Đề tài Tìm hiểu lễ hội chùa Ông tại xã Hồi Xuân, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa

BÀI TIỂU LUẬN MÔN QUẢN LÝ LỄ HỘI VÀ SỰ KIỆN GV: NGHIÊM XUÂN MỪNG ĐỀ TÀI: Tìm hiểu lễ hội chùa Ông tại xã Hồi Xuân, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa. SV: LƯƠNG VĂN QUANG MSV: 1505QLVB050 Lớp : DH.QLVH15B DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT STT Từ viết tắt Nghĩa của từ viết tắt 1 VH-TT-DL Văn hóa-Thể thao-Du lịch 2 UBND Ủy ban nhân dân 3 VH-TT Văn hóa-Thông tin 4 DSVH Di sản văn hóa 5 DSVH-VT Di sản văn hóa vật thể 6 DSVH-PVT Di sản văn hóa phi vật thể 7 CBQL Cán bộ quản lý 8 BTC Ban tổ chức 9 C

doc14 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 384 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đề tài Tìm hiểu lễ hội chùa Ông tại xã Hồi Xuân, huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BQL-ANTT Cán bộ quan lý an ninh trật tự 10 CBCV Cán bộ, chuyên viên 11 BQL Ban quản lý CHƯƠNG 1 ĐÔI NÉT SƠ LƯỢC VÙNG ĐẤT THANH HÓA, QUAN HÓA VÀ VỀ LỄ HỘI MƯỜNG CA DA, HUYỆN QUAN HÓA , TỈNH THANH HÓA. 1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.1.1. Lễ : Lễ là hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. 1.1.2. Hội : Hội là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống. 1.1.3. Lễ hội : Mỗi vùng miền, một quốc gia lại có hình thức tổ chức Lễ hội khác nhau. Chính vì thế mà đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hình thái sinh hoạt văn hóa này. Sau đây là một số khái niệm điển hình về “Lễ hội” như: - Khái niệm “Lễ hội” mới chỉ xuất hiện cách đây không lâu. Trước hết chỉ có khái niệm lễ hoặc hội. Cả hai khái niệm này đều là từ gốc Hán được dùng để gọi một nhóm loại hình phong tục, chẳng hạn như: Lễ Thành Hoàng, lễ gia tiên..., cũng như vậy trong hội cũng có nhiều hội khác nhau như: Hội Gióng, Hội Lim, Hội chọi trâu,.... Thêm chữ “ Lễ” cho “hội”, thời nay mong muốn gắn hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng này có ít nhất hai yếu tố cũng là hai đặc trưng đi liền với nhau. Trước hết là lễ bái, tế lễ thần linh, cầu phúc và sau là thăm thú vui chơi ở nơi đông đúc, vui vẻ (phần hội). - Trong “Từ điển tiếng Việt” lại có định nghĩa về “ Lễ hội ” như sau: + Lễ là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của con người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. + Hội là sinh hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ 4 thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sự bình yên cho từng cá nhân, hạnh phúc cho từng gia đình, sự vững mạnh cho từng dòng họ, sự sinh sôi nảy nở của gia súc, sự bội thu của mùa màng, mà từ bao đời nay quy tụ niềm mơ ước chung vào bốn chữ “nhân khang, vật thịnh”. Trong cuốn “ Hội hè Việt Nam” các tác giả cho rằng “ Hội và lễ là một sinh hoạt văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam. Hội và lễ có sức hấp dẫn, lôi cuốc các tầng lớp trong xã hội cũng tham gia để trở thành một nhu cầu, một khát vọng của nhân dân trong nhiều thập kỷ. Trong cuốn “ Lễ hội cổ truyền” – Phan Đăng Nhật - Ngô Đức Thịnh - Nguyễn Xuân Kính - Lê Văn Kỳ - Lê Trung Vũ cho rằng “ Lễ hội là một kho lịch sử khổng lồ, ở đó tích tụ vố số những phong tục, tín ngưỡng, văn hóa, nghệ thuật và cả các sự kiện xã hội – lịch sử quan trọng của dân tộc....Lễ hội còn là nơi bảo tồn, tích tụ văn hóa (theo nghĩa rộng) của nhiều thời kỳ lịch sử trong quá khứ dồn nén lại cho tương lai”. Như vậy ta thấy “Lễ hội” là một thể thống nhất không thể tách rời. Lễ là phần đạo đức tín ngưỡng, phần tâm linh sâu xa trong mỗi con người. Hội là các trò diễn mang tính nghi thức, gồm các trò chơi dân gian phản ánh cuộc sống thường nhật của người dân và một phần đời sống cá nhân nhằm kỷ niệm một sự kiện quan trọng với cả cộng đồng. 1.2. Vai trò, chưc năng của lễ hội : 1.2.1. Chức năng của lễ hội : Củng cố những mối liên hệ giữa các nhóm, khẳng định tinh thần cộng đồng; Khẳng định