Chương III
Một số kiến nghị về phương hướng và giải pháp tiếp tục hoàn chỉnh điều chỉnh cơ cấu sản xuất để nông nghiệp Việt Nam vững vàng hội nhập AFTA
I. Quan điểm và mục tiêu điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp
Nghị quyết 09/2000/NQ-CP ngày 15/06/2000 của Chính phủ về một số chủ trương và chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp đã khẳng định: “Việc lựa chọn cơ cấu, quy mô và chủng loại sản phẩm các ngành hàng sản xuất nông nghiệp phải khai thác được lợi thế
34 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1345 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập khu vực mậu dịch tự do Asean - AFTA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của cả nước và từng vùng, bám sát nhu cầu trong nước và thế giới, phải có khả năng tiêu thụ được hàng hoá, có hiệu quả cao về kinh tế, xã hội, sinh thái”. Bởi vậy, chúng ta có thể hình dung mục tiêu tổng quát chuyển đổi chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong những năm tới là: Xây dựng một nền nông nghiệp hàng hoá mạnh, đa dạng, có chất lượng cao, hiệu quả cao và bền vững dựa trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh; áp dụng khoa học và công nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng trong nước và khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường quốc tế; năng cao hiệu quả sử dụng đất đai, lao động và nguồn vốn, nâng cao thu nhập và đời sống của người nông dân. Thông qua việc chuyển đổi này đến năm 2005, chúng ta phấn đấu đạt được:
- Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông nghiệp 4 - 4,5%/năm.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế nông thôn 7,5 - 8%/năm.
- Đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, đáp ứng đủ nhu cầu đa dạng của nhân dân về các loại lương thực thực phẩm, bao gồm cho cả đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
- Giá trị sản lượng trên 1 ha đất nông nghiệp đạt trên 30 triệu đồng/ha.
- Tận dụng khả năng sẵn có, kết hợp áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để phát triển các loại cây trồng, vật nuôi, ngành nghề thay thế nhập khẩu, nâng cao hợp lý mức độ tự túc, khai thác thị trường trong nước đối với các sản phẩm: bông, thuốc lá, dầu ăn, nguyên liệu giấy, sữa…
- Kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - thuỷ hải sản đạt 7 tỷ USD (tăng 12%/năm).
- GDP bình quân đầu người ở nông thôn tăng 1,4 lần so với năm 2000.
Xét một cách cụ thể, mục tiêu quá trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp nước ta cho phù hợp với quá trình hội nhập vào AFTA bao gồm:
1. Mục tiêu hiệu quả kinh tế
Mục tiêu này có thể hiểu là việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp phải đi vào thực hiện phân bổ và sử dụng một cách tối ưu các nguồn lực (đất đai, lao động, vốn, công nghệ...) của đất nước vào sản xuất nông- lâm - ngư - nghiệp.
Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp không những phải hướng vào phát triển sản xuất để làm ra nhiều nông sản đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm mà cơ cấu chủng loại hàng nông sản sản xuất ra còn phải đáp ứng đúng lúc nhu cầu thị trường, để tiêu thụ được với giá cả có lợi nhất, tăng giá trị sản phẩm sản xuất ra cũng như năng suất lao động, năng suất đất đai và thu nhập của người lao động.
Đối với đất đai, chuyển đổi cơ cấu cây trồng phải hướng tới tối đa hoá giá trị thu hoạch trên một đơn vị diện, tích đồng thời tạo thêm được việc làm để giải quyết vấn đề lao động thất nghiệp trong nông nghiệp hiện nay. Do đó, việc bố trí cây trồng trên từng đơn vị diện tích ở từng vùng cụ thể phải tính đến yếu tố năng suất: chỉ quyết định tiếp tục duy trì loại cây trồng đó nếu cho năng suất trong điều kiện bình thường cao hơn ngưỡng năng suất hiệu quả của cây trồng đó, nếu không phải tìm cách chuyển sang cây trồng, vật nuôi khác. Như vậy việc chuyển đổi và nâng cấp cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam là việc làm thường xuyên, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập vào khu vực ASEAN và quốc tế hiện nay. Để làm tốt điều này, một mặt chúng ta phải xác định được những lợi thế về đất đai, khí hậu, lao động của đất nước để lựa chọn trồng cây gì, nuôi con gì, mặt khác sản phẩm được làm ra phải đáp ứng đủ và đúng nhu cầu thay đổi liên tục của thị trường.
2. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp phải phù hợp và đáp ứng tốt hơn những thách thức của quá trình hội nhập vào nền nông nghiệp khu vực ASEAN và thế giới
Hội nhập kinh tế khu vực ASEAN và quốc tế là xu thế tất yếu của nền nông nghiệp Việt Nam hiện nay. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định rõ: “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả của hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”.
Ngày 27/11/2001 Bộ Chính Trị cũng đã ban hành Nghị quyết 07/NQ-TƯ về hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó đề ra mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế là “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, trước mắt là thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ nêu ra trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội năm 2001-2010 và Kế hoạch 5 năm 2001-2005”.
Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế vừa là quá trình hợp tác vừa là quá trình đấu tranh, vừa có cơ hội vừa có những thách thức mới. Vì vậy, điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế nói chung và hội nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN nói riêng, cần phải đảm bảo tính linh hoạt để vừa giải quyết tính được hai mặt của hội nhập, đó là tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, với nhận thức đầy đủ về đặc điểm, lợi thế của nông nghiệp Việt Nam nói chung cũng như của từng ngành hàng nông sản nói riêng tại từng thời điểm cụ thể. Từ đó có kế hoạch và lộ trình hợp lý vừa phù hợp với trình độ phát triển, điều kiện sản xuất của ngành nông nghiệp trong nước vừa đáp ứng được các quy định của AFTA về vấn đề thương mại hàng nông sản.
3. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất phải nhằm vào khai thác tối đa lợi thế so sánh của từng địa phương, từng vùng và tiểu vùng, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho nông phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế
Trong sản xuất nông nghiệp, việc khai thác và phát huy tối đa lợi thế so sánh của tiểu vùng sinh thái, thổ nhưỡng, khí hậu... có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển sản xuất nông sản hàng hoá, nhất là đối với những nông phẩm đặc sản, để tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao với chi phí thấp, giá thành hạ, hình thành những ngành, những sản phẩm hàng hoá mũi nhọn, có khả năng chiếm lĩnh thị phần lớn và tạo lập được vị thế trên thị trường. Bên cạnh các lợi thế về điều kiện tự nhiên, các lợi thế khác về kinh tế - xã hội; tập quán canh tác, tính cần cù, năng động sáng tạo của nông dân... cũng là những yếu tố cần phải tính đến khi xây dựng quy hoạch vùng sản xuất hàng hoá tập trung theo hướng nâng cao lợi thế cạnh tranh cho nông sản hàng hoá của Việt Nam.
4. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp phải nằm trong định hướng quy hoạch tổng thể chung gắn với phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến
Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp phải dựa trên cơ sở quy hoạch tổng thể chung của cả nước cũng như quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp đối với những hàng hoá nông sản nhất định, tránh tình trạng chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi tự phát, khi giá cả cao thì trồng ồ ạt và đến khi giá thành hạ thì đồng loạt chặt bỏ gây thiệt hại và lãng phí lớn về vốn đầu tư, nhân lực và các chi phí cơ hội có giá trị.
Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp còn phải gắn với quá trình từng bước hình thành và phát triển vùng sản xuất hàng hoá, vùng nguyên liệu tập trung cho công nghiệp chế biến nông sản, hình thành mối liên kết nông nghiệp - công nghiệp, dịch vụ và thị trường ngay trên địa bàn nông thôn cũng như trên phạm vi cả nước, tạo ra sự phân công lao động mới trong nông thôn, giải quyết việc làm cho người lao động, tăng giá trị gia tăng cho hàng hoá và tăng thu nhập cho người lao động nông nghiệp.
5. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp phải được thực hiện trên cơ sở dự báo đúng đắn nhu cầu thị trường
Trong điều kiện mở cửa và hội nhập, thị trường là căn cứ quan trọng để xây dựng chiến lược kinh doanh đối với từng ngành hàng nông sản. Bám sát nhu cầu thị trường là một việc khó đối với sản xuất nông nghiệp do tính mùa vụ và đặc tính sinh học của cây trồng, vật nuôi. Do đó nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu của khách hàng để dự báo chính xác nhu cầu thị trường và cơ cấu thị phần đối với từng loại hàng hoá nông sản nhất định, nhu cầu và thị hiếu của khách hàng và khách hàng cuối cùng, dung lượng trao đổi và tính ổn định của thị trường trong trung và dài hạn... sẽ quyết định việc lựa chọn cũng như định hướng quy hoạch sản xuất nông nghiệp một cách đồng bộ, bao gồm cả các yếu tố sản xuất và thị trường trong các vùng sản xuất hàng hoá nông phẩm.
6. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp phải dựa trên cơ sở ưu tiên cho ứng dụng kịp thời tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, đảm bảo phát triển bền vững
Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp một mặt cần đặc biệt chú ý đến quá trình ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất nhất là công tác sản xuất và lai tạo giống đồng thời với việc đổi mới công nghệ và thiết bị công nghiệp chế biến, bảo quản để đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao năng suất và giá trị gia tăng của nông sản. Mặt khác chúng ta cũng cần chú ý đến vấn đề môi trường để vừa tạo ra sản phẩm đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm vừa đảm bảo cho nền nông nghiệp nước ta phát triển bền vững.
7. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nền kinh tế trên cơ sở huy động tối đa các nguồn lực của mọi thành phần kinh tế phục vụ cho quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp
Các nguồn lực về tài chính, lao động và sức sáng tạo của các thành phần kinh tế ngoài thành phần kinh tế Nhà nước là rất lớn. Do đó muốn làm cho quá trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp diễn ra nhanh chóng và hiệu quả cao, chúng ta cần phải tạo ra môi trường thông thoáng và thuận lợi để khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đóng góp công sức, tài năng, quản lý cũng như vốn đầu tư của họ vào quá trình này.
II. Định hướng điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp nước ta trong thời gian tới
Dựa trên các quan điểm, mục tiêu và dự kiến về khả năng hội nhập vào nền nông nghiệp khu vực ASEAN và quốc tế của hàng nông sản Việt Nam như đã nêu ở trên, đề tài xin kiến nghị một số định hướng điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp nước ta trong thời gian tới như sau:
1. Định hướng chung về công tác điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp nước ta trong thời gian tới
Trong thời gian tới, chúng ta cần phát triển sản xuất và chế biến các loại nông sản hàng hoá xuất khẩu có lợi thế của từng vùng với quy mô thích hợp, trong đó tập trung vào nâng cao chất lượng, giá trị xuất khẩu và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và khu vực cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như lúa gạo, cà phê, điều, tiêu, chè, cao su, hàng thuỷ sản, rau quả, thịt lợn… Đối với những mặt hàng hiện nay Việt Nam còn đang nhập khẩu nhưng có điều kiện phát triển như ngô, đậu tương, thuốc lá lá, dầu ăn, bột giấy... chúng ta cần bố trí nhân lực, vật lực phát triển sản xuất các mặt hàng đó với quy mô hợp lý ở mỗi vùng với phương châm coi trọng hiệu quả kinh tế bền vững.
2. Định hướng điều chỉnh cơ cấu sản xuất đối với từng nhóm sản phẩm nông sản cụ thể trong thời gian tới
Trước những đòi hỏi mới của quá trình hội nhập vào ASEAN/AFTA, trong một vài năm tới, chúng ta phải có những điều chỉnh hợp lý trong cơ cấu sản xuất của ngành nông nghiệp (theo nghĩa rộng) bằng cách tăng tỷ trọng của ngành ngư, lâm nghiệp và giảm dần tỷ trọng của ngành nông nghiệp thuần tuý. Trong ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp, chúng ta cần giảm tỷ trọng của nhóm cây lương thực xuống, tăng tỷ trọng của nhóm cây công nghiệp và ăn quả lên. Việc điều chỉnh cụ thể với từng nhóm sẽ được thực hiện như sau:
- Đối với sản xuất lương thực: Nâng cao hiệu quả của sản xuất lúa gạo trên cơ sở xây dựng các vùng sản xuất tập trung để có điều kiện đầu tư thâm canh, ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới nhất như tiến bộ về giống mới vào sản xuất (ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long), hình thành các vùng sản xuất lúa chất lượng cao, giá thành thấp gắn với chế biến và tiêu thụ. Chuyển một số diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang sản xuất các loại sản phẩm cây, con khác có giá trị kinh tế cao hơn như: đất khô hạn chuyển sang trồng cây màu, cây ăn quả, cây công nghiệp hoặc cây rừng, đất trũng ở đồng bằng không thuận tiện tưới tiêu, trồng lúa cho năng suất bấp bênh, cải tạo để chuyển sang nuôi thả thuỷ sản kết hợp trồng cây ăn quả; đất ven biển, vùng cát ven biển cải tạo để chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản; đất ven đô thị chuyển sang trồng các loại rau, hoa, cây cảnh, cây ăn quả phục vụ nhu cầu tiêu dùng của chính người dân đô thị... Chúng ta không nên sản xuất lúa bằng mọi giá ở những vùng miền núi có điều kiện sản xuất khó khăn, không thuận tiện cho trồng lúa, đồng thời cũng cần sớm giải quyết dứt điểm, có hiệu quả tình trạng đốt rừng làm nương rẫy và du canh du cư của đồng bào dân tộc thiểu số, để bảo vệ các cánh rừng phòng hộ, từ đó gián tiếp bảo vệ các vùng đất canh tác nông nghiệp ở vùng trung du và đồng bằng chống lại các thiên tai nguy hại cho sản xuất nông nghiệp như nạn sụt lở đất, lũ lụt, xói mòn đất canh tác, giảm lượng nước ngầm trong đất…, góp phần vào việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia cũng như vào sự phát triển một nền nông nghiệp bền vững cho đất nước.
