mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lao động có ích của mỗi người là nguồn gốc tạo ra của cải xã hội. Song để biến lao động thành một hoạt động tự giác, phát huy được tính năng động, sáng tạo của người lao động thì xã hội phải quan tâm tới lợi ích của họ. Chính vì thế chế định quyền sở hữu nói chung và chế định quyền thừa kế nói riêng ra đời là một trong những phương thức pháp lý cần thiết để bảo toàn và gia tăng tích lũy của cải trong xã hội. Về mặt tâm lý cá nhân không chỉ muốn mình có qu
123 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1957 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Diện và hàng thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yền năng đối với khối tài sản của mình khi còn sống, mà còn muốn chi phối nó ngay cả khi đã chết. Vì vậy, Nhà nước đã công nhận quyền thừa kế của cá nhân đối với tài sản, coi thừa kế là một trong những căn cứ xác lập quyền sở hữu. Điều này không chỉ có tác dụng kích thích tính tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng mà còn tạo động lực phát triển lòng say mê, kích thích sự quản lý năng động của mỗi con người, tạo ra sự thi đua thầm lặng của mỗi cá nhân nhằm nhân khối tài sản của mình lên bằng sức lực và khả năng sáng tạo mà họ có. Khi họ chết, các tài sản của họ để lại sẽ trở thành di sản và được phân chia cho các thế hệ con cháu. Và nếu như con cháu chính là sự hóa thân của ông bà, bố mẹ, là sự kéo dài nhân thân của mỗi người thì sự chuyển dịch di sản theo chế định thừa kế chính là sự nối tiếp về quyền sở hữu. Vì vậy, một người coi là đã chết nhưng chết chưa hẳn là đã chấm dứt mà một phần con người đó còn hiện hữu, tồn tại trong con cháu, trong những di sản mà họ để lại. Pháp luật công nhận quyền thừa kế của cá nhân đã đáp ứng một phần mong mỏi của con người là tồn tại mãi mãi. Chính vì thế, pháp luật thừa kế trên thế giới nói chung và pháp luật thừa kế ở Việt Nam nói riêng đã không ngừng phát triển và hoàn thiện.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, sau Hiến pháp 1992, Bộ luật dân sự (BLDS) chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, tạo lập hành lang pháp lý cho các cá nhân khi thực hiện quyền thừa kế. Được quy định tại phần thứ tư, bao gồm 4 chương, 56 điều, từ Điều 631 đến Điều 687 của BLDS năm 2005 chế định thừa kế đã tạo chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các chủ thể khi tham gia quan hệ thừa kế, góp phần làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Chế định quyền thừa kế trong BLDS đã kết tinh những thành tựu của khoa học pháp lý nhân loại góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy những phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp đã ăn sâu vào tiềm thức và lưu truyền qua bao đời của dân tộc Việt Nam.
Hiện nay các tranh chấp về thừa kế có xu hướng ngày càng gia tăng và trở nên phức tạp hơn. Sự nhận thức không đầy đủ về pháp luật của cá nhân, sự áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cấp Tòa án là những yếu tố làm cho các vụ kiện gặp nhiều khó khăn, thời gian giải quyết kéo dài, ảnh hưởng không tốt đến truyền thống đạo đức tốt đẹp vốn có từ lâu đời của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, một trong những khó khăn vướng mắc lớn khi áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết tranh chấp thừa kế chính là vấn đề xác định sao cho đúng về diện và hàng thừa kế.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, phân tích, kiến nghị để làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về diện và hàng thừa kế trong chế định thừa kế theo pháp luật là một đòi hỏi tất yếu, khách quan cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn giải quyết các tranh chấp thừa kế.
2. Tình hình nghiên cứu
Do tầm quan trọng của vấn đề thừa kế nên nội dung này đã được rất nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm, nghiên cứu. Tiến sĩ Phùng Trung Tập đã giới thiệu với bạn đọc tác phẩm "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 từ trước đến nay"; Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện là tác giả của cuốn "Bình luận khoa học về thừa kế trong Bộ luật dân sự Việt Nam"; Phó giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Thanh - Trần Hữu Biền có tác phẩm "Hỏi đáp về pháp luật thừa kế". Ngoài ra, còn có nhiều bài viết về đề tài này được đăng tải trên các sách báo, tạp chí. Đặc biệt hơn, còn có rất nhiều các cử nhân, học viên chọn nội dung này làm đề tài cho các luận văn tốt nghiệp của mình.
Tất cả các công trình nghiên cứu trên có phạm vi rộng, mang tính toàn diện, bao quát cả chế định pháp luật về thừa kế, và đưa ra những kiến nghị để ngày càng hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về thừa kế. Riêng với đề tài "Diện và hàng thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam", tác giả tập trung đi sâu nghiên cứu, làm sáng tỏ nội dung, bản chất của diện và hàng thừa kế được quy định trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị mang tính giải pháp để ngày càng hoàn thiện hơn những quy định về nội dung này trong luật.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, nội dung, bản chất quy định của pháp luật về quyền thừa kế nhằm làm sáng tỏ diện và hàng thừa kế. Khi nghiên cứu đề tài, tác giả đã tham khảo toàn bộ các quy định của nước ta về diện và hàng thừa kế gắn với từng giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước, đồng thời nghiên cứu pháp luật của một số nước trên thế giới cũng như các sách chuyên khảo và những tài liệu liên quan đến vấn đề này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận về nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Bên cạnh đó còn có sự phối hợp với một số phương pháp khác như: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh và phương pháp tổng hợp.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ nội dung và bản chất của diện và hàng thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam qua từng giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước. Trên cơ sở đó, xác định đúng, chính xác những người thuộc diện thừa kế và thứ tự hưởng ưu tiên theo quy định của BLDS năm 2005.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả rút ra những vướng mắc còn tồn tại khi áp dụng quy định của pháp luật về diện và hàng thừa kế. Từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị mang tính giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại, góp phần hoàn thiện hơn các quy định về thừa kế.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực thừa kế. Có những công trình khoa học nghiên cứu vấn đề nội dung này một cách toàn diện, bao quát, nhưng cũng có những công trình chỉ nghiên cứu một khía cạnh nhỏ của chế định thừa kế trong luật. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chi tiết, cụ thể về diện và hàng thừa kế gắn với từng giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước. Đây là luận văn ở cấp độ thạc sĩ đầu tiên nghiên cứu từng diện và từng hàng thừa kế gắn với từng quy định của mỗi giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước. Trên cơ sở đó, tác giả nghiên cứu làm sáng tỏ những quy định của pháp luật hiện hành và tìm ra những vướng mắc còn tồn tại trên thực tế và đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về diện và hàng thừa kế trong BLDS.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về thừa kế.
Chương 2: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật và phương hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật Việt Nam về diện và hàng thừa kế.
Chương 1
Khái quát chung về thừa kế
1.1. Khái niệm chung
1.1.1. Thừa kế và quyền thừa kế
Một trong những yếu tố để đánh giá sự vững mạnh của một quốc gia đó chính là sự bảo hộ của Nhà nước về các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như việc kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Trên tinh thần đó, quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ. Điều 58 Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam quy định "Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân".
Để hiểu và nhận thức sâu sắc về khái niệm quyền thừa kế trước hết phải làm sáng tỏ nội dung khái niệm thừa kế. Theo Từ điển tiếng Việt: "Thừa kế là hưởng của người khác để lại cho". Theo các tác giả của Giáo trình Luật dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội, thừa kế được hiểu là: "Việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho những người còn sống". Khái niệm này đã phản ánh chính xác bản chất cũng như nội dung thừa kế.
Thừa kế luôn gắn với quan hệ sở hữu xuất hiện đồng thời với quan hệ sở hữu và sự phát triển của xã hội loài người. Khi nhà nước và pháp luật chưa ra đời thì quan hệ sở hữu và quan hệ thừa kế đã tồn tại như một tất yếu khách quan. Thừa kế xuất hiện phụ thuộc vào quan hệ sở hữu. Nếu sở hữu là yếu tố quyết định thừa kế, thì thừa kế là phương tiện duy trì và củng cố quan hệ sở hữu.
Thừa kế và sở hữu là hai phạm trù kinh tế cùng tồn tại song song trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, chúng có mối liên hệ biện chứng với nhau, chỉ đạo, chi phối lẫn nhau, cùng phát triển theo sự phát triển của xã hội loài người.
Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất hiện ngay trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài người - chế độ cộng sản nguyên thủy. Trong thời kỳ này, quan hệ thừa kế chỉ đơn thuần là một quan hệ xã hội, việc thừa kế chỉ nhằm di chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống được tiến hành dựa trên quan hệ huyết thống và do những phong tục tập quán riêng của từng bộ lạc, thị tộc quyết định.
Khi nhà nước ra đời việc chiếm giữ của của vật chất giữa người với người được điều chỉnh bằng pháp luật theo hướng có lợi cho giai cấp thống trị. Nhà nước đã sử dụng pháp luật là công cụ để bảo vệ tài sản và quyền tài sản của người chết cho những người còn sống, quy định quyền của các chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình. Lúc này các quan hệ thừa kế và quan hệ sở hữu không chỉ tồn tại một cách khách quan với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế nữa, mà những quan hệ này đã bị ràng buộc bởi những quy phạm pháp luật và làm xuất hiện khái niệm quyền thừa kế.
Nếu thừa kế là một phạm trù kinh tế tồn tại khách quan thì quyền thừa kế là một phạm trù pháp lý chỉ phát sinh khi có nhà nước và pháp luật. Nếu thừa kế là một quan hệ xã hội phát sinh ngay cả khi xã hội chưa phân chia giai cấp, chưa có nhà nước và pháp luật, thì quyền thừa kế lại là một quan hệ pháp luật chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội đã phân chia giai cấp và dẫn tới sự ra đời của nhà nước.
Quyền thừa kế được xem xét rất nhiều góc độ. Với tính chất là một chế định pháp luật dân sự, quyền thừa kế bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước đặt ra nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển tài sản từ người chết sang cho người khác còn sống theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định do pháp luật quy định. Đồng thời, quy định quyền và nghĩa vụ cũng như các phương thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ đó của những chủ thể trong quan hệ thừa kế.
Với tính chất là một quyền năng dân sự, quyền thừa kế là những quyền năng cụ thể của chủ thể trong việc để lại di sản thừa kế và nhận di sản thừa kế. Đó là những khả năng mà các chủ thể được phép xử sự theo quy định của pháp luật: Được để lại di sản thừa kế như thế nào, việc lập di chúc phải tuân thủ những yêu cầu gì, ai là người được nhận di sản thừa kế, khi nào thì bị tước quyền hưởng di sản thừa kế... Trong các quan hệ về thừa kế, các chủ thể chủ động hiện thực hóa những quyền năng đó để biến nó thành những quyền dân sự cụ thể qua đó đáp ứng được nhu cầu và thực hiện được lợi ích cho bản thân mình.
Nói tóm lại, quyền thừa kế là một chế định của Luật dân sự, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển tài sản từ người chết sang cho người khác còn sống dựa trên cơ sở ý chí của người để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật.
ở mỗi một chế độ khác nhau, tùy thuộc vào tính chất của chế độ sở hữu, thông qua pháp luật, nhà nước quy định một chế định thừa kế và coi đó là một phương tiện để bảo vệ quyền lợi cho các cá nhân cũng như quyền lợi của giai cấp lãnh đạo xã hội.
Trong nhà nước chủ nô, quyền để lại thừa kế về nô lệ của giai cấp chủ nô là sự chuyển lại quyền sở hữu đối với những "công cụ biết nói" và cũng chính là sự truyền lại quyền lực chính trị để duy trì sự áp bức bóc lột của giai cấp chủ nô đối với nô lệ.
Trong nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản, giai cấp bóc lột luôn sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội và di sản mà họ để lại cho con cháu cũng chính là những di sản ấy, việc thừa kế chỉ là sự thay thế kẻ thống trị này bằng kẻ thống trị khác trong cùng một giai cấp mà thôi.