trình độ văn hóa của một cộng đồng và giao lưu văn hóa trên quy mô xã hội; Phản ánh và bảo lưu truyền thống; Tuyên truyền giáo dục; Hưởng thụ và giải trí; Đáp ứng nhu cầu về đời sống tinh thần; Nhận thức xã hội; Chức năng tâm linh; 1.2.2. Vai trò của lễ hội : Lễ hội có vai trò rất quan trọng trong mọi thời kì lịch sử : Lễ hội là sự kiện tưởng nhớ, tỏ lòng tri ân công đức của các vị thần đối với cộng đồng, dân tộc. Lễ hội là dịp con người được trở về nguồn, nguồn cội tự nhiên hay nguồn cội của dân tộc đều có ý nghĩa thiêng liêng trong tâm trí mỗi người. Lễ hội thể hiện sức mạnh cộng đồng làng xã, địa phương hay rộng hơn là quốc gia dân tộc. Họ thờ chung vị thần, có chung mục tiêu đoàn kết để vượt qua gian khó, giành cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Lễ hội cũng là nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp dân cư. Lễ hội là hình thức giáo dục, chuyển giao cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của dân tộc theo cách riêng, kết hợp giữa yếu tố tâm linh và các trò chơi đua tài, giải trí. Lễ hội là dịp con người được giải toả, dãi bày phiền muộn, lo âu với thần linh, mong được thần giúp đỡ, chở che đặng vượt qua những thử thách đến với ngày mai tươi sáng hơn. 1.3. Ý nghĩa của lễ hội : Lễ hội là một loại hình văn hóa, có thể nói là một tác phẩm văn hóa của tộc người Việt, là nhu cầu không thể thiếu trong tư duy, trong đời sống tinh thần của nhân dân. Lễ hội mang những tác động tích cực, nhiều người coi lễ hội như là một nhân tố tạo ra sự thư giãn tinh thần, là sự biểu hiện cách ứng xử văn hóa với thiên nhiên, với thần thánh, và nhất là với xã hội cộng đồng. Mỗi người, khi tham gia vào các hoạt động, dù là tham gia trực diện vào lễ hay chỉ là người dự hội bình thường đều tìm thấy sự hồn nhiên, hưng phấn nghệ thuật, những xúc cảm chất phát ngây thơ. Nhờ không khí vừa thiêng liêng, nghiêm trang, vừa vui vẻ, thân ái của ngày hội mà mỗi cá nhân, mỗi nhóm xã hội, mỗi cộng đồng giảm nhẹ hoặc “cởi tháo” được những quẫn bách, thậm chí cả những mâu thuẫn, xung đột của đời sống thường nhật. Trên tinh thần ấy, có thể nói giá trị của lễ hội có tấc dụng điều chỉnh các quan hệ xã hội nơi làng xã từ ngàn đời nay. Lễ hội là phương thức toàn diện để đối tượng hóa, hiện thực hóa hệ giá trị cộng đồng thông qua sự thực hành những nghi thức trong lễ và những khuôn mẫu ứng xử ngoài lễ như những cuộc ăn uống vui chơi. Cuộc sống luôn có những biến động thay đổi, lễ hội cũng vậy luôn biến đổi để thích ứng với cuộc sống. Tuy nhiên, lễ hội sẽ không mất đi bởi lễ hội có chức năng đặc thù thỏa mãn được nhu cầu văn hóa tổng hợp của cộng đồng và phù hợp với nhu cầu cố kết của bất cứ cộng đồng nào, trong bất kì hoàn cảnh nào. 1.4. Vài nét đặc trưng về tỉnh Thanh Hóa và huyện Quan Hóa. 1.4.1. Vài nét đặc trưng về tỉnh Thanh Hóa: Thanh Hóa là tỉnh cực Bắc miền Trung Việt Nam và là một tỉnh lớn về cả diện tích và dân số, đứng thứ 5 về diện tích và thứ 3 về dân số trong số các đơn vị hành chính tỉnh trực thuộc nhà nước, cũng là một trong những địa điểm sinh sống đầu tiên của người Việt cổ. Cách đây khoảng 6000 năm đã có người sinh sống tại Thanh Hóa. Các di chỉ khảo cổ cho thấy nền văn hóa xuất hiện đầu tiên tại đây là văn hóa Đa Bút. Sang đầu thời đại kim khí, thuộc thời đại đồ đồng, qua các bước phát triển với các giai đoạn trước văn hóa Đông Sơn, Thanh Hóa đã trải qua một tiến trình phát triển với các giai đoạn văn hoá: Cồn Chân Tiên, Đông Khối - Quỳ Chữ tương đương với các văn hóa Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun ở lưu vực sông Hồng. Và sau đó là nền văn minh Văn Lang cách đây hơn 2.000 năm, văn hoá Đông Sơn ở Thanh Hóa đã toả sáng rực rỡ trong đất nước của các vua Hùng. Thanh Hóa là tỉnh chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Trung Việt Nam trên nhiều phương diện. Về hành chính, Thanh Hóa là tỉnh cực bắc Trung Bộ, tiếp giáp với Tây Bắc Bộ và đồng