- Đối với sản xuất cây công nghiệp: Trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng vùng sinh thái, hình thành vùng sản xuất tập trung các loại cây công nghiệp làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản. Chú trọng đặc biệt đến công tác giống cây trồng, ứng dụng công nghệ sinh học, biện pháp canh tác tiên tiến vào sản xuất, từng bước thực hiện cơ giới hoá sản xuất, trước hết là các khâu nặng nhọc, độc hại... Cụ thể là: đối với cây cà phê, không phát triển thêm diện tích cà phê vối, giữ lại diện tích cà phê có điều kiện thâm canh, nhất là về nước tưới, tập trung phát triển diện tích cà phê chè ở những nơi có điều kiện thuận lợi. Đối với cây điều, có thể mở rộng thêm diện tích trồng mới nhưng đặc biệt chú ý đến việc nâng cao chất lượng giống điều do diện tích điều trồng trước đây, chủ yếu là sử dụng giống cũ năng suất thấp. Đối với cây chè thực hiện thâm canh vườn chè nhất là các loại chè cao cấp trồng vùng cao. Đối với cao su, tập trung thâm canh diện tích cao su hiện có, phát triển cao su ở những nơi có điều kiện thích hợp, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao...
- Đối với sản xuất rau màu và hoa quả: Đưa ngành rau quả trở thành một trong những ngành xuất khẩu chủ lực, trong đó: Phát triển mạnh cây ăn quả bằng giống có chất lượng cao, sạch bệnh, chú trọng phát triển các loại cây ăn quả nhiệt đới (nhãn, vải, xoài, dừa, chuối…). Hướng dẫn nông dân áp dụng các biện pháp nâng cao chất lượng rau, giảm dư lượng thuốc trừ sâu, tăng dần diện tích trồng rau theo quy trình rau sạch. Đầu tư công nghệ bảo quả rau tươi, đóng gói bao bì phù hợp để xuất khẩu và phục vụ nhu cầu nội tiêu. Hỗ trợ nâng cấp cải tạo các nhà máy cũ hiện có và lắp mới các dây chuyền chế biến đồng bộ, hiện đại, phục vụ cho công tác xuất khẩu mặt hàng này.
- Đối với phát triển chăn nuôi: Thực hiện khuyến khích phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp nhất là dưới hình thức trang trại với quy mô thích hợp ở từng vùng, trên cơ sở đó quy hoạch hình thành các vùng chăn nuôi hàng hoá tập trung an toàn dịch bệnh gắn với đầu tư, nâng cấp các cơ sở giết mổ chế biến sản phẩm chăn nuôi đạt tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn phục vụ cho xuất khẩu. Khuyến khích áp dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất giống vật nuôi, thức ăn công nghiệp, đáp ứng đủ cho nhu cầu chăn nuôi, kết hợp với tăng cường công tác thú y và kiểm tra chất lượng sản phẩm đầu ra. Cụ thể là:
+ Chăn nuôi lợn: Đẩy mạnh chăn nuôi lợn phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu trên cơ sở phát triển hình thức chăn nuôi hộ trang trại với quy mô lớn, sử dụng các giống lợn có chất lượng cao và quy trình chăn nuôi phù hợp với yêu cầu của thị trường, gắn với việc xây dựng mới các cơ sở chế biến đạt trình độ quốc tế, đáp ứng đủ nhu cầu trong nước, xuất khẩu trên 80 nghìn tấn thịt, trước hết là lợn sữa, lợn choai. Cải tạo nâng cấp các cơ sở chế biến cũ, đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến thịt với tổng công suất 85 ngàn tấn/năm.