Pháp luật thừa kế ở nước ta trước hết nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động, tôn trọng thành quả lao động do họ làm ra cũng như chuyển thành kết quả đó cho những người thừa kế sau khi họ chết. Mặt khác, quyền thừa kế ở nước ta là một trong những phương tiện để củng cố và phát triển các quan hệ hôn nhân gia đình, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể trong quan hệ thừa kế, đặc biệt bảo vệ lợi ích của người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động. Qua đó góp phần bảo đảm quyền sở hữu cho mọi cá nhân trong xã hội.
Tóm lại, thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của một người đã chết sang cho người còn sống theo những trình tự luật định. Quyền thừa kế của một cá nhân gắn bó chặt chẽ với quyền sở hữu của cá nhân đó. Quyền sở hữu là tiền đề, là cơ sở của quyền thừa kế và ngược lại, quyền thừa kế là căn cứ thiết lập quyền sở hữu mới. Vì vậy, hệ thống pháp luật dân sự của tất cả các nước trên thế giới bao giờ cũng qui định về vấn đề thừa kế như là một phương thức bảo đảm quyền sở hữu của chủ sở hữu.
1.1.2. Di sản thừa kế
Quyền sở hữu tài sản là một trong những quyền cơ bản của công dân được nhà nước bảo hộ. Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở… Khi còn sống họ có quyền đưa các loại tài sản của mình lưu thông dân sự hoặc lập di chúc cho người khác hưởng tài sản của mình sau khi chết. Trường hợp công dân có tài sản thuộc quyền sở hữu riêng, không lập di chúc sau khi chết, tài sản này được chia theo luật và toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đã chết được gọi là di sản thừa kế.
Theo Từ điển tiếng Việt: "Di sản là của cải, tài sản của người chết để lại" [51].
Điều 634 BLDS năm 2005 quy định: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác" [9].
Di sản được Điều 634 BLDS quy định một cách ngắn gọn nhưng khá đầy đủ và có tầm khái quát cao, không dùng phương pháp liệt kê bao gồm những tài sản gì như những quy định trước đây. Bởi lẽ, quyền tài sản đã nằm trong khái niệm tài sản được quy định tại Điều 163 BLDS: "Tài sản bao gồm vật, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" [9].
Như vậy, di sản là toàn bộ những tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đã chết cũng như các quyền về tài sản của người đó bao gồm:
- Tư liệu sinh hoạt.
- Tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý được dùng làm đồ trang sức hoặc dùng làm của cải để dành, tiền tiết kiệm ngân hàng, tiền lương, tiền thưởng chưa lĩnh.
- Nhà ở thuộc sở hữu của người chết.
- Vốn, cổ phần, vật tư, tư liệu sản xuất của người chết.
- Tài liệu, dụng cụ máy móc của người làm công tác nghiên cứu.
- Cây cối mà người được giao sử dụng đất trồng và hưởng lợi trên đất đó.
- Các quyền về tài sản đó là quyền đòi nợ đồ vật đã cho mượn, cho thuê, chuộc lại tài sản đã cầm cố, quyền đối với tài sản đã thế chấp, đã bồi thường thiệt hại về tài sản, hưởng những quyền lợi của tác giả hoặc chủ sở hữu văn bằng, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, quyền tác giả đối với tác phẩm. Tuy nhiên, quyền tài sản gắn với nhân thân của người chết như tiền cấp dưỡng, tiền lương hưu không được coi là di sản thừa kế.
- Theo quy định của pháp luật, để khắc phục những rủi ro xảy ra cá nhân có thể mua bảo hiểm cho bản thân mình. Trên cơ sở đóng phí bảo hiểm và khi có sự kiện bảo hiểm thì cơ quan bảo hiểm sẽ chi trả số tiền bảo hiểm dựa trên mức đóng phí bảo hiểm. ở loại hình bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm tuổi thọ của con người và khi người đó chết sẽ được hưởng số tiền bảo hiểm đó. Và lúc này số tiền bảo hiểm trở thành một phần trong tổng tài sản của người chết để lại cũng là di sản thừa kế.
- Phần tài sản của người chết trong khối tài sản với người khác. Sự phát triển của đời sống xã hội khiến cho tài sản của mỗi người càng trở nên phong phú và đa dạng hơn. Ngoài tài sản riêng có được do thu nhập hợp pháp, của để dành hoặc do được thừa kế thì một loại tài sản nữa của người chết là một phần tài sản của người này trong khối tài sản chung với người khác, có thể do vợ chồng cùng tạo lập hoặc nhiều người cùng góp vốn để sản xuất kinh doanh.
Trong thời kỳ hôn nhân mọi tài sản của vợ chồng đều thuộc sở hữu chung hợp pháp. Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình (HN&GĐ) 2000 quy định: "Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung" [30]. Khối tài sản đó được cả vợ và chồng cùng nhau tạo lập, phát triển bằng công sức của mỗi người nên khó có thể phân định được phần của mỗi người là bao nhiêu. Do đó, cả hai vợ chồng đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Khi một bên chết trước nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng thì chia làm đôi, một nửa khối tài sản chung đó là tài sản của người chết được chuyển thành di sản thừa kế và được chia cho người thừa kế theo quy định của pháp luật về thừa kế.
- Khác với hình thức sở hữu chung hợp nhất, hình thức sở hữu chung theo phần được hình thành khi có nhiều người cùng góp vốn để cùng sản xuất kinh doanh. Khi đó tài sản có được thuộc quyền sở hữu chung của nhiều người, nếu một trong số những người đó chết thì di sản của người chết còn bao gồm cả phần tài sản thuộc sở hữu của người đó đã đóng góp trong khối tài sản chung.
Đặc biệt, thừa kế quyền sử dụng đất là một vấn đề mới được đưa vào chương VI phần 4 BLDS 1995 và tiếp tục được ghi nhận và mở rộng tại chương XXXIII phần 5 BLDS năm 2005. Qui định thừa kế quyền sử dụng tại chương XXXIII phần 5 BLDS năm 2005 đáp ứng các qui định quyền của người sử dụng đất được qui định tại Luật Đất đai năm 2003, Nghị định 181/2004/ NĐ-CP ngày 29/10/2004, đã tạo điều kiện thuận lợi cho những người có nhu cầu trực tiếp sử dụng đất và có quyền thừa kế quyền sử dụng đất.
Tóm lại, di sản được Điều 634 BLDS quy định một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ và có tính khái quát cao. Điều này thể hiện trình độ và kỹ thuật lập pháp của nước ta đã đạt được một kết quả nhất định.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề phức tạp và có liên quan đến nhiều vấn đề khác trong quan hệ thừa kế mà chỉ được quy định trong một điều luật nên khi nghiên cứu cũng như khi xét xử phải đặt nó trong mối liên hệ biện chứng với các quy phạm pháp luật khác liên quan trực tiếp đến việc xác định và phân chia di sản.
Bởi vậy, việc xác định quyền sở hữu của một người để từ đó xác định di sản khi người đó chết còn gặp nhiều vướng mắc về mặt lý luận cũng như thực tiễn.
1.1.3. Người để lại di sản thừa kế
Quyền để lại thừa kế là một quyền cơ bản của cá nhân được pháp luật Việt Nam ghi nhận và bảo hộ. BLDS năm 2005 quy định rõ: "Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật" (Điều 631) và "Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác" (Điều 632) [9].
Pháp luật bảo hộ quyền sở hữu của mọi công dân đối với những thu nhập hợp pháp của mình. Theo đó bất kỳ ai cũng có quyền quyết định đối với số phận của các loại tài sản thuộc quyền sở hữu riêng của mình. Vì thế cá nhân có quyền lập di chúc cho người khác hưởng tài sản thuộc quyền sở hữu riêng của mình sau khi mình chết, nếu không có di chúc tài sản này thì chia theo pháp luật.
Như vậy, BLDS năm 2005 ghi nhận quyền định đoạt tài sản của người chết thông qua việc lập di chúc để chỉ định thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế. Phần lớn những người được hưởng thừa kế theo di chúc là những người có quan hệ thân thiết với người lập di chúc như: Cha, mẹ, vợ, chồng, con. Tuy nhiên, pháp luật cho phép người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, vì thế họ có quyền chỉ định bất cứ ai có thể là cá nhân trong hay ngoài diện thừa kế theo quy định của pháp luật, thậm chí cũng có thể là nhà nước hoặc tổ chức nào đó. Ngoài ra, pháp luật về thừa kế còn cho phép người lập di chúc được truất quyền hưởng di sản của một người thừa kế nào đó cho dù họ có đủ các điều kiện để có thể thừa kế tài sản theo pháp luật.
Cần lưu ý rằng, người để lại di sản chỉ có thể là cá nhân, không thể là các pháp nhân hay tổ chức. Các pháp nhân hay tổ chức được thành lập với những mục đích và nhiệm vụ khác nhau và tài sản của các pháp nhân, tổ chức đó nhằm để phục vụ cho các hoạt động của chính mình. Khi các pháp nhân, tổ chức đó đình chỉ hoạt động của mình (phá sản, giải thể...) tài sản của các pháp nhân, tổ chức được giải quyết theo các quy định của pháp luật. Các pháp nhân, tổ chức chỉ tham gia quan hệ thừa kế với tư cách là người được hưởng di sản theo di chúc.
1.1.4. Người thừa kế
Người thừa kế là người hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân, tổ chức nhưng người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân và phải có quan hệ hôn nhân, gia đình hoặc nuôi dưỡng đối với người để lại di sản. Giữa người để lại di sản và người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ pháp lý với nhau. Người thừa kế có quyền sở hữu đối với phần di sản thừa kế, đồng thời họ phải gánh vác những nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản.
Điều 635 BLDS năm 2005 quy định:
Người thừa kế phải là cá nhân còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết
Trong trường hợp người thừa kế là cơ quan tổ chức thì phải là cơ quan tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế [9].
Như vậy, pháp luật quy định chỉ những người còn sống mới có năng lực hưởng thừa kế. Tuy nhiên, đối với những người sắp sinh ra pháp luật cũng quy định họ cũng có thể là người thừa kế nếu vào thời điểm mở thừa kế (lúc người để lại di sản chết) họ đã thành thai. Nếu một người chưa thành thai vào thời điểm mở thừa kế hoặc thành thai trước thời điểm mở thừa kế nhưng sinh ra không sống thì không được hưởng di sản thừa kế.
Pháp luật quy định: "Người thừa kế đang là thai nhi nếu sinh ra sau khi mở thừa kế và phải còn sống". Thực tế khó xác định được như thế nào là sinh ra và còn sống. Nghị định 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch quy định: nếu thai nhi sinh ra chết sau một ngày vừa phải khai sinh và vừa phải khai tử. Trường hợp chết trong vòng một ngày không phải khai sinh và khai tử. Do vậy, có thể coi trường hợp này nhà nước chưa quản lý về hộ tịch của đứa trẻ dưới một ngày. Như vậy có thể hiểu rằng, đứa trẻ sinh ra sau một ngày thì coi như là còn sống.
Có quan điểm cho rằng, một đứa trẻ sinh ra phải có những căn cứ pháp lý, đó là giấy khai sinh mới được coi là một cá nhân trong xã hội. Thực tế, ở nhiều gia đình do không có điều kiện nên chưa làm giấy khai sinh được thì đứa trẻ sinh ra được coi là một cá nhân trong xã hội hay chưa? Có được thừa kế hay không? Thông thường một đứa trẻ cất tiếng khóc chào đời đã là một con người trong xã hội. Vì vậy, không có lý do gì mà không thừa nhận sự tồn tại của chúng trong xã hội. Vấn đề này cũng cần được quy định cụ thể để tránh hiểu lầm và có căn cứ áp dụng pháp luật thống nhất. Vì vậy, để bảo đảm quyền lợi cho người thừa kế là trẻ sơ sinh nên chăng cần quy định cụ thể việc xác định một đứa trẻ sinh ra bao lâu được coi là còn sống. Nhưng cần quy định một khoảng thời gian cụ thể để xác định đứa trẻ sau khi sinh được coi là còn sống, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những thai nhi thuộc diện thừa kế.
