lời nói đầu
Chiến tranh, cấm vận và những sai lầm trong chỉ đạo kinh tế đã làm cho nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế khá trầm trọng. Chỉ sau khi đường lối đổi mới được Đảng thông qua tại Đại Hội VI năm 1986 , nền kinh tế nói chung và hoạt động hợp tác đầu tư với nước ngoài nói riêng mới bắt đầu có hướng đi. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua vào tháng 12/ 1987 . Kể từ đó , Việt Nam bước vào một thời kỳ mới - thời kỳ hoạt động sôi nổi củ
67 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1392 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Địa vị pháp lý của Doanh nghiệp liên doanh theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a hợp tác đầu tư vơí nước ngoài
Sau hơn 10 năm tiến hành hoạt động hợp tác với nước ngoài , chúng ta có quyền khẳng định những thành quả thu được là to lớn, góp phần tích cực vào sự phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước, khẳng định chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Đảng ta là vô cùng đúng đắn.
Thực tế . ở nước ta cho thấy đến giữa năm 1998 Bộ kế hoạch và Đầu tư đã cấp giấy phép cho 2.379 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký là 32,295 tỷ USD, thì số vốn đầu tư dưới hình thức liên doanh chiếm 66% . Đầu năm 2000 là 58,4% . Chính vì vậy doanh nghiệp liên doanh đóng vai trò quan trọng tạo ra một sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hợp lý hơn, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Mặt khác dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh còn kích thích đối với việc thu hút vốn đầu tư trong nước
Doanh nghiệp liên doanh được thành lập ở hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như : Hà nội , thành phố Hồ Chí Minh, Hải phòng, Đồng Nai ...Doanh nghiệp liên doanh được thành lập ở nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau...
Trong thời gian tới, nhu cầu về vốn đầu tư ngày càng tăng , việc khai thác nguồn vốn đầu tư nước ngoài trở nên bức thiết, trong đó thu hút vốn đầu tư nước ngoài qua thành lập doanh nghiệp liên doanh vẫn giữ vai trò chủ đạo. Hơn nữa, thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua doanh nghiệp liên doanh còn là điều quan trọng để đạt được các mục tiêu về công nghệ, kinh nghiệm quả lý ... Với ý nghĩa đó , Nhà nước ta rất chú trọng xây dựng một môi trường đầu tư thuận lợi và sẽ giành sự ưu đãi thích hợp cho loại hình doanh nghiệp này
Cho đến nay doanh nghiệp liên doanh vẫn là loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phổ biến nhất. Tuy nhiên đã xuất hiện một số vấn đề đối với doanh nghiệp liên doanh: Sự quan tâm của nhà đầu tư về doanh nghiệp liên doanh giảm đi ( tỷ trọng số doanh nghiệp liên doanh giảm trong số các dự án đầu tư nước ngoài ), hiệu quả của hoạt động doanh nghiệp liên doanh thấp
Xuất phát từ thực tế nêu trên, sau khi nghiên cứu và cân nhắc em quyết định chọn đề tài: " Điạ vị pháp lý của doanh nghiệp liên doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 '' làm đề tài Khoá luận tốt nghiệp . Mục đích của bài Khoá luận này nhằm làm rõ vai trò địa vị pháp lý của doanh nghiệp liên doanh .
Bài khoá luận được kết cấu gồm:
Lời nói đầu .
Chương I : Những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư nước nước ngoài tại Việt Nam .
Chương II : Địa vị pháp lý của doanh nghiệp liên doanh theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000
Chương III : Thực trạng Doanh nghiệp liên doanh theo luật đầu tư nước ngoài và phương hướng hoà thiện các quyết định về Doanh nghiệp liên doanh
Kết luận và kiến nghị
Để hoàn thành bài Khoá luận này, em đã gặp một số khó khăn vì đây là lần đầu tiên nghiên cứu về đề tài mang tính chất chuyên ngành cụ thể. Hơn nữa năng lực của một sinh viên còn hạn chế, nên bài viết không thể tránh khỏi những khiếm khuyết về nội dung và hình thức, em rất mong được sự góp ý của thầy, cô giáo và các bạn để bài Khoá luận của em được hoàn thiện tốt hơn.
Chương I
Những vấn đề lý luận cơ bản về luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Trong chiến lược kinh tế mở ở nước ta, từ khi thực hiện Luật đầu tư nước ngoài (năm 1987) việc thu hút đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của đất nước , dần thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội , thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và hội nhập với các nước trên khu vực và thế giới.
Như vậy mở rộng hợp tác đầu tư nước ngoài là một đòi hỏi khách quan trong chính sách tổng thể phát triển đất nước của chúng ta, đòi hỏi Việt Nam phải có biện pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Ngày 18/4/1977 nước ta thông qua “Điều lệ đầu tư nước ngoài”, ngày 29/12/87 Luật đầu tư nước ngoài được Quốc Hội thông qua và đến nay được bổ sung nhiều lần vào ngày 30/6/1990, ngày 23/12/1992 , ngày 12/11/1996 và ngày gần đây nhất là ngày 9/6/2000.
Qua các lần sửa đổi và bổ sung Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày càng hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài và phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế Việt Nam nên được các nhà đầu tư nước ngoài hết sức quan tâm.
1.1 Khái niệm đầu tư ngoài và các loại hình đầu tư nước ngoài
1.1.1 Khái niệm đầu tư nước ngoài :
Đầu tư nước ngoài là những phương thức đầu tư vốn tài sản ở nước ngoài để tiến hành sản xuất, kinh doanh dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định .
Về bản chất, đầu tư quốc tế là những hình thức sản xuất tư bản, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Đây là hai hình thức xuất khẩu luôn bổ xung và hỗ trợ nhau trong chiến lược thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường của các công ty, tập đoàn nước ngoài hiện nay. Nhiều trường hợp việc buôn bán hàng hoá ở nước sở tại là bước đi tìm hiểu thị trường, luật lệ để đi đến quyết định đầu tư . Đến lượt mình việc thành lập các doanh nghiệp đầu tư ở nước sở tại là điều kiện để xuất khẩu các máy móc vật tư nguyên vật liệu và khai thác tài nguyên của nước chủ nhà . Cùng với hoạt động thương mại quốc tế, hoạt động đầu tư quốc tế phát triển mạnh mẽ hợp thành những hoạt động chính trong trào lưu có tính quy luật của qúa trình phát triển kinh tế toàn cầu hiện nay.
Khái niệm đầu tư nước ngoài trong Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam được hiểu là đầu tư trực tiếp, là '' Việc tổ chức cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ''.
1.1.2 Các loại hình đầu tư nước ngoài.
Trên thế giới tồn tại hai hình thức đầu tư nước ngoài phổ biến là :
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Đầu tư gián tiếp nước ngoài .
1.1.2.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn góp bằng tiền mặt hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam .
Đặc điểm nổi bật nhất của FDI so với đầu tư gián tiếp là ở vai trò và mức độ tham gia quản lý điều hành vốn của chủ đầu tư. Quyền quản lý doanh nghiệp của bên nước ngoài phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn, nếu góp 100% vốn thì cơ sở được đầu tư do bên nước ngoài điều hành, lợi nhuận thu được sau khi đã trừ thuế sẽ phân chia cho các bên tham gia tuỳ theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên. Với hoạt động đầu tư góp vốn này các nhà sản xuất kinh doanh trực tiếp quản lý, điều hành cơ sở kinh tế mà họ đã bổ vốn đầu tư, đồng thời họ dễ chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm và nguồn cung cấp nguyên liệu của nước chủ nhà, đồng thời tránh được các hàng rào bảo hộ mậu dịch với bên tiếp nhận đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là biện pháp khai thác vốn tốt nhất kèm theo tiếp thu công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến...
1.1.2.2 Đầu tư gián tiếp nước ngoài.
Là việc đầu tư nước ngoài góp vốn kinh doanh vào doanh nghiệp của nước sở tại và không tham gia quản lý điều hành hoạt động của cơ sở được đầu tư đó
Hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài có nhiều hình thức như tín dụng quốc tế, mua trái phiếu, ODA(vốn tài trợ phát triển chính thức )... Trong đó, đáng chú ý nhất là ODA - đây là một loại hình đầu tư nước ngoài có nhiều đặc thù, phần lớn do các nước công nghiệp phát triển và tổ chức tài chính quốc tế cung cấp. Các lĩnh vực được quan tâm ưu tiên đầu tư là các dự án về cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục... Ngoài ra còn có sự ưu đãi nhất định như thời gian vay nợ dài, lãi suất thấp, một phần được viện trợ không hoàn lại và trong tôn chỉ của mình vốn ODA được trợ giúp trên tinh thần nhân đạo. Vì tất cả những lý do đó nên ODA dù là song phương hay đa phương đều gắn bó với những điều kiện nhất định về chính trị . Do vậy khai thông chính trị là điều kiện tiên quyết thu hút vốn ODA.
Nhìn chung, đầu tư gián tiếp nước ngoài tuy có ưu điểm là tránh được rủi ro, chủ thể đầu tư lại không tham gia quản lý điều hành hoạt động đầu tư. Tuy nhiên lợi nhuận thu được cũng không phải là nguồn thu hấp dẫn đối với nước sở tại, nguồn lợi thu được từ đầu tư gián tiếp nước ngoài rất cần thiết nhưng lại quá ít ỏi so với nhu cầu của nước tiếp nhận đầu tư .
Như vậy có thể nói rằng, hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài không hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời Việt Nam cũng không thể phát triển và tăng trưởng nền kinh tế nếu chỉ chông đợi vào nguồn vốn do hoạt động đầu tư gián tiếp mang lại .
Nhận thức được tác dụng của việc thu hút FDI nên ngày 12/11/ 1996 Quốc Hội đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Sau 4 năm thi hành luật việc đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam đã đạt nhiều kết quả. Để tiếp tục tạo dựng một môi trường pháp lý đồng bộ, thông thoáng ổn định cho hoạt động đầu tư, tăng cường tính hấp dẫn và cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam, tranh thủ nhiều hơn nguồn vốn và kỹ thuật tiên tiến... Ngày 9/6/2000 Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung và ngày 31/7/2000 Chính phủ ban hành Nghị định số 24/2000/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Chính vì vậy, Điều 1 Nghị định 24/2000 NĐ-CP đã nêu rõ '' Những hoạt động tín dụng quốc tế , hoạt động thương mại và các hình thức đầu tư gián tiếp khác không thuộc phạm vi điều chỉnh của nghị định này ''.
1.2 Tác động đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế Việt nam.
Qua phân tích nội dung của các nhà kinh tế học về ý nghĩa của FDI, ta thấy FDI có những thế mạnh của nó. Dù vẫn chịu chi phối của Chính phủ, nhưng FDI ít lệ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa hai bên, mặt khác bên nước ngoài trực tiếp tham gia quản lý sản xuất kinh doanh nên mức độ khả thi của dự án khá cao, đặc biệt là trong việc tiếp cận thị trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu. Do quyền lợi gắn chặt với dự án, họ rất quan tâm đến hiệu quả kinh doanh nên có thể lựa chọn công nghệ thích hợp, nâng cao trình độ quản lý và tay nghề công nhân, vì thế FDI ngày càng có ý nghĩa to lớn đối với việc thúc đẩy quá trình phát triển các nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư, do vậy để đạt được sự tăng trưởng cao và ổn định nhằm đưa đất nước ra khỏi cảnh đói nghèo thì các nước đang phát triển nói chung, Việt Nam nói riêng phải tìm kiếm các nguồn lực thiếu hụt đó ở các nước công nghiệp phát triển, thông qua hoạt động hợp tác đầu tư. ở Việt Nam hiện nay nguồn vốn được bổ sung ở bên ngoài gồm FDI và ODA, trong đó FDI là chủ yếu.
Ngoài ý nghĩa tăng cường vốn đầu tư nội địa, FDI còn bổ sung đáng kể nguồn thu ngân sách thông qua nguồn thu từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là nguồn ngoại tệ quan trọng để đầu tư vào các dự án công cộng trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá Việt Nam.
FDI giúp đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền khinh tế đất nước. Để đạt được những chỉ tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong những năm tới, thì tốc độ phát triển bình quân hàng năm phải đạt ít nhất 7% và nhu cầu về vốn đầu tư có từ 4,2 tỷ USD trở nên cho mỗi năm, đây là con số không nhỏ đối với nền kinh tế nước ta, cho nên FDI là nguồn bổ sung quan trọng để phát triển nền kinh tế Việt Nam.
FDI đem lại khả năng mở rộng quy mô sản xuất dịch vụ mới làm cho tổng sản phẩm xã hội của Việt Nam tăng nên và cho phép giải quyết được tình trạng thất nghiệp của người lao động.
Thông qua đầu tư nước ngoài chúng ta tiếp nhận thành tựu phát triển khoa học - kỹ thuật tiên tiến của thế giới, nhờ đó rút ngắn khoảng cách của ta vơí thế giới, sử dụng những lợi thế của đất nước mà nhiều năm qua không thể thực hiện được do thiếu vốn như lĩnh vực khai thác dầu mỏ, khoáng sản...