bằng Bắc Bộ. Về địa chất, miền núi Thanh Hóa là sự nối dài của Tây Bắc Bộ trong khi đồng bằng Thanh Hóa là đồng bằng lớn nhất Trung Bộ, ngoài ra một phần nhỏ (phía bắc huyện Nga Sơn) thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng. Về khí hậu, Thanh Hóa vừa có kiểu khí hậu của miền Bắc lại vừa mang những hình thái khí hậu của miền Trung. Về ngôn ngữ, phần lớn người dân nói phương ngữ Thanh Hóa với vốn từ vựng khá giống từ vựng của phương ngữ Nghệ Tĩnh song âm vực lại khá gần với phương ngữ Bắc Bộ. Thanh Hóa bao gồm 2 thành phố trực thuộc tỉnh, 1 thị xã và 24 huyện, với diện tích 11.133,4 km2 và số dân 3.712.600 người với 7 dân tộc Kinh, Mường, Thái, H'mông, Dao, Thổ, Khơ-mú, trong đó có khoảng 586200 người sống ở thành thị. Năm 2005, Thanh Hóa có 2,16 triệu người trong độ tuổi lao động, chiếm tỷ lệ 58,8% dân số toàn tỉnh, lao động đã qua đào tạo chiếm 27%, trong đó lao động có trình độ cao đẳng, đại học trở lên chiếm 5,4%. Năm 2017, Thanh Hóa là tỉnh đầu tiên của Bắc Trung Bộ có 2 thành phố trực thuộc tỉnh (Thanh Hóa, Sầm Sơn). Thanh Hóa là miền đất ‘địa linh nhân kiệt’, đồng hành cùng với lịch sử dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc với nhiều di tích lịch sử văn hóa có giá trị. Trong số hơn 1.535 di tích của tỉnh, có 113 di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến (13 di tích xếp hạng cấp quốc gia, 53 di tích xếp hạng cấp tỉnh, còn lại chưa được xếp hạng). Hệ thống di tích lịch sử cách mạng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa rất đa dạng, phong phú, gồm có đình, đền, chùa, địa điểm, khu di tích, nhà thờ, nhà lưu niệm, tượng đài,... gắn với các sự kiện lịch sử trong từng thời kỳ của cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thanh Hóa cũng là miền đất sinh ra và gắn liền với tên tuổi của nhiều anh hùng dân tộc, như Lê Lợi, người có công chiêu mộ nhân tài, quy tụ nhân dân phát động cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418- 1427 ) đánh đuổi giặc Minh giành lại nền độc lập dân tộc. Sau khi lên ngôi hoàng đế ở Đông Kinh ( Thăng Long ), ( 1428) Lê Lợi đặt tên nước là Đại Việt và lấy niên hiệu Thuận Thiên. Thanh Hóa chính là nơi vua xuất hiện nhiều nhất khi năm Mậu thìn (248) Triệu Thị Trinh đánh tan quân Ngô tại núi Nưa, Triệu Sơn, Thanh Hóa. Tuy chưa xưng vua nhưng quân Ngô đã gọi bà là Vua. Nhà Tiền Lê do thập đạo tướng quân Lê Hoàn lãnh đạo cũng xuất phát từ quê nhà Thọ Xuân, Thanh Hóa. Sau khi Hồ Quý Ly soán ngôi nhà Trần, lập nên nhà Hồ đổi tên nước là Đại Ngu cũng đặt kinh đô ở thành Tây Giai, tức Tây Đô, Thanh Hóa. Nơi đây cũng trở thành mảnh đất sản sinh ra những vị vua thời Hậu Lê như Lê Thái Tổ, Lê Thánh Tông, Lê Trang Tông.... Không chỉ có vậy, Thanh Hóa còn là nơi xuất phát của hai dòng chúa Trịnh, Nguyễn. Chúa Trịnh Kiểm thời vua Lê vốn xuất thân từ Vĩnh Lộc, Thanh Hóa sau đó mang tiếng giúp phò Lê nhưng thực ra lấn át cả quyền lực của vua. Chúa Nguyễn lập sau thời chúa Trịnh cũng trấn trị ở đất Thuận Hóa sau mới mở rộng khái phá tận Đàng Trong. Hiện nay, trong địa bàn tỉnh Thanh Hóa còn nhiều di tích lịch sử-văn hóa như: di tích cách mạng: Hàm Hạ, Yên Trường - Thọ Lập, Thiệu Toán, chiến khu du kích Ngọc Trạo, khu di tích Hàm Rồng, di tích Bác Hồ tại: Rừng Thông, Yên Trường, khu văn hóa tưởng niệm Bác Hồ thành phố Thanh Hóa, đền Cô Tiên, khu di tích lưu niệm đồng chí Lê Hữu Lập, hang Co Phường, Lò Cao kháng chiến Hải Vân. Đền thờ Vũ Văn Lộc, xã Thái Hòa, huyện Triệu Sơn; Đền thờ Đông Các Lê Doãn Giai, xã Hải Lộc, huyện Hậu Lộc; Đền Thánh Cả, xã Đa Lộc, huyện Hậu Lộc; Đền thờ Bạch Y Công Chúa, xã Phú Nhuận, huyện Như Thanh; Đền Kim Luân, xã Thọ Minh, huyện Thọ Xuân; Chùa Thái Bình, xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc; Chùa Lai Thành, xã Đông Hải, thành phố Thanh Hóa; Nhà thờ Lê Khắc Tháo, xã Thiệu Giao, huyện Thiệu Hóa; Đền Cổ Ninh xã Thiệu Vân, huyện Thiệu Hóa; Nhà thờ Thái Quận