Người hưởng thừa kế theo di chúc còn có thể là các cơ quan, tổ chức có tư cách pháp nhân vào thời điểm mở thừa kế.
Bên cạnh việc quy định cụ thể về người thừa kế, pháp luật còn ghi nhận một số trường hợp người không được quyền nhận di sản, người thừa kế từ chối nhận di sản, người thừa kế bị truất quyền hưởng di sản và trường hợp người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
* Trường hợp người không được quyền nhận di sản
Là những trường hợp người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật bị tước quyền hưởng di sản vì họ không xứng đáng được hưởng quyền đó. Khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2005 quy định những trường hợp sau đây không được quyền hưởng di sản [9]:
- "Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó".
Những hành vi nói trên phải do Tòa án xét xử, kết án và có bản án có hiệu lực pháp luật, không phụ thuộc vào loại hình phạt và dù rằng đã được xóa án.
- "Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi người để lại di sản".
Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng con chưa thành niên và con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình (Điều 36 khoản 1); Anh, chị em có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha, mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện nuôi dưỡng con (Điều 48); Ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình và không có ai nuôi dưỡng (Điều 47); người vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng là người có khả năng mà không nuôi dưỡng, làm cho người thân thích và hàng xóm xung quanh bất bình. Trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng chứng minh được họ không có thu nhập để thực hiện nghĩa vụ thì không bị coi là vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng.
- "Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng".
Trường hợp này cũng cần phải có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Nếu giết người thừa kế khác không nhằm mục đích hưởng di sản thì không rơi vào trường hợp này.
- "Người đã có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái vớí ý chí của người để lại di sản".
Mặc dù những trường hợp nói trên là những trường hợp không được quyền hưởng di sản nhưng khoản 2 Điều 643 BLDS quy định những người đó vẫn được hưởng di sản"nếu người để lại di sản biết những hành vi của những người đó nhưng vẫn cho họ hưởng thừa kế theo di chúc".
Việc không cho hưởng quyền nhận di sản được thực hiện sau khi mở thừa kế. Trong thực tế xảy ra trường hợp làm giả mạo giấy tờ về người thừa kế khác từ chối nhận di sản thừa kế để cho người đó được hưởng nhiều hơn. Giấy tờ này không có giá trị pháp lý nhưng pháp luật không quy định trường hợp này là trường hợp không được hưởng quyền nhận di sản. Đây là một vấn đề mà các nhà lập pháp cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật hơn nữa.
* Trường hợp người thừa kế từ chối nhận di sản
Điều 642 BLDS năm 2005 quy định về việc người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản từ thời điểm mở thừa kế. Nếu người thừa kế theo pháp luật được thừa kế theo di chúc mà từ chối nhận di sản theo di chúc thì họ vẫn có quyền thừa kế theo pháp luật. Pháp luật quy định người thừa kế không bắt buộc phải nhận thừa kế. Vì vậy khoản 1 Điều 642 BLDS quy định: "Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác" [9].
Tuy nhiên, người thừa kế phải thể hiện rõ ý chí của mình bằng văn bản, báo cho những người thừa kế khác biết, người phân chia di sản, cơ quan công chứng nhà nước hoặc ủy ban nhân dân (UBND) xã, phường, thị trấn nơi mở thừa kế. Pháp luật cũng không quy định người thừa kế nào có quyên từ chối nhận di sản. Vậy trường hợp người dưới mười tám tuổi có quyền từ chối nhận di sản hay không? Nếu dưới mười tám tuổi mà từ chối nhận di sản phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý mới hợp lý vì thực tế những người dưới mười tám tuổi chưa đủ năng lực hành vi để quyết định mọi việc.
Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng kể từ thời điểm mở thừa kế. Việc quy định này cũng là điều bất hợp lý vì có trường hợp người được thừa kế không biết thời điểm mở thừa kế ảnh hưởng đến quyền lợi của họ, kể từ thời điểm mở thừa kế người hưởng thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ đối với người chết. Do vậy, pháp luật quy định thời hạn sáu tháng là chưa hợp lý.
Người thừa kế không được từ chối nhận di sản nếu việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người khác
Việc nhận hay không nhận di sản thừa kế là quyền của người thừa kế. Tuy nhiên, khi thực hiện quyền này người thừa kế phải tuân theo những quy định của pháp luật.
* Trường hợp người thừa kế bị truất quyền hưởng di sản
Người bị truất quyền hưởng di sản khác với người không được quyền hưởng di sản ở chỗ: Các trường hợp không có quyền hưởng di sản là do pháp luật quy định và dự liệu trước, còn người bị truất quyền hưởng di sản là do ý chí của người để lại di sản không muốn cho hưởng.
Tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người để lại di sản thừa kế thì họ có quyền định đoạt đối với tài sản đó nghĩa là họ có quyền quyết định cho ai? Cho cái gì? Và họ cũng có quyền truất quyền thừa kế của những người thừa kế mà không cần phải có lý do.
Theo quy định tại Điều 648 BLDS năm 2005, người để lại di sản có quyền lập di chúc truất quyền hưởng di sản của những người mà theo quy định của pháp luật họ sẽ được hưởng thừa kế khi người để lại di sản chết. Pháp luật tôn trọng quyền tự định đoạt của người để lại di sản thừa kế. Họ có quyền để lại di chúc để cho một người hưởng một phần hay toàn bộ di sản, hoặc cho hưởng ít hơn phần lẽ ra người thừa kế được hưởng. Đặc biệt hơn họ còn có thể truất bỏ quyền thừa kế của người thừa kế. Có quan điểm cho rằng, những người không được chỉ định trong di chúc cũng gián tiếp bị truất quyền. Quan điểm này là không chính xác vì truất quyền hưởng di sản là sự trừng phạt của người có di sản để lại đối với người thừa kế khi người này có những hành vi bất kính với người để lại di sản hoặc giữa người để lại di sản và người thừa kế đã tồn tại những mâu thuẫn. Việc không chỉ định trong di chúc cũng có thể do người không được chỉ định trong di chúc đã có cuộc sống ổn định không cần đến di sản nữa. Hai trường hợp này về bản chất là khác biệt nhau hoàn toàn và nếu hiểu như vậy sẽ làm ảnh hưởng đến q._.uyền lợi của những người không được chỉ định trong di chúc. Thực tế người không được chỉ định trong di chúc vẫn có quyền thừa kế tài sản của người chết theo pháp luật đối với những phần tài sản chưa được định đoạt trong di chúc hoặc người thừa kế theo di chúc không nhận phần di sản theo di chúc thì phần tài sản này được cho những người thừa kế khác không có tên trong di chúc.
* Trường hợp người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
Nhằm đảm bảo lợi ích của một số các thành viên trong gia đình pháp luật còn quy định một số trường hợp thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Điều 669 BLDS năm 2005, quy định rõ con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng hoặc con đã thành niên mà không có khả năng lao động vẫn được hưởng di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo luật nếu họ không thuộc trường hợp từ chối nhận di sản hoặc không có quyền hưởng di sản. Quy định này phù hợp với phong tục tập quán, truyền thống đạo đức của người Việt Nam.
1.2. Diện và hàng thừa kế
1.2.1. Khái quát chung về diện và hàng thừa kế
* Diện thừa kế
Diện thừa kế là một trong những nội dung quan trọng của chế định thừa kế, tuy nhiên vấn đề này lại chưa được các nhà làm luật quy định cụ thể, chi tiết trong luật. Khái niệm diện thừa kế chỉ được quan tâm nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học pháp lý. Còn luật thực định từ trước đến nay chưa có văn bản nào quy định cụ thể về vấn đề này. BLDS 1995 cũng như BLDS năm 2005 chưa có nội dung nào quy định về khái niệm diện thừa kế là gì và diện thừa kế bao gồm những ai? Đây là một vấn đề cần được khắc phục trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam.
Theo các tác giả của giáo trình Luật dân sự - Đại học Luật Hà Nội khái niệm diện thừa kế được hiểu là "phạm vi những người có quyền hưởng di sản của người chết theo quy định của pháp luật" [54, tr. 266].
Nhìn chung, khái niệm nêu trên đã phản ánh đầy đủ nội dung cũng như bản chất của diện thừa kế.
Diện thừa kế chỉ được đặt ra trong trình tự thừa kế theo pháp luật. Mà pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào quan hệ sản xuất của từng giai đoạn phát triển xã hội. Vì thế ở mỗi một chế độ xã hội nhất định mà phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật lại được quy định ở diện rộng hẹp khác nhau.
Tiếp cận và tìm hiểu những quy định của pháp luật của một số nước trên thế giới về diện thừa kế cho thấy mặc dù có sự khác nhau về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhưng nhìn chung dù ở chế độ xã hội nào những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật đều có đặc điểm chung là những người thân thích gần gũi với người để lại di sản thừa kế và do quan hệ hôn nhân và gia đình chi phối.
Pháp luật của Nhật và các nước Nam Mỹ quy định diện thừa kế bao gồm các con của người chết; cha, mẹ, anh, chị, em ruột của người chết; bà con xa, gần khác.
Một số nước như Đức, áo, Thụy Sĩ quy định: Bà con bậc trên, thế hệ trên của người chết như: cha, mẹ, cố, cụ; bà con bậc dưới, thế hệ dưới của người chết như con, cháu.
Điều 1629 Bộ luật thương mại Thái Lan quy định diện thừa kế là: Con cái; bố, mẹ; anh, chị, em cùng huyết thống; anh, chị, em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà; chú, bác, cô, dì; người vợ (hoặc người chồng còn sống).
ở nước ta, trước năm 1945 dưới chế độ thực dân phong kiến, tư tưởng trọng nam khinh nữ nặng nề đã ảnh hưởng sâu sắc đến việc xác định diện thừa kế. Địa vị của người vợ trong quan hệ gia đình luôn bị đẩy xuống bậc thứ yếu so với các con và người chồng trong những quan hệ xã hội thông thường và ngay cả trong quan hệ thừa kế.
Ngược lại với bản chất pháp luật của chế độ thực dân, phong kiến, pháp luật thừa kế dưới chế độ mới ở nước ta đã được thể hiện rõ bản chất ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Điều 9 Hiến pháp 1946 quy định: "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện" [24], trong đó người vợ có quyền thừa kế như những người con khác khi chồng chết trước. Đặc biệt, khi sắc lệnh số 97-SL ngày 22 tháng 5 năm 1950 được ban hành, diện thừa kế theo pháp luật theo tinh thần của Điều 10 và Điều 11 bao gồm: con cháu, vợ hay chồng của người để lại di sản [15].
Như vậy, diện thừa kế theo pháp luật dưới chế độ mới ở nước ta kể từ năm 1945 đến nay luôn được xác định theo quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng giữa người để lại di sản và người thừa kế.
Một người có thể trở thành người thừa kế theo pháp luật đối với di sản của người chết thì giữa họ phải có mới quan hệ nhất định khi người để lại di sản còn sống. Mối quan hệ này là sợi dây ràng buộc họ bởi quyền của người này và nghĩa vụ của người kia hoặc là bổn phận và trách nhiệm giữa họ khi người để lại di sản còn sống. Những mối quan hệ được bắt nguồn từ sâu xa của giá trị đạo đức truyền thống cùng sự phù hợp với pháp luật của một chế độ xã hội nhất định.
Theo BLDS hiện hành thì những người thuộc diện thừa kế gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, mẹ nuôi, cha nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh, chị, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Tóm lại, diện thừa kế bao gồm các cá nhân còn sống có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản được tính đến thời điểm mở thừa kế của người đó và những cá nhân sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Phạm vi những cá nhân thuộc diện thừa kế được xác định theo số người được pháp luật chỉ định trong các hàng thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản.
* Hàng thừa kế
Khác với thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật phải xác định được người thuộc diện thừa kế là ai? Nhưng không phải tất cả những người thuộc diện thừa kế đều được hưởng di sản thừa kế như nhau, mà theo mức độ quan hệ với người để lại di sản thừa kế, pháp luật phân những người thuộc diện thừa kế thành các hàng thừa kế.
