẾ BỘ ĐIỀU KHIỂN DỰ BÁO
CHO HỆ TRUYỀN ĐỘNG BÁNH RĂNG
Thiết kế bộ điều khiển MPC có điều kiện ràng
buộc nhờ hàm mục tiêu tham số biến đổi
Hình 2a) biểu diễn cấu trúc cơ bản của hệ
điều khiển dự báo đối tượng phi tuyến, gồm 2
thành phần là [1],[4]:
- Khối mô hình không liên tục của đối tượng:
( , )k k kx f x u , ( ) kky g x (4)
có tác dụng dự báo các vector trạng thái của
hệ được tính từ thời điểm k hiện tại, trong đó
kx là vector trạng thái và ku là vector các tín
hiệu điều khiển đối tượng (tín hiệu đầu vào).
Các giá trị trạng thái , 0 k ix i N được dự
báo trong khoảng cửa sổ dự báo , k k N
trong khoảng thời gian tương lai, tính từ thời
điểm hiện tại k như mô tả ở hình 2b) sẽ là:
1 1
2 2 1
1 1
1 1
( , )
( , ),
( ( , ), ), ),
( , , , , )
k i k i k i
k i k i k i
k k k k i
k k k k ii
x f x u
f f x u u
f f f x u u u
f x u u u
Từ các giá trị trạng thái , 0 k ix i N dự
báo được trong cửa sổ dự báo hiện tại
, k k N ta cũng sẽ có các giá trị đầu ra dự
báo trong cửa sổ dự báo đó là:
1 1
1 1
( )
( , , , , )
( , , , , )
k ik i
k k k k ii
k k k k ii
y g x
g f x u u u
g x u u u (5)
Khối tối ưu hóa, có nhiệm vụ xác định tín
hiệu điều khiển tối ưu *ku . Khối này chứa
đựng trong nó 2 khối con gồm hàm mục tiêu
và thuật toán tối ưu xác định nghiệm của hàm
mục tiêu đó.
Hàm mục tiêu tương ứng trong khối này được
xây dựng từ chỉ tiêu chất lượng đặt ra cho hệ
thống. Với chỉ tiêu chất lượng đặt ra là tín
hiệu đầu ra
k
y phải bám ổn định theo được
tín hiệu đặt kw , thì một trong các hàm mục
tiêu thỏa mãn được chỉ tiêu chất lượng đó là:
1
2
1
0
( ) ( )
N
T
ik i k ik i k i
i
N
T
ik i k i
i
J w y Q w y
u R u
với ,i iQ R là những ma trận đối xứng xác định
dương tùy chọn và 1 20 , N N N cũng là hai
số dương tùy chọn [16]. Rõ ràng, khi sử dụng
kết quả dự báo (5) cũng như do kx là đã có,
thì khi chọn 1 21 N N N , hàm mục tiêu J
sẽ trở thành hàm của các tín hiệu điều khiển
cần tìm:
1col( , , , )k k k k Nu u u
Hình 2: Cấu trúc hệ điều khiển dự báo
Lê Thị Thu Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 128(14): 139 - 147
143
tức là ( )kJ J , lúc này được viết lại thành:
( ) T Tk k k k kJ (6)
trong đó:
1 1
1 1
( ), ( )
( , , )
i i
k k k k Nk k k N
diag Q diag R
col w y w y w y
Khối con thứ hai là khối thuật toán tối ưu để
tìm nghiệm bài toán tối ưu:
* arg min ( )
N
k
k k
U
J
(7)
trong đó RmU là điều kiện ràng buộc của
vector tín hiệu điều khiển ku được suy ra từ
(3). Thuật toán tìm *k thường được sử dụng
là SQP [11].
Tuy nhiên, khi sử dụng các phương pháp tối
ưu hóa để tìm nghiệm bài toán tối ưu có ràng
buộc (7)thì rất có thể ta chỉ thu được nghiệm
địa phương. Nói cách khác nó *k tìm được
có thể chỉ mới là điểm cực trị của ( )kJ , chứ
chưa phải nghiệm của (7). Để tìm nghiệm
toàn cục của (6), ta cần tới phương pháp điều
khiển tối ưu, chẳng hạn như phương pháp
biến phân, hoặc quy hoạch động của Bellman,
song các công thức tường minh xác định *k
theo phương pháp điều khiển tối ưu này lại
mới chỉ dừng lại cho trường hợp không ràng
buộc, do đó không thể áp dụng được khi bài
toán điều khiển dự báo có thêm các điều kiện
ràng buộc như ở công thức (3).