+ Chăn nuôi bò: Tiếp tục đẩy mạnh Sind hoá đàn bò để nâng cao chất lượng thịt, tạo đàn bò nền để phát triển đàn bò lai hướng sữa, phấn đấu năm 2005 có đàn bò thịt 4,4 triệu con, đàn bò sữa trên 100 nghìn con, sản lượng sữa 150 nghìn tấn, đáp ứng 25% nhu cầu trong nước. Từ 2001-2005 tiếp tục đầu tư phát triển thêm năng lực chế biến sữa các vùng có chăn nuôi bò sữa và thị trường tiêu thụ lớn.
+ Chăn nuôi gia cầm: Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi gà lấy thịt và trứng. Đặc biệt chú trọng phát triển chăn nuôi gà thả vườn chất lượng cao ở các vùng trung du. Phát triển chăn nuôi vịt ở đồng bằng sông Cửu Long và các vùng ven biển bằng các giốn mới có năng suất cao.
+ Phát triển chăn nuôi dê, ong động vật quý để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
- Đối với lâm nghiệp: Thực hiện tiếp tục việc bảo vệ có hiệu quả và phát triển diện tích rừng hiện có, nâng cao trữ lượng và chất lượng rừng nhất là đối với rừng phòng hộ xung yếu, rất xung yếu, rừng đặc dụng. Quy hoạch và thực hiện tốt quy hoạch để phát triển vùng rừng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến nhất là chế biến bột giấy, ván nhân tạo, ván dăm, ván ép và làm hàng thủ công mỹ nghệ. Phát triển chế biến các loai sản phẩm đồ gỗ đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, đưa kim ngạch xuất khẩu lâm sản lên 600 triệu USD vào năm 2005. Chuẩn bị và triển khai thực hiện thực hiện chương trình sản xuất giấy và bột giấy với sự tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Đẩy mạnh trồng rừng, thực hiện đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới vào trồng và phát triển rừng, tập trung phát triển công nghệ giống nhằm đảm bảo cung cấp đủ giống chất lượng cao cho công tác trồng rừng. Khuyến khích và thực hiện xã hội hoá trồng rừng, giao rừng cho người dân và cộng đồng chăm sóc, bảo vệ, hạn chế và dần dần đi đến chấm dứt phá rừng làm nương rẫy. Thực hiện đổi mới quản lý đối với lâm trường quốc doanh, rà soát và giao lại những diện tích rừng, đất rừng mà lâm trường đã bao chiếm, sử dụng kém hiệu quả để chuyển lại cho chính quyền địa phương giao cho dân và cộng đồng để thực hiện đầu tư trồng rừng mới. Tiếp tục việc giao đất khoán rừng, khoán quản lý bảo vệ 11 triệu ha rừng, làm giàu 555 nghìn ha rừng, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh kết hợp trồng bổ sung 800 nghìn ha, trồng rừng nguyên liệu chủ lực 1,6 triệu ha.
- Đối với thuỷ sản: Thực hiện đồng bộ chương trình nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản kết hợp với đầu tư phát triển quy trình chế biến hiện đại, đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm với mục tiêu đạt tổng sản lượng 2,55 triệu tấn vào năm 2005 (trong đó sản lượng nuôi trồng chiếm 50%), kim ngạch xuất khẩu 3 tỷ USD.
Trong nuôi trồng thuỷ sản, chú trọng nuôi trồng theo phương thức công nghiệp và bán công nghiệp, nuôi sinh thái phù hợp với điều kiện tự nhiên ở vùng nước biển, nước lợ và nước ngọt. Quy hoạch và hướng dẫn ngư dân thực hiện khai thác và sử dụng có hiệu quả diện tích mặt nước có khả năng nuôi thả thuỷ sản, bao gồm cả số diện tích đất nông nghiệp được chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản. Tổ chức tốt công tác nghiên cứu, lai tạo và tuyển chọn để sản xuất ra con giống có chất lượng tốt, không bị bệnh; hướng dẫn người nuôi trồng thuỷ sản kỹ thuật tiên tiến nhằm bảo vệ môi trường và nâng cao hiệu quả kinh tế.