Hàng thừa kế là những nhóm, người thừa kế được pháp luật xếp trong cùng một hàng. Việc chia hàng thừa kế có ý nghĩa thiết thực, đảm bảo để những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước đó đã chết, hoặc do không có quyền hưởng di sản; hoặc bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Nghiên cứu và phân tích một số các quy định về hàng thừa kế theo pháp luật của một số nước trên thế giới cho thấy việc xác định hàng thừa kế ở mỗi nước có khác nhau nhưng cũng như diện thừa kế, việc quy định hàng thừa kế cũng đều dựa trên quan hệ huyết thống, hôn nhân và nuôi dưỡng.
Điều 731 BLDS Pháp quy định hàng thừa kế được chia thành bốn lớp:
+ Lớp thứ nhất gồm: con, cháu của người chết
+ Lớp thứ hai gồm: cha, mẹ và anh, chị, em ruột … của người chết
+ Lớp thứ ba gồm: Ông, bà, cụ, kỵ của người chết.
+ Lớp thứ tư gồm: cháu chú, cháu bác, cháu cậu, cháu dì, cháu già của người chết [6].
Khái niệm hàng thừa kế là gì cũng không được quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật của Việt Nam và cũng chưa có tác giả nào đưa ra khái niệm chính xác, đầy đủ thể hiện rõ nội dung của hàng thừa kế
Điều 676 BLDS năm 2005 quy định những người thừa kế theo pháp luật được sắp xếp theo ba hàng thừa kế sau đây:
Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết
Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại [9].
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, hàng thừa kế cũng được sắp xếp dựa trên cơ sở mức độ thân thích với người để lại di sản. Những người thừa kế ở hàng thứ nhất và hàng thứ hai đều có mối quan hệ huyết thống, hôn nhân, nuôi dưỡng với người để lại di sản, giữa họ đều có nghĩa vụ nuôi dưỡng, giám hộ và đại diện đương nhiên của nhau khi thỏa mãn các điều kiện phải giám hộ cho nhau nhất định. Những người thừa kế ở hàng thứ ba được cơ cấu gồm nhiều thế hệ và nhiều bậc trên dưới khác nhau theo quan hệ huyết thống nhưng giữa họ không có sự ràng buộc về nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau.
Với mục đích làm nổi bật tính độc lập và tính hiện đại của pháp luật thừa kế Việt Nam quy định về diện và hàng thừa kế theo pháp luật, cần thiết phải có sự so sánh với một số nội dung cơ bản pháp luật thừa kế một số nước trên thế giới nhằm làm rõ những nét đặc thù của pháp luật Việt Nam.
Theo BLDS của Nhật Bản, hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: Con (cháu) trực hệ. Khác với pháp luật dân sự của Việt Nam, Nhật Bản quy định hàng thừa kế thứ nhất chỉ dựa trên quan hệ huyết thống. Vợ hoặc chồng của người để lại di sản không được quy định cụ thể trong một hàng thừa kế nào mà phụ thuộc vào các hàng và bậc thừa kế theo quan hệ huyết thống nội tộc của người để lại di sản. Theo đó, phần di sản người vợ hoặc chồng chết trước để lại sẽ tùy thuộc người vợ hoặc chồng còn sống được xếp vào cùng hàng thừa kế với những người có quan hệ huyết thống ở các bậc khác nhau của người để lại di sản [10].
Quan hệ nuôi dưỡng không phải là cơ sở để xác định diện và hàng thừa kế. Ngoài ra, có những người cùng được hưởng thừa kế cùng một lúc nhưng lại không được hưởng di sản như nhau vì pháp luật Nhật Bản quy định: Trong trường hợp có hai người cùng hàng, thì phần mà người chồng góa hoặc người vợ góa của người để lại di sản được hưởng theo nguyên tắc nhất định Ví dụ: khi vợ, (chồng) và các con là người thừa kế thì phần cho các con là hai phần ba và phần cho vợ (chồng) là một phần ba.
Theo BLDS của Cộng hòa Pháp, quyền thừa kế đầu tiên đối với di sản của người chết là những người bề dưới, không phân biệt độ tuổi, giới tính và không phụ thuộc vào hình thức hôn nhân của cha mẹ đều được hưởng di sản. Như vậy, ở hàng thừa kế thứ nhất chỉ là các con của người để lại di sản [6]. Điều đó thể hiện Luật thừa kế của Cộng hòa Pháp dựa trên quan hệ duy nhất là quan hệ huyết thống, là quan hệ chủ đạo trong việc xác định người thừa kế theo pháp luật. Vợ góa hoặc chồng góa không thuộc hàng thừa kế nào của người để lại di sản. Vợ, chồng chỉ được hưởng di sản thừa kế của nhau trong trường hợp không còn thân thuộc của bên vợ hoặc bên chồng chết trước có thể thừa kế. Như vậy, khả năng vợ chồng có thể thừa kế của nhau rất khó xảy ra.
Quan hệ nuôi dưỡng cũng không được coi là cơ sở để xác định diện và hàng thừa kế. Sự khác nhau giữa những quy định pháp luật thừa kế của Nhật Bản, Cộng hòa Pháp so với Việt Nam xuất phát từ phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa, cơ sở vật chất và hoàn cảnh xã hội khác nhau của mỗi nước tác động mạnh mẽ đến việc xây dựng pháp luật. Căn cứ vào những yếu tố khác biệt trên đã tạo nên sự khác nhau khi quy định về hàng thừa kế theo pháp luật giữa các nước.
Như vậy, pháp luật Việt Nam quy định những người thừa kế theo hàng dựa trên quan điểm khác với nhiều ở các nước phương Đông cũng như các nước phương Tây. Pháp luật thừa kế của Việt Nam luôn đứng trên tinh thần bảo vệ quyền lợi cho những người có quan hệ huyết thống, hôn nhân hoặc nuôi dưỡng.
1.2.2. Cơ sở của việc xác định diện và hàng thừa kế theo pháp luật
BLDS Việt Nam hiện hành cũng quy định diện và hàng thừa kế dựa trên ba cơ sở: quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng.
* Quan hệ huyết thống
Lễ giáo và truyền thống đạo đức của người Việt Nam vốn rất coi trọng dòng dõi cũng như tổ tiên đã sinh ra mình. Vì vậy quan hệ huyết thống là cơ sở quan trọng, cơ bản quy định diện thừa kế theo luật.
Quan hệ huyết thống là quan hệ do sự kiện sinh ra cùng chung một gốc, Ví dụ: như quan hệ giữa cụ và ông bà, giữa ông bà và bố mẹ, giữa bố mẹ đẻ và con, giữa anh, chị, em cùng bố cùng mẹ, cùng bố khác mẹ, cùng mẹ khác bố.
Những người có quan hệ huyết thống luôn có trách nhiệm thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Điều 36 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: "Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền cùng nhau chăm sóc nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình" [30]. Điều 47 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định:
Ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ và quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu, sống mẫu mực và nêu gương tốt cho con cháu. Trong trường hợp các cháu chưa thành niên hoặc cháu thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người nuôi dưỡng thì ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu [30].
Điều 48 Luật HN&GĐ 2000 quy định: "Anh, chị, em có bổn phận thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có nghĩa vụ và quyền đùm bọc nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha mẹ, hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục con" [30].
Theo mức độ quan hệ với người để lại di sản, BLDS năm 2005 phân những người thuộc diện thừa kế theo huyết thống vào các hàng thừa kế khác nhau.
* Quan hệ hôn nhân
Hôn nhân là sự gắn bó giữa nam và nữ để trở thành một gia đình, một tế bào của xã hội. Trong đó họ phải cùng nhau tạo dựng những nền tảng vững chắc về mặt kinh tế để đảm bảo cho cuộc sống gia đình ổn định và việc nuôi dạy con cái tốt. Đồng thời, họ cũng phải có những trách nhiệm và bổn phận đối với nhau do pháp luật quy định và trên cơ sở đạo đức truyền thống của người Việt Nam.
Kết hôn là việc nam nữ lấy nhau thành vợ chồng theo những quy định của pháp luật, đặc biệt là Luật HN&GĐ. Theo Luật HN&GĐ năm 2000, nam nữ kết hôn phải tuân theo các quy định về điều kiện kết hôn, không vi phạm những điều cấm, và tiến hành đúng trình tự, thủ tục luật định.
Khi kết hôn, quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng phát sinh và được pháp luật bảo vệ. Việc kết hôn không chỉ gắn bó giữa hai người với nhau về tình cảm mà còn làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa hai người, ngoài ra hai bên còn có quan hệ tài sản, khoản 1 Điều 31 Luật HN&GĐ 2000 quy định: "Vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật về thừa kế" [30]. Vợ chồng là hàng thừa kế thứ nhất của nhau theo qui định tại khoản 1 Điều 676 BLDS năm 2005.
* Quan hệ nuôi dưỡng
Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ được xác lập dựa trên cơ sở nuôi con nuôi được pháp luật thừa nhận. Mối quan hệ này nhằm đảm bảo cho trẻ em quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng; tránh những điều bất hạnh thiệt thòi cho những đứa trẻ vốn đã không được hưởng điều kiện và sự quan tâm từ chính cha mẹ mình. Xuất phát từ bổn phận của người nuôi dưỡng đối với con nuôi quan hệ nuôi dưỡng trở thành một cơ sở cần thiết cho việc xác định diện thừa kế theo pháp luật. Tại khoản 1 Điều 67 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: "Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Một người có nhận một hoặc nhiều người làm con nuôi" [30].
Việc nuôi con nuôi nhằm gắn bó tình cảm giữa người nuôi và con nuôi trong quan hệ cha, mẹ và con cái, bảo đảm người con nuôi chưa thành niên được nuôi dưỡng chăm sóc tốt.
Trong quan hệ nuôi dưỡng điều kiện để cha, mẹ nuôi và con nuôi được thừa kế tài sản của nhau là việc con nuôi được pháp luật thừa nhận. Pháp luật chỉ thừa nhận và xác định quan hệ nuôi dưỡng giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi trong trường hợp nhận con nuôi không trái với luân thường đạo lý, mục đích xã hội như bóc lột sức lao động dùng con nuôi vào mục đích xấu xa phạm pháp... Điều kiện quan trọng để việc nhận con nuôi là hợp pháp là phải tuân theo các nguyên tắc của Luật HN&GĐ năm 2000 và phải được UBND công nhận và ghi vào sổ hộ tịch.
Ngoài ra, giữa con riêng với cha dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì cũng được thừa kế di sản của nhau.
Mối quan hệ giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi và mối quan hệ giữa con riêng với cha dượng, mẹ kế nếu được pháp luật thừa nhận thì họ sẽ là hàng thừa kế thứ nhất của nhau.
Các quan hệ huyết thống, hôn nhân, nuôi dưỡng là những quan hệ tình cảm có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Pháp luật nước ta dựa vào ba quan hệ này để xác định diện và hàng thừa kế theo pháp luật.
Chương 2
Diện và hàng thừa kế theo quy định của pháp luật dân sự Việt nam
2.1. Diện thừa kế
Một trong những vấn đề chính yếu của chế định thừa kế theo pháp luật là việc xác định diện thừa kế. Pháp luật Việt Nam ở những chế độ xã hội khác nhau có những quy định khác nhau về diện thừa kế rộng hay hẹp phụ thuộc vào quan hệ sản xuất ở từng giai đoạn phát triển. Tuy nhiên, dù ở chế độ xã hội nào, dù ở giai đoạn phát triển nào diện thừa kế được quy định trong luật cùng có một đặc điểm chung là do quan hệ hôn nhân và gia đình chi phối.