Mặc dù vậy, nếu nhìn lại và phân tích cấu trúc
hàm mục tiêu (6) của bài toán tối ưu (7) ta sẽ
thấy:
- Khi càng lớn, sự tham gia của thành
phần Tk k trong hàm mục tiêu (7) càng
cao, kéo theo khi có được ( ) minkJ , giá
trị của k sẽ càng giảm. Điều đó đồng
nghĩa với việc càng tăng , điều kiện ràng
buộc (3) càng dễ được thỏa mãn.
- Nhưng nếu càng tăng , gián tiếp sẽ càng
làm cho sự tham gia của thành phần thứ hai là
T
k k trong (6) lại càng giảm, kéo theo
càng khó có được 0k , tức là chất lượng
bám tín hiệu mẫu đặt ở đầu vào càng xấu.
Tất nhiên ta càng không thể vừa tăng
vừa tăng , vì như vậy tương quan về sự
tham gia của hai thành phần Tk k và
T
k k trong ( )kJ sẽ không thay đổi.
Bởi vậy một ý tưởng dung hòa xuất hiện ở
đây là ngay ban đầu (khi k nhỏ) ta chọn
đủ lớn để có k đủ nhỏ sao cho với nó có
được điều kiện ràng buộc (3). Khi điều kiện
ràng buộc (3) đã được thỏa mãn, ta sẽ giảm
để thông qua đó làm tăng thêm sự tham
gia của thành phần sai lệch bám Tk k trong
( )kJ nhằm làm giảm sai lệch bám sau này.
Tương tự ta cũng có thể chọn đủ nhỏ ban
đầu, sau đó tăng dần theo k .
Với hai trường hợp thay đổi hai ma trận
hay theo thời gian k như trên, hàm mục
tiêu gốc ban đầu (6) trở thành:
( ) T Tk kk k k k kJ (8)
và tương ứng, bài toán tối ưu có ràng buộc (7)
trở thành bài toán không ràng buộc:
* arg min ( )k kJ (9)
Sau khi đã có nghiệm tối ưu *k của (9), phần
tử đầu tiên của *k là
*
ku sẽ được đưa vào
điều khiển đối tượng trong khoảng thời gian
giữa hai lần trích mẫu ( 1) kT t k T , trong
đó T là chu kỳ trích mẫu. Như vậy bộ điều
khiển dự báo làm việc theo nguyên lý lặp với
các bước sau:
1) Chọn 0N . Gán : 0k .
2) Đo trạng thái kx và tìm nghiệm tối ưu
*
k
của bài toán tối ưu có ràng buộc (9).
3) Xuất * *( ,0, ,0)ku I để điều khiển
đối tượng trong khoảng thời gian
( 1) kT t k T rồi gán : 1 k k và quay
về 2.
Xây dựng mô hình dự báo
Theo nguyên tắc điều khiển dự báo vừa trình
bày, để có được bộ điều khiển dự báo cho hệ
truyền động bánh răng, thì từ mô hình (1) đã
có của hệ truyền động bánh răng ta phải xây
dựng mô hình không liên tục dạng (4) làm mô
hình dự báo.
Lê Thị Thu Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 128(14): 139 - 147
144
Từ (1), tài liệu [9] đã đưa ra mô hình tương
ứng cho hệ tương ứng có một cặp bánh răng
như sau:
2 2
1 1 1 1 12 2 1
2 2
2 2 2 2 21 1 2
cos ( )
cos ( )
L L d ms
L L c ms
J cr i M M
J cr i M M
(10)
trong đó:
L góc ăn khớp của hai bánh răng, và
cũng là đại lượng đánh giá khe hở giữa
các bánh răng. Khi hai bánh răng tiêu
chuẩn và không có độ dịch tâm, thì góc
ăn khớp 020 L . Với hệ có khe hở
thì 18L25,
c là đại lượng đánh giá độ cứng của bánh
răng. Giá trị c càng nhỏ, độ mềm dẻo
của bánh răng càng lớn và
0
ë chÕ ®é ¨ n khíp
ë chÕ ®é khe hë
c
c
1 2, ,dJ J J lần lượt là moment quán tính
của động cơ, bánh răng 1 và bánh răng 2
và 1 1dJ J J ,
cM là moment cản, bao gồm cả moment
tải,
1 2,ms msM M là moment ma sát trong các ổ
trục bánh răng,
1 2, L Lr r là bán kính lăn tương ứng của hai
bánh răng (bán kính ngoài),
1 1 2 2, là vận tốc góc tương ứng của
hai bánh răng,
12i là tỷ số truyền từ bánh răng 1 sang
bánh răng 2, tức là 2 21 1 i .