3. Định hướng điều chỉnh cơ cấu sản xuất theo vùng
Các vùng thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp trên cơ sở tiềm năng và lợi thế của mỗi vùng, xuất phát từ như cầu hiện tại và tương lai của thị trường tiêu thụ trong nước và quốc tế. Hướng chuyển đổi chính của mỗi vùng như sau:
Trung du và miền núi phía Bắc
Tiếp tục thâm canh tăng sản lượng lúa, mở rộng diện tích ngô, đỗ tương và thuốc lá. Mở rộng diện tích chè, cà phê chè, cây ăn quả nhiệt đới và á nhiệt đới. Phát triển chăn nuôi hàng hoá: Bò thịt, bò sữa (đặc biệt là vùng Mộc Châu – Sơn La); trồng mới và khoanh nuôi 1,8 triệu ha rừng.
Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH)
Thâm canh lúa nước trên diện tích khoảng 1 triệu ha, tăng diện tích trồng ngô, trồng rau chất lượng cao, đỗ tương, phát triển cây ăn quả (nhãn, vải, chuối… ). Phát triển chăn nuôi lợn theo hình thức trang trại. Khai thác hợp lý dải ven biển trong vùng, phát triển nghề nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản.
Khu 4 cũ
Tiếp tục chuyển đổi cơ cấu mùa vụ gieo trồng lúa để né tránh thiên tai, tăng diện tích trồng ngô, đỗ tương, cà phê, chè, cao su, lạc, cây ăn quả, phát triển chăn nuôi trâu bò ở những nơi có điều kiện. Trồng mới 330 nghìn ha rừng phòng hộ, 500 nghìn ha nguyên liệu giấy, tre, trúc, thông nhựa. Phát triển nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản.
Duyên hải miền trung
Đẩy mạnh thâm canh cây lương thực để đáp ứng nhu cầu tại chỗ, mở rộng trồng ngô, cây ăn quả, mía đường, bông, điều, cao su tiểu điền. Phát riển chăn nuôi bò thịt, bò sữa; sản xuất muối công nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản.
Tây Nguyên
Không trồng thêm cà phê vối, chuyển một phần diện tích cà phê trồng trên đất xấu không có nước tưới, hiệu quả thấp sang trồng cây khác có có hiệu quả cao hơn như: ngô, cao su, dứa, ca cao. Mở rộng diện tích cao su, điều. Đẩy mạnh thâm canh lúa, mở rộng diện tích trồng ngô, bông; phát triển rau, hoa quả xuất khẩu (ở Lâm Đồng), dứa (ở Đắc Lắc, Gia Lai); chăn nuôi bò thịt và bò sữa. Phát triển công nghiệp chế biến cà phê, cao su, mía đường. Bảo vệ diện tích rừng hiện có, trồng mới 200 nghìn ha rừng kinh tế.
Đông Nam Bộ
Tiếp tục thâm canh 270 nghìn ha cao su hiện có, mở rộng diện tích điều; cây ăn quả, mía, ngô, lạc, đậu tương, rau, phát triển chăn nuôi lợn, gia cầm, bò sữa, bò thịt theo hình thức kinh tế trang trại. Vùng ven biển phát triển nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản.
Đồng bằng sông Cửu Long
Hình thành vùng sản xuất lúa chất lượng cao 1 triệu ha. Phát triển trồng bông, ngô, đậu tương, cây ăn quả; xây dựng vùng mía nguyên liệu 90 nghìn ha. Đẩy mạnh trồng rừng kinh tế trên các vùng đất phèn. Phát triển nuôi trồng thuỷ sản với mục tiêu đến năm 2005 diện tích nuôi trồng thuỷ sản toàn vùng đạt trên 700 nghìn ha. Phát triển các ngành dịch vụ chế biến nông lâm thuỷ hải sản.