2.1.1. Diện thừa kế xét theo quan hệ huyết thống
ở Việt Nam từ xa đến nay đều có tục lệ thờ cúng tổ tiên, việc hưởng thừa kế không chỉ đơn thuần là việc sử dụng tài sản để thỏa mãn nhu cầu cá nhân, mà còn hàm chứa cả ý nghĩa tình cảm và tín ngưỡng. Các tài sản của người chết để lại sẽ trở thành di sản, các di sản ấy nếu là nhà đất thì trong nhiều trường hợp, được đánh giá không chỉ bằng giá trị kinh tế hiện thời ở thời điểm họ chết hoặc thời điểm phân chia thừa kế trên thực tế mà bằng con số các thế hệ của những gia đình đã nối tiếp nhau sinh tồn trong đó tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của dòng họ. Mỗi cá nhân trở thành một mắt xích trong dòng chảy của huyết thống, của lịch sử mỗi dòng họ cho nên những tài sản đó không chỉ biểu hiện của vật chất đơn thuần, mà đối với nhiều người nó còn gắn liền với những kỷ niệm, những tình cảm thiêng liêng giữa người còn sống với người đã khuất. Nếu như con cháu chính là sự hóa thân của bố mẹ, ông bà, là sự kéo dài nhân thân của mỗi người thì sự chuyển dịch di sản theo chế định thừa kế chính là sự nối tiếp về quyền sở hữu. Vì vậy, một người coi là đã chết nhưng chết chưa hẳn là đã chấm dứt mà một phần con người đó còn hiện hữu, tồn tại trong con cháu, trong những di sản mà họ để lại. Chính vì thế, pháp luật thừa kế của Việt Nam từ xưa đến nay đều lấy huyết thống là một trong những căn cứ để xác định diện thừa kế theo pháp luật.
Dưới chế độ phong kiến, với ý thức bảo vệ chế độ tư hữu tài sản nhằm duy trì sự bóc lột của mình, giai cấp thống trị xem quyền tư hữu là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Thừa kế di sản trong thời kỳ này được xem như một phương tiện để duy trì và bảo vệ khối tài sản cho những người có cùng quan hệ huyết thống. Đến thời kỳ thực dân đô hộ, quan hệ huyết thống vẫn được coi là căn cứ đầu tiên và quan trọng nhất để xác định diện thừa kế theo luật. Các con đẻ, con nuôi, các cháu, cha mẹ, ông bà nội, các cụ nội, anh chị em ruột của người để lại di sản là những người thuộc diện thừa kế đầu tiên. Chỉ khi nào không còn thân thuộc bên họ nội khi đó di sản thuộc về bên họ ngoại. Quy định này phản ánh quan hệ huyết thống được các nhà làm luật thời kỳ này đặt lên hàng đầu khi xác định diện thừa kế.
Dưới chế độ mới bước đầu diện thừa kế được xác định theo quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân. Tuy nhiên, đối tượng thuộc diện thừa kế xét theo quan hệ huyết thống ban đầu được quy định rất hẹp. Tại Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 (sau đây gọi tắt là Sắc lệnh số 97) xác định diện thừa kế xét theo quan hệ huyết thống chỉ có con cháu. Đến Thông tư 1742 ngày 18/9/1956 của Bộ Tư pháp ban hành (sau đây gọi tắt là Thông tư số 1742) để hướng dẫn Tòa án các cấp trong việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế xác định diện thừa kế theo quan hệ huyết thống được mở rộng hơn bao gồm các con đẻ, cháu chắt, cha mẹ của người để lại di sản. Thông tư 594 ngày 27/8/1968 của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) (sau đây gọi tắt là Thông tư số 594) trên cơ sở củng cố, và phát triển tình đoàn kết, thương yêu trong nội bộ gia đình diện thừa kế xét theo quan hệ huyết thống tiếp tục được mở rộng gồm con đẻ, bố mẹ đẻ, ông bà nội ngoại, anh chị em ruột. Trong thông tư này, những người khác như chú, bác, cô, dì, cậu, cháu họ, anh chị em họ, các cụ nội, ngoại đều không thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. Đến Thông tư số 81 của TANDTC ngày 24/7/1981 (sau đây gọi tắt là Thông tư số 81) hướng dẫn các tòa giải quyết các tranh chấp về quyền thừa kế quy định rõ nét hơn những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật trong đó bao gồm cả những người có quan hệ huyết thống trực hệ và bàng hệ với người để lại di sản. Những ngưòi có quan hệ huyết thống trực hệ gồm cha mẹ đẻ, ông bà nội ngoại, các con đẻ, các cháu nội ngoại. Những người có quan hệ huyết thống bàng hệ gồm có anh chị em ruột. Việc mở rộng phạm vi diện thừa kế trên cơ sở huyết thống như vậy nhằm củng cố hơn nữa sự ổn định và bền vững trong quan hệ của các thành viên trong gia đình, dòng tộc. Đến Pháp lệnh thừa kế (PLTK) ngày 30/8/1990 với quan điểm mang tính truyền thống về quan hệ gia đình Việt Nam là "Giọt máu đào hơn ao nước lã" nên diện thừa kế trên cơ sở quan hệ huyết thống được quy định không chỉ bao gồm những người mà Thông tư 81 xác định mà còn bao gồm những người thuộc quan hệ huyết thống trực hệ và bàng hệ khác đó là cụ nội, ngoại, chú, bác, cô, dì, cậu ruột của người để lại di sản và những người mà người để lại di sản là cô, dì, chú, bác, cậu ruột. Khi BLDS năm 1995 của nước ta được ban hành và có hiệu lực kể từ ngày 01/7/1996, diện những người thừa kế theo pháp luật lần đầu tiên được quy định trong văn bản pháp luật có hiệu lực cao. Diện thừa kế theo pháp luật trên cơ sở quan hệ huyết thống được quy định trong Bộ luật này về phạm vi không có gì thay đổi so với PLTK năm 1990. Theo BLDS 2005 có rất nhiều người thuộc diện thừa kế xét theo quan hệ huyết thống, đó là cha đẻ, mẹ đẻ, con đẻ, ông bà nội ngoại, anh chị em ruột, cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, cháu ruột, chắt ruột. So với quy định của BLDS 1995, diện thừa kế theo quan hệ huyết thống tiếp tục được mở rộng phạm vi. Các cháu ruột cũng thuộc diện thừa kế của ông bà nội, ngoại, các chắt ruột cũng thuộc diện thừa kế của các cụ nội, cụ ngoại. Việc mở rộng phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo quan hệ huyết thống của BLDS 2005 là hoàn toàn chính xác và hợp lý. Không có lý do gì mà quy định ông bà nội ngoại, cụ nội, cụ ngoại thuộc diện thừa kế của cháu chắt mà cháu chắt lại không thuộc diện thừa kế của ông, bà nội ngoại, cụ nội, cụ ngoại. Vì vậy, việc bổ sung cháu chắt vào diện thừa kế theo pháp luật là kịp thời và cần thiết.
Trên cơ sở quan hệ huyết thống, diện thừa kế cho đến nay đã được mở rộng ra rất nhiều so với trước đây. Từ chỗ diện thừa kế chỉ được xác định dựa trên cơ sở huyết thống xuôi con thuộc diện thừa kế của bố mẹ sau đó mở rộng đến bố mẹ thuộc diện thừa kế theo pháp luật của con, ông bà nội ngoại thuộc diện thừa kế của các cháu và ngược lại, cụ nội, cụ ngoại thuộc diện thừa kế của các chắt và ngược lại, anh chị em ruột thuộc diện thừa kế của nhau, cô, dì, chú bác, cậu ruột thuộc diện thừa kế của cháu ruột và ngược lại. Việc quy định mở rộng diện thừa kế theo quan hệ huyết thống phản ánh tính chất của quan hệ thừa kế là loại quan hệ tài sản đặc biệt có mối liên hệ chặt chẽ với nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc nuôi dưỡng nhau giữa những người thân thuộc trong gia đình Việt Nam. Mặt khác, nó phù hợp với nguyện vọng của người dân muốn tài sản của mình để lại sau khi chết sẽ dành cho những người thương yêu, gần gũi với mình nhất được hưởng.
Trước hết, nếu xét về mối quan hệ giữa cha mẹ đẻ với con đẻ, từ cổ xưa cho đến ngày nay đều quy định con cái được thừa kế tài sản do cha mẹ để lại. Pháp luật thời kỳ phong kiến mặc dù có sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa con trai và con gái nhưng lại rất coi trọng yếu tố huyết thống, dòng tộc và điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo nguyên tắc, lễ giáo phong kiến. Luật Hồng Đức quy định con gái được xếp vào hàng thừa kế, con trai và con gái đều được chia phần thừa kế như nhau, nhưng phần đất hương hỏa bao giờ cũng giao cho con trai trưởng giữ, không có con trai trưởng được giao cho con gái trưởng, người con gái trưởng chỉ được hưởng đất hương hỏa một đời mình, sau đó phải trả lại cho nội tộc để đảm bảo dòng chảy liên tục về huyết thống, đất hương hỏa bao giờ cũng thuộc về dòng họ nội. Điều 388 Luật Hồng Đức quy định: "Cha mẹ mất cả, có ruộng đất, chưa kịp để lại chúc thư, mà anh chị em tự chia nhau thì lấy một phần hai mươi số ruộng đất làm hương hỏa giao cho con trai trưởng giữ, không có con trai trưởng thì giao cho con gái trưởng" [31].
Đến thời kỳ thực dân đô hộ, quyền thừa kế của con cái đối với tài sản của bố mẹ để lại vẫn được pháp thừa nhận. Điều 332 Dân luật Trung kỳ quy định:
Người nào khi còn sống mà không chia tài sản của mình và cũng không lập chúc thư, đến khi mệnh một thời di sản của người ấy, nếu có con thời để lại cho con. Khi người mệnh một trước kia không chia tài sản của mình và cũng không lập chúc thư mà nói rõ ràng cho đứa con nào, thời con trai, con gái đều được chia tài sản ấy mỗi người một phần bằng nhau [5].
Nội dung của quy định này phản ánh con cái được hưởng tài sản của bố mẹ không phân biệt con trai, con gái. Trường hợp bố mẹ không để lại di chúc phân chia thì con trai hay gái đều được hưởng bằng nhau. Quy định về việc con được hưởng di sản của cha mẹ tiếp tục được kế thừa và phát triển trong các văn bản pháp luật sau này của chế độ mới. Pháp luật về hôn nhân và gia đình của chế độ mới luôn bảo vệ lợi ích chính đáng của những người con xét về quan hệ huyết thống với cha, mẹ và nghĩa vụ của người làm cha, làm mẹ đối với con. Sắc lệnh số 97 chính thức quy định diện thừa kế theo pháp luật bao gồm con cháu, vợ hay chồng của người để lại di sản. Và các văn bản được ban hành tiếp theo để điều chỉnh quan hệ thừa kế như Thông tư số 81; PLTK ngày 30/8/1990; BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005 đều quy định con thuộc diện thừa kế theo pháp luật của bố mẹ. Quyền thừa kế theo pháp luật của con không phụ thuộc vào hình thức hôn nhân của cha đẻ, mẹ đẻ. Các con đẻ của người để lại di sản, không phân biệt con trai hay con gái, con trong giá thú hay con ngoài giá thú, có năng lực hành vi dân sự hay không đều thuộc diện diện thừa kế của cha mẹ. Tuy nhiên, việc xác định cha mẹ cho con hiện nay vẫn là một vấn đề phức tạp và khó khăn. Nhưng điều này lại hết sức cần thiết vì đó là việc xác định huyết thống giữa cha mẹ và con, là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ các quyền nhân thân và quyền tài sản của công dân, trong đó có quyền thừa kế tài sản nếu có tranh chấp xảy ra.
Theo quy định của Luật HN&GĐ con trai, con gái đều có quyền thừa kế như nhau trong việc nhận di sản của bố mẹ để lại. Con đẻ gồm có con chung và con riêng. Con riêng lại gồm có con trong giá thú và con ngoài giá thú.
"Con chung" trước đây pháp luật nước ta gọi bằng thuật ngữ "con chính thức" là người con được sinh ra từ hôn nhân hợp pháp. Về mặt nguyên tắc, các trường hợp sau đây được coi là con chung của vợ chồng:
Con sinh ra sau khi đã tổ chức đăng ký kết hôn cho đến khi chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận và quyết định theo yêu cầu của vợ chồng hoặc cả hai bên vợ chồng.