Như vậy, giống như (1), mô hình (10) này của
hệ một cặp bánh răng cũng chứa đựng trong
nó tất cả những thành phần bất định không
thể xác định được một cách chính xác trong
nó, bao gồm moment cản cM , góc khớp hai
răng L , chỉ số đo độ cứng vững của vật liệu
làm bánh răng c , các moment ma sát của hai
bánh răng 1 2, ms msM M .
Tất nhiên với nhiều thành phần bất định trong
mô hình như vậy, công thức (10) không thể
sử dụng được làm mô hình dự báo. Do đó ta
cần phải xấp xỉ nó và chấp nhận rằng trong
mô hình xấp xỉ không còn chứa thành phần
bất định này tồn tại một sai lệch mô hình.
Mặc dù có sai lệch mô hình, tuy nhiên nhờ
tính tối ưu của bộ điều khiển dự báo sau này
mà sự ảnh hưởng của sai lệch mô hình đó tới
chất lượng hệ thống sẽ được giảm thiểu.
Trước tiên ta xấp thành phần moment ma sát
động, bỏ qua ma sát tĩnh:
1 1 1 2 2 2, ms c msM b M M b
cũng như các hệ số xấp xỉ hằng 0:
2 2 1 2 21 1 2 2, cos cos
L L L Lcr cr
thì (10) chuyển về được thành:
1 1 1 1 12 2 1 1
1 1
2 2 2 2 12 1 2 2
( )
( )
dJ i M b
J i b
(11)
Từ phương trình thứ hai trong (11) có:
1 12 2 2 2 2 2 2
3 2 4 2 12 2
i J b
i
với
3 2 2 4 12 2 2, J i b
Suy ra
(4)1 3 4 2 12 22 i
Thay vào phương trình thứ nhất của (11)
được:
(4)
1 3 1 4 1 3 22
1 4 1 3 1 12 2 1 4 1 12 2
dM J J b
b J i b i
hay:
1
4
2
khi 1 3
k k
T
gf
x x k
x x u
y x
(12)
trong đó:
1 2 2 2 3 2 4 2
2 3 4
1 4 1 12 1
1 4 1 3 1 12 2
1 3 1 3
1 4 1 3 3
, , ,
col( , , ),
1 1
,
d
g f
x x x x
x x x x u M
b i a
b J i a
J J
J b a
Do chỉ quan tâm tới tốc độ 2 2x nên ta có
thể bỏ bớt đi biến trạng thái 1 2x trong mô
hình (12). Khi đó mô hình hệ truyền động qua
một cặp bánh răng sẽ là:
dx
Ax bu
dt
và Ty c x (13)
Lê Thị Thu Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 128(14): 139 - 147
145
với
1 2 3
0 1 0 0 1
0 0 1 , 0 , 0
0
g
A b c
a a a
Từ đây, và với chu kỳ trích mẫu T chọn
trước, có:
1
T
kk k
k k
x Ax bu
y c x
(14)
trong đó
0
,
T
AT AtA e b e bdt
và ta sẽ sử dụng mô hình (14) này làm mô
hình dự báo các trạng thái , 0 k ix i N
trong cửa sổ dự báo hiện tại.