III. Kiến nghị một số giải pháp chính sách nhằm tiếp tục hoàn chỉnh điều chỉnh cơ cấu sản xuất để ngành nông nghiệp việt nam vững vàng hội nhập afta
Để thực hiện định hướng điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp nước ta trong thời gian tới cho phù hợp với bối cảnh hội nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA, đề tài xin kiến nghị một số giải pháp sau:
1. Thực hiện phù hợp một số chính sách nhằm đẩy nhanh quá trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng hội nhập
Chính sách đất đai
Do đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, có vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp nhất là trong chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nên yêu cầu đặt ra là làm thế nào để sử dụng nguồn lực đất đai một cách đạt hiệu quả nhất, khai thác tối đa lợi thế so sánh của từng vùng, tiểu vùng hay nói cách khác cần thực hiện bố trí cơ cấu cây trồng sao cho tối đa hoá giá trị thu hoạch trên một đơn vị diện tích đất ở từng vùng. Với tinh thần đó, đề tài xin kiến nghị một số giải pháp khắc phục, bao gồm:
- Tiến hành rà soát lại diện tích đất nông nghiệp hiện có, xác định những diện tích đang sử dụng không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp để có phương án chuyển đổi sang cây trồng, con nuôi khác, cụ thể:
+ Trên cơ sở cân đối cho mục tiêu an toàn lương thực, đảm bảo xuất khẩu khoảng 4 triệu tấn gạo/năm, chuyển một số diện tích đất trồng lúa ở những nơi không thích hợp sang các cây trồng khác, hoặc chuyển sang nuôi thả thuỷ sản. Trước mắt, rà soát lại diện tích những vùng đất trồng lúa cho năng suất bấp bênh, thuỷ lợi không thuận tiện ở các vùng trên cả nước để thực hiện công khai phương án cắt giảm diện tích trồng lúa giúp người dân được biết và có kế hoạch chuyển sang nuôi trồng các loại cây, con khác:
+ Đối với diện tích trồng cây công nghiệp dài ngày, trên cơ sở quy hoạch vùng cây công nghiệp dài ngày tập trung, Nhà nước thực hiện đầu tư vào cơ sở hạ tầng cho các vùng đã quy hoạch, đồng thời hạn chế nông dân trồng phát triển sản xuất ngoài vùng quy hoạch.
- Tiến hành rà soát lại quỹ đất của các lâm trường quốc doanh. Những diện tích đất bao chiếm của các doanh nghiệp nông lâm nghiệp Nhà nước đang sử dụng kém hiệu quả sẽ được chuyển lại cho địa phương quản lý để giao cho người dân sử dụng, cụ thể:
+ Đối với đất của các lâm trường quốc doanh: thực hiện chuyển đổi theo Quyết định 187/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ, thực hiện giao khoán tới tận hộ gia đình công nhân viên nông trường. Những diện tích đất còn lại sẽ giao cho địa phương quản lý để chuyển cho các hộ gia đình canh tác.
+ Đối với Ban quản lý rừng phòng hộ: một mặt, thực hiện giao khoán khoanh nuôi bảo vệ rừng, cho phép kinh doanh tận thu lâm sản dưới tán rừng để người dân có thêm thu nhập, yên tâm bảo vệ rừng, mặt khác phải nghiên cứu tìm ra các nguồn thu để tăng chế độ thù lao cho người bảo vệ rừng.
- Đất nông nghiệp đang sử dụng hiện nay quá manh mún (với hơn 80 triệu mảnh cho hơn 12 triệu hộ gia đình nông dân), đã ảnh hưởng tiêu cực đến bố trí quy hoạch sản xuất nông nghiệp hàng hoá và gây ra lãng phí trong tổ chức sản xuất của hộ gia đình. Mặc dù thực tế ở một số địa phương nông dân đã tự phát thực hiện chuyển đổi ruộng đất “ngầm” cho nhau nhưng chưa mang lại hiệu quả toàn diện. Vì vậy, cần tiến hành công tác“đổi điền, dồn thửa” một cách toàn diện, công khai phương án để người dân bàn bạc, thấy rõ lợi ích của việc dồn đổi ruộng đất, từ đó đi đến thống nhất trong phương án và hành động.
- Hoàn thành việc giao đất và cấp giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng, quy hoạch hướng dẫn cụ thể để người sử dụng đất thực hiện được 7 quyền đối với đất đai theo Luật định. Khuyến khích tích tụ, tập trung ruộng đất để phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn.
Chính sách thuế
Đối với bà con nông dân, Nhà nước cần nghiên cứu thực hiện việc miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiêp để người nông dân có thêm nguồn lực để đầu tư phát triển sản xuất và thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất. Đối với doanh nghiệp, cần rà soát lại và điều chỉnh bổ sung chính sách thuế theo hướng khuyến khích doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, chế biến nông lâm thuỷ sản, cụ thể:
Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho nông dân trong thời gian kiến thiết cơ bản. Miễn thuế sử dụng đất ít nhất trong 5 năm đối với những diện tích đất chuyển sang trồng các cây mới, nuôi con mới.
Miễn thuế thu nhập đối với kinh tế trang trại sử dụng lãi thu được để tái đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất hàng hoá.
Không tính thuế buôn chuyến đối với hàng hoá nông sản tiêu thụ ngoài tỉnh, miễn phí kiểm dịch cho hàng nông sản xuất khẩu.