Con sinh ra sau khi chấm dứt quan hệ hôn nhân do tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai bên vợ chồng nhưng người vợ đã có thai trong thời kỳ hôn nhân
Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn nhưng được cả vợ và chồng thừa nhận.
Về nguyên tắc con chung đương nhiên là người thừa kế theo pháp luật của bố mẹ khi bố mẹ qua đời.
"Con ngoài giá thú" là thuật ngữ để chỉ những người con được sinh ra không phải từ hôn nhân hợp pháp và là đứa trẻ không được người cha thừa nhận. Nói cách khác, con ngoài giá thú là con mà cha mẹ không phải là vợ chồng hoặc cha mẹ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng việc đăng ký kết hôn chưa được UBND xã, phường, thị trấn công nhận và ghi vào sổ đăng ký kết hôn.
Trong thời kỳ phong kiến, con sinh ra không phải từ hôn nhân chính thức được hưởng phần di sản ít hơn con chính thức. Nhưng Luật HN&GĐ 2000 quy định cho con ngoài giá thú được cha mẹ nhận hoặc được Tòa án nhân dân (TAND) cho nhận cha, mẹ có quyền và nghĩa vụ như con trong giá thú. Vì vậy, con trong giá thú và con ngoài giá thú đều được thừa kế của cha mẹ đẻ, và cha mẹ đẻ đều được thừa kế của con. Quy định này phù hợp với quan niệm hiện đại về quyền con người và quyền trẻ em và cũng mang lại sự bình đẳng, không có sự phân biệt đối xử với các con. Nhưng thực tế hiện nay còn tồn tại vấn đề con được thụ tinh trong ống nghiệm. Đây là vấn đề mới phát sinh và tồn tại trong một vài năm gần đây nên BLDS năm 1995 và Luật HN&GĐ năm 2000 chưa có quy phạm nào điều chỉnh. Đến BLDS năm 2005 vấn đề này cũng chưa được đề cập tới. Đây là một vấn đề mà các nhà làm luật cần quan tâm nghiên cứu và bổ sung kịp thời, đáp ứng được yêu cầu thực tế đặt ra.
- Trường hợp các cụ thuộc diện thừa kế theo pháp luật của chắt và ngược lại. BLDS năm 2005 quy định cụ nội, cụ ngoại thuộc diện thừa kế của chắt và ngược lại. Cụ nội là người đã sinh ra ông nội hoặc bà nội. Cụ ngoại là người sinh ra ông ngoại hoặc bà ngoại. Như vậy, các cụ của một người gồm có cha đẻ, mẹ đẻ của ông bà nội, ông bà ngoại; người đó là chắt của các cụ. Việc quy định các cụ thuộc diện thừa kế theo pháp luật của chắt và ngược lại nhằm củng cố truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, gắn kết các thế hệ với nhau bằng tình yêu thương nhân ái và nghĩa vụ, trách nhiệm của con cháu.
Điều 47 Luật HN&GĐ 2000 quy định:
Ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ và quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu, sống mẫu mực và nêu gương tốt cho con cháu. Trong trường hợp các cháu chưa thành niên hoặc cháu thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người nuôi dưỡng thì ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu [30].
- Theo quy định của Điều 676 BLDS 2005 ông bà nội ngoại thuộc diện thừa kế theo pháp luật của cháu và ngược lại. Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là những người có mối quan hệ huyết thống thuộc bề trên. Việc quy định ông bà nội ngoại thuộc diện thừ._. những lúc cụ Thân bị đau ốm. Khi cụ Thân chết, bà Tiệp về chịu tang và tham gia đầy đủ các lần cúng giỗ theo tập quán chung. Như vậy, giữa bà Tiệp và cụ Thân đã thể hiện mối quan hệ như mẹ con đẻ. Hai bên có mối quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như mẹ con. Điều này xuất phát từ tình cảm chân thành, tự nguyện và có tính bổn phận của hai người đối với nhau. Cấp sơ thẩm căn cứ vào Điều 682 BLDS năm 1995 chấp nhận yêu cầu xin chia thừa kế của bà Tiệp đối với di sản của cụ Thân (con riêng hưởng di sản của mẹ kế) là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 232/ 2005/ DSPT ngày 31/10/2005 của TAND thành phố Hà Nội đã quyết định giữ nguyên nội dung trên của bản án sơ thẩm.
Vụ án thứ ba: tranh chấp chia thừa kế tại xóm Chợ, xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, Hà Nội
Nội dung án sơ thẩm
Cụ Lê Văn Hợp chết năm 1976 có vợ cả là cụ Đàm Thị Ca chết năm 1946. Hai cụ có hai con chung là ông Giao và bà Hoan.
Năm 1948 cụ Hợp lấy vợ hai là cụ Nguyễn Thị Hà (cụ Hà chết năm 2002). Hai cụ có năm người con là bà Thìn, bà Hường, bà Vinh, bà Hiển và ông Thắng.
Các cụ chết đều không có di chúc.
Về di sản: Cụ Hợp, cụ Hà có 01 một ngôi nhà 4 gian trên 600 m2 đất tại xóm Chợ, xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Hiện ông Thắng, bà Thìn, bà Vinh đang quản lý, sử dụng.
Tháng 4/ 2005 ông Giao có đơn xin chia thừa kế di sản của cụ Hợp, cụ Hà để lại gửi TAND huyện Từ Liêm và nộp dự phí theo qui định của pháp luật.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 08/ 2006/ DSST ngày 23/01/2006 của TAND huyện Từ Liêm đã quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu xin chia thừa kế của ông Giao đối với di sản của cụ Hợp, cụ Hà để lại.
Xác định thời điểm mở thừa kế di sản của cụ Hợp là năm 1976. Thời hiệu quyền khởi kiện thừa kế đối với di sản của cụ Hợp được tính đến hết ngày 10/3/2003. Ông Giao nộp đơn xin chia di sản thừa kế gửi TAND huyện Từ Liêm tháng 4/2005 là đã hết thời hiệu. Phần di sản của cụ Hợp tiếp tục giao cho ông Thắng, bà Thìn, bà Vinh quản lý, sử dụng.
Xác định thời điểm mở thừa kế di sản của cụ Hà là năm 2002. Phần di sản của cụ Hà được chia đều cho ông Thắng, bà Thìn, bà Vinh, bà Hường, bà Hiển và ông Giao, bà Hoan.
Không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm, bà Hường, bà Hiển có đơn kháng cáo và nộp dự phí kháng cáo theo luật định.
Nội dung kháng cáo của bà Hường, bà Hiển cho rằng: ông Giao, bà Hoan với cụ Hà không hề có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như mẹ con. Đề nghị cấp phúc thẩm bác yêu cầu xin chia thừa kế của ông Giao, bà Hoan đối với di sản của cụ Hà
Tại cấp phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ và quá trình thẩm vấn tại phiên tòa nhận thấy: Sau khi cụ Ca (mẹ của ông Giao, bà Hoan) chết năm 1946; ông Giao, bà Hoan cùng bố là cụ Hợp ra Hà Nội sinh sống. Đến năm 1950 cụ Hà mới ra ở cùng, lúc này ông Giao đã 11 tuổi, bà Hoan đã 9 tuổi. Trước khi ông Giao lấy vợ có thời gian dài ở nhà bác ruột là ông Hòa; còn bà Hoan ở nhà cô Thoa. Từ năm 1958 ông Giao lấy vợ; năm 1960 bà Hoan lấy chồng và đều ở riêng tại Hà Nội. Bản thân ông Giao, bà Hoan đều thừa nhận do điều kiện công tác rất ít khi ông, bà về thăm cụ Ca. Mặc dù cụ Ca bị ốm kéo dài 7- 8 năm nhưng chỉ có một lần ông Giao đại diện mua quà đến viện thăm. Việc cúng giỗ cụ Hợp, ông Giao, bà Hoan đều thực hiện riêng tại nhà mình ở Hà Nội.
Với những nội dung trên, không đủ cơ sở xác định giữa ông Giao, bà Hoan và cụ Hà có sự chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như mẹ con. Vì vậy, tại bản án dân sự phúc thẩm số 114/ 2006/ DSPT ngày 19/5/2006 Hội đồng xét xử phúc thẩm TAND thành phố Hà Nội đã quyết định sửa án sơ thẩm, xử bác yêu cầu xin chia thừa kế của ông Giao, bà Hoan đối với di sản của cụ Hà để lại.
Nhận xét: Diện thừa kế theo quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng (con nuôi bố mẹ nuôi hưởng thừa kế của nhau; con riêng, cha dượng, mẹ kế hưởng thừa kế của nhau) cũng là một trong những diện thừa kế tồn tại cùng diện thừa kế theo quan hệ hôn nhân và diện thừa kế theo quan hệ huyết thống. Song diện thừa kế theo quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng ngoài qui định tại các điều 676 và 679 BLDS còn lại rất ít có các văn bản pháp lý hướng dẫn thực hiện. Cũng như nội dung nuôi con nuôi, vấn đề quan hệ giữa con riêng với bố dượng, mẹ kế; mối quan hệ thừa kế giữa họ với nhau đang là một nội dung phức tạp, hiện còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau trong việc xác định như thế nào thì họ được hưởng thừa kế của nhau. Việc đưa ra quyết định của một bản án đối với loại quan hệ này trong thực tiễn xét xử gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là văn bản pháp luật hướng dẫn về nội dung này quá mỏng, không đầy đủ; thiếu sự kết hợp đồng bộ với những qui định của Luật HN&GĐ. Trong thời gian tới, những nguyên nhân nêu trên cần sớm được khắc phục, tạo điều kiện cho công tác xét xử các vụ án có mối quan hệ này được thống nhất và thuận tiện.
3.4. Những đề xuất về hướng hoàn thiện các qui định về diện và hàng thừa kế theo pháp luật
Qua nhiều năm làm công tác xét xử các tranh chấp về thừa kế, thường xuyên nghiên cứu các qui phạm pháp luật về nội dung này để áp dụng vào việc giải quyết các vụ án cụ thể. Qua việc nghiên cứu lịch sử phát triển về pháp luật thừa kế của nước ta từ năm 1945 cho đến nay. Trong phạm vi mục đích của đề tài, nhằm góp phần nhỏ bé vào việc hoàn thiện các qui định về diện và hàng thừa kế theo pháp luật; góp phần nhỏ bé giúp mọi người dễ hiểu, hiểu thống nhất về diện và hàng thừa kế theo pháp luật. Tác giả luận văn mạnh dạn đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện các qui định về diện và hàng thừa kế theo pháp luật như sau:
Thứ nhất: Cần thiết đưa khái niệm "Diện những người thừa kế theo luật" thành một điều trong chương thừa kế của BLDS.
Trong thực tế, mọi người thường dùng khái niệm "Diện hưởng thừa kế theo pháp luật" song không phải ai cũng hiểu được đầy đủ, chính xác diện hưởng thừa kế theo pháp luật gồm những ai? Xác định dựa trên những mối quan hệ nào?
Thông tư số 81/ TANDTC ngày 24/7/1981 của TANDTC hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế; PLTK năm 1990; BLDS năm 1995 trước đây và BLDS năm 2005 hiện nay, diện những người thừa kế theo luật được nêu rải rác ở các điều luật, không qui định tập trung vào một điều luật riêng. Trong BLDS năm 2005, diện những người hưởng thừa kế theo luật được qui định tại Điều 676 người thừa kế theo pháp luật; Điều 678 quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ; Điều 679 quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế. Những điều luật đã nêu, cũng đã ghi nhận đầy đủ diện hưởng thừa kế theo pháp luật dựa trên ba mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng. Song để mọi người dễ tìm hiểu, hiểu nhanh chóng và chính xác những ai thuộc diện được hưởng thừa kế theo pháp luật, cũng như tạo ra một sự dẫn dắt có tính lôgic trong việc xây dựng các qui phạm pháp luật thì việc đưa khái niệm "Diện những người thừa kế theo pháp luật" thành một điều luật riêng trong chương thừa kế của BLDS năm 2005 (vị trí đặt trước Điều 676 người thừa kế theo pháp luật) là sự cần thiết.
