mục lục
Lời mở đầu.
Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới là một trong những xu hướng vận động chủ yếu trong đời sống kinh tế quốc tế hiện nay. Với xu hướng này thì việc hội nhập và mở cửa nền kinh tế quốc gia đã trở thành điều kiện bắt buộc của sự phát triển. Các quốc gia muốn tồn tại và phát triển thì không còn cách nào khác là phải có sự hợp tác kinh tế quốc tế. Với sự hợp tác kinh tế quốc tế đang diễn ra trên khắp toàn cầu thì đầu tư nước ngoài đã trở thành vấn đề quan trọng trong quan
68 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1287 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Địa vị pháp lý về Doanh nghiệp liên doanh theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hệ kinh tế giữa các nước.
Hoà chung vào xu thế của thời đại, phù hợp với sự nghiệp đổi mới đất nước, Việt Nam đã rất chú trọng quan tâm đến việc tạo ra môi trường đầu tư ổn định, hấp dẫn và có sức cạnh tranh cao với các nước trong lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài. Việc Nhà nước ta ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 cũng là nhằm mở rộng và thu hút vốn đầu tư từ nhiều nước trên thế giới. Và để phù hợp với thực trạng đầu tư ở từng giai đoạn phát triển của đất nước, Luật Đầu tư nước ngoài đã được sửa đổi, bổ sung lãi thứ nhất năm 1990 và lần thứ hai năm 1992. Đến năm 1996 thì để thu hút có hiệu quả hơn nữa nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nhà nước ta đã ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 thay thế các Luật đầu tư nước ngoài trước đó.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài còn có những tồn tại và bộc lộ nhiều thiếu sót, hạn chế trong các chính sách pháp luật về đầu tư nước ngoài. Hiện nay, trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính của các nước trong khu vực và trên thế giới đã và đang tác động tiêu cực đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Do vậy yêu cầu cấp bách hiện nay cần làm sáng tỏ những vấn đề pháp lý của Luật Đầu tư nước ngoài.
Đề tài “Địa vị pháp lý của doanh nghiệp liên doanh theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” là một trong những vấn đề pháp lý của Luật đầu tư. Chính vì vậy, em đã mạnh dạn chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp với mong muốn tình hiệu sâu sắc hơn các vẫn đề pháp lý về đầu tư nước ngoài, đặc biệt là địa vị pháp lý của doanh nghiệp liên doanh, cũng như xem xét một cách tổng thể khoa học quyền và nghĩa vụ của hình thức này theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Bằng các phương pháp phân tích, so sánh, chứng minh và tổng hợp, đề tài này được trình bày như sau:
Lời mở đầu
Chương I - Lý luận chung về doanh nghiệp liên doanh theo Luật Đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam.
Chương II - Quy định của pháp luật về thành lập, quản lý, giải thể và
phá sản doanh nghiệp liên doanh.
Chương III - Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp liên doanh
Kết luận và kiến nghị.
Để giải quyết được các vấn đề nêu trên thì em đã phải sưu tầm, nghiên cứu các tài liệu như: Nghiên cứu đường lối chính sách của Đảng thể hiện trong các nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần VI, VII, VIII; Hiến pháp năm 1992 của nước CHXHCN Việt Nam, các văn bản pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài và các văn bản pháp luật khác có liên quan như: Bộ luật đất đai, Luật Công ty, Luật lao động...: Nghiên cứu, sưu tầm các tài liệu, sách báo có liên quan.
Do những hạn chế nhất định của người viết về hiểu biết và trình độ. Mặc dù đã được hoàn thành song bản luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Vì vậy em rất mong nhận được những ý kiến góp ý, chỉ bảo của các thầy cô giáo và các bạn để nâng cao nhận thức cho bản thân.
Chương I
Lý luận chung về doanh nghiệp liên doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
I. Khái niệm về doanh nghiệp liên doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
1. Quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp liên doanh.
Sau khi thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chính sách để phát triển nền kinh tế của đất nước. Tuy nhiên do nền kinh tế của đất nước trong giai đoạn này là nền kinh tế thời hậu chiến, nói chung là suy sụp, yếu kém. Chính sách của Nhà nước ta là tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả ba lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng. Nhà nước vận hành theo cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp và can thiệp sâu vào các hoạt động kinh tế đã kìm hãm sự phát triển khách quan của nó. Trong khi đó Việt Nam là một quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn nhân lực dồi dào nhưng lại thiếu vốn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, kể cả đội ngũ cán bộ công nhân lành nghề để khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước.
Chính vì vậy, để phát triển nền kinh tế của đất nước với cơ sở kinh tế như vậy thì đi đôi với việc thu hút các nguồn vốn trong nước, cần phải thu hút các nguồn vốn và kỹ thuật từ bên ngoài để góp phần khôi phục và phát triển nền kinh tế của đất nước là một việc làm rất cần thiết và cấp bách. Vì vậy, ngày 18 - 4 - 1977 Hội đồng Chính phủ ta đã ra Nghị định số 115 - CP ban hành: “ Điều lệ về đầu tư của nước ngoài ở nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Với việc ban hành điều lệ này, Việt Nam đã tỏ rõ thái độ của mình cho phép đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, sẵn sàng tham gia quan hệ hợp tác quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới.
Điều 5 Nghị định 115 - CP quy định : Bên nước ngoài có thể đầu tư ở Việt Nam theo các hình thức sau đây:
1. Hợp tác sản xuất chia sản phẩm;
2. Xí nghiệp hoặc Công ty hỗn hợp;
3. Xí nghiệp tư doanh chuyên sản xuất hàng xuất khẩu.
Quy định trên đây là tiền đề đầu tiên cho sự ra đời của các hình thức đầu tư được quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trên thực tế bản thân Điều lệ về đầu tư nước ngoài năm 1977 chỉ là một văn bản dưới luật nên giá trị pháp lý của nó chưa cao, đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài thiếu tin tưởng khi tiến hành đầu tư tại Việt Nam. Họ không tin tưởng vào tính bền vững của Điều lệ này vì đây là một khung pháp lý thiếu chặt chẽ, không đầy đủ. Hơn thế nữa, những vấn đề mà các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm như thời hạn đầu tư thì ngắn, chỉ từ 10 - 15 năm; phạm vi đầu tư thì không quy định cụ thể, gây khó khăn cho các nhà đầu tư trong việc tìm kiếm lĩnh vực đầu tư; về phần vốn góp của Bên nước ngoài ít nhất phải bằng 30% và nhiều nhất không quá 49% tổng số vốn là một vấn đề rất phi thực tế. Không những thế, nếu do yêu cầu của nền kinh tế quốc dân, phải quốc hữu hoá xí nghiệp thì phần vốn này có thể bị quốc hữu hoá. Đây là những vấn đề mà các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt quan tâm, việc quy định như vậy làm cho các nhà đầu tư nước ngoài không thể yên tâm bỏ vốn đầu tư vào Việt Nam. Những vấn đề khác thì điều lệ cũng chưa quy định cụ thể, rõ ràng như trường hợp ưu đãi về thuế, miễn giảm thuế; tỷ giá hối đoái; chuyển lợi nhuận; quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư nước ngoài khi tham gia vào quản lý, điều hành xí nghiệp.
Do vậy trong suốt 10 năm khi Nhà nước ta ban hành Điều lệ về đầu tư nước ngoài, kèm theo nghị định của Hội đồng Chính phủ số 115 - CP ngày 18 - 4 -1977 đến năm 1987 không có một dự án đầu tư trực tiếp nào được thực hiện tại Việt Nam. Ngoài những hạn chế của Điều lệ không đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài còn do những điều kiện trong nước và quốc tế như đất nước có những khó khăn về kinh tế - xã hội lại bị bao vây, cấm vận từ bên ngoài.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI ( năm1986) đã đề ra đường lối đổi mới, với chính sách đổi mới tư duy nói chung và tư duy kinh tế nói riêng. Đường lối đổi mới kinh tế với nội dung là xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách về đầu tư nước ngoài cũng đứng trước đòi hỏi phải thay đổi, phải thể hiện được tư duy kinh tế mới và góp phần vào việc mở rộng và đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đôí ngoại. Do vậy ngày 29 - 12 - 1987 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII, tại kỳ họp thứ II đã thông qua “ Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”
Có thể nói, sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 xuất phát từ những yêu cầu khách quan của sự vận động xã hôị, đã tạo ra được một khung pháp lý khá hoàn chỉnh, hấp dẫn và nhìn chung là phù hợp với tập quán quốc tế. Đây là một bước tiến đáng kể của Việt Nam trong việc kêu gọi đầu tư nước ngoài, là cơ sở pháp lý vững chắc cho các nhà đầu tư nước ngoài có thể yên tâm khi tiến hành đầu tư tại Việt Nam.
Theo quy định tại Điều 4 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987: Các tổ chức, cá nhân nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam dưới các hình thức sau đây:
1. Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh;
2. Xí nghiệp hoặc Công ty liên doanh, gọi chung là xí nghiệp liên doanh;
3. Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Như vậy, hình thức “ Xí nghiệp hoặc Công ty hỗn hợp” theo quy định tại Nghị định 115 - 4 - 1977 đã được Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm1987 cụ thể hoá thành hình thức đầu tư “ Xí nghiệp hoặc Công ty liên doanh, gọi chung là xí nghiệp liên doanh”. Xí nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân, theo pháp luật Việt Nam. Do vậy, xí nghiệp liên doanh hoạt động theo nguyên tắc hạch toán độc lập, phù hợp với hợp đồng liên doanh, Điều lệ của xí nghiệp và quy định trong Giấy phép đầu tư.
Qua thực tiễn áp dụng, do tình hình quốc tế trên thế giới có nhiều thay đổi, cho nên để phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế và thực tiễn tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 đã được sửa đổi bổ sung lần thứ nhất vào ngày 30 - 6 - 1990 và sửa đổi bổ sung lần thứ 2 vào ngày 3 - 12 - 1992.
Tuy nhiên đứng trước bối cảnh đất nước và quốc tế có nhiều thay đổi. Đất nước bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiên đại hoá, hội nhập vào nền kinh tế của khu vực và trên thế giới. Để thực hiện chương trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước từ nay đến năm 2000, việc tiếp tục thu hút nguồn vốn bằng con đường đầu tư trực tiếp nước ngoài đứng trước thách thức mới như vấn đề khả năng gia tăng vốn nước ngoài. Bởi vì những năm gần đây, cuộc cạnh tranh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng trở nên gay gắt hơn. Các nước kêu gọi đầu tư trong khu vực và trên thế giới đã tiến hành những cải cách theo hướng thông thoáng hơn.
Chính vì vậy, ngày 12 - 11 - 1996 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 10 đã thông qua “Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996” thay thế Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 và hai Luật sửa đổi bổ sung vào năm 1990 và 1992. Việc ban hành Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 là nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý, khuyến khích mạnh mẽ và phát huy vai trò của việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với số lượng và chất lượng cao hơn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu, đổi mới công nghệ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước, góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế của nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Điều 4 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 quy định: Các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam dưới các hình thức sau đây:
1. Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh;
2. Doanh nghiệp liên doanh;
3. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Như vậy, Luật đầu tư vẫn quy định những hình thức cơ bản như: Hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, Luật đầu tư còn quy định các phương thức tổ chức đầu tư như đầu tư vào khu chế xuất, khu công nghiệp, đầu tư theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao , hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng - chuyển giao .
2. Khái niệm doanh nghiệp liên doanh.
Theo quy định tại Điều 2 khoản 7 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996: “ Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh”.
Quy định đó đã được cụ thể hoá trong điều 12, Nghị định số 12 - CP của Chính phủ ngày 18 - 2 - 1997 quy định chi tiết thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam:
1. Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa Bên hoặc các Bên Việt Nam với Bên hoặc các Bên nước ngoài để đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.
2. Doanh nghiệp liên doanh mới là doanh nghiệp được thành lập giữa doanh nghiệp liên doanh đã được phép hoạt động tại Việt Nam với nhà đầu tư nước ngoài hoặc với doanh nghiệp Việt Nam hoặc với doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đã được phép hoạt động tại Việt Nam.