Xây dựng khối tối ưu hóa
Với mô hình dự báo (14) cho hệ truyền động
một cặp bánh răng, công thức dự báo đầu ra
tổng quát (5)bây giờ trở thành:
11
2
2 12
1 1 , , ,
T T T
T T T
T T T T
k i k ik i k i
k i k ik i
i i i
k i
y c x c Ax c bu
c A x c Abu c bu
c A x c A b c A b c b
trong đó:
1 1col , , , k k k ii u u u
Bởi vậy, nếu ký hiệu vector sai lệch đầu ra
tương lai trong toàn bộ cửa sổ dự báo
, k k N là:
1 1 1 1col , , k k k N k Ne w y w y
ta sẽ được:
ke
trong đó:
1
1
1
1
1
0 0
0
col , , ,
T
T
T
T T
T T T
k
k
Nk N
N N
k k k Nk
w c A
x
w c A
c b
c Ab c b
c A b c A b c b
u u u
(15)
Suy ra, hàm mục tiêu (8) tổng quát trở thành:
( )
2
T T
k k k k k k k
T T T T
k k k k k k k
J
với
1
2
1
1
0 0
0 0
0 0
0 0
0 0
0 0
k
k
k
k N
k
k
k
k N
Q
Q
Q
R
R
R
(16)
Nếu như các ma trận , k i k iQ R đối xứng xác
định dương được chọn sao cho nghiệm tối ưu
*
k của (9) luôn thỏa mãn điều kiện bị chặn
(3) mà cụ thể ở đây là:
max , , 1,2,3 k i j ju M x j (17)
thì bài toán tối ưu bị ràng buộc (7) sẽ trở
thành bài toán không có ràng buộc (9). Trong
trường hợp như vậy ta có ngay:
*
1
)arg min (
arg min 2
k k
T T T
k k k k k k
T T
k k k
J
(18)
và cuối cùng là:
* *1,0, ,0k ku (19)
Hai công thức (18), (19) trên một lần nữa
khẳng định rằng với , k i k iQ R được chọn
sao cho k và k có k càng nhỏ hoặc
T
k k càng lớn thì
*
ku sẽ càng
nhỏ.
Thuật toán điều khiển dự báo hệ truyền động
bánh răng có điều kiện ràng buộc
Từ các công thức (15), (16), (18) và (19) ta có
được thuật toán điều khiển dự báo cho hệ truyền
động bánh răng (12) gồm các bước sau:
1) Chọn 0N và các ma trận , k i k iQ R
tương ứng với điều kiện ràng buộc (17). Xác
định ma trận theo (15) Gán : 0k .
2) Đo trạng thái kx và xác định theo (15).
Lê Thị Thu Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 128(14): 139 - 147
146
3) Xây dựng các ma trận ,k k theo (16).
4) Tính *k theo (18) và từ đó là
*
ku theo (19).
5) Xuất *ku để điều khiển đối tượng trong
khoảng thời gian ( 1) kT t k T rồi gán
: 1 k k và quay về 2.
KẾT QUẢ MÔ PHỎNG
Để minh họa phương pháp, ta xét hệ truyền
động bánh răng có mô hình tuyến tính xấp xỉ
dạng (13) trong đó:
0 1 0 0 1
0 0 1 , 0 , 0
6 11 6 1 0
A b c
Ta sẽ áp dụng thuật toán điều khiển dự báo để
hệ thống này bám được tín hiệu đặt
1, kw k và thỏa mãn điều kiện ràng buộc
của tín hiệu điều khiển 30ku . Chọn chu
kỳ trích mẫu 0.2T , cửa sổ dự báo 5N và
các ma trận 10k I , 120.01
k
k I
với I là ma trận đơn vị có kích thước phù
hợp. Việc chọn k giảm dần theo thời gian
như trên xuất phát từ lập luận như sau. Từ cấu
trúc hàm mục tiêu (8) ta thấy khi k càng
nhỏ thì tín hiệu điều khiển ku sẽ càng lớn. Do
đó, ở thời điểm ban đầu, sai lệch bám giữa tín
hiệu ra và tín hiệu đặt là lớn nhất nên k cần
đủ lớn để ku không vi phạm điều kiện ràng
buộc. Sau đó, khi sai lệch bám giảm dần thì
do ku cũng có xu hướng giảm nên để nâng
cao khả năng bám tín hiệu đặt, ta lại có thể
giảm dần k nhằm tăng ku mà vẫn đảm bảo
thỏa mãn điều kiện ràng buộc. Lập luận này
sẽ được kiểm chứng ở phần mô phỏng qua so
sánh với trường hợp ma trận này không thay
đổi, tức là khi 0.003.k
0 1 2 3 4 5 6 7 8
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
1.4
Time, sec
O
ut
pu
t
R=0.01(0.5)k
R=0.0003
Hình 3: Tín hiệu ra y
0 1 2 3 4 5 6 7 8
-40
-20
0
20
40
60
80
100
Time, sec
C
on
tr
ol
R=0.01(0.5)k
R=0.0003
constraint
Hình 4: Tín hiệu điều khiển u
Hình 3 và hình 4 minh họa cho tín hiệu ra và
tín hiệu điều khiển của hệ thống. Trong
trường hợp k giảm dần (đường nét liền), ta
thấy tín hiệu ra bám được theo tín hiệu đặt mà
vẫn đảm bảo thỏa mãn điều kiện ràng buộc
của tín hiệu điều khiển 30ku . Trong khi đó
nếu giữ nguyên k (đường nét đứt) thì
phải được chọn đủ nhỏ nhằm tạo ra tín
hiệu điều khiển đủ lớn mới có thể đưa hệ
thống bám được tín hiệu đặt. Điều này dẫn
đến việc ở những thời điểm đầu tiên, điều
kiện ràng buộc của ku bị vi phạm.