Trong Thông tư 81/ TANDTC ngày 24/7/1981 của TANDTC hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế có ghi: Cơ sở pháp lý của việc thừa kế theo pháp luật là quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng. diện những người thừa kế theo pháp luật gồm những người thân gần gũi của những người chết theo ba quan hệ này. Trên tinh thần đó, điều luật cần bổ sung xin đề xuất có nội dung như sau:
Tên của điều luật: Diện những người thừa kế theo pháp luật.
Nội dung của điều luật: Diện những người thừa kế theo pháp luật bao gồm: những người có mối quan hệ hôn nhân hợp pháp, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng với người đã chết.
Thứ hai: Cần thiết có sự đồng bộ, thống nhất khi soạn thảo các văn bản dưới luật để hướng dẫn thực hiện luật hôn nhân gia đình năm 2000 với BLDS năm 2005 nói chung, chương thừa kế nói riêng.
Như chúng ta đã biết, diện những người hưởng thừa kế theo pháp luật bao gồm: quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng. Tương ứng với diện thừa kế theo quan hệ hôn nhân là các chương kết hôn; chương quan hệ giữa vợ và chồng; chương ly hôn trong Luật HN&GĐ. Tương ứng với diện thừa kế theo quan hệ huyết thống và diện thừa kế theo quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng là các chương quan hệ giữa cha, mẹ và con; chương xác định cha, mẹ, con; chương con nuôi; chương cấp dưỡng... Do có mối liên quan chặt chẽ như vậy, nên khi soạn thảo các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật HN&GĐ năm 2000 hay văn bản hướng dẫn thực hiện nội dung liên quan đến diện người hưởng thừa kế theo pháp luật trong chương thừa kế của BLDS năm 2005 cần có sự nghiên cứu toàn diện, đồng bộ và thống nhất giữa Luật HN&GĐ năm 2000 và chương thừa kế của BLDS năm 2005. Điều này được thể hiện rõ nét trong Nghị quyết số 01/ 2003/ NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình tại điểm 1, mục II qui định về "Thừa kế trong trường hợp chưa có đăng ký kết hôn" như sau:
a) Trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 (ngày Luật HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực), nếu có một bên chết trước, thì bên vợ hoặc chồng còn sống được hưởng di sản của bên chết để lại theo qui định của pháp luật về thừa kế.
Điều này phù hợp qui định về "hôn nhân thực tế" quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 nhưng không đi đăng ký kết hôn mặc dù họ đủ đều kiện kết hôn, thì được pháp luật thừa nhận là hôn nhân thực tế, vì vậy họ được hưởng di sản của nhau (Nghị quyết số 01/ NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 và Nghị quyết số 35/ 2000/QH10 ngày 09/6/2000 hướng dẫn thi hành Luật HN&GĐ năm 2000).
b) Trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện đăng ký kết hôn theo qui định của Luật HN&GĐ năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày 01/01/2001 đến ngày 01/01/2003; do đó cho đến trước ngày trước ngày 01/01/2003 mà có một bên vợ hoặc chồng chết trước thì bên chồng hoặc vợ còn sống được hưởng di sản của bên chết để lại theo qui định của pháp luật về thừa kế. Trong trường hợp sau ngày 01/01/2003 họ vẫn chưa đăng ký kết hôn mà có một bên vợ hoặc chồng chết trước và có tranh chấp về thừa kế thì trong khi chưa có qui định mới của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tùy từng trường hợp mà toà án xử lý như sau:
- Nếu chưa thụ lý vụ án thì không thụ lý.
- Nếu đã thụ lí vụ án và đang giải quyết thì ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Với qui định tại điểm b nêu ở trên thì trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/ 01/1987 đến ngày 01/01/2001 có đủ điều kiện kết hôn mà chưa đi đăng ký kết hôn nếu đến trước ngày 01/01/2003 mà có một bên vợ hoặc chồng chết trước thì bên vợ hoặc chồng còn sống được hưởng di sản của bên chết để lại theo quy định của pháp luật thừa kế. Điều này phù hợp với các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: đối với trường hợp nam nữ chung sống trong điều kiện như nêu ở trên nếu có một bên xin ly hôn thì tòa án áp dụng các qui định về ly hôn của Luật HN&GĐ năm 2000 để giải quyết, đồng nghĩa với việc coi hôn nhân của họ là hôn nhân thực tế được pháp luật bảo hộ.
Riêng qui định trong trường hợp sau ngày 01/ 01/2003 họ vẫn chưa đăng ký kết hôn mà có một bên vợ hoặc chồng chết và có tranh chấp về thừa kế thì chờ qui định mới của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về cách giải quyết. Điều này không phù hợp với qui định, từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đi đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng (nghị quyết số 35/ 2000/ QH 10 ngày 09/6/2000 hướng dẫn thực hiện Luật HN&GĐ năm 2000). Nếu pháp Luật HN&GĐ đã không công nhận không công nhận họ là vợ chồng thì trong trường hợp này nghị quyết số 01/ 2003/ NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 cũng nên qui định họ không phải là vợ chồng hợp pháp nên không được hưởng thừa kế của nhau. Có như vậy mới có sự thống nhất giữa các văn bản hướng dẫn thực hiện luật hôn nhân gia đình năm 2000 với các nội dung liên quan đến diện người hưởng thừa kế theo pháp luật trong chương thừa kế của BLDS năm 2005.
Thứ ba: Cần có văn bản hướng dẫn về việc nuôi con nuôi theo Luật HN&GĐ năm 2000, làm cơ sở cho việc xác định cho hưởng thừa kế theo pháp luật trong trường hợp người dược hưởng di sản thừa kế là con nuôi.
Khác với việc xác định quan hệ huyết thống, cơ sở để xác định quan hệ nuôi con nuôi luôn là vấn đề phức tạp, có nhiều lúng túng, bất cập trong thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế.
Bản chất của việc nhận nuôi con nuôi là xuất phát từ tình cảm,từ tình thương, sự nhường cơm xẻ áo cho nhau. Đối tượng nhận làm con nuôi thường là trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi, trẻ tàn tật hoặc những đứa trẻ của gia đình có họ hàng với người nhận nuôi có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Do vậy, trong thực tế việc nhận nuôi con nuôi thường không tuân thủ qui định phải đăng ký và ghi vào sổ hộ tịch theo qui định tại các điều 24; 37; 72 Luật HN&GĐ năm 1959; 1986 và 2000. Như vậy, khái niệm nuôi con nuôi thực tế cần phải được đặt ra và cần phải được làm rõ.
So sánh với quan hệ hôn nhân, theo qui định của Luật HN&GĐ năm 1959; 1986 và 2000 đều có điều qui định: Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Tuy nhiên trong thực tế, có rất nhiều cặp vợ chồng chung sống, đủ điều kiện kết hôn mà không đăng ký kết hôn. Khái niệm "Hôn nhân thực tế" được đặt ra và đã được giải quyết cơ bản, triệt để bằng các văn bản pháp luật:
Nghị quyết số 01/ NQ- HĐTP TANDTC ngày 20/10/1988;
Nghị quyết số 35/ 2000/ QH10 ngày 09/ 6/ 2000; Thông tư liên tịch số 01/ 2001/ TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 (nội dung đã được nêu tại phần 3.3.2). Trong khi đó, khái niệm "Nuôi con nuôi thực tế" mới chỉ được nhắc đến tại hai văn bản pháp luật, đó là:
Tại Thông tư số 81/ TANDTC ngày 24/7/1981 của TANDTC hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế, qui định:
Con nuôi được thừa kế phải là con nuôi hợp pháp, tức là việc nuôi con nuôi phải được UBND cơ sở nơi trú quán của người nuôi hoặc của đứa trẻ công nhận và ghi vào sổ hộ tịch. Tuy nhiên, trong thực tế có những trường hợp nhân dân chưa hiểu pháp luật nên chưa xin chính quyền công nhận và đăng ký vào sổ hộ tịch việc nuôi con nuôi. Trong trường hợp này, nếu việc nhận nuôi con nuôi là ngay thẳng, cha mẹ đẻ của đứa trẻ hoàn toàn tự nguyện, việc nuôi dưỡng đứa trẻ được đảm bảo, thì coi là con nuôi thực tế. Con nuôi và bố mẹ nuôi có quyền thừa kế lẫn nhau [46].
Nghị quyết số 01/ NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số qui định của Luật HN&GĐ năm 1986, tại điểm 6 có nêu: "Nếu việc nuôi con nuôi trước đây chưa được ghi vào sổ hộ tịch nhưng việc nuôi con nuôi đã được mọi người công nhận và cha mẹ nuôi đã thực hiện nghĩa vụ với con nuôi thì việc nuôi con nuôi vẫn có những hậu quả pháp lý nhất định" [47].
Ngoài hai văn bản pháp luật nêu trên có nhắc đến khái niệm "Nuôi con nuôi thực tế" thì hiện không còn văn bản pháp luật nào nhắc đến khái niệm này. Do văn bản pháp luật thiếu, nội dung chưa cụ thể, chưa rõ ràng dẫn đến việc áp dụng trong thực tiễn gặp nhiều lúng túng, bất cập. Đây cũng là hạn chế trong công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật đang đòi hỏi phải có tính đồng bộ, tính pháp chế nhất là trong giai đoạn hiện nay Luật HN&GĐ năm 2000 đang có hiệu lực thi hành mà chưa có văn bản pháp luật nào hướng dẫn về nội dung này.
Thứ tư: Cần có văn bản hướng dẫn về mối quan hệ giữa con riêng với cha dượng, mẹ kế làm cơ sở cho việc xem xét họ có được hưởng thừa kế di sản của nhau hay không? Diện thừa kế theo quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng (con nuôi bố mẹ nuôi hưởng thừa kế của nhau; con riêng, cha dượng, mẹ kế hưởng thừa kế của nhau) cũng là một trong những diện thừa kế tồn tại cùng diện thừa kế theo quan hệ hôn nhân và diện thừa kế theo quan hệ huyết thống. Song diện thừa kế theo quan hệ chăm sóc nuôi, dưỡng ngoài qui định tại Điều 676 và Điều 679 BLDS còn lại rất ít có các văn bản pháp lý hướng dẫn thực hiện. Cụ thể về nội dung này duy nhất có nghị quyết số 02/ HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số qui định của PLTK, có nêu: nói chung, con riêng và cha kế, mẹ kế không được thừa kế tài sản của nhau, vì không có quan hệ huyết thống với nhau. Tuy nhiên, nếu cha kế, mẹ kế chăm sóc, nuôi dưỡng con riêng thì cha kế, mẹ kế là người thừa kế hàng thứ nhất của con riêng; nếu con riêng chăm sóc, nuôi dưỡng cha kế, mẹ kế thì con riêng là người thừa kế hàng thứ nhất của cha kế, mẹ kế; nếu cha kế, mẹ kế chăm sóc, nuôi dưỡng con riêng và con riêng cũng chăm sóc, nuôi dưỡng cha kế, mẹ kế thì họ là người thừa kế hàng thứ nhất của nhau. Ngoài nội dung hướng dẫn trên thì không còn văn bản nào hướng dẫn về nội dung này. Đặc biệt trong thời điểm có sự ra đời của BLDS năm 1995; BLDS năm 2005 thì văn bản hướng dẫn về nội dung này càng trở lên cần thiết vì nội dung hướng dẫn trước đó không còn giá trị pháp lý nữa. Chính vì vậy, trong thực tiễn xét xử các vụ án thừa kế liên quan đến loại quan hệ này gặp rất nhiều khó khăn trong việc đánh giá thế nào là chăm sóc, thế nào là nuôi dưỡng? Mức độ chăm sóc, nuôi dưỡng như thế nào là đủ để chấp nhận yêu cầu xin chia thừa kế của con riêng đối với cha dượng, mẹ kế và ngược lại của cha dượng, mẹ kế đối với con riêng. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng trong trường hợp họ ở cùng với nhau có khác biệt gì so với trường hợp họ không ở cùng với nhau? Điều này rất cần được hướng dẫn bằng các văn bản dưới luật để có sự áp dụng thống nhất trong quá trình giải quyết các vụ án thuộc loại quan hệ này tại các cấp tòa án.