Trong trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp liên doanh có thể được thành lập trên cơ sở hiệp định ký kết giữa Chính phủ CHXHCN Việt Nam với Chính phủ nước ngoài.
Theo Điều 4 luật đầu tư năm 1996 thì các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam dưới các hình thức sau đây:
1.Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh;
2. Doanh nghiệp liên doanh;
3. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
So với doanh nghiệp liên doanh, hình thức đầu tư dưới dạng hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh và doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài có những đặc điểm sau:
a. Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh. Đây là một hình thức đầu tư mà: “ Hai Bên hoặc nhiều Bên được hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh như hợp tác sản xuất phân chi lợi nhuận, phân chia sản phẩm và các hình thức hợp tác kinh doanh khác.
Đối tượng, nội dung, thời hạn kinh doanh, quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi bên, quan hệ giữa các bên do các Bên thoả thuận và ghi trong hợp đồng hợp tác kinh doanh”. .
Theo quy định tại điều 7 Nghị định 12 - CP: “ Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh ở Việt Nam mà không thành lập pháp nhân”.
Đặc trưng của hình thức đầu tư này là, các bên hợp doanh tuỳ ý thoả thuận quyền và nghĩa vụ liên quan trong hoạt động kinh doanh chung: từ góp vốn, quản lý kinh doanh, đại diện cho các bên trước Toà án và cơ quan Nhà nước Việt Nam; trách nhiệm của các bên đối với nhau; phân chia tiêu thụ sản phẩm, lợi nhuận và rủi ro đến kết thúc hợp đồng đều do các bên thoả thuận trong khuôn khổ pháp luật và được ghi trong hợp đồng. Các bên hợp tác kinh doanh mà không cần thành lập một doanh nghiệp mới có tư cách pháp nhân như trong trường hợp hợp tác kinh doanh thông qua doanh nghiệp liên doanh. Tài sản đưa vào kinh doanh chung sẽ là sở hữu chung theo phần vì nó khác với tài sản của doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân.
Như vậy, theo quy định của pháp luật về đầu tư nước ngoài thì chế độ pháp lý của loại hình hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp tác kinh doanh được thể hiện qua các điểm cơ bản sau:
+ Nội dung của hợp đồng hợp tác kinh doanh do các bên hợp doanh thoả thuận trên cơ sở tuân theo những nội dung chủ yếu được quy định tại điều 8 Nghị định 12 - CP.
+ Hợp đồng hợp tác kinh doanh do đại diện có thẩm quyền của các bên hợp doanh ký và nó chỉ có hiệu lực pháp lý sau khi được cơ quan cấp Giấy phép đầu tư chấp thuận thông qua việc cấp Giấy phép đầu tư trên cơ sở đề nghị của các bên hợp doanh.
+ Quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh do các bên thoả thuận và phải được ghi trong hợp đồng hợp tác kinh doanh.
+ Ngoài thực hiện các nghĩa vụ ghi trong hợp đồng, các bên hợp doanh đều phải thực hiện các nghĩa vụ với Nhà nước Việt Nam. Bên nước ngoài thực hiện các nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; Bên Việt Nam thực hiện các nghĩa vụ thuế và nghĩa vụ tài chính khác theo các quy định của pháp luật áp dụng đối với doanh nghiệp trong nước.
b. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài: Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh đều là hình thức “ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”, nhưng chúng cũng có đặc điểm riêng.
Điều 2 khoản 8 Luật đầu tư quy định: “ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam”.
Như vậy, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là một đơn vị kinh doanh do cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài thành lập nhằm mục đích kinh doanh theo pháp luật Việt Nam mà không có sự góp vốn tham gia của bất kỳ Bên Việt Nam nào. Do vậy, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập tại Việt Nam dưới hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn bảo đảm cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm bỏ vốn đầu tư tại Việt Nam.
Cơ sở pháp lý để doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập tại Việt Nam là khi được cơ quan cấp Giấy phép đầu tư cấp Giấy phép đầu tư và điều lệ của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được cơ quan cấp Giấy phép đầu tư chuẩn y.
II. Đặc điểm của doanh nghiệp liên doanh.
Đầu tư dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh là một hình thức đầu tư mà các bên tham gia doanh nghiệp cùng bỏ vốn thành lập tại Việt Nam, cùng quản lý nhằm mục đích kinh doanh chung trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký kết giữa Chính phủ CHXHCN Việt Nam với Chính phủ nước ngoài. Doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn theo pháp luật Việt Nam. Pháp nhân mới này là chủ thể thực hiện các hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, hoạt động độc lập với các bên liên doanh. Với tính chất là hình thức đầu tư có từ hai chủ thể trở lên và một trong các chủ thể đó phải là Bên Việt Nam và Bên nước ngoài. Do vậy doanh nghiệp liên doanh có những đặc điểm sau:
1. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập tại Việt Nam nhưng có yếu tố nước ngoài. Yếu tố này thể hiện:
a. Về chủ thể: Đây là hình thức doanh nghiệp liên doanh nên luôn phải có hai loại chủ thể là Bên Việt Nam và Bên nước ngoài. Bên Việt Nam là một bên gồm một hoặc nhiều doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế. Bên nước ngoài là một bên gồm một hoặc nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế hoặc cá nhân nước ngoài, trực tiếp đưa vốn đầu tư vào Việt Nam.
b. Về vốn: Trong cơ cấu vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh phải có hai loại vốn góp vào doanh nghiệp là vốn của Bên Việt Nam và vốn của Bên nước ngoài. Tuy nhiên phần vốn góp của Bên nước ngoài hoặc các Bên nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh thì không bị hạn chế về mức cao nhất theo sự thoả thuận của các bên nhưng không dưới 30% vốn pháp định, trừ những trường hợp do Chính phủ quy định. .
2. Doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân Việt Nam.
Tuy là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhưng doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân Việt Nam và thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Thông qua việc liên doanh các bên thành lập ra một pháp nhân mới và ràng buộc nhau bởi sự tồn tại và hoạt động của pháp nhân mới này. Khi doanh nghiệp liên doanh được thành lập, nó hoạt động độc lập với các bên liên doanh và tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam (Điều 94 Bộ Luật Dân sự) một pháp nhân được thành lập theo pháp luật Việt Nam thì được công nhận một cách đương nhiên là pháp nhân Việt Nam, không phụ thuộc vào địa bàn hoạt động cuả nó ở đâu. Là một pháp nhân Việt Nam, doanh nghiệp liên doanh phải đáp ứng đủ các điều kiện sau:
+ Được thành lập một cách hợp pháp. Việc thành lập doanh nghiệp liên doanh phải theo một thủ tục do pháp luật quy định. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập và có tư cách pháp nhân kể từ khi được cơ quan cấp Giấy phép đầu tư cấp Giấy phép đầu tư.
+ Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ.
+ Có tài sản riêng, tự chịu trách nhiệm bằng chính tài sản đó. Tài sản của doanh nghiệp liên doanh do các Bên tham gia doanh nghiệp đóng góp. Trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh độc lập chịu trách nhiệm bằng chính tài sản của doanh nghiệp.
+ Có thể nhân danh doanh nghiệp liên doanh tham gia vào các quan hệ pháp luật trong đó có quan hệ tố tụng trước cơ quan toà án với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn.
3. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập dưới hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn theo pháp luật Việt Nam.
Là doanh nghiệp được tổ chức và hoạt động dưới dạng Công ty trách nhiệm hữu hạn có nghĩa là doanh nghiệp liên doanh chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn nó đầu tư. Mỗi bên liên doanh chỉ chịu trách nhiệm đối với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn góp của mình vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh.
Như vậy, doanh nghiệp liên doanh cũng là một Công ty trách nhiệm hữu hạn theo Luật Công ty của Việt Nam, song do có yếu tố nước ngoài nên địa vị pháp lý của nó có những đặc điểm riêng biệt so với các công ty trách nhiệm hữu hạn thuần tuý trong nước. Nói một cách khác, các quy định về doanh nghiệp liên doanh là Luật riêng, theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Việc quy định của pháp luật Việt Nam như vậy đã tạo cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư vào Việt Nam, khi mà hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp gặp thua lỗ. Bản thân các nhà đầu tư cũng ưu tiên chọn loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn do hình thức này có nhiều điểm hấp dẫn nhất là trách nhiệm hữu hạn của nhà đầu tư trong phạm vi phần vốn mà nó đầu tư.
4. Là doanh nghiệp liên doanh nên nó mang tính chất mở.
- Doanh nghiệp liên doanh là do các bên tham gia góp vốn để thành lập nên doanh nghiệp liên doanh. Do vậy trong doanh nghiệp liên doanh có sự tham gia quản lý của nước chủ nhà, bên đối tác Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh có quyền tham gia vào quản lý doanh nghiệp liên doanh và có quyền ra quyết định theo tỷ lệ góp vốn vào vốn pháp định tức là quyền lực của bên đối tác nước ngoài bị chia sẻ cho bên đối tác Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh.
- Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp nhiều chủ, doanh nghiệp liên doanh có thể được thành lập từ hai Bên hoặc nhiều Bên. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn do vậy mỗi bên chịu trách nhiệm đối với quyền và nghĩa vụ của mình trong doanh nghiệp liên doanh theo tỷ lệ góp vốn vào doanh nghiệp liên doanh là trách nhiệm hữu hạn. Khác với doanh nghiệp một chủ (doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) là do nhà đầu tư nước ngoài sở hữu, quản lý và điều hành doanh nghiệp. Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp nhiều chủ, Bên Việt Nam là bên nước chủ nhà theo pháp luật có quyền tham gia vào doanh nghiệp liên doanh.
- Thông qua liên doanh nước chủ nhà có thể học hỏi được các kinh nghiệm quản lý, tiếp thu được trình độ khoa học, công nghệ trong quá trình sản xuất sản phẩm. Việc tiếp thu được các công nghệ tiên tiến so với trình độ của mình đã tạo điều kiện cho nước sở tại mở những bước “đột phá” sâu vào các ngành nghề sản xuất kinh doanh còn mới mẻ như: chế tạo lắp ráp mặt hàng điện tử, ô tô; công nghệ hoá chất... Từ đó có thể vươn tới tự chủ để xây dựng các doanh nghiệp mới của Việt Nam và tạo ra các ngành mới có sức cạnh tranh trên thị trường góp phần chủ động xây dựng đất nước. Ngoài ra còn học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài do các cán bộ công nhân viên của nước chủ nhà trong doanh nghiệp liên doanh, có cơ hội tiếp xúc với một phong cách quản lý tiên tiến của nước ngoài. Qua đó từng bước học tập được các hình thức quản lý và khả năng thích nghi với cạnh tranh..., đặc biệt là kỹ năng điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp liên doanh.
Qua phân tích ở trên cho thấy doanh nghiệp liên doanh luôn hoàn toàn đối lập với doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của tổ chức, cá nhân nước ngoài do tổ chức, cá nhân nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Do vậy có thể thấy doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp mang tính chất khép kín. Nước chủ nhà không có cơ hội để tiếp cận, học hỏi những kinh nghiệm của nhà đầu tư nước ngoài. Do vậy lợi ích của nước chủ nhà đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chỉ là thông qua các nghĩa vụ mà doanh nghiệp 100% vốn đầu tư ở Việt Nam phải có nghĩa vụ đóng góp như nghĩa vụ về tài chính đối với Nhà nước Việt Nam, cụ thể là thông qua thu thuế...
III - Vị trí, vai trò của doanh nghiệp liên doanh
Một vị trí không kém phần quan trọng, Doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân Việt Nam hoạt động dưới hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn theo pháp luật Việt Nam, doanh nghiệp liên doanh có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo pháp luật Việt Nam, bình đẳng với các doanh nghiệp khác thuộc mọi thành phần kinh tế của Việt Nam.