Ngoài ra, ưu điểm của việc sử dụng hàm mục
tiêu có tham số biến đổi so với hàm mục tiêu
có tham số cố định còn được thể hiện qua kết
quả mô phỏng ở các hình 5 và hình 6. Để
không vi phạm điều kiện ràng buộc của ku thì
việc giữ nguyên 0.01k lại không thể
đem lại chất lượng bám tốt, kể cả khi tăng cửa
sổ dự báo. Cụ thể hơn, sai lệch bám của hệ
thống ứng với 50N (đường chấm gạch)
nhỏ hơn so với sai lệch bám ứng với 5N
(đường nét gạch). Tuy nhiên, N càng lớn thì
khối lượng tính toán cũng càng lớn. Trong khi
đó ta có thể đạt được sai lệch bám bằng
không với 120.01
k
k I và 5N (đường
nét liền).
0 1 2 3 4 5 6 7 8
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
1.4
Time, sec
O
ut
pu
t
R=0.01(0.5)k, N=5
R=0.01, N=5
R=0.01, N=50
Hình 5: Tín hiệu ra y
Lê Thị Thu Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 128(14): 139 - 147
147
0 1 2 3 4 5 6 7 8
-10
0
10
20
30
C
o
n
tr
o
l
R=0.01(0.5)k, N=5
0 1 2 3 4 5 6 7 8
-10
0
10
20
30
C
o
n
tr
o
l
R=0.01, N=5
0 1 2 3 4 5 6 7 8
-10
0
10
20
30
C
o
n
tr
o
l
Time, sec
R=0.01, N=50
Hình 6: Tín hiệu điều khiển .u
KẾT LUẬN
Bài báo đã xây dựng được một phương pháp
thiết kế bộ điều khiển dự báo có ràng buộc
cho hệ thống phi tuyến với mô hình xấp xỉ
được về dạng tuyến tính liên tục (13). Thông
qua việc sử dụng hàm mục tiêu có tham số
biến đổi, bộ điều khiển dự báo phản hồi trạng
thái trong bài báo có thể làm tín hiệu ra của
hệ thống bám được theo tín hiệu đặt đồng thời
thỏa mãn các điều kiện ràng buộc của vector
trạng thái và tín hiệu điều khiển. Kết quả mô
phỏng trên Matlab cho thấy rõ ảnh hưởng của
việc thay đổi các tham số của hàm mục tiêu
này tới chất lượng bám của hệ truyền động
bánh răng có ràng buộc. Việc phân tích tính
ổn định bám của hệ thống điều khiển dự báo
này sẽ là vấn đề nghiên cứu tiếp theo của
chúng tôi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Camacho, E. and Bordons, C. (1999): Model
predictive control. Springer.
2. Couwder,R.(2006): Electric Drivers and
Electro-mechanical Systems. Elservier GB.
3. Deur,J. and Peric,N. (1999): Analysis of Speed
Control for Electrical Drivers with Elastic
Transmission. IEEE Internaltional Symposium on
Industrial Electronics. Bled, Slovenia, pp. 624-630.
4. Grüne, L. and Pannek, J. (2010): Nonlinear
model predictive control. Theory and Algorithms.
Springer.
5. Hà,L.T.T (2014): Mô hình hóa hệ truyền động
bánh răng. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học
Thái Nguyên, tập 118, số 4, 2014, trang 67-78.