Ngoài ra, trong quá trình tiếp nhận đầu tư nước ngoài, chúng ta học được kinh nghiệm quản lý kinh doanh và cách làm kinh tế thương mại trong điều kiện kinh tế thị trường ở các nước tiên tiến.
Tóm lại: Đầu tư nước ngoài có ý nghĩa cực kỳ quan trọng để đưa nước ta nhanh chóng hội nhập với sự phát triển của thế giới và khu vực.
1.3 Luật dầu tư nước ngoài tại Việt Nam - quá trình hình thành và phát triển.
Việt Nam là một trong số các nước duy trì hai hệ thống Luật khác nhau
áp dụng cho hai lĩnh vực thu hút vốn trong nước và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, đó là Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật đầu tư nước ngoài . Điều này đã gây ra nhiều tranh cãi cho các nhà đầu tư, nhưng sự song song của hai hệ thống này hoàn toàn phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam về bản chất, FDI là các hoạt động đầu tư ra nước ngoài trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh trong lao động quốc tế, nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao ở phạm vi toàn cầu nên có ảnh hưởng như con dao hai lưỡi đối với nước tiếp nhận đầu tư .
Trong nhiều trường hợp mặc dù tỷ lệ FDI cao trong tổng số vốn đầu tư nhưng điều đó không có nghĩa là nó có tác dụng tích cực đối với nước tiếp nhận đầu tư, mà vấn đề cơ bản ở đây là sử dụng vốn đầu tư đó như thế nào cho mang lại hiệu quả cao nhất. Thông thường cứ 1USD vốn đầu tư nước ngoài cần 3 đến 4USD vốn đối ứng trong nước nếu đạt tỷ lệ này nước tiếp nhận đầu tư hoàn toàn khắc phục được các mặt tiêu cực FDI mang lại như: sự độc quyền của các tập đoàn nước ngoài, sự lệ thuộc của các doanh nghiệp trong nước vào phía đối tác, sự gia tăng phân cách giàu nghèo, sự can thiệp của các công ty đa quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh vào đường lối phát triển kinh tế của nước sở tại. Hiện nay Việt Nam đang cố gắng để vốn trong nước bằng và có thể lớn hơn vốn đầu tư nước ngoài và kế hoạch này nằm trong mục tiêu phát triển qua năm 2000.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 là cơ sở pháp lý hoàn chỉnh đầu tiên cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, chỉ trong một thời gian ngắn Luật đã được sửa đổi, bổ sung qua các năm 1990, 1992, 1996, theo hướng thông thoáng ngày càng hấp dẫn hơn Luật dầu tư nước ngoài năm 1996. Sau khi sửa đổi, bổ sung ngày 9/6/2000 và các văn bản hướng dẫn chi tiết được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao so với Luật đầu tư nước ngoài của các nước trong khu vực. Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam không hạn chế lĩnh vực đầu tư nhưng theo quy định chung của pháp luận Việt Nam, chủ đầu tư nước ngoài không được phép đầu tư vào lĩnh vực nào mà nhà nước Việt Nam giữ độc quyền hoặc những nghành nghề mà pháp luật Việt Nam cấm kinh doanh.
Trong kỳ họp Quốc hội khoá X vừa qua, Quốc hội nước Cộng Hoà XHCN Việt Nam thông qua văn bản “sửa dổi, bổ sung Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam”, đây là sự phát triển hơn nữa của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trên con đường hoàn thiện và hoàn chỉnh môi trường pháp lý dành cho đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
1.3.1 Các hình thức đầu tư nước ngoài theo luật đầu tư năm 2000.
Hiện nay hầu hết các chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước trên thế giới đều phải dựa vào hai yếu tố, đó là tình hình kinh tế trong nước và luật pháp đầu tư phải phù hợp với pháp luật quốc tế và thông lệ quốc tế.
Nghị quyết Trung ương 7(khoá 7) đã nhấn mạnh : Trong công cuộc hiện đại hoá đất nước vốn trong nước là cơ bản, vốn nước ngoài là quan trọng. Để nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại chúng ta phải vận dụng nhiều hình thức hợp tác và đa dạng hoá các quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Nhà nước ta khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam dưới các hình thức sau :
- Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
- Doanh nghiệp liên doanh
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
1.3.1.1 Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên (gọi là các bên hợp doanh) quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên, để tiến hành kinh doanh ở Việt Nam mà không thành lập pháp nhân.
Đặc điểm của hình thức này là:
- Hợp đồng sản xuất , kinh doanh , thực hiện phân chia lợi nhuận hoặc kết quả kinh doanh
- Không thành lập pháp nhân
- Hình thành các quyền và nghĩa vụ các bên đối với nhau trên cơ sở hợp đồng . Bên nước ngoài thực hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Bên Việt Nam thực hiện các nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật áp dụng đối với doanh nghiệp trong nước.
Trên thực tế đây không phải là một hình thức phổ biến ở Việt Nam dù hình thức này có đặc điểm là đơn giản hoá quá trình đầu tư. Mỗi bên có quyền và nghĩa vụ đối với nhau và mỗi bên có nghĩa vụ độc lập với nhà nước và pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên hình thức hợp tác kinh doanh có hạn chế là tạo ra những khó khăn trong việc các bên kiểm soát hoạt động của nhau như về chi phí sản xuất, lợi nhuận thu được ...
Về cơ bản chính phủ Việt Nam quy định hình thức này là để tạo điều kiện cho cả hai Bên Việt Nam và Bên nước ngoài có thể thự hiện việc đầu tư trong trường hợp không có điều kiện để thành lập doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong quá trình tham gia đầu tư ở Việt Nam.
1.3.1.2 Doanh nghiệp liên doanh.
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa một bên hoặc các bên Việt Nam với một bên hoặc các bên nước ngoài để đầu tư , kinh doanh tại Việt Nam.
Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam, mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi vốn góp của mình và vốn pháp định.
Luật sửa đổi, Luật đầu tư nước ngoài 1992 mở rộng một số hình thức doanh nghiệp, đó là doanh nghiệp liên doanh mới. '' Doanh nghiệp liên doanh mới, là doanh nghiệp được thành lập giữa doanh nghiệp liên doanh đã được phép hoạt động tại Việt Nam với nhà đầu tư nước ngoài hoặc với doanh nghiệp Việt Nam hoặc với doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100 % vốn nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam ''
Trong trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp liên doanh được thành lập trên cơ sở ký hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước ngoài (ví dụ : Việt Xô Petro)
Doanh nghiệp liên doanh được hoạt động kể từ ngày được cấp giấy phép đầu tư với những ưu đãi như sau:
- Vấn đề góp vốn: Tỷ lệ vốn góp của bên nước ngoài hoặc của các nước ở bên nước ngoài không được thấp hơn 30% vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh (vốn pháp định của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là mức vốn phải có để thành lập doanh nghiệp ghi trong điều lệ doanh nghiệ ).
Quy định này thể hiện sự nới lỏng hơn so với điều lệ đầu tư 1977 quy định Bên nước ngoài chỉ được góp vốn không quá 49% vốn pháp định. Việc không giới hạn tối đa về phần vốn góp của Bên nước ngoài tạo điều kiện cho Việt Nam thu hút nhiều vốn đầu tư và cũng là hình thức khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn kinh doanh ở Việt Nam.
Thời hạn đầu tư có thể kéo dài 50 năm, trường hợp đặc biệt có thể lên tới 70 năm. Quy định này tạo một phần đáng kể cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các doanh nghiệp, các lĩnh vực kinh tế mà thời gian thu hồi vốn lâu như xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp nặng, lâm nghiệp...
- Việc chuyển nhượng vốn trong doanh nghiệp liên doanh:
Chuyển nhượng là một giải pháp thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành kinh doanh tại Việt Nam. Khi bên nước ngoài gặp khó khăn về tài chính hoặc vì một lý do nào đó không thể tiếp tục tham gia góp vốn như trong hợp đồng liên doanh đã quy định, đồng thời việc kinh doanh kém hiệu quả thì có quyền chuyển nhượng phần vốn góp của mình, nếu chuyển nhượng cho doanh nghiệp ngoài liên doanh thì điều kiện chuyển nhượng không được thuận lợi hơn so với điều kiện đã đặt ra cho các bên trong doanh nghiệp liên doanh, việc chuyển nhượng vốn phải được các bên trong doanh nghiệp liên doanh thoả thuận.
Quyền chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Khác với doanh nghiệp Nhà nước phải chịu sự quản lý của cơ quan chủ quản, doanh nghiệp liên doanh hoạt động độc lập tự quyết định mọi hoạt động của mình, như vậy Chính phủ Việt Nam đã thực hiện chính sách không can thiệp vào hoạt động kinh tế của doanh nghiệp liên doanh. Nhà nước chỉ điều tiết ở tầng vĩ mô nhằm duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh trong một hành lang pháp lý nhất định ổn định và bền vững.
1.3.1.3 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và điều hành, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty TNHH có tư cách pháp nhân theo luật Việt Nam.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập và hoạt động kể từ ngày được cấp giấy phép đầu tư.
- Về vốn góp: Vốn pháp định của doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài phải bằng 30% vốn đầu tư (vốn đầu tư bằng vốn pháp định + vốn vay). Trường hợp đặc biệt có thể thấp nhưng không dưới 20% vốn đầu tư.
Việc quy định hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài thể hiện chính sách mở cửa rất thông thoáng của nhà nước ta đó là: trong lĩnh vực mà phía Việt Nam không đủ khả năng để liên doanh thì chấp nhận hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài mặc dù có một số khó khăn phải khắc phục sau đây :
+ Bảo vệ quyền lợi lao động của người Việt Nam khi người nước ngoài quản lý và mọi hoạt động của doanh nghiệp
+ Chính những lĩnh vực Việt Nam cần thu hút 100% vốn đầu tư nước ngoài lại là những lĩnh vực mà ta chưa có hoặc đã có nhưng tiềm lực yếu nên không phát huy được tính hai mặt của đầu tư nước ngoài là chuyển giao công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Trong ba hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thì hình thức doanh nghiệp liên doanh có ưu thế hơn so với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Doanh nghiệp liên doanh giúp cho hiện đại hoá cơ sở hạ tầng nước ta phát triển nền kinh tế thị trường và kích thích tăng trưởng kinh tế. Năm 1996 đạt gần 10% năm 1997 tăng 12,3%, năm 1998 đạt gần 14%, năm 1999 đến đầu năm 2000 đạt 15,5%. Doanh nghiệp liên doanh tranh thủ được sự hỗ trợ của đối tác nước ngoài và có phạm vi lĩnh vực địa bàn hoạt động rộng, phù hợp với sự phân công quốc tế trong thời đại ngày nay. Đầu tư theo hình thức doanh nghiệp liên doanh được Việt Nam rất quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư theo hình thức này, bởi vì thu hút được quy trình công nghệ hiện đại và tiên tiến, kinh nghiệm cũng như trình độ quản lý kinh tế cao của bên đầu tư nước ngoài, đồng thời bên Việt Nam có khả năng lớn hơn trong việc bảo đảm quyền lợi của mình cũng như người lao động Việt Nam khi họ trực tiếp tham gia quản lý, điều hành sản xuất và kinh doanh doanh nghiệp liên doanh cùng với bên đối tác nước ngoài. Đây là những mặt mạnh của đầu tư doanh nghiệp liên doanh, sự tăng trưởng mạnh mẽ số lượng doanh nghiệp liên doanh tại Việt Nam đã chứng minh sự nhận định thực tế này. Tuy nhiên, thời gian vừa qua số lượng doanh nghiệp liên doanh có bị giảm sút do nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, chính vì vậy việc tìm hiểu nghiên cưú các vấn đề pháp lý cơ bản của doanh nghiệp liên doanh là hết sức cần thiết và hữu ích trong giai đoạn phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay.
chương II
địa vị pháp lý của doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh được hình thành và phát triển là kết quả của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, phù hợp với sự phân công lao động quốc tế trong thời đại ngày nay. ở nước ta doanh nghiệp liên doanh là một trong những hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Hai hình thức khác là: Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh và Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Ta có thể thấy doanh nghiệp liên doanh ngoài những điểm chung nhất định cũng có những điểm khác với hai loại hình đầu tư khác, như doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một hình thức đầu tư trực tiếp do nhà đầu tư nước ngoài hoàn toàn làm chủ vốn đầy tư, ở hình thức này chúng ta không thu lượm được kinh nghiệm cũng như không tiếp nhận được công nghệ mới của các nước tiên tiến và nếu có quá nhiều doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động thì có thể gây ra tình trạng tư bản nước ngoài thâu tóm, chi phối nền kinh tế quốc gia, còn hợp đồng hợp tác kinh doanh cũng có phần lợi cho nền kinh tế nước nhà nhưng có thể nói đây không phải là một hình thức ổn định chắc chắn lâu dài có hiệu quả cao nhất.