Các doanh nghiệp liên doanh đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng. Thực tế qua quá trình thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cho thấy, với số lượng và tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của các doanh nghiệp liên doanh, hình thức này thường chiếm gần 2/3 tổng số dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Do vậy, có thể nói các doanh nghiệp liên doanh đã chiếm một vị trí quan trọng trong đầu tư nước ngoài nói riêng và trong nền kinh tế Việt Nam nói chung .
Theo quy định của pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài thì doanh nghiệp liên doanh được triển khai thực hiện đầu tư tại Việt Nam trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân (Điều 3 Luật đầu tư). Do vậy mà các doanh nghiệp liên doanh đã được thành lập và hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tác động tích cực đến cân đối chung của nền kinh tế.
Doanh nghiệp liên doanh đã góp phần thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, bổ sung nguồn vốn quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Đối với những nước như Việt Nam, trong những năm bắt đầu công cuộc đổi mới do tích luỹ từ nội Bộ nền kinh tế còn thấp, rất thiếu vốn thì hình thức doanh nghiệp liên doanh là hình thức thu hút nguồn vốn đầu tư có hiệu quả.
Doanh nghiệp liên doanh đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế. Hình thức liên doanh là con đường đã thực hiện việc chuyển giao công nghệ vào Việt Nam. Thông qua hình thức liên doanh đã có nhiều công nghệ mới được nhập vào nước ta như: thiết kế, chế tạo máy biến thế; dây chuyền tự động lắp ráp hàng điện tử... Như vậy có thể nói việc du nhập công nghệ từ nước ngoài vào thông qua việc thành lập doanh nghiệp liên doanh không những giúp nước ta đổi mới công nghệ, gia tăng năng lực sản xuất và năng suất lao động mà còn giúp tạo ra các ngành mới, ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế.
Thông qua hợp tác đầu tư và hoạt động của các doanh nghiệp liên doanh, Việt Nam đã tiếp thu được kinh nghiệm và phương pháp quản lý tiên tiến của nước ngoài. Có thể nói doanh nghiệp liên doanh là môi trường để chúng ta học tập kinh nghiệm quản lý từ đối tác nước ngoài, đào tạo kiến thức quản lý cho đội ngũ cán bộ , nhân viên của Việt Nam. Ngoài ra liên doanh còn là nơi để đội ngũ công nhân được đào tạo nâng cao tay nghề, có kỹ thuật cao, rèn luyện được tác phong lao động công nghiệp, có ý thức tổ chức, kỷ luật lao động...
Doanh nghiệp liên doanh cũng đã góp phần vào việc khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nước. Do không đủ khả năng về vốn, công nghệ để khai thác có hiệu quả nguồn lực của đất nước thì hình thức doanh nghiệp liên doanh được thành lập để khai thác lợi thế về tự nhiên này. Ngoài ra còn góp phần vào việc giải quyết việc làm cho người lao động, tham gia phát triển nguồn nhân lực.
Nhìn chung, thực tiễn trong 10 năm qua đã cho thấy doanh nghiệp liên doanh nói riêng và đầu tư nước ngoài nói chung có một vai trò quan trọng, đã góp phần vào việc giải quyết những mục tiêu kinh tế - xã hội, vào thắng lợi của đường lối đổi mới, đưa đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng, củng cố và tạo chỗ đứng vững chắc cho Việt Nam trong khu vực và trên thị trường thế giới.
Chương II
Quy định của pháp luật về thành lập, quản lý, giải thể và phá sản doanh nghiệp liên doanh
Theo quy định của pháp luật về đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (bao gồm doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) được thành lập tại Việt Nam để đầu tư, kinh doanh trong những lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân theo quy định của pháp luật Việt Nam. Để thực hiện được các mục đích đó nhằm bảo đảm được nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi giữa các bên trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và tôn trọng pháp luật Việt Nam. Luật đầu tư nước ngoài đã định ra một khung pháp lý khá hoàn chỉnh trong đó quy định rất cụ thể về thể thức thành lập, quản lý, giải thể và phá sản doanh nghiệp liên doanh. Không những thế, Luật Đầu tư nước ngoài còn quy định về quyền và nghĩa vụ cụ thể của từng loại hình đầu tư.
I - Về vấn đề thành lập doanh nghiệp liên doanh
Việc thành lập doanh nghiệp liên doanh cũng giống như các hình thức đầu tư nước ngoài khác đều là những hoạt động kinh doanh có khẳ năng rủi ro cao. Vì đây là hình thức liên doanh giữa hai Bên hoặc nhiều Bên có quốc tịch khác nhau nên việc tìm và chọn được đối tác để liên doanh là vấn đề quan trọng quyết định đến sự thành bại của một doanh nghiệp liên doanh. Các đối tác nước ngoài vào Việt Nam bằng nhiều con đường khác nhau. Mục tiêu chung của họ là tìm hiểu môi trường đầu ta và tìm kiếm cơ hội đầu tư. Tuy nhiên cũng có đối tác nước ngoài không có ý định đầu tư làm ăn lâu dài ở Việt Nam. Trong một số trường hợp, đối tác nước ngoài vào nước ta để lừa đảo. Do vậy để đảm bảo hiệu quả của quá trình liên doanh, các đối tác Việt Nam, một mặt cần phải nắm được xuất xứ và ý định đầu tư của từng đối tác đầu tư. Mặt khác cũng cần phải biết được đặc điểm, tập quán đầu tư của từng đối tác để có sự ứng xử thích hợp.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, muốn tham gia hợp tác đầu tư nước ngoài, các đối tác phải có đủ các tiêu chuẩn theo luật định của nước sở tại. Cụ thể là ở Việt Nam, Nhà nước quy định:
- Đối với Bên Việt Nam phải có các điều kiện cơ bản sau:
+ Có tư cách pháp nhân
+ Có khả năng và nghiệp vụ trong lĩnh vực đang hoạt động và sắp hoạt động trong hợp tác đầu tư với nước ngoài.
- Đối với Bên nước ngoài cũng phải có các điều kiện cơ bản sau:
+ Có tư cách pháp nhân rõ ràng.
+ Khẳng định được khả năng về tài chính
+ Có khả năng và kinh nghiệm trong lĩnh vực sẽ đầu tư.
Để hình thành nền doanh nghiệp liên doanh tại Việt Nam là một quá trình phức tạ._.p, với nhiều công đoạn mang những đặc trưng khác nhau. Tuy nhiên pháp luật Việt Nam chỉ điều chỉnh những quan hệ pháp lý trong quá trình này bao gồm thủ tục xin, thẩm định và cấp Giấy phép Đầu tư cũng như tiến hành dự án.
1. Thủ tục xin cấp Giấy phép đầu tư.
Cũng giống như các hình thức đầu tư khác, khi muốn thành lập doanh nghiệp liên doanh thì các bên tham gia doanh nghiệp liên doanh phải gửi cho cơ quan cấp Giấy phép đầu tư hồ sơ xin cấp Giấy phép đầu tư. Theo quy định tại Điều 13 Nghị định 12 - CP: Hồ sơ xin cấp Giấy phép đầu tư bao gồm:
1. Đơn xin cấp Giấy phép đầu tư.
2. Hợp đồng liên doanh.
3. Điều lệ doanh nghiệp liên doanh.
4. Văn bản xác nhận tư cách pháp lý, tình hình tài chính của các Bên liên doanh.
5. Giải trình kinh tế - kỹ thuật.
6. Các hồ sơ khác có liên quan quy định tại các Điều 38, 39, 45 và 83 của Nghị định 12 - CP.
Đơn xin cấp Giấy phép đầu tư có thể được soạn thảo theo mẫu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư ấn hành. Trong đơn có thể bao gồm các kiến nghị xin được hưởng các ưu đãi đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam nhằm đem lại những lợi nhuận trong kinh doanh, xin được hưởng sự quan tâm giúp đỡ của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam để dự án đầu tư sớm có thể triển khai và đi vào hoạt động.
Theo quy định của pháp luật về đầu tư nước ngoài thì doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Vì vậy trước khi xin phép thành lập doanh nghiệp liên doanh, các bên tham gia thoả thuận ký kết hợp đồng liên doanh. Hợp đồng liên doanh là văn bản pháp lý quan trọng mà các bên phải đàm phán và tiến tới thoả thuận ký kết. Hợp đồng liên doanh thường được soạn thảo rất công phu và dự liệu đến tối đa các tình huống có thể xảy ra trong kinh doanh bởi trong quá trình liên doanh thường hay xảy ra tranh chấp. Tuy nhiên pháp luật Việt Nam chỉ quy định nội dung tối thiểu mà hợp đồng liên doanh phải có theo quy định tại Điều 14 Nghị định 12/CP: Hợp đồng liên doanh phải có những nội dung chủ yếu sau đây:
1. Quốc tịch, địa chỉ, đại diện có thẩm quyền của các bên liên doanh; tên, địa chỉ của doanh nghiệp.
2. Mục tiêu và phạm vi kinh doanh.
3. Vốn đầu tư, vốn pháp định, tỷ lệ góp vốn pháp định, phương thức, tiến độ góp vốn và tiến độ xây dựng doanh nghiệp.
4. Sản phẩm chủ yếu, tỷ lệ xuất khẩu và tiêu thụ trong nước.
5. Thời hạn hoạt động của doanh nghiệp.
6. Quyền và nghĩa vụ của các bên.
7. Sửa đổi và chấm dứt hợp đồng, điều kiện chuyển nhượng, điều kiện kết thúc, giải thể doanh nghiệp.
8. Giải quyết tranh chấp.
Khác với hợp đồng liên doanh là thoả thuận ràng buộc quyền hạn và nghĩa vụ giữa các bên tham gia liên doanh với nhau. Điều lệ của doanh nghiệp liên doanh là văn bản cụ thể hoá hợp đồng liên doanh, là cơ sở để tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý điều hành trong doanh nghiệp liên doanh. Vì vậy, Điều lệ của doanh nghiệp liên doanh được hình thành dựa trên những quy định của hợp đồng liên doanh, điều chỉnh về cơ bản các quan hệ hướng ngoại của doanh nghiệp liên doanh với tư cách là một pháp nhân mới độc lập với các bên thành lập ra nó. Tại Điều 15 Nghị định 12 - CP: Điều lệ của doanh nghiệp liên doanh phải có nội dung chủ yếu sau:
1. Quốc tịch, địa chỉ, đại diện có thẩm quyền của các bên liên doanh, tên, địa chỉ của doanh nghiệp.
2. Mục tiêu và phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp.
3. Vốn đầu tư, vốn pháp định, tỷ lệ góp vốn pháp định, phương thức và tiến độ góp vốn pháp định.
4. Số lượng, thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn và nhiệm kỳ của Hội đồng Quản trị; nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng Giám đốc và các Phó Tổng Giám đốc của doanh nghiệp.
5. Đại diện của doanh nghiệp trước Toà án, Trọng tài và cơ quan Nhà nước Việt Nam.
6. Các nguyên tắc về tài chính.
7. Tỷ lệ phân chia lãi và lỗ cho các bên liên doanh.
8. Thời hạn hoạt động, kết thúc và giải thể doanh nghiệp.
9. Quan hệ lao động trong doanh nghiệp, kế hoạch đào tạo cán bộ quản lý, kỹ thuật, nghiệp vụ và công nhân.
10. Thủ tục sửa đổi điều lệ doanh nghiệp liên doanh.
Giải trình kinh tế - kỹ thuật của các dự án đầu tư nước ngoài tuy không có ý nghĩa pháp lý như các thoả thuận trong Hợp đồng liên doanh và Điều lệ doanh nghiệp liên doanh song nó thuyết minh một cách chi tiết chủng loại sản phẩm và thị trường tiêu thụ; dự kiến chương trình sản xuất kinh doanh; hiện trạng công nghệ, trang thiết bị, địa điểm, mặt bằng; dự kiến sử dụng nguyên liệu, vật liệu, bán thành phẩm; dự kiến sử dụng lao động ... thông qua đó thuyết phục các cơ quan thẩm định dự án đầu tư của Việt Nam về tính khả thi của dự án.
