Đề tài Thực trạng về vấn chính trong Cổ phần hóa các Doanh nghiệp nhà nước tại Tổng Công ty chè Việt Nam

Chương I. Những vấn đề lý luận cơ bản về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . I. Công ty cổ phần: Công ty cổ phần là doanh nghiệp có trong đó các cổ đông đóng góp vốn kinh doanh và chịu trách nhiệm trong phạm vi phần góp vốn của mình trên cơ sở tự nguyện để tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Công ty cổ phần ra đời từ thế kỷ XVI ở các nước phát triển, đến nay đã có lịch sử phát triển mấy trăm năm. Công ty cổ phần là sự hình thành một kiểu tổ chức doanh nghiệp trong nền

doc75 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1267 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đề tài Thực trạng về vấn chính trong Cổ phần hóa các Doanh nghiệp nhà nước tại Tổng Công ty chè Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế thị trường. Nó ra đời không nằm trong ý muốn chủ quan của bất cứ lực lượng nào mà là một quá trình kinh tế khách quan. Cùng với sự phát triển của xã hội ở mỗi thồi kỳ cũng như ở mỗi quốc gia có quan niệm về công ty cổ phần khác nhau. Theo luật doanh nghiệp công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó: Vốn điều lệ được chia làm nhiều phần bằng nhau gọi là cổ. Cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp. Cổ đông có quyền chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân. Số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa. 1. Vai trò và đặc điểm của công ty cổ phần trong sự phát triển nền kinh tế thị trường. 1.1. Vai trò của công ty cổ phần. Công ty cổ phần đã đóng vai trò lịch sử hết sức to lớn trong sự phát triển nền kinh tế thị trường. Có thể hình dung vai trò của nó ở một số đặc điểm. Công ty cổ phần là sản phẩm của xã hội hoá sở hữu, phản ánh quá trình tích tụ và tập trung tư bản. Công ty cổ phần ra đời góp phần đẩy nhanh quá trình này về tốc độ và quy mô, làm xuất hiện những xí nghiệp mà với tư bản riêng lẻ không thể nào thiết lập được. Mác đã đánh giá:” Nếu chưa phải chờ cho đến khi tích luỹ làm cho một số tư bản riêng lẻ lớn lên đến mức có thể đảm đương được việc xây dựng đường sắt, thì có lẽ đến ngày nay thế giới vẫn chưa có đường sắt. Ngược lại , qua các công ty cổ phần sự tập trung đã thực hiện việc đó trong nháy mắt ” Công ty cổ phần là kết quả của sự vận động tách biệt hai mặt của sở hữu thể hiện ở mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh. Công ty cổ phần ra đời cho phép mở rộng quy mô sản xuất nhanh chóng mà không bị gới hạn bởi tích luỹ của từng tư bản riêng biệt, tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất và như thế nó làm cho xã hội phải tiếp nhận những yêu cầu phát triển của nó và làm cho hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán và nhà nước trở thành một bộ máy kinh tế hoạt động và thực hiện các chức năng quản lý mà lâu nay vẫn nằm trong tay các tư bản cá biệt. Mác đã viết như sau “ Công ty cổ phần là điểm quá độ để biết tất cả các chức năng trong quá trình tái sản xuất cho đến nay vẫn gắn liền với quyền sở hữu tư bản đơn thuần thành những chức năng của những người sản xuất liên hiệp” Việc thành lập những công ty cổ phần theo Mác đã “ Trực tiếp mang hình thái tư bản xã hội ( tư bản của những cá nhân trực tiếp liên hiệp lại với nhau ) đối lập với tư bản tư nhân, còn các xí nghiệp của nó biểu hiện ra lò những xí nghiệp xã hội đối lập với những xí nghiệp tư nhân. Đó là sự thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân trong khuôn khổ của bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. 1.2. Đặc điểm của công ty cổ phần . Những sự đánh giá của Mác về vai trò của công ty cổ phần cho thấy mô hình kinh doanh này đã mang nững đặc điểm mơí, cho phép thích ứng với những đòi hỏi của sự phát triển nền kinh tế thị trường mà những hình thái không thể đáp ứng được. + Xét về mặt pháp lý : Công ty cổ phần là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân mà vốn kinh doanh do nhiều người đóng góp dưới hình thức cổ phần. Các cổ đông, người cấp vốn cho công ty chỉ có trách nhiệm với các cam kết tài chính của công ty trong gới hạn số tiền mà họ góp dưới hình thức mua cổ phiếu, nghĩa là các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số tiền mà họ đã bỏ ra.Trong trường hợp công ty bị phá sản thì họ cũng chỉ mất số tiền đã đầu tư vào công ty mà thôi. Nhờ đặc điểm này nó đã khắc phục được trở ngại quan trọng mà hình thái doanh nghiệp khác không mấy khi dám mạo hiểm để thực hiện các dự án kinh doanh lớn. Bằng cách bán các cổ phiếu, trái phiếu cho những người có vốn muốn đầu tư để tăng thu nhập, nó làm cho những người này không phải e ngại những hậu quả tài chính có thể xẩy ra với toàn bộ gia sản của họ. Mệnh giá cổ phiếu của công ty thường định giá rất thấp để có khả năng khai thác được ngay cả những số tiền tiết kiệm nhỏ nhất trong công chúng . + Xét về mặt huy động vốn . Về mặt này công ty cổ phần đã giải quyết hết sức thành công. Bởi vì những số tiền nhỏ dành dụm của nhiều gia đình nếu để riêng không đủ để thành lập một doanh nghiệp nhỏ và do đó không thể đem ra kinh doanh được thì rõ ràng sự có mặt của công ty cổ phần đã tạo điều kiện cho họ có cơ hội . Các khoản tiền nhỏ có thể gửi ở ngân hàng hay mua trái phiếu. Song hình thức cổ phần có sức hấp dẫn riêng mà các hình thức khác khác không thể thay thế được. Thứ nhất: Việc mua cổ phiếu không những đem lại cho cổ đông lợi tức cổ phần ( bằng hoặc cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng) mà còn hứa hẹn mang lại cho cổ đông một khoản thu nhập “ngầm” nhờ việc gia tăng trị giá cổ phiếu khi công ty làm ăn có hiệu quả. Thứ hai: Các cổ đông có quyền được tham gia quản lý theo điều lệ của công ty và được pháp luật bảo đảm điều đó trở nên cụ thể và có sức hấp dẫn hơn . Hình thái công ty cổ phần đã thực hiện được việc tách quan hệ sở hữu khỏi quá trình kinh doanh, tách quyền sở hữu với quyền quản lý và sử dụng tạo nên một hình thái xã hội hoá sở hữu của đông đảo công chúng một bên, còn bên kia là tầng lớp các nhà quản trị kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng tư bản xã hội cho các công cuộc kinh doanh quy mô lớn. Những người đóng vai trò sở hữu trong công ty cổ phần không trực tiếp đứng ra kinh doanh mà uỷ thác chức năng đó cho bộ máy quản lý của công ty. Bản thân công ty được pháp luật thừa nhận như một pháp nhân đọc lập tách rời với các cá nhân góp vốn và kiểm soát nó. Nhờ đó Công ty cổ phần tiến hành được tất cả các hoạt động kinh doanh dưới danh nghĩa của chính mình và nhận trách nhiệm đến cùng về trách nhiệm tài chính của công ty. Trong cơ cấu tổ chức của một công ty cổ phần, phản ánh rõ đặc điểm và sự phân định giữa quyền sở hữu và quyền sở hữu kinh doanh. Luật công ty của nhiều nước nêu ra hai tổ chức chính đại diện cho quyền sở hữu của các cổ đông trong công ty. Đại hội cổ đông và hội đồng quản trị. Quyền sở hữu tối cao đối với công ty thuộc đại hội cổ đông. Đại hội cổ đông thường được tổ chức mỗi năm một lần để lựa chọn và bãi miễn. Hội đồng quản trị được bầu ra có trách nhiệm bảo toàn và phát triển giá trị các khoản vốn đầu tư của cổ đông. Chức năng chủ yếu của nó là đưa ra những chỉ dẫn mang tính chiến lược bao gồm những kế hoạch tài chính và những quyết định đầu tư lớn. Bên cạnh đó Đại hội cổ đông cũng bầu ra ban kiểm sát thực hiện việc kiểm tra giám soát hoạt động của công ty để bảo vệ lợi ích của người góp vốn. Các cổ phiếu và trái phiếu thông thường của Công ty cổ phần có thể được chuyển nhượng dễ dàng trên thị trường chứng khoán . Các cổ đông có thể rút lại vốn của mình để đầu tư vào công cuộc kinh doanh khác bằng cách bán các cổ phiếu, trái phiếu và các cổ phiếu trái phiếu ở các công ty mà mình muốn. Mặt khác các cổ phiếu ở một công ty cổ phần chỉ được thanh lý khi công ty bị phá sản vì thế bất kể có bao nhiêu cổ đông bán cổ phiếu hoặc chết đi và bất kể cổ phiếu được chuyển chủ bao nhiêu lần do bán hoặc thừa kế, cuộc sống doanh nghiệp vẫn tiếp tục một cách bình thường mà không bị ảnh hưởng. Nhờ vai trò và những đặc điểm ưu việt của hình thái công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường nên nó là con đường hữu hiệu nhất để cải tổ cách doanh nghiệp nhà nước đồng thời vẫn cũng cố được vai trò của khu vực kinh tế nhà nước bằng cách di chuyển các nguồn vốn linh hoạt, các nguồn vốn cổ phần của mình vào các công ty cổ phần ở các lĩnh vực cần thiết có sự điều tiết và kiểm soát của nhà nước. II. Doanh nghiệp nhà nước. 1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước. Theo báo cáo tình hình xã hội thế giới , năm 1985 của liên hợp quốc , kinh tế quốc doanh ( hay còn gọi là kinh tế nhà nước) được hiểu là khu vực kinh tế bao gồm “ Những doanh nghiệp do nhà nước nắm toàn bộ hoặc một phần sở hữu và nhà nước kiểm soát tới một mức độ nhất định quá trình ra quyết định của doanh nghiệp ”. ở mỗi nước đều có quy định khác nhau về doanh nghiệp nhà nước . Theo luật doanh nghiệp nhà nước ở nước ta ( ngày 20 /04/95). Quy định : “doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà nước giao Định nghĩa trên cho thấy doanh nghiệp nhà nước có những đặc điểm sau: Một là: Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế được nhà nướcthành lập để thực hiện những mục tiêu do nhà nước giao. Hai là: Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước đầu tư vốn nên tài sản trong doanh nghiệp là thuộc sở hữu của nhà nước, doanh nghiệp quản lý sử dụng tài sản theo quy định của chủ sở hữu là nhà nước. Ba là: Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân vì có đủ các điều kiện của pháp nhân theo quy định của pháp luật. Bốn là: Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp chịu trách nhiệm hữu