công Nguyễn Ngọc Huyền, xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa...... là điểm đến không chỉ của cán bộ và nhân dân Thanh Hóa mà còn hấp dẫn nhiều đoàn đại biểu, du khách trong và ngoài nước. Với những thuận lợi trên, Thanh Hóa có vị trí khá quan trọng trong vùng du lịch Bắc miền Trung và cả nước. 1.4.2. Vài nét đặc trưng của huyện Quan Hóa. Quan Hoá là huyện vùng cao, biên giới, cách trung tâm tỉnh Thanh Hoá 140 km về phía Tây, theo quốc lộ 47 và quốc lộ 15A. Toàn huyện có 17 xã và 01 thị trấn, 123 chòm bản, khu phố với tổng diện tích tự nhiệm 99.013,68 ha. Phía Bắc giáp huyện Vân Hồ tỉnh Sơn La; Huyện Mai Châu Tỉnh Hòa BÌnh. Phía Nam giáp với huyện Viêng Xay tỉnh Hủa Phăn nước CHDCND Lào và huyện Quan Sơn. Phía Đông giáp với huyện Bá Thước, và có chung đường biên giới 4,8km với nước bạn Lào tại xã Hiền Kiệt. Thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho vùng đất Quan Hóa nguồn tài nguyên phong phú với 3 khu bảo tồn còn đậm nét hoang sơ: Pù Hu, Pù Luông và Khu bảo tồn hạt trần quý hiếm Nam Động. Tất cả tạo nên một tiềm năng du lịch mời gọi du khách.Với truyền thống lịch sử lâu đời, Quan Hóa từ xa xưa đã là địa bàn cư trú của nhiều tộc người, qua các cuộc khảo sát, khai quật, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những di vật của người nguyên thủy như rìu đá, mũi giáo hóa thạch, xương động vật thuộc thời kỳ đá mới cách đây hàng chục vạn năm, ngoài ra còn tìm thấy một số vật dụng như kiếm đồng, ấm đồng, trống đồng... góp phần tạo nên nét văn hóa rất riêng của mảnh đất này. Đến Quan Hóa, du khách có thể tận hưởng không khí trong lành, thoáng đãng, dạo bước trong những cánh rừng nguyên sinh, thỏa sức ngắm nhìn núi non trùng điệp, khám phá hệ thống hang động đẹp, độc đáo. Phải kể đến như Hang Phi, hang Co Phày, hang Co Phường, hang Co Luồng, hang Na, hang Dùn... Không chỉ có vậy, du khách cũng có thể đắm mình trong không gian mênh mông sơn thủy hữu tình của hồ Pha Đay, hồ Vinh Quang, đây là hai hồ tự nhiên nổi tiếng về du lịch sinh thái và thu hút khách du lịch của huyện. Mặc dù còn mang tính hoang sơ, nhưng mỗi khi đến đây, du khách sẽ được tắm mình trong cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, được chèo thuyền, câu cáBằng sự đa dạng về bản sắc văn hóa, giao thoa các nền văn hóa của đồng bào Thái, Mường, Kinh, Mông, đồng thời cũng là điểm liên kết với văn hóa Tây Bắc, đến với Quan Hóa du khách không chỉ được thưởng thức những sản vật nổi tiếng của địa phương, được du ngoạn trên những ngọn núi, lòng hồ, ngắm cảnh sông Mã và đường 15 gắn với đoàn quân Tây Tiến oai hùng. Ngoài ra, còn được tham quan các khu danh lam, thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa tâm linh chùa Ông – chùa Bà; đền thờ Thượng tướng thống lĩnh quân Khằm Ban, di tích núi Pù Cọ (gắn liền câu chuyện dân quân bắt Phỉ trong kháng chiến chống Pháp), di tích Pha U Hò, di tích hang Co Phường, xã Phú Lệ (ghi dấu sự hi sinh của các chiến sĩ dân công hỏa tuyến trong kháng chiến chống thực dân Pháp)Bên cạnh đó, Quan Hóa còn là mảnh đất lưu giữ những giá trị di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc của đồng bào các dân tộc như lễ hội Mường Ca Da, một trong những mường cổ của người Thái, gắn liền Lò Khằm Ban – vị tướng tài, người anh hùng hào kiệt của quê hương; cùng với xường Mường, cồng chiêng, khèn bè, khèn lá, các trò chơi dân gian truyền thống ném còn, chọi cù, kéo co, bắn nỏ... trở thành nét văn hóa đặc trưng được nhiều du khách biết đến. Những giá trị trên là điều kiện lý tưởng để Quan Hóa phát triển nhiều loại hình du lịch như du lịch sinh thái, tâm linh, tín ngưỡng... Có thể nói, Quan Hóa là miền đất cổ có từ lâu đời, giàu truyền thống lịch sử văn hóa, trải qua biết bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, đến nay Quan Hóa vẫn lưu giữ được những nét văn hóa đặc trưng vốn có của vùng. Tuy nhiên, để Quan Hóa trở thành một điểm đến