Theo quy định của pháp luật về đầu tư nước ngoài nếu góp vốn bằng công nghệ thì nhà đầu tư phải lập hồ sơ chuyển giao công nghệ. Do vậy mà khi gửi hồ sơ xin cấp Giấy phép đầu tư nếu nhà đầu tư góp vốn bằng công nghệ thì phải gửi kèm theo hồ sơ chuyển giao công nghệ. Trong hồ sơ chuyển giao công nghệ phải có các tài liệu liên quan đến sở hữu công nghiệp, văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và các văn bản xác nhận về tính năng kỹ thuật, nguyên tắc thoả thuận giá trị công nghệ của các Bên liên doanh.
Đối với các dự án có trong danh mục phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường do Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường quy định thì trong hồ sơ xin cấp Giấy phép đầu tư phải kèm theo báo cáo đánh giá tác động của môi trường và được cơ quan chuyên ngành về môi trường chấp thuận. Đối với các dự án ngoài danh mục nói trên trong hồ sơ xin cấp Giấy phép đầu tư, nhà đầu tư chỉ cần giải trình các yếu tố có thể ảnh hưởng đến môi trường, nêu các giải pháp sử lý và cam kết bảo vệ môi trường trong quá trình xây dựng và hoạt động kinh doanh.
Ngoài ra trong hồ sơ xin cấp Giấy phép đầu tư kèm theo hồ sơ xin thuê đất (Điều 45 NĐ12/CP) và chứng chỉ quy hoạch, thiết kế sơ bộ thể hiện phương án kiến trúc (Điều 83 NĐ12/CP).
2. Thẩm định, xét duyệt cấp Giấy phép đầu tư.
Sau khi nhận được hồ sơ xin cấp Giấy phép đầu tư, cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy phép đầu tư tổ chức thẩm định dự án đầu tư. Theo quy định tại Điều 94 Nghị định 12 - CP: việc thẩm định dự án được quy định như sau:
- Đối với dự án nhóm A, Bộ Kế hoạch và Đầu tư lấy ý kiến của các Bộ, ngành và Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh có liên quan để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Trường hợp có ý kiến khác nhau về những vấn đề quan trọng của dự án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư thành lập Hội đồng tư vấn gồm đại diện có thẩm quyền của các cơ quan có liên quan và chuyên gia để xem xét dự án trước khi trình Thủ tướng Chính phủ. Tuỳ từng trường hợp cụ thể, Thủ tướng Chính phủ có thể yêu cầu Hội đồng Thẩm định Nhà nước về các dự án đầu tư nghiên cứu và tư vấn để Thủ tướng Chính phủ quyết định;
- Đối với dự án nhóm B, Bộ Kế hoạch và Đầu tư lấy ý kiến của các Bộ , ngành và Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh có liên quan trước khi xem xét, quyết định.
- Đối với những dự án được Chính phủ quyết định phân cấp cấp Giấy phép đầu tư cho Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh và những dự án Bộ Kế hoạch và Đầu tư uỷ quyền cho Ban Quản lý khu công nghiệp cấp Giấy phép đầu tư thì tham gia thẩm định trong phạm vi được phân quyền và theo quy định của pháp luật.
Nội dung thẩm định dự án đầu tư gồm:
- Tư cách pháp lý, năng lực tài chính của nhà đầu tư nước ngoài và Việt Nam;
- Mức độ phù hợp mục tiêu dự án với quy hoạch;
- Lợi ích kinh tế - xã hội (khả năng tạo năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới và sản phẩm mới; khả năng tạo việc làm cho người lao động; lợi ích kinh tế của dự án ...);
- Trình độ kỹ thuật và công nghệ áp dụng, sử dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái.
- Tính hợp lý của việc sử dụng đất, phương án đền bù giải phóng mặt bằng, định giá tài sản góp vốn của Bên Việt Nam (nếu có).
Sau khi thẩm định, cơ quan cấp Giấy phép đầu tư sẽ cấp Giấy phép đầu tư trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ (Điều 60 Luật đầu tư). Thời hạn cụ thể được quy định như sau:
- Đối với những dự án nhóm A, trong thời hạn 40 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình ý kiến thẩm định lên Thủ tướng Chính phủ. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được quyết định chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy phép đầu tư.
- Đối với những dự án nhóm B, trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn thành việc thẩm định dự án và cấp Giấy phép đầu tư.
- Đối với những dự án thuộc thẩm quyền của Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh được Chính phủ phân cấp cấp Giấy phép đầu tư thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án, Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh hoàn thành việc thẩm định dự án và cấp Giấy phép đầu tư.
- Việc thẩm định và cấp Giấy phép đầu tư cho các dự án trong khu công nghiệp do Bộ Kế hoạch và Đầu tư uỷ quyền cho Ban Quản lý Khu công nghiệp cấp tỉnh thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án, Ban Quản lý Khu công nghiệp cấp tỉnh hoàn thành việc thẩm định dự án và cấp Giấy phép đầu tư.
Tuy nhiên trong trường hợp nếu không cấp Giấy phép đầu tư thì trong thời hạn 7 ngày sau khi hết thời hạn quy định nêu trên (Đối với Bộ Kế hoạch và Đầu tư là 45 ngày, Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh là 30 ngày và Ban Quản lý Khu công nghiệp cấp tỉnh là 15 ngày) thì Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoặc Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh hoặc Ban Quản lý Khu công nghiệp cấp tỉnh phải thông báo bằng văn bản cho nhà đầu tư nêu rõ lý do, đồng thời sao gửi cho các cơ quan có liên quan.
Nếu trong trường hợp Bộ Kế hoạch và Đầu tư yêu cầu nhà đầu tư sửa đổi, bổ sung hồ sơ dự án phải được thực hiện trong vòng 20 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ.
Mọi yêu cầu của Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh đối với nhà đầu tư về việc sửa đổi bổ sung hồ sơ dự án được thực hiện trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ. Còn đối với yêu cầu của Ban Quản lý Khu công nghiệp cấp tỉnh thì nhà đầu tư phải thực hiện trong vòng 7 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ dự án.
Việc cấp Giấy phép đầu tư cho nhà đầu tư được thực hiện theo quy định của pháp luật. Cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy phép đầu tư khi cấp Giấy phép đầu tư thì phải theo mẫu thống nhất do Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định và ấn hành. Giấy phép đầu tư phải được sao gửi cho các cơ quan có liên quan.
* Về thẩm quyền xét duyệt các dự án đầu tư được quy định tại Điều 93 Nghị định 12 - CP, cụ thể là:
1. Thủ tướng Chính phủ quyết định các dự án nhóm A gồm:
- Xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, các dự án BOT, BTO, BT;
- Các dự án có vốn đầu tư từ 40 triệu đô la Mỹ trở lên thuộc các ngành điện, khai khoáng, dầu khí, luyện kim, xi măng, hoá chất, cảng biển, sân bay, khu văn hoá, khu du lịch, kinh doanh bất động sản;
- Các dự án vận tải biển, hàng không;
- Các dự án bưu chính, viễn thông;
- Các dự án văn hoá, xuất bản, báo chí, truyền thanh, truyền hình, đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế;
- Các dự án về bảo hiểm, tài chính, kế toán, giám định;
- Các dự án khai thác tài nguyên quý hiếm;
- Các dự án thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh;
- Các dự án sử dụng đất đô thị từ 5 ha trở lên và các loại đất khác từ 50 ha trở lên.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư quyết định dự án nhóm B (dự án nhóm B là các dự án không thuộc nhóm A) trừ những dự án phân cấp cho Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh và những dự án uỷ quyền cho Ban Quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh cấp Giấy phép đầu tư.
3. Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh quyết định đối với những dự án được Chính phủ quyết định phân cấp cấp Giấy phép đầu tư.
* Trường hợp thành lập theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO) và hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT).
Theo Quy chế đầu tư theo Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao, Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh và Hợp đồng xây dựng - chuyển giao áp dụng cho đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, ban hành kèm theo Nghị định số 62/1998/NĐ - CP ngày 15/08/1998 của Chính phủ.
Các hợp đồng BOT, BTO và BT đều là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng (kể cả mở rộng, nâng cấp, hiện đại hoá công trình). Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ký kết Hợp đồng BOT, BTO, BT là Bộ , cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh được Thủ tướng Chính phủ chỉ định ký kết và thực hiện Hợp đồng BOT, BTO, BT.
Tuy nhiên, giữa các loại hợp đồng này có sự khác nhau là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu công trình gắn với quyền quản lý, vận hành khai thác lợi ích từ công trình đó. Đó là:
- Đối với hợp đồng BOT: Sau khi xây dựng xong công trình nhà đầu tư giữ quyền quản lý và kinh doanh trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý; hết thời hạn kinh doanh, Nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
- Đối với hợp đồng BTO: Sau khi xây dựng xong công trình, Nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. Chính phủ Việt Nam dành cho Nhà đầu tư nước ngoài quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
- Đối với hợp đồng BT: Sau khi xây dựng xong, Nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho Nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
Để thực hiện dự án BOT, BTO và BT, Nhà đầu tư nước ngoài thành lập “Doanh nghiệp BOT”, “Doanh nghiệp BTO”, “Doanh nghiệp BT” (Sau đây gọi là Doanh nghiệp BOT) là doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Thủ tướng Chính phủ phê duyệt dự án BOT, BTO, BT thì Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy phép đầu tư cho dự án BOT, BTO, BT.
Doanh nghiệp BOT được thành lập và hoạt động kể từ ngày được cấp Giấy phép đầu tư; chịu trách nhiệm thực hiện các quy định tại Giấy phép đầu tư, các cam kết của Nhà đầu tư nước ngoài theo Hợp đồng BOT, BTO, BT.
Thời hạn của Hợp đồng BOT, BTO, BT, thời hạn chuyển giao công trình BOT, BTO, BT và thời hạn kinh doanh công trình BTO do các bên thoả thuận và được xác định rõ trong Giấy phép đầu tư phù hợp pháp luật về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
3. Thủ tục lập hồ sơ xin thuê đất.
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Do vậy Nhà nước quyết định việc cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất (Điều 1 Luật đất đai).
Để thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình thì doanh nghiệp liên doanh hoặc Bên Việt Nam tham gia doanh nghiệp liên doanh được phép góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất (gọi chung là Bên thuê đất) phải làm thủ tục lập hồ sơ xin thuê đất.
Tuy nhiên trước khi lập dự án, Bên thuê đất phải làm việc với Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sở tại về địa điểm thực hiện dự án. Sau khi được Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh chấp thuận địa điểm thực hiện dự án, Bên thuê đất tiến hành các công việc sau:
- Liên hệ với Sở Địa chính nơi có đất để được hướng dẫn lập hồ sơ thuê đất và lập bản đồ địa chính khu đất.
- Lập phương án đền bù giải phóng mặt bằng.
- Sau khi lập phương án đền bù giải phóng mặt bằng, Bên thuê đất gửi hồ sơ xin thuê đất kèm theo phương án đền bù, giải phóng mặt bằng đến Sở địa chính.
Sau khi dự án được cấp Giấy phép đầu tư, Bên thuê đất gửi đến Sở địa chính các văn bản sau:
- Bản đồ địa chính khu đất (trích lục và trích đo)
- Bản sao Giấy phép đầu tư (có công chứng).
a. Hồ sơ xin thuê đất:
Sau khi đã hoàn thành các thủ tục trên, Bên thuê đất gửi hồ sơ xin thuê đất đến cơ quan có thẩm quyền cho thuê đất. Hồ sơ xin thuê đất đối với trường hợp thuê đất mới bao gồm các tài liệu sau:
- Đơn xin thuê đất
- Bản sao Giấy phép đầu tư
- Bản đồ địa chính khu đất.
- Phương án đền bù giải phóng mặt bằng.