hạn, nghĩa là nó tự chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản trong phạm vi số tài sản doanh nghiệp quản lý . Doanh nghiệp nhà nước có thể phân loại theo các tiêu chí sau . Theo mục đích hoạt động: Doanh nghiệp nhà nước được chia thành: doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích . + Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh là doanh nghiệp nhà nước hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận . + Doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích là doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của nhà nước hoặc trực tiếp nhiệm vụ quốc phòng, an ninh Theo phần vốn góp : Doanh nghiệp nhà nước được chia thành: doanh nghiệp 100% vốn của nhà nước, doanh nghiệp có cổ phần chi phối của nhà nước và doanh nghiệp có cổ phần đặc biệt của nhà nước … + Doanh nghiệp 100% vốn góp của nhà nước, vốn nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý và sử dụng bao gồm vốn ngân sách cấp, vốn có nguồn gốc ngân sách và vốn của doanh nghiệp nhà nước tự tích luỹ. + Doanh nghiệp có cổ phần chi phối của nhà nước bao gồm : Cổ phần của nhà nước chiếm trên 50% tổng số cổ phần của doanh nghiệp, cổ phần của nhà nước ít nhất gấp 2 lần cổ phần của cổ đông lớn nhất khác trong doanh nghiệp + Doanh nghiệp có cổ phần đặc biệt của nhà nước không có cổ phần chi phối, nhưng có quyền quyết định một số vấn đề quan trọng của doanh nghiệp theo thoả thuận trong điều lệ doanh nghiệp . Theo hình thức tổ chức sản xuất: Doanh nghiệp nhà nước được chia ra thành doanh nghiệp nhà nước độc lập và tổng công ty nhà nước. + Doanh nghiệp nhà nước độc lập là doanh nghiệp nhà nước đơn nhất không ở trong cơ cấu tổ chức của các doanh nghiệp khác, dưới sự quản lý trực tiếp của nhà nước đây là loại doanh nghiệp nhà nước truyền thống. + Tổng công ty nhà nước là doanh nghiệp nhà nước được thành lập và hoạt động trên cơ sở liên kết của nhiều đơn vị thành viên có quan hệ gắn bó với nhau về lợi ích kinh tế công nghệ cung tiêu, dịch vụ và thông tin … Hoạt động trong một số ngành chính nhằm tăng cường khả năng kinh doanh của các đơn vị thành viên (Đơn vị hạch toán độc lập, đơn vị hạch toán phụ thuộc, đơn vị sự nghiệp )và thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội trong từng thời kỳ. Hình thành các tổng công ty nhà nước nhằm mục đích thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung, chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản xuất để tạo ra những tập đoàn kinh tế lớn.Tổng công ty nhà nước được hình thành trong quá trình tổ chức và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, giải thể các xí nghiệp liên hợp và liên hiệp các xí nghiệp. Tổng công ty nhà nước được phân thành 2 loại: thành lập theo quyết định 90/TTG ngày 7-3-1994 của thủ tướng chính phủ gọi tắt là tổng công ty 90, loại thành lập theo quyết định 91/TTG ngày 6-4-1994 của thủ tướng chính phủ thường gọi tắt là tổng công ty 91 . Theo hình thức tổ chức quản lý: Doanh nghiệp nhà nước được chia ra thành: + Doanh nghiệp nhà nước có Hội đồng quản trị, ban giám sát tổng giám đốc hoặc giám đốc và bộ máy giúp việc. + Doanh nghiệp nhà nước không có Hội đồng quản trị là doanh nghiệp mà trong cơ cấu tổ trức quản lý không có Hội đồng quản trị, chỉ có giám đốc với bộ máy giúp việc. 2. Tính cấp thiết của cải cách doanh nghiệp nhà nước . Trước đây, nước ta cũng như các nước xã hội chủ nghĩa thực hiện mô hình kế hoạch hoá tập trung, lấy mở rộng và phát triển khu vực kinh tế nhà nước bao trùm toàn bộ nền kinh tế quốc dân là mục tiêu cho công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, các doanh nghiệp nhà nước đã được phát triển một cách rộng khắp trên tất cả các lĩnh vực cơ bản với tỷ trọng tuyệt đối trong nền kinh tế quốc dân, bất chấp hiệu quả đích thực mà chúng mang lại. Sở hữu nhà nước, doanh nghiệp nhà nước và Chủ nghĩa xã hội được đồng nhất với nhau. Nhiều dự án, kế hoạch và một số lượng rất lớn vốn đầu tư của Nhà nước được dành cho những công trình đồ sộ về xây dựng các doanh nghiệp nhà nước trong các nghành khai khoáng, luyện kim, cơ khí chế tạo…Đây là những công trình tốn kém nhiều tiền của có thời gian xây dựng lâu dài, chậm thu hồi vốn và mang lại lợi nhuận. Nhà nước vừa là chủ thể hành chính vừa là chủ thể kinh tế làm chủ điều hành và can thiệp vào các hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước. Trên thực tế khu vực kinh tế nhà nước bên cạnh những tác động tích cực không thể phủ nhận thì đây là khu vực kinh tế hoạt động kém hiệu quả nhất gây ra những tổn thất to lớn về các nguồn lực phát triển đất nước đòi hỏi phải được đổi mới một cách cấp thiết. Một là, các doanh nghiệp nhà nước được sinh ra và trưởng thành trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp kéo dài hàng chục năm. Với chính sách cấp phát, giao nộp, các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong điều kiện vốn được nhà nước bao cấp, vật tư được nhận theo chỉ tiêu kế hoạch, sản phẩm làm ra được giao nộp theo địa chỉ quy định các điều kiện vật chất được nhà nước cân đối theo chỉ tiêu định mức, trong thực tế doanh nghiệp đơn thuần là đơn vị “gia công” hàng hoá cho nhà nước. Chính vì vậy, doanh nghiệp không còn là một đơn vị tự chủ, khi chuyển sang cơ chế thị trường, nó bộc lộ yếu kém của mình về hiệu quả sản xuất – kinh doanh cơ cấu chắp vá, không đồng bộ và xơ cứng trong thích ứng với cơ chế vận động của nền kinh tế thị trường. Hai là, các doanh nghiệp nhà nước đã từ lâu không đặt trong môi trường cạnh tranh không gắn với thị trường, không chú trọng đổi mới trang thiết bị, công nghệ. Điều tất yếu xảy ra là vốn liếng không được bảo toàn và phát triển, thiết bị cũ kỹ, công nghệ lạc hậu hàng chục năm so với mức trung bình của thế giới. Nói chung sức cạnh tranh của nhiều doanh nghiệp nhà nước còn yếu, một bộ phận không nhỏ sản phẩm làm ra không tiêu thụ được phần vì giá thành cao, chất lượng thấp, phần vì không phù hợp với nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng. Nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo nguyên tắc độc quyền, không phụ thuộc vào lợi nhuận mà nó mang lại dẫn đến làm mất tác dụng của cơ chế cạnh tranh kích thích tính hiệu quả của doanh nghiệp. Ba là, quan niệm không rõ ràng về chế độ sở hữu trong các doanh nghiệp nhà nước đã làm cho bộ máy quản lý của chúng trở nên cồng kềnh chồng chéo, xơ cứng không thích nghi với những biến động của nền kinh tế thị trường. Tình trạng làm chủ chung chung mà thực chất là vô chính phủ tồn tại một cách phổ biến ở hầu hết các doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù với số lượng nhân viên nhiều hơn hẳn các doanh nghiệp tư nhân, công tác thông tin từ doanh nghiệp nhà nước cho chính phủ thường với chất lượng thấp, làm tăng tính chủ quan của nhà nước trong việc can thiệp vào hoạt động chính của doanh nghiệp kết hợp giữa quản lý yếu kém với công nghệ lạc hậu của các doanh nghiệp nhà nước, đã làm cho năng suất lao động và hiệu quả sản xuất chỉ đạt ở mức thấp . Bốn là, phân phối không dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động mà chủ yếu nhằm phục vụ chính sách xã hội mang nặng tính bình quân chủ nghĩa, không có tác dụng kích thích cán bộ quản lý và công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu suất lao động. Thêm vào đó, một bộ phận cán bộ quản lý lỏng các doanh nghiệp nhà nước không thạo kinh doanh, không đủ kiến thức và kinh nghiệm cần thiết về quản lý nền kinh tế thị trường, thiếu năng động và không giám mạo hiểm trong kinh doanh để giành thắng lợi nhanh chóng. III Giải pháp tài chính thúc đẩy tiến tình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . 1 . Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Nhờ vai trò tính ưu việt của hình thái công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường mà xem cổ phần hoá là con đường hữu hiệu nhất để cải tổ khu vực doanh nghiệp nhà nước nhằm phát huy vai trò chủ đạo của nó bằng cách di chuyển các nguồn vốn cổ phần của mình vào các công ty cổ phần ở các lĩnh vực cần thiết phải có sự điều tiết và kiểm soát của nhà nước. Cổ phần hoá theo nghĩa rộng là quá trình chuyển một doanh nghiệp từ các hình thức tổ chức kinh doanh khác sang hình thái công ty cổ phần. Còn khái niệm cổ phần hoá thông thường ở nước ta hiện nay được dùng để chỉ quá trình chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Nhiều người quan niệm đồng nhất cổ phần hoá và tư nhân hoá nhưng về thực chất thì đây là hai khái niệm có khác biệt nhất định. Quá trình tư nhân hoá có hai cách hiểu là tư nhân hoá theo nghĩa rộng và tư nhân hoá theo nghĩa hẹp về tư nhân hoá theo nghĩa rộng liên hợp quốc đưa ra định nghĩa: Tư nhân hoá là biến đổi tương quan giữa nhà nước và thị trường trong đời sống kinh tế của nhà nước theo hướng ưu tiên thị trường. Theo cách hiểu này thì toàn bộ những chính sách, luật lệ, thể chế nhằm khuyến khích, mở rộng và phát triển khu vực kinh tế tư nhân hoặc các thành phần kinh tế phi quốc doanh. Giảm thiểu can thiệp của nhà nước vào các hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, dành cho thị trường, vai trò điều tiết đáng kể thông qua tự do hoá giá cả. Đều có thể coi như là các biện pháp phát triển tư nhân. Tư nhân hoá theo nghĩa hẹp là: quá trình giảm thiểu quyền sở hữu nhà nước hoặc kiểm soát của chính phủ trong doanh nghiệp thông qua nhiều phương thức và biện pháp khác nhau, trong đó phổ biến nhất là cổ phần hóa. Về hình thức, cổ phần hoá tức là nhà nước bán một phần hoặc toàn bộ giá trị cổ phần của mình trong doanh nghiệp cho các đối tượng, tổ chức hoặc tư nhân trong và ngoài nước, hay cho các cán bộ quản lý và công nhân viên chức của doanh nghiệp bằng đấu giá công khai hoặc thông qua thị trường chứng khoán để hình thành các công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần . Về thực chất: cổ phần hoá là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển hình thức kinh doanh một chủ với sở hữu nhà nước duy nhất trong doanh nghiệp thành công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu nhằm tạo ra một doanh nghiệp hiện đại thích ứng với yêu cầu của kinh doanh hiện đại trong nền kinh tế hiện đại. ở nước ta hiện nay, cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước không phải là tư nhân hoá nền kinh tế. mà là quá trình giảm bớt sở hữu nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước và đa dạng hóa sở hữu. 1.1. Mục tiêu của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Mục tiêu cổ phần hoá của nhiều nước trên thế giới là “ Nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước” và “ Giảm thâm hụt ngân sách nhà nước” là hai mục tiêu đầu tiên và trực tiếp. Thực hiện hai mục tiêu này sẽ góp phần đạt được các mục tiêu của cải cách kinh tế và nâng cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, tuỳ theo hoàn cảnh của mỗi nước mà có quan điểm bổ sung. ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển bổ sung thêm các chỉ tiêu : Xoá bỏ độc quyền được nhà nước quy định cho một số doanh nghiệp nhà nước. Tạo điều kiện để nhà nước tập trung vào những nghành then chốt mũi nhọn đòi hỏi lượng vốn lớn và trình độ khoa học công nghệ cao nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm quan trọng của đất nước trên thị trường thế giới. Thực hiện phân phối có lợi cho những người có thu nhập thấp tạo lập ổn định xã hội trong giai đoạn nền kinh tế đang lâm vào giai đoạn trì trệ, khủng hoảng ở các nước đang phát triển ngoài hai mục tiêu trên cần phải bổ sung thêm : Giảm các khoản nợ nước ngoài đang ngày càng tăng do phải bù đắp vào các khoản thâm hụt ngân sách để trợ cấp cho các doanh nghiệp nhà nước. Thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài , đổi mới kỹ thuật và học tập quản lý, tạo ra nền kinh tế mở cửa tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước nâng cao chất lượng hàng hoá dịch vụ trong nước. Tạo dựng và phát triển một thị trường tài chính trong nước hoàn chỉnh, bao gồm thị trường tư bản tài chính chứng khoán và tài chính tiền tệ. Còn ở nước ta chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu sau ( Theo nghị định số 44/1998/NĐ-C P ngày 29-6 1998 của chính phủ ) : Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, tổ chức kinh tế tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư và đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và người góp vốn được làm chủ thực sự thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản nhà nước nâng cao thu nhập của người lao động góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. 1.2. Phương hướng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 1.2.1. Đối tượng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Để xác định đối tượng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, chính phủ các nước thường xuất phát từ tầm quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân đem phân toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước thành bốn loại. Các doanh nghiệp nhà nước không hoặc chưa cổ phần hoá. Đây là các doanh nghiệp nhà nước toàn phần do nhà nước thành lập và đầu tư vốn 100%, bao gồm các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích và các doanh nghiệp sản xuất, cung ứng những sản phẩm hoặc dịch vụ có quan hệ lớn đến quốc tế dân sinh và an ninh quốc phòng mà nhà nước cần phải độc quyền kinh doanh . Các doanh nghiệp nhà nước được đưa vào diện cổ phần hoá để chuyển thành các công ty cổ phần hỗn hợp nhà nước tư nhân, trong đó nhà nước vẫn cần nắm giữ quyền chi phối hoặc kiểm soát với mức độ khác nhau tuỳ theo tỷ lệ cổ phần của nhà nước trong công ty. Đây là bộ phận doanh nghiệp nhà nước chủ yếu cần phải tiến hành cổ phần hoá . Các doanh nghiệp nhà nước cần tiến hành cổ phần hoá để chuyển thành các công ty cổ phần tư nhân. Nhà nước không cần nắm quyền chi phối hoặc kiểm soát các công ty tư nhân, các công ty tự chủ trong kinh doanh hoạt động theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luật. Các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ kéo dài nhiều năm không còn khả năng khôi phục hoạt động trong các ngành nghề không thật cần thiết cho quốc tế dân sinh, cần kiên quyết cho giải thể, phá sản hoặc sát nhập vào các công ty cổ phần tư nhân nhằm giảm nhẹ cho ngân sách nhà nước. 1.2.2. Hình thức cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . Hình thức cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được đề ra căn cứ vào mục tiêu của chiến lược cải cách khu vực kinh tế nhà nước nhằm phát triển nền kinh tế thị trường hỗn hợp cho phép đạt hiệu quả kinh tế –xã hội cao. Chủ yếu có : Bán đấu giá hoặc bán trực tiếp các doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ hoạt động trong các nghành thương nghiệp và dịch vụ. Giữ nguyên phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, phát triển cổ phiếu và bán cho tất cả ai muốn mua thông qua cơ sở giao dịch chứng khoán. Qua đó thu hút thêm vốn để đổi mới và phát triển doanh nghiệp. Hình thức này được sử dụng để cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn. Bán một phần vốn cố định của doanh nghiệp nhà nước cho một nhóm cá nhân hoặc công ty mà họ có khả năng tài chính để cải cách hoạt động của doanh nghiệp để cho có hiệu quả hơn. Bán với giá thấp hơn giá thị trường cổ phiếu của doanh nghiệp nhà nước cho cán bộ, công nhân viên chức làm việc tại các doanh nghiệp đó hoặc cho những người nghèo khó có thu nhập thấp nhằm giải quyết những vấn đề xã hội. ở Việt Nam cổ phần hoá được tiến hành theo các hình thức sau đây. Giữ nguyên giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp. Bán một phần giá trị thuộc vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp Tách một bộ phận hiện có tại doanh nghiệp đủ điều kiện để cổ phần hoá . Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần . 1.2.3 Những nhân tố tác động đến quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta . Yếu tố thuận lợi . Điều kiện và môi trường pháp lý về cơ bản đã được xác lập tại tất cả các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Việc thực hiện “ thương mại hoá” các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế, là tiền đề cơ bản và cần thiết để từng bước thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và quyết tâm thực hiện. Điều này thể hiện ở việc ban hành các văn bản dưới luật nhằm thực hiện chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước như luật doanh nghiệp. Nghị định số 28 CP của chính phủ “ về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần” Nghị định 44/1998 NĐ- CP “ về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần …” Cụ thể hoá việc thực hiện vấn đề này. Điều này góp phần xác định góp phần xác định rõ quan điểm và phương hướng chỉ đạo thống nhất ở mọi cấp mọi ngành cho đến từng doanh nghiệp để triển khai thực hiện . Tình hình kinh tế của đất nước đã có nhiều biến đổi theo hướng tích cự. . Giá cả thị trường đã được duy trì tương đối ổn định mức lạm phát đã được kiềm chế, đồng tiền Việt Nam đã giữ được giá, lãi suất ở mức khuyến khích các hoạt động đầu tư vào sản xuất kinh doanh … Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi về tâm lý cho mọi người muốn đầu tư thông qua hình thức mua cổ phiếu trong các doanh nghiệp được cổ phần hoá. Nhờ những đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của nhà nước mấy năm qua thu nhập của dân cư được nâng cao. Số người khá giả ở thành thị và nông thôn ngày càng nhiều. Đây là lượng cầu tiềm năng có thể đáp ứng cho các chứng khoán phát hành ở những doanh nghiệp được cổ phần hoá. Hoạt động trong cơ chế thị trường với thời gian chưa lâu nhưng đã xuất hiện đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp có khả năng kinh doanh lớn, người lao động trong các doanh nghiệp đã thích ứng được về ý thức tác phong và hiệu quả công việc trong điều kiện cạnh tranh về năng suất chất lượng và hiệu quả. Điều này sẽ làm cho người đầu tư yên tâm bỏ vốn góp phần thuận lợi cho việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước Với luật đầu tư nước ngoài và sự xuất hiện của nhiều chi nhánh ngân hàng kinh doanh của nước ngoài tại Việt Nam đã góp phần tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư bằng cổ phiếu và các doanh nghiệp nhà nước được tiến hành cổ phần hoá. Ngoài ra, những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của các nước trên thế giới trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước sẽ là những bài học bổ ích và quý giá để nhà nước tiến hành hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện công việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam . Các yếu tố khó khăn và cản trở . Khó khăn và cản trở lớn nhất trong quá trình tư nhân hoá và cổ phần hoá ở nhiều nước đang phát triển là khu vực tư nhân nhỏ bé và yếu ớt. Điều này cũng đúng với Việt Nam, sự nhỏ bé yếu ớt của khu vực kinh tế tư nhân phản ánh trình độ chậm phát triển của kinh tế thị trường trong đó hình thái doanh nghiệp một chủ tự mình đứng ra kinh doanh là phổ biến . Hình thái công ty cổ phần còn xa lạ với hầu hết mọi người. Điều này gây ra sự bỡ ngỡ cho cả người đầu tư lẫn người sử dụng vốn đầu tư dưới hình thái cổ phiếu và do đó, làm cho việc tiến hành chương trình cổ phần hoá ở nước ta phải thực hiện trong một thời gian dài song song với sự hình thành và phát triển hình thái công ty cổ phần cũng như xác lập môi trường pháp lý tương ứng Sự thiếu vắng một thị trường tài chính thực sự trong đó có thị trường chính khoán ( thị trường chính khoán là trung tâm phản ánh trạng thái hoạt động của các công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường ). ở nước ta sở giao dịch chứng khoán đã đi vào hoạt động hơn một năm, nhưng vẫn còn non nớt và chưa phát huy hết tác dụng của nó dẫn đến việc định giá doanh nghiệp để cổ phần hoá phát hành và lưu thông cổ phiếu, việc mua bán cổ phiếu còn gặp nhiều khó khăn. Sự chưa ổn định trong chính sách vĩ mô của nhà nước về luật pháp, thuế khoá, tiền tệ …Chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro cho người muốn đầu tư lâu dài. Nhiều chính sách ra đời chồng chéo mâu thuẫn lẫn nhau và thay đổi đột ngột . Các doanh nghiệp nhà nước hầu hết có trang bị máy móc cũ kỹ ,công nghệ lạc hậu, biên chế cồng kềnh, khả năng cạnh tranh thấp ... Do đó khó có thể tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp này, số doanh nghiệp có mức lợi nhuận đủ sức hấp dẫn để cổ phần hoá. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc lựa chọn các doanh nghiệp cổ phần hoá cũng như thu hút sự hưởng ứng của đông đảo người có vốn đầu tư bằng cổ phần . Về tư tưởng, tâm lý của đa số mọi người trong xã hội còn chưa quen với vấn đề mới mẻ này, thậm chí còn có những phản ứng nhất định ở những người đang sống yên ổn trong khu vực nhà nước . Nhà nước thiếu một nguồn tài chính cần thiết để giải quyết hàng loạt các vấn đề liên quan đến chương trình cổ phần hoá như các khoản trợ cấp cho ngưòi lao động thất nghiệp, chi phí đào tạo lại nghề mới và thời gian tìm việc … Hệ thống kiểm toán chưa trở thành một hoạt động phổ biến và thống nhất . Điều này trở ngại cho việc đánh giá, giá trị doanh nghiệp tình hình và triển vọng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp được cổ phần hoá …và do đó gây khó khăn cho việc cung cấp thông tin trung thực tin cậy cho những người có nhu cầu đầu tư bằng cổ phiếu với những doanh nghiệp này. 2. Vấn đề tài chính trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Bất kỳ một doanh nghiệp, một tổ chức hay một cá nhân muốn tiến hành kinh doanh cũng đò hỏi có một lượng vốn nhất định để hình thành nên tài sản doanh nghiệp, đảm bảo doanh nghiệp đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn của doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau gọi là nguồn vốn. Như vậy tài sản và nguồn vốn chỉ là hai mặt khác nhau của vốn. Một tài sản có thể được tài trợ từ nhiều nguồn vốn khác nhau. Chẳng hạn bên cạnh nguồn vốn chủ sở hữu, tài sản có thể được hình thành bằng nguồn vốn vay hoặc thu mua. Ngược lại, một nguồn vốn ._.có thể tham gia hình thành nên nhiều tài sản.Về mặt lượng tổng tài sản bao giờ cũng bằng tổng nguồn vốn hình thành tài sản bởi chúng là hai mặt khác nhau của cùng một lượng vốn Tài sản = Nguồn vốn hay Tài sản = Vốn sở hữu + công nợ phải trả. Vốn chủ sở hữu không phải là một khoản nợ, vốn chủ sở hữu chính là số vốn để cổ phần hoá. Quy mô của vốn chủ sỡ hữu này phụ thuộc vào giá trị của tài sản và quy mô vốn công nợ. Vấn đề đặt ra trong quá trình cổ phần hoá là xác định giá trị tài sản và quy mô công nợ để từ đó xác định giá trị của vốn chủ sở hữu hay chính là giá trị phần vốn nhà nước trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Giá trị doanh nghiệp đem cổ phần hoá phải là giá trị hữu dụng của doanh nghiệp tức là số thực huy động được vào trong kinh doanh.Với ý đó các khoản tổn thất do kinh doanh thua lỗ, nợ nần dây dưa, vật tư, hàng hoá tồn kho, kém phẩm chất, tài sản cố định không cần dùng đang chờ thanh lý …. Không được đưa vào giá trị doanh nghiệp để bán cổ phần. Người bán cổ phần thường có xu hướng định giá doanh nghiệp cao để tránh mất vốn trong khi người mua cổ phần thường có xu hướng định giá doanh nghiệp thấp để tránh rủi ro. Hai nhu cầu đối kháng này đòi hỏi phải có giải pháp dung hòa bằng việc xác định cho một mức giá hợp lý sau khi đã giải quyết các tồn đọng về tài sản và công nợ nhằm tăng tính hấp dẫn với người mua đồng thời phải có giải pháp đảm bảo khả năng phát triển của doanh nghiệp sau khi tiến hành cổ phần hoá. Do đó các vấn đề tài chính có thể chia làm hai nhóm: Vấn đề cổ phần hoá bao gồm xử lý tồn tại về tài sản, vốn, đặc biệt là công nợ của doanh nghiệp CPH và định giá doanh nghiệp; Vấn đề sau khi CPH bao gồm cơ cấu vốn và khả năng tăng giảm vốn sau khi doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ phần . 2.1. Xử lý vấn đề tài chính trước và sau khi doanh nghiệp nhà nước chuyển sang công ty cổ phần. 2.1.1 Xử lý tồn tại về tài sản, vốn trước và sau khi doanh nghiệp nhà nước chuyển sang công ty cổ phần. Về tài sản: Tài sản không cần dùng cần được nhượng bán và thanh lý ngay. Nếu như chưa xong thì sau khi cổ phần hoá công ty cổ phần kế thừa và tiếp tục xử lý. Các tài sản, vật tư tiền vốn mất mát, thiếu hụt xác định rõ nguyên nhân, nếu trách nhiệm thuộc về cá nhân thì cá nhân đó phải đền bù số còn lại doanh nghiệp phải dùng quỹ để bù đắp nếu không đủ thì tính giảm phần vốn nhà nước trong doanh nghiệp. Nguyên tắc và thủ tục nhượng bán và thanh lý tài sản phải theo chế độ hiện hành Về vốn Những khoản vốn hay giá trị tài sản và vốn của doanh nghiệp nhận liên doanh liên kết thuê mướn trước khi cổ phần hoá cần xác định phân loại rõ ràng để Công ty cổ phần tiếp nhận và có phương án xử lý. Các khoản chênh lệch giá vật tư chênh lệch tỷ giá tuỳ trường hợp cụ thể để xử lý tăng vốn hoặc lãi theo chế độ hiện hành Về công nợ Công nợ là vấn đề phát sinh thường xuyên của quá trình sản xuất kinh doanh nợ phải trả trên bảng cân đối kế toán phản ánh trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước đối với các chủ nợ . Các chủ nợ có thể là: Nhà nước (trong trường hợp nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước), các tổ chức kinh tế (doanh nghiệp khác, ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng khác..) cá nhân (cán bộ nhân viên người bán hàng, khách hàng khác cá nhân khác) Ngược lại, nợ phải thu trên bảng cân đối kế toán phản ánh trách nhiệm các con nợ đối với doanh nghiệp nhà nước. Trách nhiệm được đề cập đến ở đây là việc bắt buộc phải thanh toán trả nợ đúng thời hạn. Đây là nguyên tắc quan trọng để giữ gìn mối quan hệ giữa bên đầu tư vốn và bên nhận vốn đầu tư phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, bởi vì quyền sở hữu thuộc về các chủ nợ, khách nợ vay vốn chỉ có quyền sử dụng vốn vay phải hoàn trả gốc vay đúng thời gian. Trước khi cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước phải thanh toán hết công nợ, thanh lý mọi hợp đồng đã ký hoặc phải các quyền lợi và nghĩa vụ cũ sang công ty cổ phần mới . Với vai trò quan trọng trong cơ cấu vốn, nợ phải trả luôn là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp. công nợ là một yếu tố thuộc tài sản, nợ phải thu cũng ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp Nếu không xác định được nợ còn lại thì không thể tính được giá trị doanh nghiệp. Mục đích của việc xử lý nợ là phân loại các khoản nợ để thu hồi hoặc thanh lý để có biện pháp loại trừ ra khỏi bảng cân đối, làm lành mạnh tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó xác định giá trị doanh nghiệp Đối với các khoản phải thu khó đòi có nguyên nhân khách quan được xử lý theo nguyên tắc: Đối với các khoản nợ đã có đủ chứng cớ xác định là các khoản nợ không đòi được như con nợ bị giải thể, phá sản, con nợ bỏ trốn, con nợ thi hành án và mất khả năng thanh toán… thì được hạch toán vào kết quả sản xuất kinh doanh ( nếu có lãi) hoặc giảm giá trị doanh nghiệp trước khi thực hiện chuyển đổi sở hữu ( nếu không có lãi). Đối với các khoản nợ chưa đủ căn cứ để xử lý như nguyên tắc trên nhưng là những khoản công nợ dây dưa đã phát sinh trên 5 năm mà con nợ còn đang tồn tại, doanh nghiệp đã tích cực áp dụng nhiều giải pháp ( bao gồm cả giải pháp đề nghị toà án giải quyết phá sản con nợ như quy định tại điều 7 luật phá sản doanh nghiệp ) nhưng vẫn không thu hồi được nợ thì hạch toán vào kết quả kinh doanh, giảm lãi trước khi thực hiện chuyển đổi (nếu doanh nghiệp có lãi) hoặc được giảm giá trị doanh nghiệp (phần vốn Nhà nước) trước khi chuyển đổi doanh nghiệp với mức tối đa không vượt quá phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp (nếu doanh nghiệp không có lãi hoặc bị lỗ ) Các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá vẫn tiếp tục có trách nhiệm theo dõi, thu hồi các khoản nợ đã được xử lý theo nguyên tắc trên và nộp vào ngân sách nhà nước. Đối với các khoản nợ do chủ quan đã quy được trách nhiệm cá nhân hoặc tập thể thì phải xử lý trách nhiệm bồi thường vật chất. Phần tổn thất sau khi đã xử lý trách nhiệm được xử lý như đối với các khoản nợ khó đòi có nguyên nhân khách quan. Đối với các khoản nợ đọng ngân sách. Về nguyên tắc, các doanh nghiệp phải có biện pháp thanh toán các khoản nợ đọng ngân sách trước khi thực hiện cổ phần hoá. Trường hợp doanh nghiệp Nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhưng khó khăn về tài chính do đầu tư tài sản cố định thì doanh nghiệp phải lập phương án xử lý nợ, huy động hết các nguồn hiện có ( như quỹ đầu tư phát triển, nguồn vốn khấu hao, thu hồi công nợ…) Để bù đắp các khoản chiếm dụng của ngân sách để đầu tư. Trường hợp đã huy động hết nguồn hiện có nhưng vẫn đủ nguồn bù đắp thì doanh nghiệp phải báo cáo cơ quan có thẩm quyền để thực hiện ghi thu ghi chi tăng vốn Nhà nước cho doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp không đủ khả năng thanh toán do bị thua lỗ thì doanh nghiệp báo cáo cơ quan có thẫm quyền xem xét, cho phép xoá nợ ngân sách với mức tối đa bằng số luỹ kế của doanh nghiệp tại thời điểm có quyết định thực hiện cổ phần hoá. Đối với các khoản nợ vay ngân hàng thương mại quốc doanh. Việc