So với hai hình thức nước ngoài trên thì doanh nghiệp liên doanh có một vị trí thuận lợi hơn. Tại Việt Nam số doanh nghiệp liên doanh thường chiếm 2/3 (khoảng 68% tổng số dự án đầu tư). Trong điều kiện nền kinh tế mở thì việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài là tất yếu. Nhưng chúng ta dành nhiều sự quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư vào hình thức doanh nghiệp liên doanh, hình thức này mang lại nhiều lợi ích hơn cho tất cả các bên tham gia, doanh nghiệp liên doanh là hình thức dung hoà dược lợi ích của các bên.
2.1 Sự ra đời của doanh nghiệp liên doanh.
Các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào một vùng lãnh thổ hay một quốc gia nào đó thường gặp khó khăn trong việc thích ứng với pháp luật và chính sách, phong tục, tập quán, thị trường và cách làm ăn của nước sở tại. Do vậy, một giải pháp mà được đa số các nhà đầu tư chấp nhận và áp dụng đó là liên kết với một đối tác ở bản địa để cùng khai thác hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chính vì vậy hình thành nên loại hình doanh nghiệp liên doanh, khi liên doanh cùng nhau, hai bên hoặc các bên cùng hợp tác và cùng chia lợi nhuận. Cũng thông qua hợp tác liên doanh với nước ngoài,các nước kém pháp triển có thể thu hút dược vốn,công nghệ và kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý khoa học của các nước có nền kinh tế phát triển, giải quyết được nhiều vấn đề xã hội và cải thiện nền kinh tế. Đó chính là cơ sở thực tiễn hình thành nên loại hình doanh nghiệp liên doanh ở Việt Nam .
Văn bản pháp lý nước ngoài đầu tiên của Việt Nam trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài là Nghị định 115/CP ngày 18/4/1977 của Hội đồng bộ trưởng kèm theo bản điều lệ về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 3/7/1980 Chính phủ nước Cộng Hoà XHCN Nghĩa Việt Nam và Chính phủ Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết đã ký hiệp định hợp tác tiến hành thăm dò địa chất và khai thác dầu khí ở thềm lục địa phía Nam Việt Nam. Mặc dù đã có kết quả đầu tiên như vậy nhưng bản điều lệ chưa quy định cụ thể về các nguyên tắc, vốn và tài sản cũng như các quyền lợi khác của chủ đầu tư, thiếu các quy định liên quan như quan hệ lao động, kế toán. Trong giai đoạn này chưa có cơ quan quản lý điều hành riêng trong lĩnh vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ chế nhiều cửa nên không phát huy được hiệu quả. Để thực hiện chiến lược xây dựng hình thái kinh tế mới, chuyển từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, đồng thời khai thác và phát huy mọi tiềm lực trong nước, đi đôi với việc tranh thủ vốn, công nghệ, thị trường bên ngoài kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại đưa nền kinh tế nước ta phát triển.Ngày 29/12/1987 Nhà nước đã ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, từ đó đến nay Luật đầu tư nước ngoài không ngừng được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện qua các năm 1990, 1992, 1996 và năm 2000 theo hướng đảm bảo môi trường đầu tư thông thoáng tạo điều kiện cho các nhà đầu tư vào Việt Nam dưới các hình thức khác nhau. Song hình thức doanh nghiệp liên doanh ở Việt Nam đóng vai trò chủ yếu và chiếm ưu thế hơn cả, đã góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế trong những năm vừa qua. Cụ thể là doanh nghiệp liên doanh chiếm 60-70% tổng số vốn đầu tư nước ngoài .
2.1.1 Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp liên doanh.
Hiện nay, khái niệm doanh nghiệp liên doanh được nghi nhận tại Điều 2 Khoản 7 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: '' Đó là một bên hay nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp, do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam, do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh''
Hình thức đầu tư thông qua việc thành lập doanh nghiệp liên doanh giống với hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh ở chỗ là quan hệ kinh tế song phương hoặc đa phương giữa Bên Việt Nam và Bên nước ngoài, các bên cùng bỏ vốn cùng quản lý, cùng chia lãi. Nhưng hai hình thức này khác nhau về tổ chức kinh doanh. Trong hình thức hợp doanh các bên không bị ràng buộc với nhau bởi một pháp nhân chung mà các bên phải cùng nhau tiến hành hoạt động kinh doanh, các bên phải thoả thuận và phân bổ kết quả kinh doanh tuỳ theo khả năng của mỗi bên. Mỗi bên thực hiện nghĩa vụ và nộp thuế theo những qui định riêng giành cho mỗi bên .
Trong hình thức liên doanh các bên thành lập ra một pháp nhân mới (doanh nghiệp liên doanh) và ràng buộc lẫn nhau bởi sự tồn tại của pháp nhân mới này khi doanh nghiệp liên doanh được thành lập, nó hoạt động độc lập với các bên liên doanh và tự chịu về trách nhiệm về hoạt động của mình. Mục đích của các bên liên doanh do doanh nghiệp liên doanh thực hiện. Doanh nghiệp liên doanh có 3 đặc điểm sau:
* Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, mỗi bên tham gia liên doanh chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp của mình. Doanh nghiệp liên doanh còn được gọi là công ty liên doanh bởi vì nó được thành lập bằng vốn góp của nhiều người. Tuy nhiên, doanh nghiệp liên doanh khác Công ty trách nhiệm hữu hạn( được thành lập theo Luật công ty) doanh nghiệp liên doanh không chịu sự điều chỉnh của Luật công ty mà chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề đầu tư nước ngoài.
* Doanh nghiệp liên doanh có thể do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập. Có doanh nghiệp liên doanh do hai bên thành lập, đó là Bên Việt Nam và Bên nước ngoài. Bên Việt Nam là một bên gồm một hoặc nhiều doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Bên nước ngoài là một bên gồm một hoặc nhiều tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân hoặc cá nhân nước ngoài (gọi chung là nhà đầu tư nước ngoài).
* Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp luôn luôn có vốn của bên nước ngoài đầu tư trực tiếp bên cạnh vốn của Bên Việt Nam trong cơ cấu vốn pháp định của doanh nghiệp._..
Vốn là cơ sở vật chất cho hoạt động kinh doanh của mọi loại hình doanh nghiệp. Muốn thành lập doanh nghiệp liên doanh thì các bên phải cùng góp vốn vào doanh nghiệp liên doanh.
Vốn pháp định của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là vốn ban đầu của doanh nghiệp. Các khoản vốn vay không được tính vào khoản vốn pháp định. Như vậy vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh là vốn điều lệ của doanh nghiệp liên doanh. Vốn pháp định ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư của doanh nghiệp liên doanh.
Theo Quy định của Luật đầu tư nước ngoài. Bên nước ngoài tham gia doanh nghiệp liên doanh góp vốn pháp định bằng:
- Tiền nước ngoài, tiền Việt Nam có nguồn gốc đầu tư tại Việt Nam;
- Thiết bị, máy móc, nhà xưởng, công trình xây dựng khác;
- Giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật.
- Các hình thức góp vốn khác do các bên thoả thuận.
Vốn góp của bên nước ngoài có thể là của một chủ sở hữu, của hai hoặc của nhiều chủ sở hữu cùng hoặc khác chế độ chính trị. Phần vốn góp của bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài và vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh không bị hạn chế về mức cao nhất theo sự thoả thuận của các bên nhưng không dưới 30% vốn pháp định.
Bên Việt Nam tham gia doanh nghiệp liên doanh góp vốn pháp định bằng:
- Tiền Việt Nam, tiền nước ngoài ;
- Giá trị quyền sử dụng đất theo qui định của pháp luật về đất đai;
- Các nguồn tài nguyên, giá trị quyền sử dụng mặt nước, mặt biển theo quy định của pháp luật;
-Thiết bị, máy móc, nhà xưởng, công trình xây dựng khác;
- Giá trị quyền sử hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật.
- Các bên có thể thoả thuận góp vốn bằng hình thức khác.
Giá trị phần vốn góp của mỗi bên được xác định trên cơ sở giá thị trường quốc tế và được ghi vào văn bản thành lập. Bộ Kế hoạch và Đầu tư có quyền xem xét và yêu cầu các bên liên doanh xác định giá trị các khoản vốn góp cho phù hợp với qui định của Việt Nam. Ngoài ra doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và chính phủ nước ngoài
Cơ sở pháp lý để thành lập doanh nghiệp liên doanh là hợp đồng liên doanh hay hiệp định liên Chính phủ, nhưng đa số doanh nghiệp liên doanh hiện nay được thành lập trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
Hợp đồng liên doanh là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên về việc thành lập doanh nghiệp liên doanh. Hợp đồng doanh nghiệp phải có các điều khoản chính sau:
- Những dữ liệu liên quan đến các bên liên doanh như quốc tịch, địa chỉ đại diện có thẩm quyền của các bên liên doanh.
- Tên doanh nghiệp liên doanh, địa chỉ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh .
- Vốn đầu tư ,vốn pháp định, tỷ lệ phương thức và tiến độ góp vốn, tiến độ xây dựng doanh nghiệp, điều kiện và thủ tục chuyển nhượng vốn.
- Doanh mục, thiết bị vật tư chủ yếu để hình thành doanh nghiệp, sản phẩm và thị trường tiêu thụ, tỷ lệ thu tiền nước ngoài và tiền Việt Nam. Trong trường hợp sản xuất hàng thay thế, hàng xuất khẩu cần ghi rõ phương thức thanh toán.
- Thời hạn hoạt động, kết thúc và giải thể của doanh nghiệp liên doanh.
- Giải quyết tranh chấp giữa các bên liên doanh, điều khoản trọng tài và luật áp dụng trong trường hợp có tranh chấp.
- Trách nhiệm của các bên trong việc thực hiện hợp đồng doanh nghiệp.
- Hiệu lực của hợp đồng liên doanh.
Hợp đồng liên doanh chỉ có giá trị nếu được Bộ Kế hoạch và Đầu tư phê chuẩn doanh nghiệp liên doanh cũng có thể được thành lập trên cơ sở hợp đồng ký giữa Chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước ngoài như Công ty dầu khí Việt Xô( VietsoPetro).
2.1.2 Vai trò, vị trí của doanh nghiệp liên doanh trong nền kinh tế.
Doanh nghiệp liên doanh luôn chiếm tỷ lệ lớn nhất về số dự án đăng ký trong các hình thức đầu tư nước ngoài tại Việt Nam qua các năm. Các số liệu thống kê cho thấy năm 1996 là 54,8% đến đầu năm 1998 thì dự án liên doanh là 61% đến đầu năm 2000 là 58,4%. Như vậy, tỷ lệ dự án liên doanh trong số dự án nước ngoài đã đăng ký chiếm phần lớn tổng số dự án.
Ngoài vai trò cung cấp vốn, liên doanh là con đường thuận tiện chuyển giao công nghệ, thông qua hình thức này các bên bổ sung công nghệ cho nhau. Đối với các nước đang phát triển có công nghệ lạc hậu, liên doanh được thể hiện với tính chất là phương tiện để thu nhập công nghệ cao từ bên ngoài vào chẳng hạn: liên doanh Austnam là liên doanh giữa công ty cung ứng vật tư xây dựng Hà Nội với công ty Austnam noruyadecking an Hadding pty, Ltd of Australia
(tên giao dịch là Modex) thông qua liên doanh, công ty Modex chuyển giao bí quyết công nghệ sản xuất tấm lợp kim loại trên dây chuyền tự động sản xuất liên tục trên nguyên lý kéo nén định hình sẩn phẩm.
Đối với các nước chuyển giao công nghệ thường là nước phát triển thì liên doanh là con đường để xuất khẩu công nghệ một cách hợp lý và có hiệu quả bằng con đường liên doanh, những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến, bằng sáng chế, bí quyết kỹ thuật... được trao đổi giữa các bên.
Đến nay Việt Nam đã tiếp nhận một số kỹ thuật, công nghệ tiến tiến trong một số nghành kinh tế như thông tin viễn thông, thăm dò dầu khí, sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy, hoá chất (dầu nhờn, sơn) trồng chuối, rau theo công nghệ tiên tiến, nuôi trồng tôm nước lợ theo phương pháp công nghiệp, xây dựng khách sạn cao cấp, sản xuất một số mặt hàng có chất lượng. Ngoài ra liên doanh còn là môi trường đào tạo kiến thức quản lý cho đội ngũ cán bộ viên chức nhà nước, cung cấp kinh nghiệm nghiên cứu thị trường, thông tin quảng cáo hoặc tổ chức dịch vụ, tổ chức mạng lưới thông tin thị trường.
Doanh nghiệp liên doanh là đơn vị sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay, là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế Việt Nam. Nó có mối quan hệ tác động qua lại với bộ phận khác của nền kinh tế, được tổ chức phù hợp với những quy luật nền kinh tế thị trường.