- Biên bản thẩm tra hồ sơ đất đai của Sở địa chính
- Tờ trình của Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh gửi Thủ tướng Chính phủ về việc cho thuê đất (đối với trường hợp thuộc thẩm quyền cho thuê đất của Thủ tướng Chính phủ)
Đối với đất đã được giao cho Bên Việt Nam sử dụng, khi hợp tác đầu tư với nước ngoài, Hồ sơ xin thuê đất chỉ bao gồm có:
- Đơn xin thuê đất
- Bản sao Giấy phép đầu tư.
- Bản đồ địa chính khu đất.
b. Ký hợp đồng thuê đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Sau khi có quyết định cho thuê đất của cấp có thẩm quyền, Bên thuê đất liên hệ với Sở địa chính để tiến hành các công việc sau:
- Nhận bàn giao mốc giới khu đất ngoài thực địa.
- Ký hợp đồng thuê đất.
Bên thuê đất tiến hành ký hợp đồng thuê đất với Sở địa chính và được Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Trường hợp Bên Việt Nam được góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất để liên doanh với Bên nước ngoài thì Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho doanh nghiệp liên doanh.
Sau khi hoàn thành các thủ tục cho thuê đất nói trên, doanh nghiệp liên doanh có quyền triển khai ngay các thủ tục về thiết kế, xây dựng hoặc thực hiện các hoạt động kinh doanh khác theo quy định hiện hành. Đối với đất đã được giao cho Bên Việt Nam sử dụng, khi hợp tác đầu tư với nước ngoài mà không thay đổi mục đích sử dụng thì sau khi được cấp Giấy phép đầu tư, nhà đầu tư có quyền triển khai ngay dự án đầu tư mà không cần hoàn thành các thủ tục cho thuê đất nói trên.
* Đối với các doanh nghiệp liên doanh được thành lập và hoạt động trong Khu công nghiệp, khu chế xuất thì có quyền thuê lại đất trong khu công nghiệp theo quy định hiện hành. Doanh nghiệp liên doanh sẽ ký hợp đồng thuê lại đất với Công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp. Sở địa chính sẽ cấp Giấy đăng ký thuê lại đất trên cơ sở hợp đồng thuê lại đất ký giữa Công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp với doanh nghiệp liên doanh khu công nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức hợp đồng BOT, BTO, BT thì Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có dự án đầu tư có trách nhiệm tổ chức việc đền bù, giải phóng mặt bằng và hoàn thành các thủ tục giao đất cho doanh nghiệp BOT theo quy định của pháp luật và thời hạn đã cam kết.
Theo quy định của pháp luật: Thủ tướng Chính phủ quyết định cho thuê đất đối với dự án sử dụng đất đô thị từ 5 ha trở lên; các loại đất khác từ 50 ha trở lên. Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh quyết định cho thuê đất đối với các dự án còn lại (Điều 44 Nghị định 12 CP).
4. Thủ tục thông báo.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được Giấy phép đầu tư Doanh nghiệp liên doanh phải bố cáo trên báo trung ương hoặc báo địa phương những thông tin chính được quy định trong Giấy phép đầu tư.
Nội dung bố cáo gồm:
- Tên, địa chỉ của các bên liên doanh;
- Mục tiêu và phạm vi kinh doanh;
- Vốn đầu tư, vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh, tỷ lệ góp vốn của mỗi Bên;
- Đại diện của doanh nghiệp trước Toà án, Trọng tài và cơ quan Nhà nước Việt Nam;
- Ngày cấp Giấy phép đầu tư, thời hạn hoạt động của doanh nghiệp liên doanh.
Trong quá trình hoạt động, nếu các Bên liên doanh thoả thuận sửa đổi, bổ sung những điều khoản của Hợp đồng liên doanh, Điều lệ doanh nghiệp liên doanh thì những sửa đổi; bổ sung đó chỉ có hiệu lực sau khi được cơ quan cấp Giấy phép đầu tư chuẩn y.
II - Về cơ chế quản lý
1. Quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp liên doanh.
Pháp luật về đầu tư nước ngoài quy định rất cụ thể về thẩm quyền quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài nói chung và đối với doanh nghiệp liên doanh nói riêng đã đánh dấu một bước tiến mới trong quá trình xây dựng cơ sở pháp lý ổn đỉnh cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Một mặt chúng ta đã tạo ra môi trường thuận lợi cho hoạt động của các nhà đầu tư. Mặt khác là nhằm quản lý thống nhất, tránh sơ hở ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia. Cụ thể là thong qua sự quản lý này, Nhà nước đã:
- Tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
- Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách về đầu tư nước ngoài.
- Ban hành các văn bản pháp luật về hoạt động đầu tư nước ngoài.
- Cấp thu hồi Giấy phép đầu tư.
- Hướng dẫn, giải quyết các thủ tục liên quan đến triển khai, thực hiện dự án đầu tư.
- Kiểm tra, thanh tra và giám sát các hoạt động đầu tư nước ngoài theo quy định của pháp luật.
- Hoà giải các tranh chấp trong nội bộ doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp liên doanh với các tổ chức kinh tế Việt Nam, giữa doanh nghiệp với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Xử lý theo quy định của pháp luật các hành vi vi phạm của doanh nghiệp.
Theo quy định tại điều 55 Luật đầu tư nước ngoài: “Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Chính phủ quy định việc cấp Giấy phép đầu tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư; căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, lĩnh vực, tính chất, quy mô của dự án đầu tư, quyết định việc phân cấp cấp Giấy phép đầu tư cho Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có đủ điều kiện; quy định việc cấp Giấy phép đầu tư đối với các dự án đầu tư vào Khu công nghiệp, khu chế xuất.
Như vậy, việc quản lý Nhà nước đối với các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và đối với doanh nghiệp liên doanh nói riêng là do Chính phủ thống nhất quản lý. Tuy nhiên để phù hợp với những đòi hỏi của công cuộc xây dựng một nền hành chính quốc gia hiện đại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan của Chính phủ được giao nhiệm vụ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Bộ Kế hoạch và Đầu tư là đầu nối quan trọng phối hợp hoạt động giữa các cơ quan có liên quan trong việc xử lý các vấn đề quan trọng trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Vì vậy, Điều 56 Luật đầu tư đã quy định cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư có những nhiệm vụ và quyền hạn sau:
1/ Chủ trì xây dựng, trình Chính phủ chiến lược, quy hoạch thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; soạn thảo các dự án pháp luật, chính sách về đầu tư nước ngoài; phối hợp với các Bộ , cơ quan ngang Bộ , cơ quan thuộc Chính phủ trong việc quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài; hướng dẫn Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc thực hiện pháp luật, chính sách về đầu tư nước ngoài;
2/ Xây dựng, tổng hợp các danh mục dự án đầu tư; hướng dẫn về thủ tục đầu tư; quản lý Nhà nước đối với các hoạt động xúc tiến và tư vấn đầu tư;
3/ Tiếp nhận dự án đầu tư và chủ trì thẩm định, cấp Giấy phép đầu tư cho các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền;
4/ Làm đầu mối giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình hình thành, triển khai và thực hiện dự án đầu tư nước ngoài;
5/ Đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động đầu tư nước ngoài;
6/ Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình thành lập và hoạt động cuả doanh nghiệp liên doanh, tuỳ theo từng lĩnh vực và địa bàn đầu tư, chúng sẽ chịu sự quản lý Nhà nước của các cơ quan hành chính tương ứng theo chức năng và thẩm quyền (như Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Tổng cục Hải quan ... và Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Tuy nhiên để công tác quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong đó có việc quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp liên doanh có hiệu quả thì các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban Nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương. Ngoài việc thực hiện quản lý Nhà nước theo chức năng và thẩm quyền trên cơ sở phân định theo ngành và lãnh thổ phải phối hợp chặt chẽ với Bộ Kế hoạch và Đầu tư để giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình hình thành, triển khai thực hiện dự án đầu tư nước ngoài.
* Việc quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp liên doanh được thành lập và hoạt động trong Khu công nghiệp, khu chế xuất được quy định trong Nghị định số 36 - CP ngày 24 - 4 - 1997 của Chính phủ về ban hành “Quy chế Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao”.
Điều 1 Nghị định 36 - CP: “Chính phủ khuyến khích doanh nghiệp liên doanh đầu tư vào Khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao (gọi chung và tắt là Khu công nghiệp, trừ trường hợp có quy định riêng cho từng loại khu) trên cơ sở quy chế này và các quy định của pháp luật Việt Nam.
Theo quy định của Quy chế này thì “Ban Quản lý Khu công nghiệp cấp tỉnh” (trừ trường hợp có quy định riêng cho từng loại Ban Quản lý) là cơ quan quản lý trực tiếp các Khu công nghiệp, khu chế xuất trong phạm vi địa lý hành chính của một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc Ban Quản lý khu công nghiệp (trường hợp cá biệt) hoặc ban Quản lý khu công nghệ cao; do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
Như vậy, Ban Quản lý Khu công nghiệp cấp tỉnh là cơ quan đại diện cho Nhà nước Việt Nam trực tiếp quản lý các doanh nghiệp liên doanh được thành lập và hoạt động trong khu công nghiệp, khu chế xuất. Việc quy định như vậy đã tạo ra một cơ chế rất linh hoạt, trực tiếp giải quyết các đề nghị của các nhà đầu tư, rút gọn được các thủ tục hành chính liên quan đến thành lập và quản lý hoạt động của doanh nghiệp liên doanh trong khu công nghiệp, khu chế xuất. Theo quy định của Quy chế này thì Ban Quản lý Khu công nghiệp cấp tỉnh là cơ quan trực tiếp quản lý các khu công nghiệp có các nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Xây dựng Điều lệ Quản lý khu công nghiệp trên cơ sở Điều lệ mẫu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành trình Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh phê duyệt hoặc trên địa bàn liên tỉnh thì trình Bộ Kế hoạch và Đầu tư phê duyệt.
- Xây dựng quy hoạch phát triển Khu công nghiệp, phương án hoạt động, hỗ trợ vận động đầu tư vào khu công nghiệp.
- Tiếp nhận đơn xin đầu tư kèm theo dự án đầu tư, tổ chức thẩm định và cấp Giấy phép đầu tư cho các dự án đầu tư nước ngoài theo uỷ quyền.
- Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện Giấy phép đầu tư, hợp đồng gia công sản phẩm, hợp đồng cung cấp dịch vụ, hợp đồng kinh doanh, các tranh chấp kinh tế theo yêu cầu của đương sự.
- Phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước về lao động trong việc kiểm tra, thanh tra các quy định của Pháp luật về hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể, an toàn lao động, tiền lương.
- Quản lý hoạt động dịch vụ trong khu công nghiệp.
- Thoả thuận với Công ty phát triển hạ tầng khu công nghiệp trong việc định giá cho thuê lại đất gắn liền với công trình kết cấu hạ tầng đã xây dựng, các loại phí dịch vụ theo đúng chính sách và pháp luật hiện hành.
- Cấp, điều chỉnh và thu hồi các loại Giấy chứng chỉ thuộc thẩm quyền hoặc theo uỷ quyền; cấp, điều chỉnh và thu hồi các loại Giấy phép theo uỷ quyền.
2. Quản lý doanh nghiệp liên doanh.
Do đặc điểm của doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam nhưng có yếu tố nước ngoài do Bên (hoặc nhiều Bên) Việt Nam và Bên (hoặc nhiều Bên) nước ngoài cùng bỏ vốn thành lập tại Việt Nam, cùng quản lý nhằm thực hiện các mục đích kinh doanh chung trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước ngoài. Cho nên để bảo vệ quyền lợi của Nhà nước Việt Nam nhất là Bên Việt Nam (Đối tác Việt Nam trong các liên doanh hiện nay chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước chiếm 92,8% dự án và gần 99% vốn đăng ký), các quy định về quản lý nội bộ của doanh nghiệp liên doanh rất chặt chẽ và có tính áp đặt. Tuy nhiên việc quy định về cơ chế quản lý của doanh nghiệp liên doanh vẫn bảo đảm quyền của các bên tham gia liên doanh trong quản lý điều hành doanh nghiệp liên doanh, lại vừa bảo đảm việc giám sát, quản lý của bên nước chủ nhà.