du lịch hấp dẫn trong tương lai đòi hỏi phải có sự đầu tư xây dựng lớn. 1.5 . Vài nét sơ lược về lễ hội Lễ hội Mường Ca Da huyện Quan Hóa tỉnh Thanh Hóa. Lễ hội Mường Ca Da được UBND huyện Quan Hóa tổ chức lần đầu vào năm 2008 và tổ chức 5 năm một lần. Lễ hội nhằm tưởng nhớ công lao của nhân vật lịch sử Thượng tướng thống lĩnh quân Khằm Ban đã khai phá vùng đất Mường Ca Da. Đồng thời khơi dậy niềm tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống đoàn kết, động viên các tầng lớp nhân dân trong huyện phấn đấu, nỗ lực vươn lên phát triển quê hương. Đây còn là dịp để đồng bào các dân tộc: Thái, Mường, Kinh, Hoa, Mông ở 18 xã, thị trấn trong huyện gặp gỡ, giao lưu, đua tài, khoe sắc, bày tỏ lòng biết ơn, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ kính yêu. Lễ hội Mường Ca Da đã trở thành di sản, là điểm hội tụ văn hoá tâm linh, là biểu tượng sinh động của truyền thống đại đoàn kết dân tộc, biểu tượng của ý chí tự lực, tự tôn dân tộc. Lễ hội Mường Ca Da là dịp để qúy khách trong và ngoài huyện tìm hiểu thêm những giá trị tinh thần, mang đậm nét văn hóa, phong phú của các loại hình nghệ thuật đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam, chiêm ngưỡng những vẻ đẹp kỳ thú mà thiên nhiên đã ban tặng. Tại lễ hội Ban tổ chức đã tổ chức các phần thi: văn nghệ, khua luống, khặp Thái, trình diễn trang phục, thi kéo co, bắn nỏ, tó mác lẹ, đẩy gậy, đi cầu thăng bằng, đi cà kheo (chạy, đá bóng), gói bánh ú. Ngoài ra, mỗi đơn vị tham gia lễ hội còn thi dựng trại bằng các công cụ, sản phẩm của địa phương. Bên cạnh đó, các trại đều có cây bông (cây chá) được tạo dáng, trang trí đẹp mắt, hấp dẫn; bộ cồng chiêng, sạp và chỉnh rượu cần để phục vụ mọi người hát múa, liên hoan trong đêm đốt lửa trại Các phần thi đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng nhân dân địa phương và du khách. Kết thúc các phân thi Ban tổ chức cũng đã trao giấy khen cho các tập thể và cá nhân đạt thành tích cao ở tất cả các nội dung thi tại lễ hội. Tiểu kết Các nội dung trong chương 1 đã khái quát về địa lý và đăc trưng văn hóa , lịch sử về tỉnh Thanh Hóa và huyện Quan Hóa cũng như khái quát một cách chân thực nhất về Lễ hội Mường Ca Da tại huyện Quan Hóa như: Lịch sử về Lễ hội Mường Ca Da cũng như lịch sử về vùng đất này . Để có thêm những kiến thức về lễ hội, đặc biệt là về Lễ hội Mường Ca Da tại huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa, hơn nữa là nền tảng để tìm hiểu về Lễ hội Mường Ca Da đề cập ở chương, CHƯƠNG 2. DIỄN TRÌNH LỄ MƯỜNG CA DA TẠI, HUYỆN QUAN HÓA, TỈNH THANH HÓA LẦN THỨ III NĂM 2018 2.1. Công tác chuẩn bị cho lễ hội : 2.1.1. Phân công nhiệm vụ : Công tác chuẩn bị đươc diễn ra trước tâm 5-10 ngày để tổ chức lễ hội. Lễ hội diễn ra khoảng từ ngày 26/28-3 , lễ hội được tổ chức năm năm một lần. Khoảng thời gian này BTC và các CBCV tại huyện Quan Hóa sẽ lâp ra kế hoạch tổ chức lễ hội đồng thời làm đơn giử lên phòng VH-TT huyện Quan Hóa và Sở VH-TT-DL tỉnh Thanh Hóa đề nghị xin cấp phép tổ chức lễ Hội Mường Ca Da. BTC lễ hội Mường Ca Da sau khi xin đươc giấy phép tổ chức se thành lập ra các đội và phân công nhiệm vụ cho họ bao gôm : đội thực hiện nghi thức rước kiệu, đội tế lễ , đội tự vệ giữ gìn an ninh trât tự trong thời gian diễn ra lễ hội , đội vệ sinh lễ hội, đội nghệ thuật biểu diên phục vụ lễ hội ,,,. 2.1.2. Chuẩn bị về mặt không gian và môi trường Không gian lễ hội đươc chuẩn bị sạch sẽ bao gồm khu 1 thị trấn Quan Hóa và bản Khằn xã Hồi Xuân, huyện Quan Hóa để phục vụ cho lễ hội. Hai bên đường doc theo hương về phía tổ chức lễ hội đươc bố trí cắm cờ theo đúng nghi lễ lễ hội. 2.1.3. Chuẩn bị về phần nghi lễ : Sau khi được phân công nhiệm các đội rước kiệu, đội tê lễ băt tay vào tập duyệt cho nhưng ngày diễn ra lễ hội. Các đội có liên quan chuẩn bị các lễ vât dâng cúng dung trong tế lễ như xôi, bánh, hoa quả , rượu , thịt . Đội vệ sinh lau chùi , quét dọn sửa sang lại chùa và các vât dung dung trong các nghi lễ như kiệu , trống , chiêng ,. 