2.2 Thủ tục thành lập doanh nghiệp liên doanh.
2.2.1 Chọn đối tác đầu tư:
Doanh nghiệp liên doanh được hình thành bởi hai hay nhiều bên, việc thành lập doanh nghiệp liên doanh bao giờ cũng phải chọn đối tác đầu tư trước khi thành lập.
Pháp luật không trực tiếp điều chỉnh quá trình lựa chọn đối tác đầu tư để thành lập doanh nghiệp liên doanh nhưng thông qua định nghĩa doanh nghiệp liên doanh và những quy định có liên quan, pháp luật đầu tư đã gián tiếp đặt ra những yêu cầu đối với đối tác đầu tư thành lập doanh nghiệp liên doanh. Việc nghiên cứu về đối tác đầu tư giúp cho việc lựa chọn đối tác thích hợp để thành lập doanh nghiệp liên doanh. Đối tác đầu tư thích hợp là yếu tố quan trọng, quyết định tính hợp pháp của doanh nghiệp liên doanh cũng như hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau này.
Nếu dựa vào dấu hiệu quốc tịch thì đối tác đầu tư để thành lập doanh nghiệp liên doanh được phân thành hai loại:
* Đối tác Việt Nam:
Bao gồm các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế: doanh nghiệp Nhà nước, công ty, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, doanh nghiệp thuộc các tổ chức kinh tế xã hội và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đối tác Việt Nam có thể là bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ khoa học công nghệ tự nhiên theo quy định của Chính phủ.
Cùng với quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật, Bên Việt Nam tham gia hợp tác thành lập doanh nghiệp liên doanh ngày càng mở rộng. Tuy nhiên chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm trong quá trình quản lý kinh tế đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường, để đảm bảo quyền lợi cho Bên Việt Nam tham gia thành lập doanh nghiệp liên doanh cũng như tránh được sự lợi dụng của bên nước ngoài thì đối tác Việt Nam phải thoả mãn những quy định sau:
- Được thành lập theo quy định của pháp luật.
- Có quyền sở hữu hợp pháp hoặc được uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cho phép hợp tác sử dụng đất để hợp tác đầu tư với nước ngoài.
- Có cán bộ hiểu biết pháp luật.
Hiện nay, đối tác Việt Nam tham gia doanh nghiệp liên doanh chiếm chủ yếu vẫn là doanh nghiệp Nhà nước chiếm tới gần 93% về số dự án đầu tư.
Trong tương lai khi khả năng tài chính và năng lực quản lý được nâng cao, thì số doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia thành lập doanh nghiệp liên doanh sẽ tăng lên.
* Đối tác nước ngoài:
Là tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài có ý định hợp tác đầu tư dưới hình thức doanh nghiệp liên doanh tại Việt Nam. Đối tác nước ngoài vào Việt Nam từ nhiều nước khác nhau, nhưng mục tiêu chung của họ là tìm hiểu môi trường đầu tư và tìm hiểu cơ hội liên doanh. Họ có quyền lựa chọn đối tác đầu tư Việt Nam để thành lập doanh nghiệp liên doanh theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, đối tác nước ngoài phải thoả mãn các yêu cầu của Việt Nam về pháp lý và tình hình tài chính. Thực tế cho thấy dự án liên doanh hoạt động hiệu quả cao đều do đối tác nước ngoài hùng mạnh về tài chính, có bề dày kinh nghiệm trong hoạt động đầu tư nước ngoài cũng như trình độ quản lý tiên tiến và tiềm năng về công nghệ. Trong khi tìm hiểu lẫn nhau, các bên có thể thoả thuận về ngành nghề kinh doanh cụ thể trên cơ sở khả năng của mình, tình hình thị trường và các quy định pháp luật. Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 có quy định về địa bàn khuyến khích đầu tư và cấm đầu tư, tuy nhiên đây mới chỉ là quy định chung, muốn lựa chọn một số nghành nghề phù hợp, các bên phải tìm hiểu quy định cụ thể của chính phủ trong từng thời kỳ về danh mục địa bàn khuyến khích, đặc biệt khuyến khích đầu tư, danh mục các lĩnh vực đầu tư có điều kiện, danh mục các lĩnh vực đầu tư không được cấp giấy phép đầu tư. Sau khi tìm hiểu kỹ, các bên có thể tự lựa chọn cho mình một nghành nghề cụ thể nhưng không được thành lập doanh nghiệp liên doanh ở những lĩnh vực thuộc danh mục không được cấp giấy phép đầu tư. Đối với các lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì việc thành lập doanh nghiệp liên doanh phải đáp ứng những điều kiện đã được quy định.
2.2.2 Chuẩn bị hồ sơ thành lập doanh nghiệp liên doanh.
Để cấp Giấy phép đầu tư - cơ sở pháp lý cho việc thành lập doanh nghiệp liên doanh, các bên phải chuẩn bị hồ sơ xin cấp Giấy phép đầu tư.
Hồ sơ phải đầy đủ giấy tờ các tài liệu cần thiết theo quy định của pháp luật.
Theo Điều 107 Nghị định 24/2000 NĐ-CP ngày 31/7/2000 thì hồ sơ xin cấp Giấy phép đầu tư bao gồm:
- Đơn xin cấp giấy phép đầu tư.
- Hợp đồng liên doanh.
- Điều lệ doanh nghiệp liên doanh .
- Văn bản xác định tư cách pháp lý,tình hình tài chính của các bên liên doanh.
- Giải trình kinh tế kỹ thuật.
-Các tài liệu liên quan đến chuyển giao công nghệ (nếu có).
Các bên phải hoàn thành hồ sơ với đầy đủ giấy tờ tài liệu nêu trên. Nội dung trìnhbày trong hồ sơ phải rõ ràng, cụ thể và đầy đủ tránh tình trạng phải sửa đổi, bổ sung giấy tờ khi thẩm định. Thực tiễn ở khâu thẩm định hồ sơ thường gặp các tình huống như: yêu cầu bổ sung văn bản pháp lý,chứng minh tư cách pháp lý và năng lực của chủ đầu tư,yêu cầu sửa đổi bổ sung các thoả thuận quy định trong hợp đồng, điều lệ không phù hợp với quy định của pháp luật, yêu cầu giải trình, những vấn đề cụ thể liên quan đến quy hoạch và giải toả mặt bằng...
Trong hồ sơ có 3 văn bản quan trọng mà các bên phải hoàn thành trước khi gửi hồ xin cấp Giấy phép đầu tư đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là: Hợp đồng liên doanh, Điều lệ doanh nghiệp và Giải trình kinh tế kỹ thuật.
* Hợp đồng liên doanh:
Hợp đồng liên doanh là bản ký kết giữa các bên để thành lập doanh nghiệp liên doanh tại Việt Nam. Hợp đồng liên doanh là yếu tố ràng buộc giữa các bên trong một thực thể kinh doanh độc lập, đó là doanh nghiệp liên doanh.
Cũng như bất kỳ loại hợp đồng nào khác, hợp đồng liên doanh là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập thay đổi và chấm dứt quyền và nghĩa vụ của mỗi bên liên doanh. Theo Điều 12 Nghi định 24/2000 NĐ-CP ngày 31/7/2000 thì Hợp đồng liên doanh phải có những nội dung sau đây:
1. Tên, địa chỉ, người đại diện có thẩm quyền của các bên liên doanh, tên, địa chỉ của doanh nghiệp liên doanh.
2. Mục tiêu và phạm vi kinh doanh.
3. Vốn đầu tư, vốn pháp định, tỷ lệ góp vốn pháp định, phương thức, tiến độ góp vốn và tiến độ xây dựng;
4. Sản phẩm chủ yếu, tỷ lệ xuất khẩu và tiêu thụ trong nước;
5.Thời hạn hoạt động của doanh nghiệp;
6. Quyền và nghĩa vụ của các bên liên doanh;
7. Các nguyên tắc tài chính;
8. Thể thức sử đổi và chấm dứt hợp đồng, điều kiện chuyển nhượng, điều kiện chấm dứt hoạt động, giải thể doanh nghiệp;
9.Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, phương thức giải quyết tranh chấp.
Ngoài các nội dung trên, các bên liên doanh có thể thoả thuận những nội dung khác trong hợp đồng liên doanh;
10. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, phương thức giả quyết tranh chấp. Ngoài các nội dung nêu trên, các Bên liên doanh có thể thoả thuận những nội dung khác trong Hợp đồng liên doanh.
Hợp đồng liên doanh phải do đại diện có thẩm quyền của các bên liên doanh ký vào từng trang và ký đầy đủ vào cuối hợp đồng. Hợp đồng liên doanh có hiệu lực kể từ ngày được cấp giấy phép đầu tư.
* Điều lệ doanh nghiệp liên doanh.
Điều lệ doanh nghiệp liên doanh là bản quy chế hoạt động riêng đối với từng doanh nghiệp liên doanh. Việc xây dựng điều lệ của doanh nghiệp liên doanh là sự cụ thể hoá các quy định của pháp luật trên cơ sở ý chí, năng lực của các bên liên doanh và phải được cơ quan cấp Giấy phép xem xét và chuẩn y. Theo Điều 13 Nghị định 24/2000NĐ-CP thì Điều lệ doanh nghiệp liên doanh phải có những nội dung sau đây:
1. Tên, địa chỉ của doanh nghiệp; tên, quốc tịch của người đại diện có thẩm quyền của các bên liên doanh;
2. Mục tiêu và phạm vi kinh doanh;
3. Vốn đầu tư, vốn pháp định,tỷ lệ góp vốn pháp định, phương thức và tiến độ góp vốn pháp định;
4. Cơ cấu tổ chức quản lý doanh nghiệp ;
5. Thể thức thông qua quyết định của doanh nghiệp; nguyên tắc giải quyết tranh chấp;
6. Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp;
7. Các nguyên tắc tài chính;
8. Tỷ lệ phân chia lãi và lỗ cho các bên liên doanh;
9. Quan hệ lao động trong doanh nghiệp; các vấn đề về sử dụng và đào tạo lao động;
10. Trong thời hạn hoạt động, điều kiện chấm dứt hoạt động và giải thể doanh nghiệp;
11. Thể thức sửa đổi, bổ sung điều lệ doanh nghiệp.
Ngoài các nội dung trên các liên doanh có thể thoả thuận những nội quy khác trong điều lệ doanh nghiệp liên doanh.
Điều lệ doanh nghiệp liên doanh phải do đại diện có thẩm quyền của các bên liên doanh ký vào từng trang và ký đầy đủ vào cuối điều lệ. Điều lệ doanh nghiệp liên doanh được đăng ký tại cơ quan cấp giấy phép đầu tư.
* Giải trình kinh tế kỹ thuật:
Giải trình kinh tế kỹ thuật là bản giải trình mục tiêu, các giải pháp kinh tế, kỹ thuật của dự án đầu tư, tác động của dự án nên các mặt của đời sống xã hội và môi trường, Giải trình kinh tế kỹ thuật được xây dựng sau khi nghiên cứu các yếu tố thị trường, pháp luật kinh tế, xã hội... có liên quan đến hoạt động của dự án. Giải trình kinh tế kỹ thuật phải được đánh giá tính toán trên nhiều mặt khác nhau và phải đảm bảo tính khoa học, hiện thực và khả thi.
Không phải mọi dự án doanh nghiệp liên doanh đều phải có giải trình kinh tế kỹ thuật. Giải trình kinh tế kỹ thuật không phải lập trong trường hợp doanh nghiệp liên doanh xuất khẩu trên 80% sản phẩm và một số lĩnh vực khác do Bộ kế hoạch và Đầu tư công bố. Đối với dự án này các bên liên quan chỉ cần đăng ký hố sơ theo mẫu của Bộ kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn. Mẫu giải trình kinh tế kỹ thuật hiện nay được phân thành 2 loại: Dự án đầu tư và khu công nghiệp.
Nội dung của Giải trình kinh tế kỹ thuật bao gồm những phần sau:
- Chủ đầu tư;
- Doanh nghiệp xin thành lập;
- Sản phẩm dịch vụ và thị trường;
- Công nghệ, máy móc, thiết bị và môi trường;
- Các nhu cầu cho sản xuất;
- Mặt bằng địa điểm và xây dựng kiến trúc;
- Tổ chức quản lý, lao động và tiền lương;
- Cơ cấu vốn đầu tư theo năm thực hiện;
- Đánh giá hiệu quả của dự án;
- Nhận xét và kiến nghị.
Như vậy, Giải trình kinh tế có liên quan đến rất nhiều vấn đề thuộc các lĩnh vực khác nhau, đòi hỏi người lập phải có chuyên môn kỹ thuật và hiểu biết sâu rộng.
2.2.3 Thủ tục thành lập doanh nghiệp liên doanh:
Sau khi đã được Cấp giấy phép đầu tư, doanh nghiệp liên doanh phải triển khai những công việc sau:
+ Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày được cấp giấy phép đầu tư, các Bên liên doanh thông báo cho nhau danh sách thành viên Hội đồng quản trị, cử Chủ Tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị.
+ Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày được cấp Giấy phép đầu tư, Hội đồng quản trị tổ chức phiên họp đầu tiên để thực hiện các công việc chủ yếu sau:
- Thông qua quy chế của Hội đồng quản trị;
- Bổ nhiệm Tổng Giám Đốc, Phó Tổng Giám Đốc, Kế toán trưởng (hoặc giám đốc tài chính);
- Xác định quan hệ làm việc giữa Hội đồng quản trị và Tổng Giám Đốc, các Phó Tổng giám đốc, xác định quyền hạn, trách nhiệm của Tổng Giám Đốc, phân định chức năng nhiệm vụ của Tổng Giám Đốc và Phó Tổng giám đốc thứ nhất;
- Xác định cụ thể tiến độ góp vốn pháp định của các bên liên doanh, cơ chế giám sát, biện pháp nghiệm thu phần vốn góp; chương trình kế hoạch và tiến độ xây dựng hình thành doanh nghiệp là cơ sở để Tổng Giám Đốc xây dựng kế hoạch nhập khẩu thiết bị, máy móc, vật tư, kế hoạch tuyển dụng và đào tạo lao động, kế hoạch xây dựng cơ bản, ký kết các hợp đồng kinh tế, cung cấp nguyên liệu và dịch vụ...
Biên bản họp đầu tiên của Hội đồng quản trị gửi đến Sở Kế Hoạch và Đầu Tư nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Danh sách Hội đồng quản trị, Tổng Giám Đốc, các Phó Tổng giám đốc của doanh nghiệp liên doanh được đăng ký tại Sở Kế Hoạch và Đầu Tư. Sở Kế Hoạch và Đầu Tư xác nhận danh sách Hội đồng quản trị, Tổng Giám Đốc, các Phó Tổng giám đốc của doanh nghiệp liên doanh, sao gửi Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, cơ quan cấp Giấy phép đầu tư.
Sau khi được bổ nhiệm Tổng Giám Đốc doanh nghiệp liên doanh đăng bố cáo trên báo hàng ngày của địa phương trong ba số liên tiếp về những nội dung chủ yếu như sau:
- Tên, địa chỉ của doanh nghiệp hoặc địa diểm thực hiện; Tên, địa chỉ chi nhánh, văn phòng đại diện, văn phòng điều hành (nếu có).
- Tên, địa chỉ của các bên liên doanh.
- Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
- Số và ngày cấp Giấy phép đầu tư, cơ quan cấp Giấy phép đầu tư, thời hạn hoạt động của doanh nghiệp.
- Vốn đầu tư, vốn pháp định của doanh nghiệp; Tỷ lệ góp vốn của mỗi bên liên doanh cam kết thực hiện.
- Mục tiêu và phạm vi hoạt động.
1. Nộp hồ sơ xin cấp Giấy phép sử dụng đất theo quy định tại Điều 106/2000 NĐ - CP và quy định của Tổng cục địa chính. Đối với doanh nghiệp khu công nghiệp, khu chế xuất, sau khi được cấp giấy phép đầu tư, thực hiện việc ký hợp đồng thuê lại đất và sử dụng các diện tích công cộng trong khu công nghiệp, khu chế xuất với doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng, khu chế xuất.
2. Nộp hồ sơ xin duyệt thiết kế xây dựng theo quy định tại Điều 96, 97 Nghị định 24/2000NĐ-CP, thực hiện các quy định về đấu thầu
Khi kết thúc xây dựng phải báo cáo cho cơ quan có thẩm quyền quyết định thiết kế công trình về hoàn thành xây dựng công trình và xin phép đưa vào sử dụng theo quy định tại Điều 98 Nghị định 24/2000 NĐ-CP, thực hiện việc thanh toán, quyết toán xây dựng công trình Điều 101, 102 Nghị định 24/2000 NĐ-CP
3. Đăng ký hoạt động xuất nhập khẩu, kế hoạch xuất nhập khẩu tại Điều 71 Nghị định 24/2000 NĐ-CP.
4. Thực hiện các thủ tục: Đăng ký xuất, nhập cảnh cho nhân viên người nước ngoài, đăng ký hành nghề, đăng ký sử dụng các phương tiện thông tin liên lạc, đăng ký chất lượng nhãn hiệu hàng hoá.
2.3 Cơ cấu tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp liên doanh.
Đảm bảo tính hấp đẫn của chủ đầu tư nước ngoài và đặc biệt đảm bảo độc lập chủ quyền của nước chủ nhà, quyền lợi Bên Việt Nam... Đó là những nguyên tắc cần thiết khi xây dựng hành lang pháp lý về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đối với hình thức đầu tư doanh nghiệp liên doanh, những nguyên tắc nêu trên cũng được thể hiện trong những quy định về cơ cấu tổ chức, hoạt động doanh nghiệp liên doanh.
Về cơ cấu tổ chức: Tất cả các doanh nghiệp liên doanh đều có hai cơ quan là:
* Hội đồng quản trị.
* Tổng giám đốc hoặc phó tổng giám đốc.
Hội đồng quản trị là cơ quan cao nhất trong doanh nghiệp liên doanh, là đại diện cho các chủ sở hữu doanh nghiệp liên doanh có thẩm quyền quyết định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp. Hội đồng quản trị gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên khác.
Việc quyết định số lượng thành viên của Hội đồng quản trị, số lượng thành viên của mỗi bên liên doanh, việc cử Chủ tịch Hội đồng quản trị, bổ nhiệm Tổng Giám Đốc, Phó Tổng giám đốc thứ nhất thực hiện theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài ''Các bên chỉ định người của mình tham gia Hội đồng quản trị theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh ''.
Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng quản trị có thể kiêm nhiệm Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc và các chức vụ khác của doanh nghiệp liên doanh. Nhiệm kỳ Hội đồng quản trị do các bên thoả thuận, nhưng không quá 5 năm.
Trong trường hợp thành lập doanh nghiệp liên doanh mới, bên doanh nghiệp liên doanh đang hoạt động có ít nhất 2 thành viên trong Hội đồng quản trị và trong đó có ít nhất 1 thành viên là công dân Việt Nam đại diện cho bên Việt Nam(Điều17 Nghị định 24/2000 NĐ - CP)
Việc phía Việt Nam cử người tham gia Hội đồng quản trị (cơ quan lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp liên doanh) là nhằm thể hiện vai trò của nhà kinh doanh nước chủ nhà trong việc tham gia quản lý doanh nghiệp; bên cạnh đó đại diện của bên Việt Nam tham gia Hội đồng quản trị cũng là người hỗ trợ cho nhà nước Việt Nam trong công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Vì vậy người được cử đại diện cho bên Việt Nam tham gia Hội đồng quản trị phải là người nắm vững hợp đồng, điều lệ doanh nghiệp, các quyết định của Hội đồng quản trị, thông qua đó nắm vững được mục tiêu hoạt động đã thoả thuận, những trách nhiệm ràng buộc các bên liên doanh với nhau để thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình và đòi hỏi bên kia phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của họ. Phải có suy nghĩ độc lập, có kiến nghị với đối tác bên kia về những vấn đề có liên quan... Từ đó họ mới bảo vệ được lợi ích của Bên Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh, bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp liên doanh, bảo vệ lợi ích của người lao động làm việc trong doanh nghiệp liên doanh và bảo vệ lợi ích của nhà nước Việt Nam.
Điều 12 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định: ''Chủ tịch Hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh do các bên liên doanh thoả thuận cử ra. Chủ tịch hội đồng quản trị có trách nhiệm triệu tập, chủ trì các cuộc họp của Hội đồng quản trị''
* Về qui chế hoạt động của Hội đồng quản trị:
1. Những vấn đề quan trọng nhất trong tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp liên doanh gồm: Bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng Giám đốc, Phó Tổng giám đốc thứ nhất; Sửa đổi, bổ sung Điều lệ doanh nghiệp do Hội đồng quản trị theo nguyên tắc nhất trí giữa các thành viên Hội đồng quản trị có mặt tại cuộc họp. Các bên liên doanh có thể thoả thuận trong điều lệ doanh nghiệp các vấn đề khác cần được quyết định theo nguyên tắc nhất trí.
2. Đối với những vấn đề không quy định tại Khoản 1 điều này, Hội đồng quản trị quyết định theo nguyên tắc biểu quyết quá bán số thành viên Hội đồng quản trị có mặt tại cuộc họp''.(Luật đầu tư nước ngoài Điều 14 luật sửa đổi, bổ sung năm 2000)
Hội đồng quản trị họp định kỳ mỗi năn ít nhất một lần Hội đồng quản trị có thể họp bất thường theo yêu cầu của Chủ tịch hội đồng quản trị hoặc của ít nhất 2/3 số thành viên Hội đồng quản trị hoặc của Tổng Giám đốc hoặc của Phó Tổng giám đốc thứ nhất. Các cuộc họp của Hội đồng quản trị do Chủ tịch Hội đồng quản trị triệu tập và chủ trì. Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể uỷ quyền cho Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị triệu tập và chủ trì cuộc họp của Hội đồng quản trị.
Cuộc họp của Hội đồng quản trị phải có ít nhất 2/3 thành viên Hội đồng quản trị đại diện của các Bên liên doanh tham gia. Các thành viên của Hội đồng quản trị có thể uỷ quyền bằng văn bản cho người đại diện tham gia cuộc họp và được quyền thay mặt biểu quyết thay về vấn đề được uỷ quyền.
Hội đồng quản trị thông qua các quyết định thuộc thẩm quyền theo hình thức biểu quyết tại cuộc họp hoặc lấy ý kiến bằng văn bản.
Biên bản họp Hội đồng quản trị phải được Hội đồng quản trị thông qua ngay trước khi bế mạc mỗi phiên họp và phải có các nội dung chủ yếu sau đây:
- Thời gian và địa điểm họp.
- Tổng số thành viên dự họp, các thành viên của hội đồng quản trị được uỷ quyền của thành viên khác dự phiên họp.
- Chương trình, nội dung làm việc.
- Tóm tắt ý kiến phát biểu tại cuộc họp.
- Các vấn đề biểu quyết, kết quả biểu quyết đối với từng vấn đề và các quyết định đã được thông qua.
- Biên bản họp của Hội đồng quản trị phải bao gồm đầy đủ họ tên và chữ ký của chủ toạ và thư ký cuộc họp.
Căn cứ biên bản cuộc họp, Hội đồng quản trị có thể ban hành các Nghị quyết, Quyết định của Hội đồng quản trị về từng vấn đề cụ thể. Nghị quyết, Quyết định của Hội đồng quản trị phải bao gồm đầy đủ họ tên, chức danh và chữ ký của tất cả các thành viên dự họp.
Các thành viên của Hội đồng quản trị có thể uỷ quyền cho người khác đến dự các phiên họp của Hội đồng quản trị và biểu quyết thay trong phạm vi được uỷ quyền. Giấy uỷ quyền phải có chữ ký đã được đăng ký của người uỷ quyền, nội dung uỷ quyền không vượt quá những quyền mà người uỷ quyền có.
Trong trường hợp những vấn đề phải thông qua theo nguyên tắc nhất trí (ngoài các vấn đề phải được thông qua theo nguyên tắc nhất trí quy định tại Luật đầu tư nước ngoài) mà không đạt được sự nhất trí trong các thành viên của Hội đồng quản trị và do đó ảnh hưởng bất lợi đến hoạt động của doanh nghiệp, thì Hội đồng quản trị có thể đề nghị cơ quan cấp Giấy phép đầu tư đứng ra làm trung gian hoà giải. Trường hợp việc hoà giải không thành có thể thoản thuận một trong các phương thức giải quyết sau:
- Toà án Việt Nam;
-Trọng tài Việt Nam hoặc trọng tài nước ngoài, trọng tài quốc tế;
- Trọng tài do các bên thoả thuận thành lập.
* Về quyền hạn, trách nhiệm của tổng giám đốc, phó tổng giám đốc.
Như đã đề cập ở phần trên, cơ quan quản lý của doanh nghiệp liên doanh, ngoài Hội đồng quản trị, còn có Ban Giám đốc. Hội đồng quản trị là cơ quan lãnh đạo doanh nghiệp liên doanh, còn ban giám đốc là những người được uỷ thác quản lý điều hành doanh nghiệp .Trong sản xuất kinh doanh theo phương hướng, mục tiêu kế hoạch do Hội đồng quản trị đã đề ra. Như vậy, sự thành công của doanh nghiệp liên doanh cũng phụ thuộc rất nhiều vào vai trò hoạt động của Ban Giám đốc.
Tổng Giám đốc và các Phó Tổng giám đốc doanh nghiệp liên doanh quản lý và điều hành công việc hành ngày của doanh nghiệp liên doanh. Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật cho doanh nghiệp, trừ điều lệ doanh nghiệp có quy định khác. Tổng Giám đốc hoặc Phó Tổng giám đốc thứ nhất do bên liên doanh Việt Nam đề cử và là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam. Trong trường hợp doanh nghiệp liên doanh chỉ có một Phó Tổng giám đốc thì người đó là Phó Tổng giám đốc thứ nhất.