6. Hà,L.T.T và Phước,N.D (2012): Thiết kế bộ
điều khiển bám thích nghi bền vững cho hệ phi
tuyến bất định và ứng dụng vào điều khiển hệ
truyền động qua bánh răng. Tạp chí Khoa học &
Công nghệ Đà nẵng, Số 10(59), 2012, trang 1-6.
7. Hà,L.T.T và Phước,N.D (2013): Điều khiển
PID thích nghi hệ truyền động cơ khí qua bánh
răng. Tạp chí Nghiên cứu Khoa học & Công nghệ
Quân sự, Số 25(06-2013), trang 25-32.
8. Hà.L.T.T và Phước,N.D. (2012): Điều khiển
bám thích nghi hệ phi tuyến bất định có để ý tới
tạp nhiễu và ứng dụng vào điều khiển hệ truyền
động qua bánh răng. Tuyển tập báo cáo Hội nghị
Cơ học toàn quốc lần thứ 9 tại Hà Nội, 2012, trang
158-170.
9. Hà,L.T.T (2013): Một số giải pháp nâng cao
chất lượng hệ truyền động có khe hở trên cơ sở
điều khiển thích nghi, bền vững. Luận án tiến sỹ
kỹ thuật. ĐHKTCN Thái Nguyên.
10. Lãi.L.K. và Hà,L.T.T (2009): Hai giải pháp
nâng cao chất lượng hệ truyền động có khe hở.
Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Thái
nguyên, Số 4-2009, trang 34-37.
11. Nocedal,J. and Wright,S.J. (1996): Numerical
Optimization. Springer-New York.
12. Manish Vaishya and Rajendra Singh (2003):
Strategies for modelling friction in gear dynamics.
Journal of mechanical design, vol.125, pp.383-393.
13. Phuoc,N.D. and Ha,L.T.T. (2012): Robust and
Adaptive Tracking Controller Design for Gearing
Transmission Systems by Using its Third Order
Model. Journal of Science and Technology, Vol.
91. Technical Universities, 2012, pp. 12-17.
14. Phuoc,N.D. and Ha,L.T.T. (2013): Model
Reference Adaptive Controller Design for Gearing
Transmission System. Journal of Science and
Technology. Technical Universities, Vol. 95, pp. 1-5.
15. Tú Anh,Đ.T. và Phước,N.D. (2013): Giới thiệu
về điều khiển dự báo. Phần I: Hệ tuyến tính.
Tuyển tập báo cáo hội nghị khoa học Khoa Điện
tử, Trừơng Đại học kỹ thuật công nghiệp Thái
Nguyên, tr.129-138.
16. Tú Anh,Đ.T và Phước,N.D. (2014): Ổn định
hóa hệ song tuyến liên tục với bộ điều khiển dự
báo. Tạp chí Nghiên cứu và công nghệ khoa học,
Đại học Thái Nguyên, tập 20, số 6, trang 73-79.
17. Walha, L.; Fakhfakh, T. and Haddar, M.
(2009): Nonlinear dynamic of two stage gear
system with mesh stiffness fluctuation, bearing
flexibility and backlash. Mechanism and Machine
44, pp.1058-1069, 2009.
Lê Thị Thu Hà và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 128(14): 139 - 147
148
SUMMARY
TRACKING CONTROL OF GEARING TRANSMISSION SYSTEMS
VIA CONSTRAINED MODEL PREDICTIVE CONTROLLER
Le Thi Thu Ha1*, Do Thi Tu Anh2
1College of Technology - TNU,
2Hanoi University of Science and Technology
This paper introduces a method to design feedback predictive controller for stable tracking control
of gear transmission system with boundary conditions. The predictive controller of this paper uses
linear approximate model of gear transmission system and uses the objective function in quadratic
form with parameters shift, hence, control problem with constrains is always being non-constrain
problems. Since the optimized principle with tracking error used is smallest, thus, despite of using
linear approximate model, the performance of controller still recorded high tracking quality.
Keywords: Model Predictive Control; Gear transmission system; Optimization with constrain
Ngày nhận bài:01/10/2014; Ngày phản biện:03/11/2014; Ngày duyệt đăng: 25/11/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS Lại Khắc Lãi – Đại học Thái Nguyên
* Email: hahien1977@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dieu_khien_bam_he_truyen_dong_banh_rang_voi_bo_dieu_khien_du.pdf