2..1.3. Chuẩn bị cho phần hội : Các trò chơi dân gian đươc kiểm duyệt nghiêm ngặt đảm bảo đung tính chất trong lễ hội không vi phạm quay định của nhà nước như văn nghệ, khua luống, khặp Thái, trình diễn trang phục, thi kéo co, bắn nỏ, tó mác lẹ, đẩy gậy, đi cầu thăng bằng, đi cà kheo (chạy, đá bóng), gói bánh ú. Các đội văn nghệ lên kế hoạch tâp duyệt , chuẩn bị mọi mặt cho các tiêt mục ca nhạc và thi thiếu nữ đẹp Mường Ca Da, 2.2. Các nghi lễ: Lễ hội nhằm tưởng nhớ công lao của nhân vật lịch sử Thượng tướng thống lĩnh quân Khằm Ban đã khai phá vùng đất Mường Ca Da. Đồng thời khơi dậy niềm tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống đoàn kết, động viên các tầng lớp nhân dân trong huyện phấn đấu, nỗ lực vươn lên phát triển quê hương. Đây còn là dịp để đồng bào các dân tộc: Thái, Mường, Kinh, Hoa, Mông ở 18 xã, thị trấn trong huyện gặp gỡ, giao lưu, đua tài, khoe sắc, bày tỏ lòng biết ơn, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ kính yêu. Lễ hội Mường Ca Da đã trở thành di sản, là điểm hội tụ văn hoá tâm linh, là biểu tượng sinh động của truyền thống đại đoàn kết dân tộc, biểu tượng của ý chí tự lực, tự tôn dân tộc. Lễ hội Mường Ca Da là dịp để qúy khách trong và ngoài huyện tìm hiểu thêm những giá trị tinh thần, mang đậm nét văn hóa, phong phú của các loại hình nghệ thuật đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam, chiêm ngưỡng những vẻ đẹp kỳ thú mà thiên nhiên đã ban tặng. Lễ hội diễn ra ba ngày, từ ngày 26/28-3. 2.2.1. Nghi lễ. Sáng ngày 26/3 đội tế lễ bắt đâu tiến hành nhưng nghi lễ bắt buộc xin phép thần linh được khai quang mở hội . Lúc này người dân bắt đầu dâng lễ vật đã được chuẩn bị lên các ban trong chùa để tiến hành lễ khai quang. Sau khi nghi lễ khai quang kết thúc trong ngày 26/3 BTC lễ hội cùng nhân dân và các đội tế lễ , rước kiệu từ chùa ông đến nơi thờ thượng tướng quân Khằm Ban về đồi Pom Khéo bản Khằm xã Hồi Xuân huyện Quan Hóa. Sau lễ rước kiệu nhân dân và BTC đổ về phía sân vận động trung tâm huyện để tham gia nghi lễ sên mường (hay còn gọi là cúng mường). Phần lễ sên mường (hay còn gọi cúng mường) diễn ra rất trang trọng thể hiện tấm lòng thành của con cháu bản mường dành cho các bậc tiền nhân đã có công khai phá dựng bản lập mường mang lại cuốc sống ấm no cho mọi người dân. Sên mường (hay còn gọi cúng mường) gồm sáu phần: gọi Thành Hoàng chúa đất về dự lễ, gọi vua rồng đến làm ranh giới và gọi ngọc hoàng đến chứng kiến, Giới thiệu quá trình hình thành của Mường Ca Da , mời các thần linh ăn cỗ, cúng dại hạn cầu mong những điều tốt đẹp cho dân bản và cuối cùng là tiễn các thần linh trở về và dọn cỗ. 2.3. Phần Hội Phần hội trong lễ hội Mường Ca Da bao giờ cũng sôi động , đa dạng mang đậm bản sắc truyền thống. BTC thông báo đến 18 xã thị trấn hơn 10 phần thi văn hóa văn nghệ thể thao. 2.3.1. Phần thi các môn thể thao. Lồng ghép vào nhưng nghi lễ thì các trò chơi dân gian mang tính giải trí cao cũng được BTC lễ hội phê duyệt và tổ chức như : Thi kéo co, bắn nỏ, tó mác lẹ, đẩy gậy, đi cầu thăng bằng, đi cà kheo (chạy, đá bóng), gói bánh ú. Và tung còn. 2.3.2. Phần thi văn nghệ dân gian. Ngoài các trò chơi dân gian thì phần thi văn nghệ dân gian mang đậm bản sắc như thi hát khặp ,đánh trống chiêng, khua luống cũng không thể thiếu : Riêng phần thi khặp thu hút được nhiều người yêu văn nghệ truyền thống bợi lẽ năm năm một lần đồng bào mới có dịp nghe nghệ nhân của 18 xã,thị trấn hội tụ về đây biểu diện ngoài các bài khặp cổnhiều bài khặp có nội dung ca ngợi quê hương đất nước,cũng như ca ngợi bác Hồ, ca ngợi bản làng giàu đẹp thi đua lao động sản xuất, xây dựng nông thôn mới cũng được các nghệ nhân sáng tác trong hội thi. Ngoài thi khặp còn có phần thi khua luống, thi đánh trống đánh chiêng...dộn dàng hứng khởi.Tiếng trống ,tiếng cồng,tiếng chiêng vang cả núi rừng đánh