Hội đồng quản trị phân định quyền hạn và nhiệm vụ giữa Tổng Giám đốc và Phó Tổng giám đốc thứ nhất. Tổng giám đốc chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về hoat động của doanh nghiệp liên doanh. Tổng giám đốc cần trao đổi với Phó tổng giám đốc thứ nhất về việc thực hiện nghị quyết của hội đồng quản trị. Về một số vấn đề quan trọng như: Bộ máy tổ chức, bổ nhiệm miễn nhiệm nhân sự chủ chốt, quyết toán kế toán tài chính hàng năm, quyết toán công trình, ký kết các hợp đồng kinh tế.
Trong trường hợp có ý kiến khác nhau giữa Tổng Giám đốc và Phó Tổng giám đốc thứ nhất trong điều hành hoạt động của doanh nghiệp thì ý kiến của Tổng Giám đốc là quyết định, nhưng Phó Tổng giám đốc thứ nhất có quyền bảo lưu ý kiến của mình để đưa ra Hội đồng quản trị xem xét, quyết định tại phiên họp gần nhất.
Trường hợp Tổng Giám đốc vắng mặt, Phó Tổng giám đốc thứ nhất được uỷ quyền thay mặt Tổng giám đốc điều hành doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc về công việc của mình ''.
(Điều 28 Thông Tư số 12/2000/TT-BKH ngày 15-9-2000)
Quan hệ giữa Chủ tịch Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc là mối quan hệ giữa ngưới sở hữu tài sản với người được uỷ thác quản lý tài sản. Hội đồng quản trị chỉ quyết định các vấn đề có tính chất định hướng của doanh nghiệp còn Giám đốc được giao quyền điều hành công việc hành ngày dựa trên cơ sở các định hướng của hội đồng quản trị đã được thông qua.
Với tư cách là người đại diện của Bên Việt Nam tham gia vào liên doanh trong hoạt động quản lý, điều hành, Giám đốc hoặc Phó Giám đốc người Việt Nam phải là người am hiểu pháp luật, có trình độ quản lý, điều hành doanh nghiệp, có kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh có suy nghĩ độc lập năng động sáng tạo.
Thông tư số 12/2000/TT-BKH (ngày 15/9/2000) có quy định về Ban Giám đốc trong doanh nghiệp liên doanh như sau:
Trường hợp Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm chức Tổng Giám đốc doanh nghiệp thì phải phân biệt hai chức năng khác nhau khi điều hành doanh nghiệp, căn cứ vào tính chất, nội dung từng văn bản để quyết địng ký tên, đóng dấu với cương vị thích hợp.
Trường hợp Tổng Giám đốc, Phó tổng giám đốc thứ nhất của doanh nghiệp không phải là thành viên Hội đồng quản trị thì Tổng Giám đốc, Phó tổng giám đốc thứ nhất được tham dự các phiên họp của Hội đồng quản trị, nhưng không được phép biểu quyết các vấn đề của Hội đồng quản trị.
Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc thứ nhất có trách nhiệm thực hiện các quyết định của Hội đồng quản trị. Trường hợp quyết định của Hội đồng quản trị không phù hợp với tình hình thực tế, tuỳ từng trường hợp cụ thể, nếu thấy cần thiết Tổng Giám đốc, Phó tổng giám đốc thứ nhất có thể đề nghị Chủ tịch Hội đồng quản trị triệu tập cuộc họp bất thường của Hội đồng quản trị để xem xét, giải quyết.
Tổng giám đốc, Phó tổng giám đốc thứ nhất có quyền từ chối chấp hành các quyết định của cá nhân các thành viên Hội đồng quản trị hoặc các quyết định trái pháp luật của Hội đồng quản trị.
Trên đây là cơ chế quản lý điều hành trong doanh nghiệp liên doanh. Cơ chế này ngày càng được hoàn thiện hơn trong thực tế sản xuấ._.vốn linh hoạt giữa các cổ đông sử dụng hiệu quả vốn đầu tư.
Với hình thức công ty cổ phần, nhà đầu tư có quyền lựa chọn hình thức thích hợp, phù hợp với thông lệ quốc tế, đảm bảo tính cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam.
Để doanh nghiệp liên doanh nói riêng và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói chung thành lập dưới hình thức công ty cổ phần thực sự phát huy được vai trò tích cực của mình và nhất là để không ảnh hưởng đến chính sách ''thu hút vốn đầu tư nước ngoài'' của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Vì thế, pháp luật nên có quy định cụ thể tỷ lệ vốn mà công ty cổ phần có vốn nước ngoài được quyền thu hút ở thị trường trong nước.
3.1.2. Trong lĩnh vực tài chính tín dụng.
a. Vấn đề vay vốn của doanh nghiệp liên doanh.
Muốn vay vốn của ngân hàng, các doanh nghiệp phải sản xuất kinh doanh có lãi, không có nợ quá hạn và phải có vốn tự có. Vốn tự có gồm giá trị thực của điều lệ , các quỹ dự trữ và một số tài sản ''nợ'' khác nếu có.
Trong khi đó vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh được quy định tại Điều 15 Nghị định 24/2000NĐ-CP như sau: ''Vốn pháp định có thể được góp một lần khi thành lập doanh nghiệp liên doanh hoặc góp từng phần theo phương thức và tiến độ góp vốn pháp định quy định tại hợp đồng liên doanh''. Như vậy, doanh nghiệp liên doanh không thể vay vốn của ngân hàng thương mại Việt Nam khi chưa đóng đủ vốn pháp định, trong khi đó luật đầu tư nước ngoài lại không bắt buộc doanh nghiệp liên doanh phải đóng góp đầy đủ vốn pháp định khi thành lập.
Đây chính là sự không thống nhất giữa các quy định của Luật đầu tư nước ngoài và pháp luật ngân hàng, đồng thời là nguyên nhân cản trở việc vay vốn ngân hàng của doanh nghiệp liên doanh.
Vì vậy, để giải quyết tình trạng trên, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài, cần phải sửa đổi điều kiện vay vốn của doanh nghiệp liên doanh, trong đó cho phép doanh nghiệp liên doanh vay vốn khi góp vốn đúng tiến độ nghi trong hợp đồng liên doanh .
+ Việc bảo lãnh vay vốn cho các doanh nghiệp liên doanh.
Nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài yêu cầu doanh nghiệp liên doanh phải có sự bảo lãnh ngân hàng nhà nước đối với phần vốn vay của bên Việt Nam thì mới được vay vốn của tổ chức tín dụng này. Để đáp ứng được đòi hỏi này, ngày 16/7/1997 Thủ tướng Chính Phủ đã ban hành văn bản số 3031/KTTH giao cho ngân hàng Nhà nước bảo lãnh hoặc chỉ định ngân hàng thương mại quốc doanh bảo lãnh vay vốn nước ngoài với phần vốn bên Việt Nam tham gia liên doanh. Tuy nhiên, thủ tục bảo lãnh còn quá phiền hà và có nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, tốn nhiều thời gian, phải qua nhiều cấp, nhiều ngành giải quyết, thận chí có khi phải có ý kiến của thủ tướng chính phủ mới giải quyết được. Hơn nữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được phép mở tài khoản vay tại một ngân hàng nước ngoài. Điều này làm cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong thanh toán và dễ gặp rủi ro. Đây cũng là lý do làm cho các nhà đầu tư nước ngoài ngại liên doanh với đối tác Việt Nam.
Đồng thời nhà nước cho liên doanh được thế chấp bằng tài sản có nguồn gốc từ vay vốn, tuy nhiên ngân hàng nhà nước chưa chấp thuận việc này vì vướng mắc Luật Dân Sự. Điều 346, 347 Bộ Luật dân sự quy định ''thế chấp tài sản là bất động sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện với bên có quyền...''.
b. Thuế thu nhập cá nhân.
Theo pháp lệnh thuế ban hành ngày 19/5/1994 và pháp lệnh sửa đổi (một số điều của pháp lệnh thuế thu nhập cao) năm 1997-1998 thì thuế xuất thu nhập là cao đối với người Việt Nam và người nước ngoài. Đặc biệt thuế thu nhập cá nhân đối với người Việt Nam cao nhất là 60% và thuế phụ là 30% đối với số tiền lớn hơn 8 triệu đồng. Hơn nữa, hiện nay mức khởi điểm tính thuế đối với công dân Việt Nam lại thấp. Với qui định về thuế thu nhập cao của Việt Nam thì nhiều doanh nghiệp liên doanh cho rằng việc thu hút chuyên môn giỏi vào làm việc ở Việt Nam rất khó khăn, làm tăng chí phí của doanh nghiệp - nhiều doanh nghiệp liên doanh cho rằng họ không tăng lương cho công nhân là người Việt Nam lên trên 2 triệu đồng vì phải chịu thuế thu nhập . Do đó, thiệt hại đến quyền lợi của người lao động Việt Nam.
Thuế thu nhập là một nguồn thu cho ngân sách nhằm điều tiết thu nhập thực hiện chính sách xã hội. Tuy nhiên thuế thu nhập có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, theo em Nhà nước cần nghiên cứu ban hành pháp luật thuế thu nhập hợp lý so với khu vực và nâng cao mức khởi điểm chịu thuế lên hơn 2 triệu đối với lao động là người Việt Nam, có như vậy quyền lợi của người lao động mới được bảo đảm, khuyến khích sản xuất, tăng năng xuất và tạo môi trường đầu tư hấp dẫn.
c. Thuế nhập khẩu.
Hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu của Việt Nam còn nhiều bất hợp lý, những quy định chồng chéo của nhiều cơ quan quản lý nhà nước và thiếu sự cụ thể, chi tiết của các văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành đối với hoạt động sản xuất, nhập khẩu.
Mặc dù đã có các luật thuế, nhưng thủ tục thực hiện các luật thuế này cũng còn nhiều phiền hà, gây khó khăn cho doanh nghiệp liên doanh.
Cùng một mặt hàng nhập khẩu, nhưng hải quan Việt Nam có thể áp dụng nhiều thuế xuất khác nhau làm cho doanh nghiệp không biết trước mức thuế phải nộp để tính vào giá thành sản xuất và ký hợp đồng sản phẩm. Hệ thống phân loại thuế theo tiêu chuẩn SKD-CKD-IKD (tiêu chuẩn riêng của Việt Nam) gây khó khăn lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài khi nhập các linh kiện, phụ tùng, máy móc, thiết bị.
Thời hạn hoàn thuế xuất nhập khẩu đối với nguyên liệu nhập để sản xuất hàng xuất khẩu là quá ngắn. Để khắc phục những bất hợp lý trên cần phải:
+ Nghiên cứu lại hệ thống phân loại tiêu chuẩn SKD-CKD- IKD tìm ra những bất hợp lý để khắc phục.
+ Thống nhất mã thuế áp dụng.
3.1.3 Trong lĩnh vực lao động, tiền lương.
Tình trạng vi phạm các quy định của pháp luật về tiền lương, điều kiện làm việc, phúc lợi xã hội hoặc hợp đồng lao động vẫn còn tồn tại trong các doanh nghiệp liên doanh. Trong đó vi phạm các quy định pháp luật về mức lương trả cho công nhân khá phổ biến trong các doanh nghiệp liên doanh. Trong năm vừa qua Thanh tra thuộc Bộ Lao động thương binh xã hội đã tiến hành kiểm tra hơn 70 công ty có vốn đầu tư nước ngoài (trong đó có doanh nghiệp liên doanh) đã phát hiện ra 15% số công nhân Việt Nam chịu mức lương thấp hơn mức lương tối thiểu do chính phủ quy định, một số công nhân chỉ được trả 20 USD/tháng, 80% các doanh nghiệp nói trên vi phạm quy định trả lương cho công nhân có tay nghề chỉ ở mức lương tối thiểu. Hầu hết các doanh nghiệp được thanh tra không có chương trình tăng lương cho công nhân hoặc có thì ở mức thấp hơn quy định của Chính phủ. Trong khi đó cường độ lao động, thời gian lao động kéo dài và kỷ luật lao động ở trong các doanh nghiệp liên doanh quá khắt khe, chỉ một sai sót nhỏ của người lao động cũng có thể bị doanh nghiệp liên doanh phạt bằng cách cắt lương, đuổi việc, thậm chí còn bị xúc phạm thân thể. Tình trạng vi phạm pháp luật lao động, tiền lương còn khá phổ biến bởi vì:
+ Doanh nghiệp liên doanh hiểu sai hoặc cố tình hiểu sai về quy định pháp luật, tiền lương.
+ Người công nhân không hiểu rõ pháp luật hoặc có biết nhưng không dám phản đối vì sợ mất việc làm.
+ Cán bộ điều hành trong doanh nghiệp liên doanh là người Việt Nam đồng tình làm ngơ trước yêu cầu chính đáng của công nhân Việt Nam và tình trạng vi phạm của doanh nghiệp.
+ Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chưa làm tốt công việc kiểm tra về lao động tiền lương. Khi phát hiện thì xử lý chưa nghiêm. Để khắc phục tình trạng trên nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động, bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật tiền lương với các hình thức sử lý vi phạm rõ ràng, nghiêm khắc cần phải thiết lập một hệ thống công đoàn tại các doanh nghiệp liên doanh.
Hiện nay còn nhiều doanh nghiệp liên doanh chưa thành lập tổ chức công đoàn, nhiều tổ chức công đoàn được thành lập nhưng chỉ là hình thức, chưa phát huy được vai trò bảo vệ quyền lợi của người lao động. Ngoài ra các doanh nghiệp liên doanh không tạo điều kiện cho tổ chức công đoàn hoạt động.
3.1.4 Vốn góp của các bên liên doanh.
a Tài sản góp vốn của bên nước ngoài.
Bên nước ngoài góp vốn bằng máy móc thiết bị hoặc dây chuyền công nghệ. Trong nhiều trường hợp, bên nước ngoài đã khai tăng giá trị máy móc công nghệ góp vốn của mình. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhiều doanh nghiệp liên doanh đã nâng giá trị thiết bị máy móc góp vốn của bên nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh đã gây thiệt hại lớn cho bên Việt Nam, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Bên Việt Nam trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguyên nhân của việc nâng giá thiết bị máy móc góp vốn liên doanh của bên nước ngoài có thể là:
+ Do Việt Nam chưa có quy định về tính giá trị (thương quyền) nên trong một số trường hợp phần góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất lại quá lớn so với giá thực của khu đất làm cho việc đàm phán kéo dài vì vậy Bên nước ngoài khó chấp nhận. Chính vì vậy nhà đầu tư nước ngoài đã nâng giá trị thiết bị máy móc để đảm bảo quyền lợi cho mình.
+ Trong một số trường hợp, khi đàm phán với nước ngoài các đối tác Việt Nam đã đưa ra mức cho thuê quá thấp để được Bên nước ngoài chấp nhận. Nhưng khi thẩm định vụ án, họ lại yêu cầu phải đàm phán để tăng giá thuê đất do vậy sẽ gặp khó khăn, bị mất nhiều thời gian và cũng khó thuyết phục Bên nước ngoài.
+ Hơn nữa việc tiếp nhận công nghệ cũ, lạc hậu không chỉ xảy ra đối với nước ta, mà với tất cả cácnước có trình độ trang bị máy móc thiết bị công nghệ tương đối thấp trong việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Để hạn chế và tiến tới việc chấm dứt việc nâng giá trị của Bên nước ngoài đối với thiết bị máy móc, theo em cần tiến hành các biện pháp sau:
- Cần xây dựng hệ thống giá thuê đất bao gồm cả chi phí giải toả mặt bằng, phù hợp với thông lệ quốc tế đặc biệt là với cả các nước trong khu vực.
- Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài có tư cách đạo đức tốt và trình độ chuyên môn cao, tạo nguồn cung cấp các thông tin về thiết bị máy móc và giá cả. Căn cứ vào giá cả, tính phức tạp và sự hiểu biết của Bên Việt Nam, có thể quyết định thuê hay không thuê tổ chức giám định độc lập để xác định chính xác giá cả.
- Cần có quy định xử lý nghiêm minh đối với việc khai tăng giá.
b. Đối tác Việt Nam tham gia góp vốn liên doanh:
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia góp vốn liên doanh còn ít. Tham gia hợp tác đầu tư thành lập doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay chỉ mới có hơn 150 dự án liên doanh với nước ngoài (chiếm 8,2% dự án liên doanh đã đăng ký). Như vậy các dự án liên doanh nước ngoài mà doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia góp vốn thường có quy mô nhỏ, điều này phản ánh khả năng hạn hẹp về tài chính của các doanh nghiệp này.
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đặc biệt là doanh nghiệp thuộc sở hữu của tư nhân có đặc điểm là năng động, có trách nhiệm cao đối với tài sản doanh nghiệp (xuất phát từ quan hệ sở hữu). Vì vậy, để khai thác triệt để tiềm năng của các thành phần kinh tế vào hoạt động đầu tư nước ngoài, nhà nước cần có chính sách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói chung và các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân nói riêng tham gia liên doanh với nước ngoài bằng cách quy định về giảm tiền thuê đất, thuế xuất các loại thuế...
Việc tham gia của các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân sẽ góp phần quản lý tốt phần vốn góp của Bên Việt Nam, hạn chế tình trạng doanh nghiệp liên doanh xin chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài do làm ăn thua lỗ.
c. Tiến độ góp vốn liên doanh.
Theo quy định luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, thì doanh nghiệp liên doanh do bên nước ngoài và bên Việt Nam hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh với nguyên tắc cùng góp vốn, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Vì vậy, nhiều dự án liên doanh không thực hiện đúng hoặc chậm tiến độ góp vó ảnh hưởng tới việc triển khai thi công dự án liên doanh.
Điều 9 Luật đầu tư nước ngoài quy định: ''Tiến độ góp vốn do các bên thoả thuận ghi trong hợp đồng liên doanh và được cơ quan quản lý Nhà nước và đầu tư nước ngoài chấp thuận''. Như vây, quy định trên đã không tạo được cơ sở pháp lý vững chắc để đảo bảo tiến độ góp vốn của nhà đầu tư. Bên cạnh đó, tiến độ góp vốn do cơ qua có thẩm quyền chấp thuận nên dễ phát sinh tiêu cực trong quá trình xét duyệt. Khi có sự vi phạm về tiến độ góp vốn thì hình thức xử lý duy nhất là thu hồi giấy phép đầu tư. Về vấn đề này cần được điều chỉnh cụ thể hơn.
Luật đầu tư nên quy định rõ thời gian, tiến độ và giới hạn góp vốn để các bên thực hiện hợp lý. Chẳng hạn như : Trong thời hạn 3 tháng (sau khi cấp giấy phép đầu tư) các bên phải đóng góp đủ 30% phần vốn của mình và trong một năm sau các bên phải hoàn thành toàn bộ việc góp vốn của mình. Đối với từng vi phạm pháp luật cần quy định những biện pháp xử lý riêng.
- Vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh:
Điều 16 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định: ''Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không được giảm vốn pháp định'' theo như qui định trên doanh nghiệp liên doanh phải đảm bảo vốn pháp định của mình trong suốt quá trình hoạt động mà không được giảm. Quy định như vậy là Nhà nước muốn tạo ra sự ổn định về lượng vốn đầu tư đã đăng ký của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam .
Tuy nhiên trong hoạt động sản xuất kinh doanh không thể tránh khỏi rủi ro, điều kiện bất lợi xảy ra ngoài ý muốn của nhà đầu tư. Ví dụ như: thị trường tiêu thụ sản phẩm bị thu hẹp, mất khả năng tài tài chính của một số bên trong doanh nghiệp liên doanh... đòi hỏi doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, giảm vốn pháp định cho phù hợp với khả năng của mình và điều kiện kinh doanh. Do vậy qui định bắt buộc nhà đầu tư không được giảm vốn pháp định là không hợp lý. Nên chăng luật đầu tư nước ngoài cho phép doanh nghiệp liên doanh nói riêng và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói chung được giảm vốn pháp định trong quá trình kinh doanh, nhưng phải đảm bảo vốn pháp định trong vốn đầu tư không được thấp hơn tỷ lệ mà pháp luật qui định tối thiểu đối với từng trường hợp.
3.1.5 Vấn đề về sử dụng đất, triển khai dự án liên doanh.
a. Thủ tục thuê đất:
Thủ tục về đất đai Việt Nam rất phức tạp, gây khó khăn trở ngại để thực hiện dự án đầu tư nói chung và doanh nghiệp liên doanh nói riêng. Để triển khai được dự án liên doanh, trên thực tế phải mất rất nhiều thời gian và chi phí. Nguyên nhân của tình trạng này là do hệ thống pháp luật còn rườm rà, phức tạp và quá trình thực hiện các qui định của pháp luật không thống nhất còn cứng nhắc.
Theo Thông tư 679TT/CĐ của Tổng Cục địa chính ngày 12/5/1997 hướng dẫn về việc thuê đất và thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài thì:
- Doanh nghiệp liên doanh (hoặc bên liên doanh thuê góp vốn) phải ký kết hợp đồng với tổ chức có tư cách pháp nhân về đo đạc địa chính (trong khi thực hiện một bước là xác định địa điểm thực hiện dự án)
- Sau khi có giấy phép đầu tư doanh nghiệp liên doanh (hoặc bên liên doanh) thuế đất phải gửi bản sao giấy phép đầu tư (có công chứng) và bản đồ địa chính khu đất (trích lục hoặc chính đo) đến sở địa chính. Sau khi nhận được các văn bản trên sở địa chính thực hiện các công việc:
+) Kiểm tra xác nhận vào địa chính khu đất.
+) Lập biên bản kiểm tra hồ sơ đất đai.
Trên thực tế để hoàn thành thủ tục trên phải thực hiện đo đất đến ba lần còn để được cấp giấy phép quyền sử dụng đất phải qua 11 cơ quan với nhiều chữ ký của lãnh đạo cơ quan, thời hạn lại kéo dài vài ba năm.
Chính sách đất đai áp dụng với lĩnh vực đầu tư nước ngoài vẫn còn nhiều vướng mắc:
- Giá thuê đất của Việt Nam cao hơn so với nhiều nước trong khu vực. Nếu tính cả chi phí đền bù, giải toả thì giá đất bị đẩy lên quá cao. Đây là yếu tố làm giảm sức cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư, thời điểm tính giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn vào doanh nghiệp liên doanh chưa hợp lý.
Để đơn giản hoá thủ tục thuê đất, tổng cục địa chính cần phải ban hành văn bản hướng dẫn các sở địa chính về việc đo đất. Cụ thể là yêu cầu sở địa chính uỷ quyền cho một tổ chức có tư cách pháp nhân tiến hành đo đất và lập bản đồ một lần cùng với sự giám sát của Sở địa chính.
b. Giải toả mặt bằng:
Giải toả mặt bằng là vấn đề rất phức tạp vì nó liên quan đến quyền của các bên khi tiến hành đền bù. Trong khi đó chính quyền xã, huyện quản lý trực tiếp đất đai thì ít khi quan tâm đến vì không có quyền lợi liên quan, mặt khác các hộ gia đình trong vùng đất để thực hiện dự án không chịu di chuyển, đòi mức đền bù cao, thậm chí còn có hành vi chống đối chính quyền. Vì vậy nhiều dự án liên doanh có giải toả và đền bù kéo dài, trong nhiều trường hợp việc giải toả này kéo dài trong một số măn thậm chí có dự án kéo dài đến 5 năm. Thủ tục giải phóng mặt bằng còn phức tạp gây mất cơ hội và thời gian của các nhà đầu tư. Hiệu lực pháp luật còn thấp mặc dù đã được sửa đổi nhưng thiếu những văn bản hướng dẫn chi tiết.
Theo Điều 89 Nghị định 24/2000 NĐ-CP quy định:
UBND cấp tỉnh nơi có dự án đầu tư có trách nhiệm tổ chức đền bù, giải phóng mặt bằng, hoàn thành các thủ tục cho thuê đất. Chi phí gíải toả được tính vào vốn đầu tư của dự án. UBND thoả thuận với doanh nghiệp được thuê đất về nguồn tài chính để thực hiện việc giải toả.
Trường hợp bên Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, bên Việt Nam có trách nhiệm giải phóng mặt bằng và hoàn thành các thủ tục để được quyền sử dụng đất. Chi phí thực hiện việc đền bù, giải phóng mặt bằng được tính trong phần vốn góp của bên Việt Nam hoặc do các bên thoả thuận.
c. Giấy phép sử dụng đất:
Thủ tục cấp giấy phép sử dụng đất cho liên doanh đối với phần đất mà bên Việt Nam góp vốn bằng quyền sử dụng đất rất chậm. Phần đất của bên Việt Nam góp vốn đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy phép đầu tư đã quy định diện tích đất vẫn phải làm mọi thủ tục như đối với đất mới. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho liên doanh đối với phần đất mà bên Việt Nam được giao góp vốn liên doanh về cơ bản là thay đổi chủ thể sử dụng và mục đích sử dụng.
Để tạo điều kiện cho việc triển khai dự án được nhanh sau khi được cấp giấy phép sử dụng đất. Sở Địa chính ở các Tỉnh, Thành phố chỉ tiến hành đo đạc, lập bản đồ địa chính một lần và đơn giản hoá mọi thủ tục khác về đất đai. Đồng thời thiết lập qui trình giao đất đúng luật nhưng đơn giản, tránh trùng lặp, rút ngắn thời gian, nhất là công đoạn đo đạc.
3.1.6. Bảo hiểm.
Trong cơ chế thị trường thì doanh nghiệp liên doanh cũng như các doanh nghiệp khác không thể tránh khỏi rủi ro. Vì vậy, một thị trường bảo hiểm phát triển là rất cần thiết, giúp cho doanh nghiệp liên doanh tham gia ổn định sản xuất kinh doanh và làm tăng tính an toàn của môi trường đầu tư nước ngoài nói chung.