khoanh nợ, xoá nợ ngân hàng là nhằm hỗ trợ những doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá có khó khăn về tài chính, hoạt động kinh doanh có thể bị lỗ nhưng chưa lâm vào tình trạng phá sản theo nguyên tắc: Đối với các doanh nghiệp nhà nước gặp khó khăn trong thanh toán, không cân đối được nguồn để thanh toán các khoản nợ quá hạn… thì được xem xét khoanh các khoản nợ quá hạn có đến thời điểm quyết định triển khai cổ phần hoá trong thời hạn từ 3-5 năm. Đối với các doanh nghiệp nhà nước bị thua lỗ, mất khả năng thanh toán thì cho phép xoá nợ lãi vay ngân hàng mà doanh nghiệp chưa thanh toán với mức không vượt quá số lỗ còn lại sau khi xử lý nợ ngân sách. Phần nợ gốc quá hạn còn lại doanh nghiệp tiếp tục điều chỉnh khoanh nợ trong 5 năm để giảm bớt khó khăn về tài chính. Các khoản tổn thất của ngân hàng thương mại quốc doanh do khoanh nợ hoặc xoá nợ cho doanh nghiệp nhà nước trước khi thực hiện cổ phần hoá được hạch toán vào chi phí hoạt động kinh doanh, quỹ bù đắp rủi ro của ngân hàng, giảm trừ vào nợ vay của ngân hàng nhà nước hoặc được ngân sách nhà nước hỗ trợ một phần khi các ngân hàng thương mại không đủ nguồn để bù đắp theo hướng dẫn của bộ tài chính. Đối với nợ bảo hiểm xã hội do doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.Về nguyên tắc, trước khi thực hiện cổ phần hoá, doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán dứt điểm các khoản nợ đối với công ty bảo hiểm xã hội.Trường hợp doanh nghiệp không đủ khả năng thanh toán thì khoản nợ đối với công ty bảo hiểm xã hội được giảm trừ vào giá trị doanh nghiệp trước khi thực hiện chuyển đổi. 2.1.2 .Định giá doanh nghiệp Khái niệm: Giá doanh nghiệp được quan niệm là giá cả thực tế mà người mua trả cho người bán khi nhận quyền sở hữu một phần hay toàn bộ doanh nghiệp Giá trị doanh nghiệp theo kinh tế học hiện đại có thể hiểu là mức độ thoã dụng hay lợi ích mà một doanh nghiệp sẽ mang lại trong suy nghĩ của các đối tượng tham gia mua bán. Định giá doanh nghiệp là các hoạt động có phương pháp mang tính đơn phương của từng bên liên quan nhằm đưa ra một mức giá mà họ cho là gần nhất với giá trị doanh nghiệp. Định giá doanh nghiệp một cách chính xác sẽ tránh được thiệt hại cho bên mua hoặc bên bán khi doanh nghiệp được xác định thấp hơn giá trị thực thì có thể làm mất vốn nhà nước. Ngược lại, khi giá doanh nghiệp được xác định cao hơn giá trị thực sẽ làm thiệt hại cho bên mua. Các nhân tố xác định giá trị doanh nghiệp . Giá trị tài sản doanh nghiệp. Giá trị tài sản doanh nghiệp là chỉ tiêu dễ thấy nhất thể hiện giá trị doanh nghiệp, được theo dõi hết sức chặt chẽ trong toàn bộ quá trình vận hành doanh nghiệp bằng hệ thống hoạch toán kế toán . Tài sản của doanh nghiệp gồm: + Tài sản hữu hình: Đất đai doanh nghiệp đã sử dụng vào sản xuất kinh doanh, máy móc thiết bị. + Tài sản vô hình: quyền sử dụng đất, chi phí thành lập bằng phát minh sáng chế, chi phí nghiên cứu phát triển, lợi thế thương mại. Khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Mức lợi nhuận là chỉ tiêu thể hiện khả năng sinh lời của doanh nghiệp thể hiện lợi ích mà doanh nghiệp mang lại cho chủ sở hữu, nên là nhân tố quan trọng để xác định giá trị của doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp chính là giá trị hiện tại hoá dòng lợi nhuận của doanh nghiệp sau khi bán doanh nghiệp. Quan hệ cung cầu về doanh nghiệp. Trong ngắn hạn, độ co giãn của cung cầu thường giả định không thay đổi. Khi đó, biến động của giá doanh nghiệp theo quy luật cung cầu thường giả định không thay đổi. Khi đó, biến động của giá doanh nghiệp theo quy luật cung cầu phụ thuộc chủ yếu vào lượng cung, lượng cầu về doanh nghiệp. Đôi khi cung cầu về doanh nghiệp gây ra sự chênh lệch lớn giữa giá trị doanh nghiệp và giá cả doanh nghiệp tạo nên các cú sốc cung cầu giả tạo trong ngắn hạn. Sự tăng giảm như vậy chứng tỏ cung cầu doanh nghiệp là một nhân tố khách quan không thể bỏ qua trong xác định giá doanh nghiệp . Tình hình kinh tế, tài chính quốc gia. Nếu những dự đoán về tình hình kinh tế, tài chính quốc gia trong tương lai được coi là bất ổn định thì giá doanh nghiệp sẽ được đánh giá thấp xuống. Ngược lại thì giá doanh nghiệp sẽ được định giá cao hơn. Sự chênh lệch giữa hai mức giá này do mức độ rủi ro mà nhà đầu tư dự đoán phải được lưu tâm đến khi đến khi định giá doanh nghiệp. Các phương pháp định giá doanh nghiệp Phương pháp giá trị tài sản thuần. Phương pháp giá trị tái sản thuần xác định giá trị doanh nghiệp đưa trên giá trị thị trường của trị trường của các loại tài sản đó của nó. Theo phương pháp nào, giá trị thị trường của tài sản được tính dựa trên bảng cân đối tài sản và tham khảo giá trị thị trường của tài sản tương tự hoặc cùng loại giá trị của vốn cổ phần được tính toán như sau: VE=VA-VD. VE : giá trị thị trường của vốn cổ phần . VA : giá trị thị trường của toàn bộ tài sản. VD : giá trị trường cửa nợ. Phương pháp định giá theo khả năng sinh lời. Phương pháp này dựa trên cơ sở xem xét doanh nghiệp không phải đơn thuần là tổng số số học giá trị các tài sản hiện có mà là một hệ thống phức tạp các giá trị kinh tế được đo bằng khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Điều mà người đầu tư trông đợi là lợi nhuận, là khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai và chính nó là cơ sở để định giá doanh nghiệp. Với cách nhìn nhận đó ta có 2 phương pháp định giá sau: + Phương pháp lợi nhuận. Giá trị doanh nghiệp theo phương pháp lợi nhuận được xác định theo công thức: Để xác định lợi nhuận sau thuế bình quân hàng năm dự tính thu được người ta có thể căn cứ vào số liệu thống kê cuả các năm gần nhất với thời điểm định giá và được tính theo phương pháp bình quân số học. Công thức tính như sau: Trong khi tính toán cũng cần xem xét để loại trừ các ảnh hưởng đột biến đến lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Đồng thời cũng cần phân tích, dự đoán tình hình sắp tới để điều chỉnh lợi nhuận sau thuế bình quân đã tính toán cho phù hợp. Đối với việc lựa chọn tỷ suất vốn hoá cũng còn nhiều ý kiến khác nhau. Nhưng có thể thấy nên chọn tỷ suất lợi tức trái phiếu dài hạn làm tỷ suất vốn hoá là có cơ sở và hợp lý hơn, bởi vì nó phản ánh khả năng thu được lợi nhuận ở mức trung bình mà người đầu tư có thể đạt được trên thị trường. Về bản chất phương pháp lợi nhuận là phương pháp hiện tại hoá lợi nhuận sau thuế bình quân thu được hàng năm. Thật vậy, nếu gọi lợi nhuận sau thuế hàng năm là P với tỷ suất hiện tại hoá là "i", số năm có khoản thu về lợi nhuận sau thuế là "n", ta có giá trị doanh nghiệp V là: (Ghi công thức ) Nếu lợi nhuận P là cố định và nđ+Ơ thì (Ghi công thức ) Phương pháp này phù hợp với các doanh nghiệp không có nhiều tài sản cố định phải khấu hao, khả năng tích luỹ vốn từ khấu hao hạn chế; mặt khác cũng đòi hỏi lợi nhuận sau thuế hành năm là tương đối ổn định. Trong trường hợp lợi nhuận sau thuế không ổn định hoặc đối với doanh nghiệp mới thành lập, chưa có số liệu quá khứ để xem xét thì việc dự đoán lợi nhuận sau thuế bình quân thu được hàng năm sẽ khó khăn hơn nhiều. 2.2. Cơ cấu vốn và khả năng tăng giảm vốn sau khi doanh nghiệp nhà nước chuyển sang công ty cổ phần . Trong công ty cổ phần, nguồn hình thành vốn được chia làm 3 loại: vốn cổ phần vốn vay lợi nhuận tích luỹ từ hoạt động sản xuất kinh doanh Khi doanh nghiệp mới chuyển sang công ty cổ phần, nguồn tài chính chỉ bao gồm vốn cổ phần và vốn vay. Sau một thời gian hoạt động, thì công ty cổ phần có thêm một nguồn vốn bổ sung là lợi nhuận thu được Tỷ trọng của vốn cổ phần, vốn vay lợi nhuận trong nguồn vốn của công ty phụ thuộc vào hàng loạt các yếu tố: danh tiếng của công ty trên thị trường tiền tệ, mức độ và tính chất mất ổn định của lợi nhuận công ty, hệ thống thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành đối với công ty, lãi xuất tiền vay, tình hình kinh tế chung của đất người nước… Khả năng tăng giảm vốn cổ phần. Tăng vốn cổ phần của công ty. + Phát hành cổ phiếu mới: các loại cổ phiếu có thể phát hành là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. + Chuyển quỹ dự trữ vào vốn của công ty: Quỹ dự trữ của CTCP là một loại quỹ bắt buộc công ty phải trích lập theo luật định. Đây là một nguồn tài chính dự phòng nhằm bù đắp những rủi ro trong kinh doanh hoặc đáp ứng nhu cầu tăng vốn để phát triển sản xuất kinh doanh. Vì vậy, khi có nhu cầu bổ sung tăng vốn điều lệ của CTCP có thể chuyển một phần quỹ dự trữ vào vốn của công ty. + Chuyển trái phiếu thành cổ phiếu. Trước hết, được áp dụng với những trái phiếu có khả năng chuyển đổi thành cổ phần đã được quy định khi phát hành trái phiếu. Sau đó, nếu công ty vẫn có nhu cầu tăng vốn điều lệ theo phương thức này thì mới áp dụng chuyển đổi đối với các loại trái phiếu khác. Giảm vốn cổ phần của công ty. + Giảm vốn do kinh doanh thua lỗ. Trong quá trình sản xuất kinh doanh do trình độ quản lý kinh doanh yếu kém hoặc do rủi ro công ty lâm vào tình trạng thua lỗ kéo dài không có khả năng khắc phục làm cho vốn cổ phần của công ty đương nhiên bị giảm xuống. Trong trường hợp này công ty bắt buộc phải xử theo một trong hai cách sau: Giảm giá trị danh nghĩa ghi trên cổ phiếu của các cổ đông theo tỷ lệ giảm vốn. Huy động các cổ đông góp thêm vốn bằng tiền mặt. + Giảm vốn do hoàn trả một phần cho các cổ đông. ở một số CTCP tuy hoạt động kinh doanh không bị thua lỗ nhưng hiệu quả kinh tế thấp, công ty có nhu cầu thu hẹp quy mô sản xuất kinh doanh dẫn đến sự thừa vốn trong công ty. Trường hợp này nếu cứ kéo dài thì sẽ dẫn đến sự lãng phí về vốn, một bộ phận vốn bị ứ đọng không sử dụng và không sinh lời làm cho tỷ suất lợi nhuận của công tu ngày càng giảm thấp. Để khắc phục tình trạng thừa vốn, công ty có thể giải quyết bằng cách hoàn trả cho các cổ đông theo tỷ lệ vốn cổ phần của họ. + Giảm vốn do chuyển một phần vào công ty khác. Trong thực tế nhiều công ty cổ phần làm ăn có lãi song tỷ suất lợi nhuận không cao bằng một số ngành nghề kinh doanh khác. Khi đó, công ty có thể rút bớt một phần vốn của mình để đầu tư vào những ngành nghề khác có khả năng mang lại mức doanh lợi cao hơn như thành lập công ty mới hoặc góp vốn liên doanh, cổ phần vào những công ty khác. Khả năng tăng giảm vốn vay. - Vay vốn bằng các hợp đồng tín dụng. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hầu như không một doanh nghiệp nào chỉ hoạt động sản xuất kinh doanh bằng nguồn vốn tự có mà phải hoạt động bằng nhiều nguồn trong đó vốn vay chiếm tỷ lệ đáng kể. Vốn vay không chỉ có ý nghĩa quan trọng không chỉ ở khả năng tài trợ các nhu cầu bổ sung cho việc mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh của công ty mà còn tạo điều kiện linh hoạt trong việc thu hẹp quy mô kinh doanh bằng việc hoàn trả các khoản nợ đến hạn và giảm số lượng vốn vay. Đối với DNNN, ngoài nguồn vốn Nhà nước giao, các doanh nghiệp còn hoạt động sản xuất kinh doanh bằng nguồn vốn vay như vay ngân hàng, các công ty tài chính, vay của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước… Trong quá trình cổ phần hoá, Các DNNN chuyển sang các CTCP không được phép ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh. Cho nên trên thực tế các khoản vay nợ về vốn ( vay ngắn hạn, vay dài hạn) của DNNN đương nhiên được chuyển nợ sang các CTCP. - Vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu. công ty cổ phần muốn phát hành trái phiếu phải được Đại hội đồng cổ đông quyết định số tiền dự định vay bằng trái phiếu, giá trị của mỗi trái phiếu, lãi suất của trái phiếu, thời hạn vay và thời hạn thanh toán hoàn trả trái phiếu và khả năng chuyển đổi thành cổ phiếu nếu luật pháp sau này cho phép. Việc phát hành trái phiếu là một phương thức vay vốn không làm tăng vốn cổ phần của công ty. Khả năng tăng giảm vốn từ lợi nhuận. Lợi nhuận thu được từ kết quả sản xuất kinh doanh của mọi loại hình doanh nghiệp. Đối với CTCP, khối lượng lợi nhuận lớn và tỷ suất lợi nhuận cao không chỉ là niềm mơ ước của các cổ đông, của các nhà đầu tư mà của cả những người lao động bởi vì thu nhập của họ phụ thuộc trực tiếp vào kết quả kinh doanh. Khối lượng lợi nhuận lớn cùng với tỷ lệ lợi nhuận để lại cao là điều kiện để tăng cường khả năng tài trợ vốn bổ sung cho công ty. Khả năng tăng vốn của công ty từ lợi nhuận không chỉ phụ thuộc vào chính sách miễn giảm thuế của Nhà nước đối với CTCP. Chương II. Thực trạng về vấn đề tài chính trong cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước tại Tổng công ty chè Việt Nam . I. Vài nét về Tổng công ty chè Việt Nam. 1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty chè Việt Nam. Cùng với một số mặt hàng khác như cà phê, điều, lạc…chè là một sản phẩm chiế lược có ưu thế mạnh ở nước ta. Nhằm tăng cường, tập trung,đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước, thoã mãn thị hiếu của người tiêu dùng, phù hợp với chiến lược phát triển lâu dài của đất nước, năm 1974, Liên hiệp các xí nghiệp công nông nghiệp chè Việt Nam được thành lập trên cơ sở hợp nhất các nhà máy chè xuất khẩu của Trung ương và một số xí nghiệp chè hương ở miền Bắc. Nhiệm vụ của liên hiệp xí nghiệp này, chế biến chè xuất khẩu theo kế hoạch nhà nước giao. Năm 1979 Chính phủ ra quyết định 75/TTg và 224/TTG về thống nhất tổ chức ngành chè, hợp nhất hai khâu trồng trọt và chế biến, giao cho các Nông trường chè ở địa phương trên cơ sở Trung ương quản lý thống nhất. Tháng 3 năm 1987 Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm ra quyết định số 283/ NN-TCCB/QĐ thành lập công ty xuất nhập khẩu chè thuộc liên hiệp các xí nghiệp công nông nghiệp chè Viêt Nam . Căn cứ văn bản số 5826/ĐMDN ngày 13/10/1995 của Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt phương án tổng thể sắp xếp doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ Nông nghiệp và công nghệ thực phẩm ( nay là Bộ NN & PTNT ) và uỷ quyền ký quyết định thành lập các Tổng công ty theo quyết định số 90/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ Tướng Chính phủ. Ngày29/12/1995 Bộ trưởng Bộ NN & PTNT ra quyết định số 394/Nhà nước- TCCB/QD thành lập Tổng công ty chè Việt Nam trên cơ sở sắp xếp lại các doanh nghiệp thuộc Liên hợp các xí nghiệp nông công nghiệp chè Việt Nam Tổng công ty chè Việt Nam có tên giao dịch quốc tế là Vietnam National Tea Corporation (Vinatea Corp) trụ sở chính đặt tại 46 Tăng Bạt Hổ – Hai Bà Trưng – Hà nội. Tài khoản VND số 361-111004020, tài khoản ngoại tệ số 362-111004 tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Tổng công ty chè Việt Nam chính thức đi vào hoạt động vào tháng 6/1996 với quy mô ban đầu có : - 28 đơn vị thành viên - Tổng số lao động là : 22500 cán bộ công nhân viên - Vốn pháp định: 101.868,5 triệu đồng - Vốn kinh doanh: 101.867,5 triệu đồng + Vốn cố định : 68.163,6 triệu đồng + Vốn xây dựng cơ bản: 5.601 triệu đồng Như vậy, Tổng công ty chè Việt Nam đã có thời gian hoạt động trên 20 năm. Trong quá trình hoạt động ấy, Tổng công ty đã đạt được những thành tích đáng kể. Tổng công ty là một đơn vị quốc doanh và là công ty cấp quốc gia duy nhất hoạt động trong lĩnh vực chè. Cho đến nay đây là công ty chè lớn nhất ở Việt Nam, là một đối tác duy nhất và quan trọng nhất ở Việt Nam cho các công ty và khách hàng nước ngoài . Trong việc nhận thức về môi trường đầu tư thì Tông công ty đã bắt đầu thành lập các liên doanh và hợp tác với các hãng nước ngoài để cải thiện chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất của các nhà máy lớn. Việc thành lập Tổng công ty chè Việt Nam đã tạo nên một sức mạnh mới, đó là tập trung hoạt động, tập trung vốn, được quyền quản lý điều hành, nhất là về giá cả để đảm bảo sức cạnh tranh của chè Việt Nam trên thị trường quốc tế. 2. Chức năng, nhiệm vụ của Tổng công ty . Tổng công ty chè Việt Nam chịu trách nhiệm trước Nhà nước về quy hoạch, kế hoạch, về các dự án đầu tư phát triển chè, nhận và cung ứng vốn cho tất cả các đối tượng được đầu tư, là chủ đầu tư, nghiên cứu cải tạo giống chè, trồng trọt, chế biến tiêu thụ, xuất nhập khẩu sản phẩm chè, vật tư thiết bị ngành chè, tiến hành hoạt động kinh doanh đúng với pháp luật, cùng với chính quyền địa phương chăm lo phát triển kinh tế – xã hội ở các vùng trồng chè, đặc biệt với các vùng dân tộc ít người, vùng kinh tế mới, vùng sâu vùng xa có nhiều khó khăn, xây dựng các mối quan hệ kinh tế và hợp tác đầu tư khuyến nông, khuyến lâm với các thành phần kinh tế để phát triển trồng chè góp phần thực hiện xoá đói giảm nghèo, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, cải thiện môi sinh. Tổng công ty làm chủ đầu mối trong việc khảo sát, khai thác và chiếm lĩnh thị trường nhất là thị trường quốc tế, bao gồm thị trường xuất khẩu chè, thị trường nhập khẩu và thị trường vốn, đây là những vấn đề mà hiện nay và những năm tới, tầng đơn vị thành viên không có điều kiện hoặc nếu làm thì không có hiệu quả. Tổng công ty trực tiếp giao dịch ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm và liên doanh liên kết với nước ngoài, đảm bảo cho việc thống nhất giá cả, gọi vốn nước ngoài cho việc phát triển sản xuất cho toàn ngành. Tổng công ty làm đầu mối nhập khẩu máy móc, thiết bị chuyên dùng và các hàng tiêu dùng khác cho các đơn vị thành viên với giá nhập khẩu có lợi nhất, thiết bị và công nghệ hiện đại nhất để tầng bước đưa công nghệ chế biến chè ở Việt Nam tiến kịp trình độ thế giới. Tổ chức và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, làm đầu mối cho việc chuyển nhượng kỹ thuật chè thế giới vào Việt Nam, nghiên cứu giống chè, quy trình canh tác, thu hái, quy trình công nghệ chế biến và bảo quản sản phẩm nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm chè. Đồng thời nghiên cứu tạo sản phẩm mới, đa dạng hoá sản phẩm, có bao bì mẫu mã, tem nhãn đa dạng đáp ứng thị hiếu của khách hàng trong và ngoài nước. Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật của ngành chè. 3. Lĩnh vực sản xuất kinh doanh chủ yếu của Tổng công ty Trồng trọt, sản xuất chè, chăn nuôi gia súc và các nông lâm sản khác. Công nghiệp chế biến thực phẩm: các sản phẩm chè, sản phẩm các đồ uống nhà nước giải khát… Sản xuất gạch ngói, vật liệu xây dựng, sản xuất phân bón các loại phục vụ vùng nguyên liệu. Sản xuất bao bì các loại. Chế biến các sản phẩm cơ khí, phụ tùng, thiết bị, máy móc phục vụ chuyên ngành chè và đồ gia dụng. Dịch vụ kỹ thuật đầu tư phát triển vùng nguyên liệu và chế biến chè. Xây dựng cơ bản và tư vấn đầu tư, xây lắp phát triển ngành trồng chè, dân dụng. Dịch vụ du lịch, khách sạn, nhà hàng. Bán buôn, bán lẻ, đại lý các sản phẩm của ngành công nghiệp và nông nghiệp thực phẩm; vật tư, nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, hàng hoá phục vụ sản xuất và đời sống. Kinh doanh và dịch vụ các ngành nghề khác theo pháp luật Nhà nước Xuất nhập khẩu: + Xuất khẩu trực tiếp: các sản phẩm chè, các mặt hàng nông lâm sản… + Nhập khẩu trực tiếp: nguyên vật liệu, vật tư, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải và hàng tiêu dùng. 4. Đặc điểm tổ chức quản lý Tổng công ty chè Việt Nam là doanh nghiệp Nhà nước hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước,Tổng công ty chịu sự quản lý Nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ cơ quan thuộc Chính Phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương, đồng thời chịu sự quản lý trực tiếp của các cơ quan này với tư cách là cơ quan thực hiện quyền chủ sở hửu đối với DNNN theo luật DNNN và các quy định khác của