Thứ năm: Cần có văn bản hướng dẫn về việc thừa kế thế vị trong mối quan hệ nuôi con nuôi và con riêng với bố dượng, mẹ kế.
Điều 678 của BLDS năm 2005 qui định: Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo qui định tại Điều 676 và Điều 677 của Bộ luật này.
Điều 679 BLDS năm 2005 qui định: Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo qui định tại Điều 676 và Điều 677 của Bộ luật này.
Điều 677 BLDS năm 2005 qui định: Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.
Trên cơ sở quy định của các điều luật đã nêu người con nuôi và người con riêng nếu có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật thì ngoài việc được hưởng di sản thừa kế của cha nuôi, mẹ nuôi; của cha dượng, mẹ kế còn được thừa kế di sản theo qui định tại Điều 677 thừa kế thế vị.
Trường hợp con riêng đối với cha dượng, mẹ kế xảy ra các trường hợp sau:
1. Người con riêng có sinh con (con đẻ). Trong trường hợp người con riêng chết trước cha dượng, mẹ kế của mình, theo Điều 677 thừa kế thế vị thì người con đẻ của người con riêng sẽ được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ đẻ của mình được hưởng từ cha dượng, mẹ kế nếu còn sống.
2. Nếu người con riêng không có con đẻ mà chỉ có con nuôi hoặc chỉ có con riêng thì người con nuôi hoặc người con riêng đó có được hưởng thừa kế di sản theo qui định tại điều Điều 677 của Bộ luật này hay không?
3. Cũng trong hoàn cảnh như nêu trên xảy ra đối với trường hợp là chắt thì sẽ được giải quyết như thế nào?
Trường hợp nuôi con nuôi xảy ra các trường hợp sau:
1. Một người chưa có vợ (chồng) hoặc đã góa vợ (chồng) nhận con nuôi. Sau người này mới lấy vợ (chồng) thì người con nuôi có dược coi là con nuôi của vợ chồng hay không? Quyền hưởng thừa kế của người con nuôi được thực hiện như thế nào?
2. Người con nuôi có sinh con (con đẻ). Trong trường hợp người con nuôi chết trước cha nuôi, mẹ nuôi của mình, theo Điều 677 thừa kế thế vị thì người con đẻ của người con nuôi sẽ được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ đẻ của mình được hưởng từ cha nuôi, mẹ nuôi nếu còn sống.
3. Nếu người con nuôi không có con đẻ mà chỉ có con nuôi hoặc chỉ có con riêng thì người con nuôi hoặc người con riêng đó có được hưởng thừa kế di sản theo qui định tại điều Điều 677 của Bộ luật này hay không? Trường hợp này nếu xảy ra với người con đẻ của người có di sản để lại thì cách giải quyết có gì khác không?
4. Cũng trong hoàn cảnh như nêu trên xảy ra đối với trường hợp là chắt thì sẽ được giải quyết như thế nào?
Mối quan hệ nuôi con nuôi; con riêng với cha dượng, mẹ kế trong thực tiễn xét xử luôn là nội dung phức tạp, cần có các văn bản pháp luật hướng dẫn để hướng dẫn công tác xét xử, đảm bảo có quan điểm thống nhất giữa các cấp xét xử. Thừa kế thế vị trong các mối quan hệ này càng phức tạp hơn, đồng thời cũng là lĩnh vực có nhiều mới mẻ, rất cần đến sự hướng dẫn của các văn bản dưới luật.
Thứ sáu: Cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền pháp luật nói chung, pháp luật về thừa kế nói riêng.
Bất cứ văn bản pháp luật nào ra đời mà không đi vào thực tế, không phù hợp với thực tế thì không những không phát huy được vai trò của pháp luật trong việc định hướng hành vi xử sự của mỗi người mà tự thân nó sẽ bị mất đi theo qui luật tự đào thải.
Để văn bản pháp luật đi vào thực tế, ngoài chất lượng của văn bản pháp luật đó thì việc tuyên truyền pháp luật đóng vai trò hết sức quan trọng. Kiến thức về pháp luật thừa kế gắn liền với mỗi gia đình, hơn nữa nó cũng có cách giải quyết mang tính công thức nhất định, rất thuận tiện cho công tác tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân. Hình thức tuyên truyền có thể bằng tờ rơi, bằng hệ thống truyền thanh, báo chí... Khi người dân hiểu biết kiến thức pháp luật về thừa kế thì tranh chấp về thừa kế, số lượng cũng như tính chất phức tạp của nó sẽ giảm trong thực tế đời sống xã hội.
Kết luận
Những tranh chấp trong quan hệ thừa kế ngày càng trở lên phổ biến và phức tạp hơn. Việc xác định chính xác diện và hàng thừa kế có ý nghĩa pháp lý quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp về quyền thừa kế. Việc nghiên cứu những quy định của pháp luật về diện và hàng thừa kế giúp chúng ta hiểu đúng, hiểu rõ hơn về những người thừa kế của người chết gồm những người thân thích của người để lại di sản cũng như thứ tự ưu tiên hưởng di sản thừa kế theo pháp luật.
Đối với những nhà nghiên cứu, những học giả say mê lĩnh vực này luôn nhận thức đúng đắn về những gì đạt được trong khoa học pháp lý về quyền thừa kế theo pháp luật của công dân. Từ đó có những ý kiến đóng góp xác đáng nhằm hoàn thiện hơn nữa chế định thừa kế nói chung và những quy định về diện và hàng thừa kế nói riêng để nhằm nâng cao hiệu quả của những quy định này.
Đối với cán bộ trong ngành tòa án, những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, việc xác định đúng diện và hàng thừa kế sẽ cho những kết luận và cách giải quyết hợp tình, hợp lý, nâng cao vai trò của Nhà nước và pháp luật đối với đời sống của nhân dân.
Đối với mọi công dân việc tìm hiểu và nhận thức tốt vấn đề này sẽ giúp cho họ cùng với các cơ quan chức năng bảo vệ tốt nhất quyền thừa kế của mọi người được triệt để và tuân thủ pháp luật.
Quyền thừa kế đã được ghi nhận tại Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là quyền cơ bản của công dân, có ý nghĩa cả về mặt kinh tế và chính trị. Bởi quyền thừa kế luôn gắn với quyền sở hữu, góp phần tạo tâm lý yên tâm, ổn định cho mọi công dân trong quá trình lao động, sản xuất, kinh doanh.
Các quy định về thừa kế trong BLDS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đánh dấu bước phát triển mới của ngành luật dân sự nói chung và pháp luật thừa kế nói riêng. BLDS 2005 là kết quả của quá trình pháp điển hóa những quy định của pháp luật dân sự ở Việt Nam nói chung trong đó có những quy định về thừa kế trong hơn năm mươi năm qua. Tuy nhiên, thực tiễn luôn phức tạp và có những biến đổi khó lường. Vì vậy, yêu cầu hoàn thiện những quy định về pháp luật thừa kế trong đó có nội dung diện và hàng thừa kế luôn là vấn đề được đặt ra ở bất cứ giai đoạn nào trong quá trình phát triển của đất nước.
danh mục Tài liệu tham khảo
Ph. Ăngghen (1972), Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của Nhà nước, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Nguyễn Mạnh Bách (1993), Chế độ hôn sản và thừa kế trong luật Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
Trần Hữu Biền và Đinh Văn Thanh (1995), Hỏi đáp về pháp luật thừa kế, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Bộ Dân luật Bắc kỳ năm 1931.
Bộ Dân luật Trung kỳ năm 1936.
Bộ luật Dân sự của Cộng hòa Pháp năm 1998.
Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1995.
Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005.
Bộ luật dân sự Nhật Bản năm 1995.
Bộ Tư pháp (1956), Thông tư số 1742-BNC ngày 18/9 quy định một số vấn đề về thừa kế, Hà Nội.
Bộ Tư pháp (1998), Báo cáo tổng kết 8 năm thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986, Hà Nội.
Bộ Tư pháp (2002), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Chính phủ (1950) Sắc lệnh số 97/ SL của Chủ tịch nước ngày 22/5 sửa đổi một số quy lệ và chế định trong Dân luật.
Chính phủ (1960), Sắc lệch số 02/SL của Chủ tịch nước ngày 13/1 về việc công bố Luật Hôn nhân và Gia đình ngày 29/12/1959, Hà Nội.
Chính phủ (1998), Nghị định số 83/NĐ-CP ngày 10/10 về đăng ký hộ tịch, Hà Nội.
Chính phủ (2000), Chỉ thị số 15/2000 ngày 9/8 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Hà Nội.
Chính phủ (2000), Nghị định số 70/NĐ-CP ngày 03/10 quy định chi tiết về thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Hà Nội.
Chính phủ (2001), Nghị định số 77/NĐ-CP ngày 22/10 quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10, Hà Nội.
Chính phủ (2004), Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10 về hướng dẫn thực hiện Luật đất đai năm 2003, Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Điện (1999), Một số suy nghĩ về thừa kế trong Bộ luật dân sự Việt Nam, Nxb Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Ngọc Điện (2001), Bình luận khoa học về thừa kế trong Bộ luật Dân sự, Nxb Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.
Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946.
Hoàng Việt luật lệ năm 1812.
Lê Hương Lan (1996), "Tìm hiểu các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam trong thời kỳ phong kiến", Tòa án nhân dân, (6).
Luật đất đai năm 2003.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
Luật Hồng Đức.
Phan Trung Lý (2000), "Vấn đề tài sản giữa vợ và chồng trong Dự thảo Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi", Nhà nước và pháp luật, (3).
Nhà pháp luật Việt - Pháp (1998), Bộ luật Dân sự của Cộng hòa Pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lê Kim Quế (2001), 110 câu hỏi về thừa kế trong Bộ luật Dân sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Quốc hội (2000), Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6 về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Hà Nội.
Tạp chí Dân chủ và pháp luật (2001), Số chuyên đề về Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
Phùng Trung Tập (2004), Thừa kế theo pháp luật của công dân từ năm 1945 đến nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (2001), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội năm 2000, Hà Nội
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (2002), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội năm 2001.
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (2003), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội năm 2002.
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (2004), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội năm 2003.
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (2005), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội năm 2004.
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội (2006), Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội năm 2005.
Tòa án nhân dân tối cao (1968), Thông tư số 594-TANDTC ngày 27/8 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (1978), Thông tư số 60-TANDTC ngày 22/2 hướng dẫn giải quyết các trường hợp của cán bộ, bộ đội có vợ, có chồng trong Nam ra Bắc tập kết lấy vợ, lấy chồng khác, Hà Nội
Tòa án nhân dân tối cao (1981), Thông tư số 81-TANDTC ngày 24/7 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (1988), Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/12 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (1990), Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP ngày 19/10 hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp lệnh thừa kế 1990, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (2003), Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 06/4 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp (2001), Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT ngày 03/01 hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10, Hà Nội.
Trung tâm Từ điển học (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích từ ngữ Luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội, (2000), Quốc triều Hình luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội, (1998), Giáo trình Luật Dân sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội, (2001), Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Đinh Trung Tụng (2001), "Khái quát một số điểm mới của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000", Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề về Luật Hôn nhân và Gia đình.
Đinh Trung Tụng (2001), "Những quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000", Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề về Luật Hôn nhân và Gia đình.
ủy ban Thường vụ Quốc hội (1990), Pháp lệnh thừa kế, Hà Nội.
ủy ban Thường vụ Quốc hội (2006), Nghị quyết số 1037/2006/NQ- UBTVQH11 ngày 27/7 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1/7/1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (1996), Thông tin chuyên đề về Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (1996), Một số vấn đề về pháp luật dân sự Việt Nam từ thế kỷ XV đến thời Pháp thuộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
._.