Cơ chế quản lý của doanh nghiệp liên doanh được quy định rất cụ thể trong Luật đầu tư nước ngoài và Nghị định 12 - CP của Chính phủ ngày 18 - 2 - 1997.
a. Hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh.
Hội đồng quản trị là cơ quan đại diện cho chủ sở hữu của các bên tham gia doanh nghiệp liên doanh, có chức năng quản lý tài sản và hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy, Hội đồng quản trị là cơ quan lãnh đạo của doanh nghiệp, gồm đại diện của các bên tham gia liên doanh. Các bên có quyền chỉ định người của mình tham gia Hội đồng quản trị theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh (Điều 11 Luật đầu tư).
Nhiệm kỳ hoạt động của Hội đồng quản trị là do các bên liên doanh thoả thuận, nhưng không được quá 5 năm.
Cơ cấu của Hội đồng quản trị gồm có chủ tịch Hội đồng quản trị, phó chủ tịch Hội đồng quản trị và các thành viên khác của Hội đồng quản trị.
Chủ tịch Hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh là do các bên liên doanh thoả thuận cử ra. Chủ tịch Hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh có thể kiêm nhiệm Tổng Giám đốc. Chủ tịch Hội đồng quản trị có trách nhiệm triệu tập, chủ trì các cuộc họp của Hội đồng quản trị, giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng quản trị. Các thành viên khác của Hội đồng quản trị là đại diện của các bên do các bên tham gia liên doanh cử ra.
Số lượng thành viên của Hội đồng quản trị là do các bên chỉ định người của mình tham gia Hội đồng quản trị theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh. Số lượng thành viên Hội đồng quản trị luôn phụ thuộc vào hai yếu tố là số lượng các bên tham gia liên doanh và số lượng vốn góp của các bên nhưng vẫn phải bảo đảm tỷ lệ theo quy định của pháp luật.
- Nếu trong trường hợp liên doanh hai bên, thì mỗi bên phải có ít nhất hai thành viên tham gia Hội đồng quản trị.
- Nếu trong trường hợp liên doanh nhiều bên, thì mỗi bên phải có ít nhất là một thành viên tham gia Hội đồng quản trị. Tức là: Nếu doanh nghiệp liên doanh có một Bên Việt Nam và nhiều Bên nước ngoài thì Bên Việt Nam có quyền cử ít nhất hai thành viên trong Hội đồng quản trị và ngược lại.
- Nếu trong trường hợp doanh nghiệp liên doanh được thành lập giữa doanh nghiệp liên doanh đang hoạt động tại Việt Nam với nhà đầu tư nước ngoài hoặc với doanh nghiệp Việt Nam thì doanh nghiệp liên doanh đang hoạt động phải có ít nhất hai thành viên, trong đó có ít nhất một thành viên là Bên Việt Nam tham gia Hội động quản trị.
Hội đồng quản trị là đại diện cho chủ sở hữu của các bên tham gia liên doanh, có chức năng lãnh đạo doanh nghiệp liên doanh. Đại diện của mỗi bên trong Hội đồng quản trị là đại diện toàn quyền, chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và các bên mà họ là đại diện. Hội đồng quản trị thực hiện chức năng này thông qua cơ chế ra quyết định về tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp liên doanh, nếu như Điều lệ của doanh nghiệp liên doanh không quy định khác và giám sát cơ quan._.o cáo tổng hợp kết quả kiểm kê phải được đính kém báo cáo tài chính để gửi tới các cơ quan có chức năng. Doanh nghiệp liên doanh phải có trách nhiệm bảo đảm sự khớp đúng giữa giá trị tài sản thực tế (số liệu kiểm kê) với số liệu ghi trên sổ kế toán, báo cáo kế toán và báo cáo tài chính.
Như vậy, doanh nghiệp liên doanh phải có nghĩa vụ ghi sổ và lập báo cáo kế toán đúng sự thật; sử dụng các loại chứng từ, biển mẫu hợp lệ đúng với chế độ kế toán đã đăng ký và đã được chấp thuạn;p bảo quản chu đáo tài liệu kế toán thống kê gồm: chứng từ, sổ, báo cáo kế toán và các tài liệu khác có liên quan đến kế toán trong quá trình sử dụng và khi chức hết thời hạn bảo quan và lưu trữ theo quy định hiện hành. Doanh nghiệp liên doanh phải chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan tài chính và của các cơ quản lý chức năng trong việc thực hiện công tác kế toán. Doanh nghiệp liên doanh phải có nghĩa vụ cung cấp các tài liệu có liên quan đến việc kiểm tra và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của cơ quan tài chính.
VII. Trong lĩnh vực quan hệ lao động.
Mục đích của Đảng và Nhà nước ta khi ban hành Bộ Luật lao động là nhằm bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và còn quyền khác của người lao động, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động. Tạo điều kiện cho mối quan hệ lao động được hài hoà và ổn định, góp phần phát huy trí sáng tạo và tài năng của người lao động, người quản lý lao động nhằm đạt nắng suất, chất lượng và tiến bộ xã hội. Khong những thế nó còn nhằm tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, giải quyết được tình trạng thất nghiệp. Theo Điều 13 Bộ Luật Lao động “Giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước , của doanh nghiệp và của toàn xã hội “.
Chính vì vậy việc hình thành các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói chung và doanh nghiệp liên doanh nói riêng có quy mô lớn, sử dụng nhiều lao động đã góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, tham gia phát triển nguồn nhân lực. Thực tế cho thấy qua hơn 10 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài đã có hàng chục vạn lao động có việc làm trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp, tác động mạnh mẽ đến thị trường lao động Việt Nam. Tuy nhiên, doanh nghiệp liên doanh hoạt động với mục tiêu là thu lợi nhuận được tối đa và hoạt động theo cơ chế thị trường, do đó nguyên tắc quản lý lao động của doanh nghiệp có những nét đặc thù riêng.
Tại Điều 26 Luật đầu tư nước ngoài có quy định: “Người sử dụng lao động, người lao động Việt Nam và người lao động nước ngoài phải tuân thủ các quy định của pháp luật lao động và pháp luật có liên quan, tôn trọng danh dự, nhân phẩm và phong tục của nhanh”. Như vậy là quan hệ lao động trong các doanh nghiệp liên doanh được điều chỉnh bằng Bộ Luật lao động ban hành ngày 23/9/1994.
Quyền lợi và nghĩa của doanh nghiệp liên doanh về quan hệ lao động theo quy định của pháp luật có những đặc điểm đặc biệt sau:
1. Quyền của doanh nghiệp liên doanh:
1.1: Doanh nghiệp liên doanh được tự do tuyển dụng người lao động.
Trên cơ sở quy định tại Điều 8 khoản 1 Bộ Luật lao động thì doanh nghiệp liên doanh có quyền tuyển chọn lao động, bố trí, điều hành lao động theo nhu cầu sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên để đảm bảo được mục tiêu đề ra khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài là tạo thêm việc làm cho người lao động, Điều 25 Luật đầu tư quy định doanh nghiệp được tuyển dụng theo nhu cầu kinh doanh và phải ưu tiên tuyển dụng công dân Việt Nam, chỉ được tuyển dụng người nước ngoài làm những công việc đòi hỏi trình độ kỹ thuật và quản lý mà Việt Nam chưa đáp ứng được, nhưng phải đào tạo lao động Việt Nam thay thế.
Vì vậy doanh nghiệp liên doanh có thể tuyển chọn lao động là người Việt Nam theo coi phương pháp thức sau:
- Doanh nghiệp liên doanh có thể thông qua coi tổ chức dịch vụ việc làm để tuyển chọn lao động (các tổ chức dịch vụ việc làm được thành lập hợp pháp theo quy định của luật pháp luật).
- Doanh nghiệp liên doanh có thể trực tiếp tuyển chọn lao động nếu tổ chức dịch vụ việc làm giới thiệu hoặc tuyển lao động không đáp ứng được yêu cầu mà doanh nghiệp liên doanh đã đặt ra nhưng phải thông báo cho cơ quan lao động cấp tỉnh hoặc cơ quan có thẩm quyền khác nơi đặt trụ sở của doanh nghiệp biết.
Đối với việc tuyển dụng lao động là người nước ngoài: khi có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh cần giải trình sự cần thiết phải sử dụng lao động nước ngoài có kèm theo chứng chỉ nghề nghiệp của người lao động nước ngoài gửi Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở của doanh nghiệp để xem xét việc cấp Giấy phép lao động theo quy định của pháp luật về lao động (Điều 51 Nghị định 12/CP).
Việc Nhà nước Việt Nam quy định quyền cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói chung và doanh nghiệp liên doanh nói riêng được sử dụng lao động là người nước ngoài làm những công việc đòi hỏi trình độ kỹ thuật và quản lý mà lao động Việt Nam chưa đáp ứng được đã giúp cho các nhà đầu tư an tâm trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua đó Nhà nước ta cũng đã quy định là phải đào tạo lao động Việt Nam thay thế cũng đã giúp cho lao động Việt Nam có thể học hỏi được kinh nghiệm quản lý và tiếp thu được kỹ thuật của họ.
1.2: Doanh nghiệp liên doanh được trực tiếp ký hợp đồng lao động.
Theo quy định của pháp luật lao động: “Hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữ người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi Bên trong quan hệ lao động”. (Điều 26 Bộ Luật lao động).
Doanh nghiệp liên doanh có quyền trực tiếp ký hợp đồng lao động với người lao động. Hai Bên có toàn quyền thoả thuận với nhau trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi về các mặt của quan hệ lao động theo quy định của pháp luật lao động. Hợp đồng lao động phải được giao kết trực tiếp giữa người sử dụng lao động và người lao động. Người sử dụng lao động trong doanh nghiệp liên doanh là Tổng giám đốc doanh nghiệp liên doanh hoặc người được Tổng Giám đốc uỷ quyền. Hợp đồng lao động được ký kết bằng văn bản và phải được làm thành hai bản, mỗi Bên giữ một bản (Điều 28 Bộ Luật lao động). Mẫu của hợp đồng lao động được thực hiện thống nhất do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phát hành.
Nội dung của hợp đồng lao động phải có những nội dung chủ yếu sau: Công việc phải làm, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngợi, tiền lương, địa điểm làm việc, thời hạn hợp đồng, điều kiện về an toàn lao động, vệ sinh lao động và Bảo hiểmxã hội đối với người lao động.
Hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong các trường hợp sau:
- Hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
- Hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 1 đến 3 năm;
- Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định mà thời hạn dưới 1 năm.
1.3: Doanh nghiệp liên doanh có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
Để đảm bảo cho doanh nghiệp liên doanh đi vào hoạt động kinh doanh có hiệu quả và thực hiện tốt công việc trong vấn đề sử dụng và quản lý lao động. Pháp luật lao động đã quy định: Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động. Tuy nhiên sự chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động là sự kiện pháp lý hết sức quan trọng nên được pháp luật lao động quy định rất chặt chẽ.
Doanh nghiệp liên doanh có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong những trường hợp theo quy định tại Điều 38 khoản 1 Bộ Luật lao động.
Khi doanh nghiệp liên doanh đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo các trường hợp nêu trên (trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 38 nói trên) thì người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước:
- ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn.
- ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 1 đến 3 năm.
- ít nhất 3 ngày đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ, theo một công việc nhất định mà thời hạn dưới 1 năm.
2. Nghĩa vụ của doanh nghiệp liên doanh.
2.1. Doanh nghiệp liên doanh sử dụng lao động phải có những điều kiện đảm bảo về an toàn lao động, vệ sinh lao động cho người lao động.
Doanh nghiệp liên doanh phải có trách nhiệm trang bị đầy đủ phương tiện bảo hộ lao động bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động và cải thiện điều kiện lao động cho người lao động. Phải bảo đảm nơi làm việc đạt tiêu chuẩn về không gian, độ thoáng, độ sáng, đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép về bụi, hơi, khí độc, phóng xạ, điện từ trường, nóng ấm, ồn rung và các yếu tố có hại khác, các yếu tố đó phải được định kỳ kiểm tra đo lường.