thức chim muông,đánh thức lòng người thôi thúc bạn bè du khách về với lễ hội. 2.3.2. Đêm hội nghệ thuật và phần thi thiếu nữ đẹp trong trang phục dân tộc. Có sự tham gia với 36 tiết mục của các đội thi đặc sắc và phần thi thiếu nữ đẹp trong trang phục truyền thống,nhũng sắc màu rực rỡ trong trang phục các dân tộc đang sinh sống trên địa bàn huyện trên quê hương Mường Ca Da được trình diễn bợi những cô gái xinh đẹp trên quê hương Mường Ca Da đến từ các bản làng người Thái, ngườiMường, người Kinh,người Mông,người Hoa. Tiểu kết Nội dung trong chương 2 đã nêu lên những nét đặc sắc mà lễ hội Mường Ca Da mang lại: nhưng nghi thức truyền thống, nhưng nét đẹp trong văn hóa, giá trị tâm linh.Từ đó chúng ta nhận thức rõ hơn về những giá trị , nét đep văn hóa truyền thống mà lễ hội đem lại, khiến chúng ta càng thêm tự hào về đất nước Việt Nam. CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG, MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIỮ GÌN BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN LỄ HỘI MƯỜNG CA DA TẠI, HUYỆN QUAN HÓA, TỈNH THANH HÓA. 3.1. Đánh giá thực trạng lễ hội Mường Ca Da lần thứ III năm 2018. 3.1.1. Đánh giá phần nghi lễ. Lễ hội Mường Ca Da đã giữ gin được những nét truyền thống vốn có . Các nghi lễ được tiến hành một cách cẩn thận giữ được nhưng giá trị văn hóa cốt lõi mà hàng ngàn đời trước đã tạo dựng lên. 3.1.2. Đánh giá phần hội. 3.1.2.1. Ưu điểm : Phần hội là phần không thể thiếu trong bất kì một lễ hội nào. Tại lễ hội Mường Ca Da phần hội được tổ chức tương đối tốt , các trò chơi dân gian được đưa vào mạng lại tính giả trí cao cho người dân . Ngoài ra phần hội là một phần giúp con người găn bó với nhau hơn , bỏ qua hết bộ bề lo toan trong cuộc số , khi tham gia vào các trò chơi con người sẽ được thoải mái , nâng cao tinh thần đoàn kết . Đặc biệt là phần biểu diên nghệ thuật văn nghệ không chỉ mang đậm giá trị văn hóa của dân tộc mà nó còn giư gìn và phát triển nhưng loại hình nghệ thuật văn hóa truyền quý báu từ đời xưa để lại. 3.1.2.2. Nhược điểm. Lễ hội chỉ được diễn ra năm năm một lần nên việc được gặp gỡ giao lưu văn hóa văn nghệ của người dân rất ít. 3.2. Một số giải pháp nhằm phát nhằm giữ gìn , bảo tồn , phát huy truyền thống của lễ hội Mường Ca Da tại huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa. 3.2.1. Quy hoạch không gian tổ chưc lễ hội. Công tác quy hoạch không gian có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo tổ chức tốt các hoạt động của lễ hội. Vì vậy, cần xây dựng một quy hoạch tổng thể về không gian tổ chức lễ hội bao gồm khu vực hành lễ (khu vực trung tâm của lễ hội) và một số vùng phụ cận quanh di tích, khu vực tổ chức các trò chơi (hội), và các khu dịch vụ (trông giữ phương tiện vận chuyển, ăn uống, bán hàng lưu niệm và các dịch vụ bổ sung khác). Để thực hiện được điều này, trước hết huyện Quan Hóa cần huy động nguồn vốn từ chính nguồn thu từ lễ hội và do dân tự đóng góp cùng với sự hỗ trợ của sở VH-TT-DL tỉnh Thanh Hóa. Bên cạnh đó cũng cần mở rộng mặt bằng (trung tâm của lễ hội) theo sự phát triển về quy mô của lễ hội, tạo điều kiện cho các hoạt động của lễ hội được diễn ra hoàn chỉnh, đảm bảo cho việc lưu giữ đầy đủ các giá trị truyền thống, phong tục tập quán của địa phương, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và khách thập phương được quan sát và tham gia vào lễ hội một cách đầy đủ và có ý nghĩa nhất. Ngoài ra, cũng cần có quy hoạch mở rộng khu vực phụ cận nhằm đáp ứng được số lượng người tham dự hội ngày càng đông. Hơn nữa để việc quy hoạch đạt hiệu quả cao, đảm bảo không gian cho lễ hội thì không thể tiến hành một cách đơn lẻ và độc lập mà phải được tiến hành đồng thời và kết hợp với các chương trình khác như chương trình phát triển cơ sở hạ tầng, quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp, kiến trúc cảnh quan của địa phương. Lễ hội Mường Ca Da nên có một sơ đồ cụ thể, rõ ràng