Trong khi đó pháp luật bảo hiểm Việt Nam chưa cho phép thành lập doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài , các tổ chức bảo hiểm đầu tư nước ngoài chỉ được nhận tái bảo hiểm sau khi đã ưu tiên doanh nghiệp bảo hiểm được phép hoạt động ở Việt Nam. Tuy nhiên, tổ chức nước ngoài cũng chỉ được nhận tái bảo hiểm một phần trách nhiệm (một phần do công ty bảo hiểm quốc gia nhận tái bảo hiểm bắt buộc).
Trên thực tế, công ty bảo hiểm Quốc gia (BAOVIET) có năng lực hạn chế nên lại tái bảo hiểm cho tổ chức nước ngoài.
Những quy định chặt chẽ về bảo hiểm trên là nhằm mục đích tránh tình trạng chảy lệ phí ra nước ngoài, nhưng về phía doanh nghiệp liên doanh tham gia bảo hiểm thì việc bảo hiểm qua nhiều khâu trung gian sẽ làm tăng chi phí bảo hiểm và phức tạp.
Vì vậy, Nhà nước cần nghiên cứu ban hành pháp luật cho phép doanh nghiệp liên doanh 100% vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm, cho phép công ty bảo hiểm nước ngoài hoạt động trực tiếp (tại Việt Nam) bảo hiểm đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Như vậy, để tạo một thị trường bảo hiểm phát triển mang tính cạnh tranh, cung cấp tốt nhất dịch vụ bảo hiểm cho doanh nghiệp liên doanh làm giảm rủi ro đầu tư sản xuất kinh doanh ở Việt Nam.
3.1.7 Cán bộ Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh.
Hiện nay có hơn 10.000 cán bộ Việt Nam tham gia trực tiếp quản lý trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó số cán bộ làm trong các doanh nghiệp liên doanh là chủ yếu. Trình độ và năng lực kinh nghiệm quản lý của cán bộ Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh còn yếu kém. Trên thực tế, chỉ có 15-20% cán bộ đáp ứng yêu cầu công tác doanh nghiệp liên doanh. Bên cạnh đó, tỷ lệ vốn trung bình của Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh mới chiếm 30% vốn pháp định. Do vậy, số người của bên Việt Nam tham gia Hội đồng quản trị tương đối ít và vai trò của bên Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh rất thấp, không bảo vệ được quyền lợi của bên Việt Nam, quyền lợi của người lao động làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh...
Trong nhiều trường hợp, cán bộ Việt Nam đã bị phía nước ngoài lợi dụng, có trường hợp cán bộ Việt Nam phục vụ cho quyền lợi của chủ đầu tư nước ngoài. Phía Việt Nam góp vốn liên doanh chủ yếu là các doanh nghiệp quốc doanh (98,2% về vốn, 92,2% về dự án liên doanh). Vì vậy, đổi mới công tác cán bộ trước hết và quan trọng nhất là tập trung vào cán bộ của Nhà nước trong các doanh nghiệp liên doanh là điều cần thiết.
Để khắc phục tình trạng trên, Nhà nước nên giải quyết các biện pháp sau:
- Chính phủ cần ban hành văn bản quy định tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ Việt Nam trong doanh nghiệp liên doanh. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhằm nâng cao trình độ quản lý kinh doanh, trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ cũng như nâng cao kiến thức về kinh tế thị trường, về luật pháp... cho đội ngũ cán bộ quản lý.
Cần xử lý nghiêm khắc đối với cán bộ vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho phía Việt Nam và doanh nghiệp liên doanh.
Ban hành các quy định khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế hợp tác để tăng phần vốn góp của bên Việt Nam trong quản lý doanh nghiệp liên doanh sẽ được nâng cao.
Tóm lại: Muốn thu hút được nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, chúng ta cần cải thiện môi trường pháp lý thông thoáng, đa dạng để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Điều này không chỉ đáp ứng yêu cầu trước mắt, bức thiết hiện nay, mà còn mang tính chiến lược lâu dài. Thu hút nước ngoài là cần thiết nhưng chúng ta phải độc lập tự chủ, phải phát huy đầy đủ nội lực thì mới đứng vững và đi lên một cách tự tin, vững chắc. Từ đó, chúng ta hội nhập với quốc tế một cách bình đẳng, chúng ta cần nắm vững và quán triệt phương châm '' giữ độc lập tự chủ, đi đôi với mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, động viên cao độ nguồn lực trong nước là chính, đi đôi với việc tranh thủ nguồn lực bên ngoài. xây dựng một nền kinh tế mở hội nhập với khu vực và thế giới ''
Vấn đề hết sức cấp thiết là phải cải thiện môi trường đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Đây là vấn đề tất yếu trong bối cảnh kinh tế quốc tế hiện nay.
Kết luận và kiến nghị
Từ khi ra đời, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được dư luận đánh giá là thông thoáng, có tính hấp dẫn cao. Với ưu thế đó, từ khi thực hiện đến nay, với hơn 1400 dự án đăng ký với tổng số vốn là gần 30 tỷ USD. Doanh nghiệp liên doanh đã góp phần quan trọng cho việc phát triển kinh tế.
Tính đến năm 1999 đầu năm 2000, có hơn 660 dự án đầu tư theo hình thức doanh nghiệp liên doanh đi vào hoạt động và đóng góp cho ngân sách nhà nước khoảng 3.079,6 triệu USD. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân trong số 660 dự án doanh nghiệp liên doanh chỉ có 180 doanh nghiệp kinh doanh thuận lợi, nhưng doanh nghiệp liên doanh cũng là hình thức đầu tư luôn có tổng số vốn đăng ký chiếm tỷ trọng cao trong các dự án đầu tư nước ngoài. Năm 1995 số vốn của dự án liên doanh đẫ đăng ký chiếm 76,9%; năm 1996 là 81,9% đến đầu năm 1998 thì số vốn đăng ký chiếm 70%; năm 1999-2000 là 67,8% vốn nước ngoài đã đăng ký. Với số vốn và dự án lớn nhất, hình thức doanh nghiệp liên doanh đã đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Đến nay, hầu hết các tập đoàn, công ty lớn có tên tuổi như: Toyota, Sony(Nhật), IBM(Mỹ), Merceders(Mỹ), Daewoo, Hyundai (Hàn Quốc), JVC (Nhật)... Đã có dự án đầu tư liên doanh tại Việt Nam. Qua xem xét số dự án đang hoạt động, dể dàng nhận thấy một điều là các nhà đầu tư nước ngoài có mặt hầu hết trên các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân Việt Nam. Số dự án này được thực hiện chủ yếu dưới hình thức đầu tư doanh nghiệp liên doanh thông qua ký hợp đồng liên doanh.
Như vậy, hình thức thông qua liên doanh là hình thức luôn được các nhà đầu tư ưu chuộng nhất. Bằng việc sửa đổi luật đầu tư liên tục, kịp thời. Nhà nước ta đã khuyến khích đầu tư vào hình thức này qua việc dành cho doanh nghiệp liên doanh nhiều điều kiện ưu đãi nhất. Đầu tư vào doanh nghiệp liên doanh có lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, vừa có lợi cho các nhà đầu tư trong nước.
Vì vậy mà nó được ưa chuộng hơn. Qua liên doanh với nước ngoài, các doanh nghiệp trong nước đã tiếp thu, đổi mới công nghệ, học tập kinh nghiệm tiên tiến của nước ngoài. Do vậy, năng lực sản xuất trong nước ngày một nâng cao đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước.
Để đạt được những kết quả khả quan như trên, chúng ta không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng như vai trò quản lý của Nhà nước có tính quyết định tới sự thành công và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh. Nhà nước ta, với đường lối sáng tạo đã thực sự tạo ra một môi trường pháp lý hấp dẫn, tạo điều kiện cho sự phát triển của loại hình đầu tư phổ biến này.
Để hoàn thiện địa vị pháp lý của doanh nghiệp liên doanh em xin có kiến nghị như sau:
Sau vài năm ban hành nghị định 12/CP ngày 18/2/1997 quy định về những chính sách khuyến khích đối với miền núi, vùng sâu,vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế khó khăn nhưng tốc độ đầu tư vào các vùng trên chưa phù hợp với thực tiễn, khả năng thu hút còn hạn chế, chưa tạo được hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài.
Để tăng trưởng tốc độ đầu tư ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. em xin có ý kiến như sau:
- Tăng thời hạn miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các dự án trồng rừng, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng miền núi.
- Tiếp tục giảm tiền thuê đất đối với miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Với ý kiến đóng góp của bản luận văn này, em hy vọng được đóng góp một phần vào việc hoàn thiện môi trường pháp lý phù hợp với thông lệ quốc tế và có những đặc điểm riêng nhằm phát huy tối đa vai trò của doanh nghiệp liên doanh ở Việt Nam trong chính sách thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời, là cơ sở pháp lý đảm bảo cho doanh nghiệp liên doanh tăng và trở thành một loại hình doanh nghiệp thu hút nhất đối với các nhà đầu tư với hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất đúng với vị trí vai trò vốn có của nó.
Lời cảm ơn !
Khoá luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn nhiệt tình và chân thành của thầy giáo Đỗ Mạnh Hồng. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đền người thầy của mình cùng toàn thể các thầy, cô giáo trong Khoa và gia đình, bạn bè, đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình thực hiện Khoá luận này.
mục lục
lời nói đầu.
chương 1: những vấn đề lý luận về đầu tư nước ngoài 3
1.1 Khái niệm đầu tư nước ngoài và các loại hình đầu tư nước ngoài 3
1.1.1 Khái niệm đầu tư nước ngoài 3
1.1.2 Các loại hình đầu tư nước ngoài 4
1.1.2.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài 4
1.1.2.2 Đầu tư gián tiếp nước ngoài. 5
1.2 Tác động của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam 6
1.3 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam-quá trình hình thành và phát triển 7
1.3.1 Các hình thức đầu tư nước ngoài theo Luật đầu tư năm 2000 8
1.3.1.1 Hợp đồng hợp tác kinh doanh 9
1.3.1.2 Doanh nghiệp liên doanh 9
1.3.1.3 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài 11
Chương 2: Địa vị pháp lý của doanh nghiệp liên doanh theo Luật đầu tư năm 2000 13
2.1 Sự ra đời của doanh nghiệp liên doanh 14
2.1.1 Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp liên doanh 15
2.1.2 Vai trò, vị trí của doanh nghiệp liên doanh trong nền kinh tế 18
2.2 Thủ tục thành lập doanh nghiệp liên doanh 19
2.2.1 Chọn đối tác đầu tư 19
2.2.2 Chuẩn bị hồ sơ thành lập doanh nghiệp liên doanh 21
2.2.3 Thủ tục thành lập doanh nghiệp liên doanh 25
2.3 Cơ cấu tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp liên doanh 27
2.4 Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp liên doanh 35
2.4.1 Trong lĩnh vực bảo đảm vật tư tiêu, thụ sản phẩm 36
2.4.2 trong lĩnh vực tiền lương 36
2.4.3 Trong lĩnh vực tài chính, tín dụng, thanh toán 38
2.4.4 Trong lĩnh vực kế toán thống kê 43
2.5 Giải quyết tranh chấp giã các bên tham gia doanh nghiệp liên doanh 45
Chương 3: Thực trạng doanh nghiệp liên doanh theo Luận đầu tư nước ngoài tại việt nam và phương hướng hoàn thiện các quy định về doanh nghiệp liên doanh 47
3.1 Thực trạng và phương hướng hoàn thiện các quy định của doanh nghiệp liên doanh 49
3.1.1 Hình thức tổ chức và pháp lý của doanh nghiệp liên doanh 49
3.1.2 Trong lĩnh vự tài chính, tín dụng 50
3.1.3 Trong lĩnh vực lao động tiền lương 52
3.1.4 Vốn góp của các bên liên doanh 53
3.1.5 Vấn đề sử dụng đất triển khai dự án liên doanh 56
3.1.6 Bảo hiểm 59
3.1.7 Cán bộ Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh 59
kiến nghị và kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Báo cáo đầu tư của Bộ kế hoạch và đầu tư năm 2000
2. Công báo năm 2000 - 2001
3. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam
4. Giáo trình luật kinh tế - Trường đại học luật Hà Nội, 1998
5. Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài ở Việt Nam - Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2000
6. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996
7. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000
8. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và văn bản hướng dẫn thi hành( được sửa đổi, bổ xung ngày 9/6/2000) - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2000
9. Thời báo kinh tế
10. Tạp chí doanh nghiệp đầu tư nước ngoài năm 2000
11. Nghị định số 24/2000NĐ-CP ngày 31/7/2000 của chính phủ quy định chi tiết thi hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
12. Thông tư số 12/2000/TT-BKH ngày 15/9/2000 của Bộ Kế Hoạch và Đầu tư hướng dẫn hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- I0008.doc