Doanh nghiệp liên doanh phải định kỳ kiểm tra, tu sửa máy, thiết bị, nhà xưởng, kho tàng theo tiêu chuẩn an toàn lao động, vệ sinh lao động. Ngoài ra phải tuân theo các quy định khác của Bộ Luật lao động như tại các Điều 99, 100, 101 và Điều 107.
2.2. Nghĩa vụ trả lương cho người lao động.
Doanh nghiệp liên doanh có nghĩa vụ trả tiền lương cho người lao động trên cơ sở tiền lương do doanh nghiệp và người lao động thoả thuận căn cứ vào năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc. Ngoài ra sự thoả thuận về trả lương giữa doanh nghiệp liên doanh với người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu. Theo quy định tại Điều 132 khoản 2 Bộ Luật lao động: “Mức lương tối thiểu đối với người lao động là người Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh do Chính phủ quy định và công bố sau khi lấy ý kiến của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và đại diện của người sử dụng lao động”.
Việc Nhà nước ta quy định mức lương tối thiểu mà doanh nghiệp liên doanh phải trả cho người lao động như hiện nay, mức quy định này là không còn phù hợp nữa. Mức lương tối thiểu theo quy định tại công văn 1085/KTTH ngày 11/3/1996 của phó Thủ tướng Chính phủ quy định lại mức lương tối thiểu cho người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là phải từ 45 đô la Mỹ/tháng trở lên đối với thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, trường hợp doanh nghiệp liên doanh đóng trên địa bàn thuộc các thành phố loại 2 có mức lương tối thiểu là không thấp hơn 40 đô la Mỹ/tháng. Còn đối với các tỉnh còn lại mức lương tối thiểu là 35 đô la Mỹ/tháng Hiện nay do cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, tình trạng dãn lao động trong các doanh nghiệp liên doanh đang gia tăng. Do đó cần phải phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, tập thể người lao động nghiên cứu quy định lại mức lương tối thiểu cho phù hợp với tình hình mới. Trước mắt, cần nghiên cứu lại mức lương tối thiểu của một số doanh nghiệp liên doanh thực sự khó khăn tại các địa bàn trước đang thuộc các thành phố có mức lương tối thiểu cao được vận dụng mức lương tối thiểu thấp hơn theo quy định mới về những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
2.3. Tôn trọng quyền của người lao động tham gia tổ chức chính trị, chính trị - xã hội
Khi doanh nghiệp liên doanh đi vào hoạt động thì người lao động trong doanh nghiệp có quyền thành lập, gia nhập hoạt động công đoàn theo Luật công đoàn để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình được hưởng phúc lợi tập thể, có quyền tham gia quản lý doanh nghiệp liên doanh theo nội dung của doanh nghiệp và quy định của pháp luật
2.4. Nghĩa vụ về bảo hiểm xã hội:
Pháp luật về đầu tư nước ngoài quy định: Doanh nghiệp liên doanh bảo hiểm tài sản và trách nhiệm dân sự tại công ty Bảo hiểmViệt Nam hoặc công ty Bảo hiểm khác được phép hoạt động tại Việt Nam.
Doanh nghiệp liên doanh thực hiện việc bảo hiểm trên cơ sở hợp đồng bảo hiểm ký với các công ty Bảo hiểmViệt Nam hoặc công ty Bảo hiểm khác được phép hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
Đối tượng bảo hiển gồm con người, tài sản, trách nhiệm dân sự và các đối tượng khác theo quy định của pháp luật.
Về bảo hiểm xã hội trong doanh nghiệp liên doanh thì khoản tiền bảo hiểm xã hội thuộc nghĩa vụ của doanh nghiệp bằng 10% tổng số quỹ tiền lương của người lao động làm việc tại các doanh nghiệp và lấy từ quỹ chi của doanh nghiệp. Trong 10% bảo hiểm xã hội đó thì trích 2% nộp cho cơ quan lao động địa phương, còn 8% được đưa vào quỹ bảo hiểm xã hội lập tại doanh nghiệp để chi cho các chế độ theo quy định như trích 3% để đóng bảo hiểm y tế cho người lao động.
Ngoài ra doanh nghiệp liên doanh phải tuân thủ các quy định khác của pháp luật lao động như về thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, các chế độ khác của người lao động....Đồng thời các doanh nghiệp liên doanh phải chịu sự kiểm tra của cơ quan lao động, có trách nhiệm thực hiện mọi yêu cầu hợp pháp của thanh tra Nhà nước về lao động bao gồm: Thanh tra lao động, Thanh tra an toàn lao động, Thanh tra vệ sinh lao động.
VIII. Trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ, Bảo vệ mội trường.
1.Trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ.
Việc chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam trong các dự án đầu tư nước ngoài được thực hiện dưới dạng góp vốn bằng giá trị công nghệ hoặc mua công nghệ trên cơ sở hợp đồng, phù hợp với pháp luật về chuyển giao công nghệ (Điều 29 Luật đầu tư nước ngoài).
Theo Điều 37 Nghị định 12/CP: Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi và bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của bên chuyển giao công nghệ để thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam. Tuy nhiên công nghệ chuyển giao vào Việt Nam để thực hiện dự án đầu tư phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Là một công nghệ tạo ra sản phẩm mới và cần thiết tại Việt Nam hoặc sản xuất hàng xuất khẩu:
- Nâng cao tính năng ký nhận, chấp nhận sản phẩm, nâng cao năng lực sản xuất:
- Tiếp kiệm nguyên liện, nhiên liệu, khai thức và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên.
Ngoài việc đáp ứng được các tiêu chuẩn quy định cho công nghệ chuyển giao vào Việt Nam để thực hiện dự án đầu tư nước ngoài dưới hình thức góp vốn hoặc mua công nghệ trên cơ sở hợp đồng chuyển giao công nghệ, bên chuyển giao công nghệ phải có công nghệ một cách hợp pháp.
Do vậy khi góp vốn bằng công nghệ, nhà đầu tư phải lập hồ sơ chuyển giao công nghệ. Hồ sơ chuyển công nghệ có các tài liệu liên quan đến sở hữu công nghiệp và các văn bản xác nhận về tính năng kỹ thuật, nguyên tắc thoả thuận giá trị công nghệ của các bên liên doanh. Hồ sơ chuyển giao công nghệ phải được gửi kèm theo Hồ sơ dự án xin cấp Giấy phép đầu tư. Việc góp vốn bằng công nghệ phải được cơ quan quản lý Nhà nước về công nghệ và môi trường xem xét chấp thuận.
Việc chuyển giao công nghệ được thực hiện dưới hình thức góp vốn thì giá trị công nghệ chuyển giao dùng để góp vốn các bên thoả thuận và trong mọi trường hợp không vượt quá 20% vốn phát định.
Việc chuyển giao công nghệ dưới hình thức mua công nghệ được thực hiện trên cơ sở hợp đồng chuyển giao công nghệ theo quy định của pháp luật về chuyển giao công nghệ.
Như vậy việc chuyển giao công nghệ dưới hình thức mua công nghệ phải tuân theo những quy định của pháp luật về chuyển giao công nghệ. Theo Điều 814 Bộ Luật dân sự đáp ứng các yêu cầu sau:
1.Mục đích sử dụng của công nghệ.
2. Chỉ tiêu về chất lượng và kinh tế, kỹ thuật công nghệ:
3. Các chi tiêu về chất lượng sản phẩm:
4. Các quy định về hình dáng sản phẩm:
5. Các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường.
2. Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác ở Việt Nam, doanh nghiệp liên doanh cũng phải tuân thủ ngiêm ngặt Luật bảo vệ môi trường của Việt Nam. Điều 51 Luật đầu tư nước ngoài: Doanh nghiệp có trách nhiệm tuân thủ những quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường ?.
Các tổ chức, cá nhân khi xây dựng các công trình kinh tế, khoa học...chủ đầu tư dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường đến cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường thầm định (Điều 18 Luật bảo vệ môi trường).
Doanh nghiệp liên doanh sẽ phải căn cứ vào doanh mục các dự án phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường do Bộ khoa học, công nghệ và Môi trường công bố.
Việc lập và thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. Kết quả thẩm định về báo cáo đánh giá tác động môi trường là một trong những căn cứ để cơ quan cấp Giấy phép đầu tư xét duyệt dự án hoặc cho phép thực hiện.
Đối với các dự án ngoài doanh mục mà Bộ khoa học, công nghệ và môi trường công bố phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, trong hồ sơ xin phép đầu tư nhà đầu tư chỉ cần giải trình các yếu tố có thể ảnh hưởng đến môi trường, nên các giải pháp xử lý và cam kết bảo vệ môi trường như trong quá trình xây dựng và hoạt động kinh doanh.
Trường hợp nhà đầu tư áp dụng tiêu chuẩn môi trường tiên tiến của quốc tế trong quá trình xây dựng và hoạt động kinh doanh tại Việt Nam thì chỉ cần đăng ký với cơ quan quản lý Nhà nước về chuyển giao công nghệ và môi trường.
Hiện nay, một số quy định về bảo vệ môi trường của nước ta cao hơn các nước trong khu vực, cá biệt có quy định cao hơn các nước phát triển. Vấn đề đặt ra hiện nay là việc những quy định về bảo vệ mội trường đó của nước ta cần được xử ly thoả đáng để phù hợp với thực hiện hơn.
IX. Trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp.
Trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, các tranh chấp phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là điều không thể tránh khỏi. Do đó trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng như các doanh nghiệp liên doanh nếu có phát sinh tranh chấp là điều đã được dự báo trước. Đây là một vấn đề thực tế cần phải được thừa nhận để từ đó có những tiếp cận và thừa nhận vấn đề một cách khách quan và toàn diện.
1. Những tranh chấp có thể xẩy ra trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài.
Thực tế có thể xảy ra những tranh chấp sau:
- Tranh chấp giữa các bên trong doanh nghiệp liên doanh với nhau:
- Tranh chấp giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với nhau
- Tranh chấp giữa doanh nghiệp liên doanh với các tổ chức kinh tế Việt Nam (Doanh nghiệp Việt Nam).
- Tranh chấp giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền ở Trung ương và địa phương.
2. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tranh chấp.
- Tranh chấp giữa các bên tham gia doanh nghiệp liên doanh thường xảy ra giữa Bên hoặc các Bên Việt Nam với Bên hoặc các Bên nước ngoài là do:
+ Một trong các bên trong doanh nghiệp liên doanh không thực hiện đúng nghĩa vụ, cam kết ghi trong hợp đồng liên doanh như không thực hiện đúng tiến độ góp vốn... Việc phá vỡ các cam kết ghi trong hợp đồng liên doanh có thể do những nguyên nhân khách quan như sự biến động của giá cả thị trường, do sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường hoặc do những thay đổi về chính sách của Nhà nước ... cũng có thể là do các bên tham gia liên doanh thiếu thiện chí kinh doanh lâu dài hoặc động cơ đầu tư của nhà đầu tư không nghiêm túc...
+ Do có những khác biệt trong phong cách quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh mà các bên không phải trong mọi trường hợp đều dễ dàng thống nhất quan điểm với nhau. Các mâu thuẫn này thường xuất hiện trong mối quan hệ giữa các thành viên Hội đồng quản trị và các thành viên Ban Giám đốc khi họ là người của các Bên khác nhau.
+ Do có những bất đồng về ngôn ngữ, phong tục tập quán, tác phong lao động, lối sống ... cũng dễ làm nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân này thường xuất hiện xung đột giữa những người làm thuê cho doanh nghiệp với lãnh đạo doanh nghiệp.
+ Ngoài ra còn do Hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh chưa thực hiện việc phân định trách nhiệm rõ ràng về chức năng hoạt động giữa các thành viên do đó có sự lẫn lộn giữa các bên trong điều hành hoạt động của doanh nghiệp liên doanh hoặc các bên không thực hiện đúng và đầy đủ chức năng quản lý của mình.