Có chính sách ưu đãi về thuế sử dụng đất đối với các cơ sở kinh doanh phi nông nghiệp ở nông thôn và các doanh nghiệp đầu tư nhà máy tại các vùng nông thôn (miễn thuế sử dụng đất trong 5 năm), để thúc đẩy công nghiệp chế biến hàng nông sản, khuyến khích công tác nghiên cứu khoa học phục vụ quá trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nói chung.
Chính sách đầu tư, tín dụng
Đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn nhằm mục tiêu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng và cơ cấu kinh tế nông thôn nói chung trong thời gian tới, cần được hoàn thiện bằng các biện pháp cụ thể như sau:
- Thực hiện đầu tư xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các vùng sản xuất hàng hoá nông sản tập trung trên nguyên tắc xây dựng và quản lý sử dụng công trình phải có sự tham gia của người dân mới có thể tăng hiệu quả sử dụng công trình.
- Đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến nông sản, các chợ đầu mối giới thiệu và tiêu thụ hàng nông sản tại các vùng sản xuất hàng hoá tập trung và khu kinh tế cửa khẩu.
- Tập trung đầu tư cho công tác đào tạo, nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp và cán bộ quản lý có trình độ, góp phần đưa nền nông nghiệp nước nhà tiến kịp với đà phát triển và xu thế hội nhập chung của khu vực ASEAN và thế giới.
- Khuyến khích các hình thức tín dụng đa dạng, đơn giản hoá các thủ tục cho người nông dân vay của các tổ chức tín dụng thương mại quốc doanh. Dành cho các doanh nghiệp chế biến, xuất nhập khẩu nông sản hàng hoá các khoản vay ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ phát triển để mở rộng sản xuất kinh doanh hoặc chuyển mặt hàng kinh doanh cho phù hợp với nhu cầu thị trường.
- Cho phép các hộ nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi được lập dự án vay vốn ưu đãi từ Quỹ hỗ trợ phát triển hoặc từ các nguồn vốn ưu đãi của các chương trình mục tiêu của Chính phủ.
- Sửa đổi các chính sách về đất đai tạo thuận lợi hơn cho hoạt động đầu tư nước ngoài về đất đai; bổ sung các ưu đãi cao hơn cho các dự án chế chế biến nông, lâm thuỷ sản; đầu tư vào nông thôn và các địa bàn khó khăn, các dự án phát triển hạ tầng kỹ thuật và xã hội; có chính sách hỗ trợ cần thiết để hình thành các vùng nguyên liệu tập trung, đáp ứng nhu cầu của công nghiệp chế biến xuất khẩu; giải quyết kịp thời các vấn đề vướng mắc phát sinh giúp các doanh nghiệp triển khai dự án thuận lợi; khuyến khích đầu tư chuyên sâu, mở rộng sản xuất; có biện pháp hỗ trợ dự án mới bắt đầu triển khai hoặc đang xây dựng cơ bản để có thể thu hút nhiều hơn nữa nguồn vốn FDI vào quá trình điều chỉnh cơ cấu ngành nông nghiệp nước nhà (trong 5 năm tới cần huy động 660 triệu USD, tương đương 6% tổng nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp).
2. Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi các cam kết và lịch trình thực hiện CEPT/AFTA của Việt Nam không chỉ trong đội ngũ cán bộ công chức, doanh nghiệp mà còn tới tận người nông dân
Công tác tuyên truyền, phổ biến những nội dung về hội nhập kinh tế nói chung và tham gia CEPT-AFTA nói riêng thời gian qua chúng ta làm chưa tốt, chưa tạo ra nhận thức nhất quán về nội dung, bước đi, lộ trình hội nhập AFTA, nên sự tham gia của các ngành các cấp, các doanh nghiệp còn thiếu đồng bộ. Không ít địa phương coi hội nhập là công việc của cấp trên, không liên quan gì đến mình nên chưa thực sự xây dựng và triển khai kế hoạch cụ thể về sản xuất kinh doanh có tính đến việc thực hiện lộ trình mà nhà nước ta đã cam kết.
Vì vậy khi thời hạn thực hiện CEPT/AFTA càng đến gần, chúng ta càng phải khẩn trương tổ chức tuyên truyền để các địa phương, doanh nghiệp, người sản xuất kinh doanh và nông dân có nhận thức đầy đủ về thời cơ và nhất là các thách thức mà họ sẽ phải đương đầu nếu muốn tồn tại và phát triển, để từ._.