để du khách tiện tham quan, tìm hiểu. Việc xây dựng sơ đồ có thể dưới hình thức tờ rơi, sách, bảng,mạng xã hội hay tại đầu các trục đường vào lễ hội nên treo pano thông báo nội dung chương trình lễ hội và sơ đồ bố trí các địa điểm tổ chức các hoạt động của lễ hội. 3.2.2. Giải pháp về lãnh đạo, chỉ đạo Ngày nay, trong thời kì hội nhập vấn đề phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc càng trở nên cân thiết.Các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương và các cấp, các ngành cần tiếp tục tuyên truyền sâu rộng đến cán bộ, đảng viên và nhân dân đẩy mạnh phát triển văn hóa. Tíếp tục triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá VIII) về “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Nghị quyết số 09/CP của Chính Phủ về phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa; Nghị định số 73/1999/CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với cấc hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao; các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức xã hội huyện Ninh giang đã xác định việc giữ gìn, bảo tồn lễ hội cũng di tích lịch sử chùa Trông là một nội dung quan trọng bằng cách: Chỉ đạo, hướng dẫn về công tác giữ gìn, bảo tồn và phát triển lễ hội Mường Ca Da tại huyên Quan Hóa. Tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát trong thời gian diên ra lễ hội . Tất cả nhằm tạo nên không gian lễ hội có tổ chức trật tự, phục vụ hiệu quả cho công tác quản lý, tạo điều kiện thuận lợi cho du khách thưởng thức tận hưởng các hoạt động văn hóa của lễ hội. 3.2.3. Tăng cường, nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác văn hóa và quan lý chặt chẽ trong việc tổ chức lễ hội và bảo tồn di tích. Vấn đề quản lý là vấn đề quan trọng trong khâu tổ chức lễ hội. Do đó đòi hỏi đội ngũ người CBCV phải có trình độ chuyên môn cao. Từ những nhu cầu cấp thiết của công việc các cán bộ làm công tác văn hóa cần phải được cử đi học bồ dưỡng thêm về trình độ cung như chất lương để hoàn thành tốt các công việc quản lý của mình . Tăng cường công tác quản lý đối với lễ hội Mường Ca Da. Phát hiện ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm minh các tổ chức, cá nhân có hành vi xấu ảnh hưởng lễ hội. 3.2.4. Tuyền truyền, vận động , nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân xung trên địa bàn huyện Quan Hóa. Thường xuyên tuyên truyền, vận động nhân dân trên địa bàn toàn huyện Quan Hóa hiểu rõ ý nghĩa, giá trị các lễ hội truyền thống, di tích lịch sử - văn hóa.Thông qua các phong trào, góp phần làm chuyển biến thực sự trong đời sống xã hội, hướng tới mục tiêu từng bước hình thành nhân cách con người mới, giữ gìn, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống tiềm ẩn trong lễ hội nói chung và lễ hội Mường Ca Da nói riêng. Mở các lớp huấn luyện, tuyên truyền cho người dân để họ thấy được trách nhiệm cũng như lợi ích từ việc giữ gìn, bảo vệ, phát triển lễ hội Mường Ca Da. Chủ động phối hợp với các cơ quan báo, đài tuyên truyền, quảng bá về lễ hội Mường Ca Da, nâng cao tiềm năng phát triển du lịch từ các giá trị vốn có của nó. Cũng chính thông qua phát triển du lịch để bảo tồn phát triển lễ hội tốt đẹp hơn. Cần tuyên truyền vận động hướng dẫn du khách việc vứt rác cũng như đốt tiền vàng đung nơi quy định, cùng chung tay bảo vệ giữ gìn và phát triển lễ hội cũng như bảo tồn di tích lịch sử . Tiểu kết Nội dung chương 3 là những giải pháp kiến nghị nhằm bảo tồn và phát triển những nét đẹp của lễ hội Mường Ca Da mang lại. Qua đây mỗi người có thể nhận rõ vai trò của mình trong việc giữ gìn và phát triên những giá trị lịch sử của dân tộc nói chung và lễ hội Mường Ca Da huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa nói riêng. KẾT LUẬN Tín ngưỡng, tôn giáo là những phong tục t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docde_tai_tim_hieu_le_hoi_chua_ong_tai_xa_hoi_xuan_huyen_quan_h.doc
Tài liệu liên quan