Tranh chấp giữa doanh nghiệp liên doanh với các tổ chức kinh tế khác (giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với nhau, doanh nghiệp liên doanh với doanh nghiệp Việt Nam). Các tranh chấp này xảy ra là do vi phạm hợp đồng kinh tế đã được ký kết (trong việc cung cấp nguyên liệu, nhiên liệu, tiêu thụ sản phẩm ...) Đây là những tranh chấp trong hoạt động sản xuất kinh doanh của tất cả các tổ chức kinh tế. Ngoài ra còn có những tranh chấp do cạnh tranh trên thị trường, tranh chấp về nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng sản phẩm ...
3. Xử lý tranh chấp:
Việc xử lý tranh chấp phát sinh là nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư và nhằm cải thiện được mối quan hệ hợp tác giữa các bên trong doanh nghiệp liên doanh. Do vậy để đạt được mục đích đó thì việc xử lý tranh chấp phải tuân thủ các nguyên tắc nhất định. Khi xử lý tranh chấp phải tuân theo các nguyên tắc sau:
- Việc xử lý tranh chấp phải lấy thương lượng và hoà giải trên tinh thần hợp tác, có thiện chí, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau giữa các bên làm nền tảng.
- Tranh chấp phải được xét xử công khai, các bên liên quan có quyền lựa chọn bất kỳ cơ quan trọng tài nào hoặc cơ quan xét xử nào để giải quyết nếu không tự giải quyết bằng thương lượng và hoà giải.
- Tuân thủ pháp luật Việt Nam và tôn trọng tập quán quốc tế.
- Cơ sở pháp lý để xử lý tranh chấp là các văn bản pháp luật và các tài liệu mang tính pháp lý như Giấy phép đầu tư, hợp đồng liên doanh, Điều lệ doanh nghiệp liên doanh và các cam kết hoặc các thoả thuận chính thức giữa các bên có liên quan
- Việc xử lý tranh chấp phải đúng người, đúng việc, đúng địa chỉ.
Việc xử lý tranh chấp được tiến hành theo các cách thức sau đây.
- Đối với tranh chấp pháp sinh giữa các Bên tham gia doanh nghiệp liên doanh với nhau trước hết phải được giải quyết thông qua thương lượng và hoà giải giữa các Bên với nhau. Nếu hoà giải thành các Bên chủ động xử lý tranh chấp theo phương án đã được các Bên chấp thuận. Trong trường hợp hoà giải không thành, các Bên tranh chấp có thể thoả thuận một trong các phương thức giải quyết sau đây:
+ Trọng tài Việt Nam
+ Trọng tài Việt Nam hoặc Trọng tài nước ngoài, Trọng tài quốc tế.
+ Trọng tài do các bên thoả thuận thành lập.
- Đối với các tranh chấp giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với nhau (doanh nghiệp liên doanh với doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp liên doanh với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) hoặc giữa doanh nghiệp liên doanh với các tổ chức kinh tế Việt Nam cũng được giải quyết thông qua tại tổ chức trọng tài hoặc Toà án Việt Nam theo pháp luật Việt Nam.
- Các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng BOT, BTO, BT được giải quyết theo phương thức do các bên thoả thuận ghi trong hợp đồng.
- Tranh chấp giữa doanh nghiệp liên doanh với các cơ quan quản lý các cấp định giải quyết thông qua hoà giải. Trong trường hợp không hoà giải được với nhau, các bên tranh chấp trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết.
kết luận
Kể từ khi Nhà nước ta ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 cho đến hết năm 1998, trên địa bàn cả nước đã có 2578 dự án được cấp Giấy phép với tổng số vốn đăng ký đạt 35,1 tỷ USD, có 534 dự án được tăng vốn với số vốn tăng thêm đạt 4,58 tỷ USD, nâng tổng số vốn đăng ký cấp mới và tăng vốn bổ sung đạt 39,68 tỷ USD. Tính riêng trong năm 1998 đã có 260 dự án đầu tư nước ngoài được cấp Giấy phép với tổng số vốn đăng ký là 4.058,6 triệu USD tương ứng với 78,5% số dự án của năm 1997 (333 dự án) và 89,9% số vốn đăng ký của năm 1997 (4.445 triệu USD). Có thêm 133 dự án xin tăng vốn với giá trị tăng thêm là 769 triệu USD. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm là 4827,6 triệu USD.
Có thể nói thành tựu mà doanh nghiệp liên doanh đã mang lại trong hơn 10 năm qua là rất to lớn. Doanh nghiệp liên doanh đã có những đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội trên một số mặt chủ yếu sau:
- Doanh nghiệp liên doanh đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Với số dự án và số vốn thường chiếm 2/3 đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh đã góp phần đưa tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đạt 8,5% trong thời kỳ 1991 - 1997.
- Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp liên doanh đã góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đầu tư dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh đã đi vào hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, tỷ trọng các dự án của các lĩnh vực công nghiệp, chế biến nông - lâm - thuỷ sản, sản xuất hàng xuất khẩu ngày càng tăng. Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ ngày càng cân đối hơn. Trừ thăm dò và khai thác dầu khí ở thềm lục địa, phần lớn dự án còn lại tập trung ở ba vùng kinh tế trọng điểm.
- Doanh nghiệp liên doanh cũng đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế. Nhiều công nghệ mới trong nhiều ngành kinh tế quan trọng đã được nhập vào nước ta như: thiết kế, chế tạo máy biến thế; dây chuyền tự động, lắp ráp hàng điện tử; lắp ráp ô tô; sản xuất vật liệu xây dựng... Nhìn chung phần lớn các thiết bị là đồng bộ, có trình độ bằng hoặc cao hơn các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và thuộc loại phổ cập ở các nước công nghiệp trong khu vực.
- Doanh nghiệp liên doanh đã góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Không những thế người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh còn có điều kiện được đào tạo, nâng cao tay nghề, tiếp thu kỹ năng và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tác phong lao động công nghiệp.
- Doanh nghiệp liên doanh đã góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Hiện nay đã có trên 60 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư ở Việt Nam, bao gồm nhiều Công ty và tập đoàn nổi tiếng trên thế giới. Đối tác trong nước tham gia vào các doanh nghiệp liên doanh chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước chiếm 92,8% số dự án và 98% vốn đăng ký.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả mà doanh nghiệp liên doanh đã mang lại trong hơn 10 năm qua còn có những tồn tại và những vấn đề phát sinh trong quá trình thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài, đó là:
- Quá trình cải thiện môi trường đầu tư ở nước ta diễn ra chậm chạp, chủ yếu do thủ tục hành chính còn rườm rà, chính sách “mở cửa” trên thực tế vẫn chưa được thực hiện. Về thủ tục cấp Giấy phép đầu tư còn phức tạp, đa đầu mối nhưng nhìn chung các đầu mối này còn lúng túng chưa giải quyết dứt điểm các vấn đề vướng mắc, gặp khó khăn trong khâu xét duyệt dự án.
- Sau khi cấp Giấy phép đầu tư thì việc triển khai thực hiện dự án còn rất chậm, kéo dài. Vấn đề nổi cộm lên là thủ tục cấp đất, đền bù di dân giải phóng mặt bằng.
- Về chuyển giao công nghệ thì trong trường hợp liên doanh phía Việt Nam phải nhờ đối tác nước ngoài vay vốn lên thường phải chấp nhận những công nghệ lạc hậu do chính đối tác nước ngoài chuyển giao.
- Hầu hết trong các doanh nghiệp liên doanh, cán bộ Việt Nam cử sang làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh thường là chưa qua đào tạo, thiếu kiến thức chuyên môn, không nắm vững pháp luật và thương trường, không biết ngoại ngữ. Có thể nói cán bộ là yếu tố quyết định nhưng đang là khâu yếu nhất.
- Trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp liên doanh thì hoạt động của Hội đồng Quản trị khó thống nhất được các vấn đề bởi do “nguyên tắc nhất trí” gây ảnh hưởng tới vấn đề điều hành doanh nghiệp liên doanh.
Kiến nghị
Để đạt được mục tiêu thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đề ra cho giai đoạn 1996 - 2000 là khoảng 13 á 15 tỷ USD (vốn thực hiện) chiếm trên 31% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong khi đó nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ba năm 1996 - 1998 ước thực hiện khoảng 7 tỷ USD, như vậy trong hai năm 1999 - 2000 phải thực hiện từ 6 tỷ USD trở lên mới đạt mức dự kiến. Để đạt được mục tiêu này phải có sự đóng góp của hình thức đầu tư doanh nghiệp liên doanh. Bởi trên thực tế hình thức doanh nghiệp liên doanh vẫn là hình thức thu hút chủ yếu nguồn vốn đầu tư nước ngoài như đã phân tích ở trên. Thông qua việc nhìn nhận một số khó khăn và vướng mắc mà doanh nghiệp liên doanh gặp phải cũng như các hình thức đầu tư nước ngoài khác, em xin có một số giải pháp sau nhằm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam.
- Cần hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, nhanh chóng ban hành những văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam, bổ sung những văn bản còn thiếu và làm rõ các quy định hiện hành nhằm bảo đảm tính thống nhất, tạo khung pháp lý đầy đủ cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chẳng hạn như cần bổ sung vào Luật Đầu tư nước ngoài một số phương thức đầu tư mà nhiều nước đang áp dụng. Sửa đổi một số quy định hiện hành đã làm mất lợi thế cạnh tranh của nước ta, đặc biệt là thuế nhập khẩu, thuế thu nhập cá nhân đối với người nước ngoài...
- Hoàn thiện bộ máy quản lý hoạt động đầu tư từ Trung ương đến địa phương. Trong đó Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần tăng cường công tác quản lý chung về đầu tư nước ngoài, kịp thời hướng dẫn, cùng với các cơ quan có thẩm quyền và cơ quan được phân cấp uỷ quyền cấp Giấy phép đầu tư giải quyết, tháo gỡ kịp thời các khó khăn cho các nhà đầu tư.
- Đối với các doanh nghiệp liên doanh đang hoạt động thì các cơ quan quản lý Nhà nước các cấp phải tập trung chỉ đạo và điều hành xử lý các vấn đề phát sinh, cụ thể là:
+ Đối với các dự án đang làm thủ tục hành chính hoặc xây dựng cơ bản thì tập trung tháo gỡ các thủ tục hành chính gây cản trở tiến độ triển khai dự án, bãi bỏ các thủ tục, giấy tờ không cần thiết...
+ Đối với các dự án đang hoạt động sản xuất kinh doanh thì Nhà nước cần xem xét cho các dự án đã được cấp Giấy phép đầu tư được hưởng ngay những ưu đãi của các quy định mới về thuế lợi tức ưu đãi, giá thuế đất mới; hỗ trợ bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp thực sự khó khăn do khủng hoảng kinh tế trong khu vực...
- Bố trí cán bộ có năng lực, phẩm chất vào các vị trí chủ chốt trong doanh nghiệp liên doanh. Bồi dưỡng, đào tạo lại cán bộ đang làm việc tại hơn 1000 doanh nghiệp liên doanh đang hoạt động. Thực hiện cơ chế tuyển dụng, điều động, miễn nhiệm cán bộ Việt Nam đang làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh. Đây là biện pháp nhằm kiểm soát các hoạt động của Bên nước ngoài theo đúng quỹ đạo của luật pháp và còn nhằm tiếp thu được các kinh nghiệm làm ăn và kinh nghiệm quản lý nhằm từng bước tiếp nhận quyền lãnh đạo điều hành doanh nghiệp liên doanh.
- Về đối tác Việt Nam tham gia doanh nghiệp liên doanh thì phải cần chấm dứt tình trạng hễ ai có quyền sử dụng đất là trở thành đối tác trong liên doanh bằng cách Nhà nước thu hồi và giao đất cho các doanh nghiệp có điều kiện về chuyên môn, kỹ thuật, cán bộ để liên doanh với nước ngoài. Mở rộng hơn nữa cho các thành phần kinh tế của Việt Nam hợp tác đầu tư với nước ngoài.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- I0024.doc