pháp luật. Tổng công ty hoạt động theo cơ chế: Hội đồng quản trị thực hiện các chức năng quản lý hoạt động của Tổng công ty, chịu trách nhiệm về sự phát triển của tổng công ty theo nhiệm vụ của nhà nước giao. Tổng giám đốc là đại diện pháp nhân của Tổng công ty, do Bộ trưởng Bộ NN & PTNT bổ nhiệm, miễn nhiệm khen thưởng, kỷ luật theo đề nghị của HĐQT. Tổng giám đốc trực tiếp điều hành hoạt động và là người có quyền hành cao nhất trong tổng công ty. Tổng giám đốc chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ NN & PTNT, hội đồng quản trị.s Tổng công ty áp dụng mô hình quản lý trực tuyến( sơ đồ 1) Ba phó tổng giám đốc là người giúp việc cho tổng giám đốc, điều hành một hay một số lĩnh vực hoạt động của tổng công ty theo sự phân công của tổng giám đốc, chịu trách nhiệm trước tổng giám đốc và nhiệm vụ được tổng giám đốc phân công thực hiện. Kế toán trưởng Tổng công ty giúp Tổng công ty chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kế toán, thống kê của Tổng công ty. Ban kiểm soát thực hiện nhiệm vụ do hội đồng quản trị giao về việc kiểm tra, giám sát hoạt động điều hành của tổng giám đốc, bộ máy giúp việc và các đơn vị thành viên tổng công ty trong hoạt động tài chính, chấp hành pháp luật, điều lệ tổng công ty, các nghị quyết, quyết định của hội đồng quản trị. Văn phòng và các phòng ban hoặc ban chuyên môn, nghiệp vụ của Tổng công ty có chức năng tham mưu, giúp việc cho Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc trong quản lý, điều hành công việc. Quan hệ giữa các phòng ban là quan hệ phối hợp, cộng tác, giúp đỡ lẫn nhau hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tổng công ty có các đơn vị thành viên, đơn vị hạch toán độc lập, công ty hạch toán hạch toán phụ thuộc và các đơn vị sự nghiệp(Có danh sách kèm theo) Tổng công ty giao vốn, tài nguyên và các nguồn lực khác cho các đơn vị thành viên trên cơ sở vốn và nguồn lực Nhà nước giao cho Tổng công ty, phù hợp với nhiệm vụ kinh doanh của tầng đơn vị thành viên chịu trách nhiệm trước Tổng công ty và Nhà nước về hiệu quả sử dụng vốn và các nguồn lực được giao. Doanh thu, chi phí, lợi nhuận của Tổng công ty là tổng hợp doanh thu, chi phí, lợi nhuận của các đơn vị thành viên hạch toán độc lập và từ phần hạch toán tập trung của Tổng công ty . Kinh phí kinh doanh của bộ máy quản lý và điều hành của Tổng công ty đã được huy động từ các đơn vị thành viên và một phần từ kinh doanh trực tiếp của Tổng công ty. Các đơn vị thành viên được hạch toán khoản kinh phí này vào trong giá thành sản phẩm và chi phí lưu thông. Tổng công ty được quyền trích lập tối đa 10% các quỹ của đơn vị thành viên để lập các quỹ của Tổng công ty. Các đơn vị thành viên hạch toán độc lập hàng tháng, quý phải báo cáo thường xuyên tình hình thực hiện kế hoạch, 6 tháng và hàng năm phải lập báo cáo quyết toán tài chính gửi về Tổng công ty và cơ quan quản lý tài chính theo quy định. Các doanh nghiệp thành viên hạch toán phụ thuộc thực hiện quyền và nghĩa vụ theo phân cấp của Tổng công ty Danh sách các đơn vị thành viên của Tổng công ty chè Việt Nam : + Tám đơn vị thành viên hạch toán độc lập Công ty Xây Lắp Công ty chè Mộc Châu Công ty chè Nông Phú Công ty chè Yên Bái Công ty chè Thái Nguyên Công ty chè Sông Cầu Công ty chè Hà Tĩnh Trung tâm kiểm tra chất lượng KCS + Ba đơn vị hạch toán phụ thuộc: Công ty chè Hải Phòng Công ty chè Sài Gòn Công ty chè Cổ Loa + Hai liên doanh: Công ty liên doanh Phú Đa Công ty liên doanh Phú Bền + Sáu công ty cổ phần Công ty chè Kim Anh Công ty chè Trần Phú Công ty chè Quân Chu Công ty chè Nghĩa Lộ Công ty chè Liên Sơn + Hai đơn vị hạch toán sự nghiệp: Viện điều dưỡng Đồ Sơn Viện nghiên cứu chè. 5. Đặc điểm về sản phẩm. Chè là một sản phẩm được sản xuất, chế biến bằng100% nguyên liệu chè búp tươi trong nước. Sản phẩm chè được sản xuất theo một quy trình công nghệ nghiêm ngặt và tương đối phức tạp. Tuỳ theo ý muốn chủ quan của con người, chè được chế biến theo các quy trình công nghệ khác nhau sẽ cho ra các sản phẩm khác nhau. Chè đen là sản phẩm thu được sau khi chế biến chè tươi theo sơ đồ công nghệ: Diệt men, sấy nhẹ, vò, làm tơi chè vò, sấy hoặc sao khô và phân loại. Chè đen Chè xanh là sản phẩm thu được từ chế biến chè tươi theo sơ đồ công nghệ: Làm héo, vò, lên men, sấy khô, phân loại. Sản phẩm chè của các doanh nghiệp trong Tổng công ty bao gồm các loại chủ yếu sau: + Chè đen OTD, chiếm tỷ trọng lớn nhất 58,2% + Chè đen CTC, chiếm tỷ trọng 27,5% + C._.g Tỷ suất cổ tức bq 3 năm (trđ) (%) (trđ) (%) (người) (%/năm) Kim Anh Trần Phú Nghĩa Lộ Liên Sơn Quân Chu Cơ Khí Chè 9.200 5.500 2.614 817 1.050 2.182 3.251 2.057 429 110 225 327 35,4 37,4 16,5 13,5 21,2 15 5.949 3.443 2.185 707 825 1.855 64,6 62,6 83,5 86,5 78,8 85 444 617 398 133 119 103 15 14,7 15 13 15 13 Tổng cộng 21.363 6.399 30 14.964 70 1.814 Nhìn trên bảng cơ cấu vốn Tổng công ty vẫn chiếm tỷ phần chi phối, do vậy Tổng công ty phải có trách nhiệm lớn đến sự thành bại của Công ty cổ phần. Đây không chỉ là kinh tế đơn thuần mà là thể hiện đường lối chủ trương, chính sách về cổ phần hoá đối với doanh nghiệp nông nghiệp, nông thôn miền núi, mà ngành chè lại đa số là ở trung du và miền núi. Trong quá trình triển khai, Ban đổi mới của công ty đã thực hiện đúng theo các bước như hướng dẫn của Bộ, ngành Nhà nước. Căn cứ tình hình thực tế, từng đơn vị đã xây dựng phương án SXKD 3 năm sau khi chuyển sang cổ phần hoá. Các phương án nêu lên đều xuất phát từ quyền lợi của người lao động phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước, các phương án điều được Bộ NN & PTNT xem xét, bổ sung và phê duyệt. Phương án của các Công ty cổ phần điều nêu được giải pháp cụ thể, phát huy hiệu quả kinh tế, tỷ suất cổ tức các đơn vị trong năm điều đạt từ 13%/ năm trở lên. Nếu so sánh lãi suất tiền gửi ngân hàng gấp 3 lần, so với lãi suất tiền vay ngân hàng gấp 2 lần. Cổ đông mua cổ phần lại vừa có việc làm ổn định ngay trên nơi ở của mình.Vì vậy, đã huy động được đông đảo cán bộ công nhân viên tham gia. Nhiều công ty cổ phần có 100% cán bộ công nhân viên mua cổ phần như Công ty cổ phần chè Kim Anh, Quân Chu, Cơ khí chè. Qua 2 năm chính thức đi vào hoạt động theo Điều lệ Công ty cổ phần các đơn vị điều cố gắng, việc làm của người lao động đều ổn định, không khí lao động vui tươi phấn khởi, công nhân làm việc tự giác, sản xuất phát triển. So với năm 1999 ( trước khi chưa cổ phần ) nhìn chung sản xuất ở các đơn vị đều vượt mức so với năm trước. Tổng sản phẩm chè xuất khẩu năm 2000 của 6 đơn vị cổ phần đạt 6.141 tấn so với năm 1999 tăng 113%. Nhiều đơn vị có tốc độ vượt cao, rõ nét nhất là Công ty cổ phần chè Quân Chu. Nếu năm 1999, tổng sản phẩm chè làm ra được 549 tấn, khi vào cổ phần tổng sản phẩm tăng gấp 2 lần đạt 907 tấn, tăng 165% so với năm trước, tỷ suất cổ tức chia cho cổ đông 1,3%/tháng. Công ty chè Liên Sơn khi bước vào đại hội với không khí rất nặng nề. Đại hội đã bầu ra hội đồng quản trị và ban lãnh đạo gần như mới hoàn toàn. Từ kế toán trưởng đến giám đốc điều hành cũ đều nghỉ. Nhưng kết quả thực hiện 1 năm cổ phần hoá lại rất tốt. Chè được thâm canh tốt hơn, sản phẩm vượt, chất lượng tăng. Năm 1999, chè tươi tự sản xuất được 828 tấn, đến năm 2000, đã vượt lên 1.327 tấn, so với năm trước bằng 160%. Công ty làm ăn có lãi. Tỷ suất cổ tức chia cho các cổ đông đạt 1,17%/tháng, lương công nhân cao hơn trước. Kết quả sản xuất kinh doanh của các công ty cổ phần trong 3 năm 1999-2001. Về sản phẩm thực hiện: Tên công ty Spth 1999 (tấn) Spth 2000 (tấn) Spth 2001 (tấn) So sánh 2000/1999 (%) So sánh 2001/1999 (%) So sánh 2001/2000 (%) Trần Phú Nghĩa Lộ Liên Sơn Quân Chu Kim Anh Cơ khí chè 2.060 792 264 549 1.206 533 1.614 758 382 907 1.776 704 2.036 810 584 1.318 1.779 1.396 78,3 95,1 144,2 165,2 147,2 132 98,8 102,3 221,2 240 147,5 261,9 126,1 106,9 152,8 145,3 100,1 198,3 Tổng cộng 5.504 6.141 7.923 Về kết quả kinh doanh: Nội dung Doanh thu Lợi nhuận thực hiện Cổ tức 2000 (Trđ) 2001 (Trđ) 2000 (Trđ) 2001 (Trđ) 2000 (%/tháng) 2001 (%tháng) Trần Phú Nghĩa Lộ Liên Sơn Quân Chu Kim Anh Cơ khí chè 20.766 10.655 5.140 9.931 34.945 12.987 24.000 10.215 7.080 14.869 43.027 22.948 912,3 429,9 392,9 225,49 1.443,4 155 1.190 401,1 136,4 247,3 1.177,9 1.209 1,00 1,1 1,1795 1,32 0,88 1.00 1,14 0,81 1,20 1,10 0,65 1,25 Tổng cộng 94.424 122.139 1.558,9 4.361,7 Thắng lợi lớn nhất của các công ty cổ phần thuộc Tổng công ty chè Việt Nam trong 2 năm 2000 và 2001 đó là sản xuất ổn định, nhiều công ty vượt với tốc độ cao. Các Công ty cổ phần tiêu thụ chè theo cơ chế thị trường, sản phẩm bán cho Tổng công ty chỉ bằng 20-40% tổng sản phẩm sản xuất ra mặc dù không giao đủ theo hợp đồng nhưng vẫn trích từ lợi nhuận của Tổng công ty trợ giá cho các công ty gặp khó khăn. Tổng số tiền là: 2.600 triệu đồng. Trong đó, Công ty cổ phần chè Trần Phú: 841 triệu đồng; Công ty cổ phần chè Nghĩa Lộ 716 triệu đồng… Tổng công ty chè Việt Nam không chỉ tham gia với tư cách là một cổ đông lớn, mà còn giúp các Công ty cổ phần xây dựng phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao nhất, tìm thị trường xuất khẩu. Mối quan hệ hợp tác chặt chẽ này tạo tiền đề hình thành Tập đoàn sản xuất chè Việt Nam trong thời gian tới mà các Công ty cổ phần là những thành viên tích cực. Thời gian hoạt động của các Công ty cổ phần còn ngắn. Tuy còn có nhiều điều bất cập cần phải giải quyết tháo gỡ khó khăn để các công ty chủ động sản xuất đi lên, song có thể đánh giá các mặt được nhiều hơn là chưa được. Chương: III Một số giải pháp tài chính góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước tại Tổng công ty chè Việt Nam. I. Phương hướng cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước thuộc Tổng công ty chè Việt Nam trong những năm tới. Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương lớn, một giải pháp quan trọng của Đảng và Nhà nước ta nhằm thực hiện đa hình thức sở hữu. Song vẫn lấy kinh tế Nhà nước làm chủ đạo, nhằm thúc đẩy kinh tế đất nước theo định hướng XHCN. Mục tiêu của Tổng công ty là: Xây dựng Tổng công ty vững mạnh, năng động, sáng tạo trong kinh doanh; đóng vai trò chủ đạo trong trong sự nghiệp phát triển chè của cả nước; tập hợp được sức mạnh của những người làm chè trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. Phát huy cao độ quyền chủ động, sáng tạo của các đơn vị, xoá bỏ tận gốc tình trạng ỷ lại, dựa dẫm và tệ hành chính quan liêu bao cấp, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh tạo điều kiện cho người lao động và các đơn vị cổ phần thực sự làm chủ doanh nghiệp của mình Muốn thực hiện được chủ trương trên, bước đi trong quá trình cổ phần hoá giai đoạn tiếp theo của Tổng công ty Chè Việt Nam theo phương châm: “ Vững chắc, thận trọng, hiệu quả” song phải đạt kế hoặch cổ phần hoá của Tổng công ty. Căn cứ vào chỉ tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước của Bộ giao. Tổng công ty giúp các đơn vị học tập triển khai phương án, bàn bạc nhất trí từ cơ sở lên, đơn vị nào có đầy đủ điều kiện có văn bản đề nghị Tổng công ty và Bộ cho triển khai. Những đơn vị chưa đủ điều kiện do sản xuất gặp nhiều khó khăn, bộ máy lãnh đạo yếu kém về năng lực, sản xuất kinh doanh thua lỗ kéo dài, đời sống cán bộ công nhân viên thấp kém, trách nhiệm của Tổng công ty phải cũng cố bộ máy lãnh đạo, hỗ trợ về tài chính, giúp cho các công ty này vượt qua được khó khăn đẩy mạnh được sản xuất đủ điều kiện để chuyển sang cổ phần hoá. Trên cơ sở Đề án đổi mới Tổ chức bộ máy quản lý của Tổng công ty Chè Việt Nam được Bộ NN&PTNT phê duyệt, những công ty thuộc diện cổ phần hoá, gồm 7 đơn vị: Công ty chè Mộc Châu; Công ty chè Yên Bái; Công ty chè Long Phú; Công ty chè Thái Nguyên; Công ty chè Hà Tĩnh; Công ty chè Sông Cầu, sẽ được triển khai xong trước năm 2005 theo chủ trương của Nhà nước. Quá trình hoạt động theo doanh nghiệp cổ phần, Tổng công ty là một cổ đông lớn nhất tham gia góp vốn vào công ty cổ phần và cử người đại diện có năng lực quản lý phần vốn góp nhà nước, đồng thời tham gia HĐQT hoặc bộ máy điều hành ở công ty cổ phần. Tuy nhiên thực tế cho thấy, mặc dù Tổng công ty rất có thiện chí muốn đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá nhưng cũng giống như tình trạng chung của các DNNN thuộc các ngành, địa phương khác, đó là có những tồn tại như phân tích ở trên. Như vậy mọi nghiên cứu và đề xuất các giải pháp cho các vấn đề liên quan đến công cuộc cổ phần hoá đều rất cần thiết. Tại chương III này tôi xin đưa một số giải pháp tài chính góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá DNNN của Tổng công ty, dựa trên những tồn tại thực tế và những chủ trương đã đề ra. II Một số giải pháp tài chính góp phần thúc đẩy tiến trình CPH DNNN 1. Lành mạnh hoá tình hình tài chính của doanh nghiệp cổ phần hoá. Như trên đã phân tích, tiến độ cổ phần hoá của các DNNN tại Tổng công ty Chè Việt Nam chưa được đẩy mạnh do một số nguyên nhân quan trọng là tình hình tài chính của các doanh nghiệp vẫn chưa được lành mạnh hoá. Điều lo ngại lớn nhất của các DNNN trước kho cổ phần hoá là việc giải quyết những vấn đề còn tồn tại, nhất là vấn đề công nợ. Vấn đề đặt ra ở đây là giải quyết hiệu quả đồng thời của hai loại công nợ: nợ phải thu và nợ phải trả của doanh nghiệp. Các giải pháp xử lý nợ trong phạm vi đề tài này chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hoá. Việc xử lý nợ nên được tiến hành trên nguyên tắc căn cứ vào nguyên nhân khoản nợ, thực trạng tài chính và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trường hợp nợ do nguyên nhân của doanh nghiệp. Nếu xét được các nhân phải bồi thương vật chất thì phải xác định cụ thể mức bồi thường vật chất, phần chênh lệch giữa số nợ và số tiền bồi thường được hạch toán vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu không quy được trách nhiệm cá nhân thì Hội đồng quản trị hoặc giám đốc doanh nghiệp quyết định xử lý các khoản nợ phải thu vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh ( đối với các khoản nợ phải thu khó đòi) Trường hợp nợ do nguyên nhân khách quan và cơ chế. Đối với các khoản nợ khó đòi bao gồm: con nợ đã phá sản, giải thể, bỏ trốn, đang thi hành án, nợ đã quá hạn 5 năm trở lên đã áp dụng nhiều giải pháp mà chưa thu hồi được ( bao gồm cả giải pháp đề nghị toà án giải quyết phá sản con nợ) thì được hạch toán vào kết quả sản xuất kinh doanh ( nếu doanh nghiệp có lãi ) hoặc tính giảm giá trị doanh nghiệp để chuyển đổi sở hữu ( nếu doanh nghiệp bị thua lỗ, không có lãi ). Đối với các khoản nợ ngân sách thì coi như vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để thực hiện chuyển đổi sở hữu theo cơ chế hiện hành. Đối với các khoản nợ vay ngân hàng thương mại quốc doanh thì tiền thu được do chuyển đổi sở hữu sẽ được ưu tiên để trả nợ ngân hàng. Nếu còn thiếu, quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước sẽ cấp cho đủ. Trường hợp doanh nghiệp thiếu vốn nhưng kinh doanh hiệu quả, khó khăn chỉ là tạm thời thì có thể chuyển nợ vay ngân hàng thương mại quốc doanh của các DNNN sang hình thức góp vốn cổ phần của các ngân hàng đối với doanh nghiệp. Đối với nợ bảo hiểm xã hội do doanh nghiệp mất khả năng thanh toán thì dùng tiền thu được do chuyển đổi sở hữu sau khi đã trả nợ vay để chi, nếu còn thiếu sẽ lấy từ Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . Đối với các khoản nợ mà doanh nghiệp vay vốn nước ngoài có bảo lãnh của các Bộ ngành, địa phương nhưng không trả được nợ thì các Bộ ngành, địa phương đó đàm phán với các chủ nợ nước ngoài để giảm số nợ đến mức thấp nhất và có kế hoạch bố trí vào ngân sách cùng cấp để có nguồn trả nợ nước ngoài. Doanh nghiệp được ngân sách trả nợ nước ngoài thay, có trách nhiệm hoàn trả ngân sách. Nợ của doanh nghiệp với các thành phần kinh tế khác cần xách định rõ và chuyển thành giá trị cổ phiếu để họ được tham gia cổ phần trong doanh nghiệp. Đối với hai doanh nghiệp nhà nước đang hoạt đông nợ lẫn nhau nếu không tiếp tục thanh toán được thì cơ quan tài chính chủ trì xem xét trên cơ sở phân tích nguyên nhân và khả năng thanh toán nợ, có thể xử lý tăng vốn nhà nước cho doanh nghiệp mắc nợ và giảm vốn cho doanh nghiệp là chủ nợ. Cơ quan tài chính cùng cấp thực hiện việc ghi thu ghi chi. Các doanh nghiệp nhà nước được xử lý một lần hoặc nhiều lần các khoản nợ không đòi được vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng tối đa không quá 5 năm, ưu tiên giải quyết việc xử lý các khoản nợ để doanh nghiệp có thể nhanh chóng lành mạnh tình hình tài chính trước khi cổ phần hoá. Trường hợp khi hạch toán các khoản nợ không đòi được vào kết quả sản xuất kinh doanh mà dẫn đến giảm lãi hoặc lỗ thì doanh nghiệp vẫn được hưởng quỹ tiền lương như trước khi hạch toán khoản nợ khó đòi đó vào kết quả sản xuất kinh doanh, vẫn giữ nguyên hạng doanh nghiệp và vẫn được trích quỹ khen thưởng phúc lợi như trước khi xử lý nợ theo quy định của chế độ hiện hành. Hạn chế việc sát nhập hay chuyển cấp quản lý ( từ trung ương xuống địa phương và ngược lại ) theo hình thức lồng ghép doanh nghiệp có hiệu quả với doanh nghiệp thua lỗ kéo dài vì không những tạo ra gánh nặng cho doanh nghiệp mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ trốn tránh các khoản nợ. Trong trường hợp công nợ tồn đọng, doanh nghiệp cổ phần hoá chưa giải quyết được hết thì có thể giao lại cho công ty cổ phần tiếp tục xử lý. Tuy nhiên, để việc xử lý công nợ tồn đọng này gắn liền với quyền lợi và trách nhiệm của công ty cổ phần thì nhà nước cần đưa ra những chính sách hợp lý. Nhà nước có thể giao cho công ty cổ phần tiếp tục xử lý nợ và chia tỷ lệ phần trăm cho công ty. Nhưng biện pháp này không hiệu quả trong trường hợp món nợ có giá trị nhỏ mà chi phí tổ chức thu hồi lại tốn kém. Do đó, nên áp dụng biện pháp bán lại nợ với một tỷ lệ chiết khấu thích hợp. Khi đó, khoản nợ cần thu hồi sẽ hoàn toàn thuộc sở hữu của công ty cổ phần. Nhà nước sẽ thu lại được một số tiền nhỏ hơn khoản nợ, song bù lại là thu lại được nhanh chóng và không rủi ro. Tuy nhiên, biện pháp xử lý nợ có hiệu quả hơn cả và đã áp dụng ở nhiều nước trên thế giới là biện pháp chứng khoán hoá các khoản nợ, tức là chuyển các khoản nợ thành thương phiếu. Tình trạng công nợ lòng vòng hàng chục tỷ đồng ở các doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa giải quyết xong vì thiếu công cụ thương phiếu và hoạt động chiết khấu tái chiết khấu. Pháp lệnh thương phiếu chính thức có hiệu lực thi hành ngày 1/7/2000 nhưng cho đến nay vẫn chưa có văn bản nào hướng dẫn chi tiết. Vì thế, việc pháp chế hoá chi tiết và hướng dẫn cho các doanh nghiệp sử dụng công cụ thương phiếu sẽ tạo ra tính thanh khoản cao hơn cho các khoản nợ của doanh nghiệp, nhờ đó có thể xử lý có hiệu quả các khoản nợ trước khi doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá, giúp cho doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn về tài chính, chôn vốn trong các khoản công nợ. Khi thương phiếu ra đời, với thủ tục chuyển nhượng đơn giản, các doanh nghiệp sẽ dễ dàng đơn giản hoá bảng cân đối tài sản của mình trước khi cổ phần hoá. Điều này sẽ góp phần làm cho khâu xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá được nhanh chóng và thuận lợi hơn, lành mạnh hoá tình hình tài chính của doanh nghiệp, tăng tính hấp dẫn của doanh nghiệp đối với các cổ đông. Hiện nay Việt Nam đã có quy chế mua bán nợ của các tổ chức tín dụng giới hạn ở lĩnh vực tiền tệ, pháp lệnh thương phiếu ra đời cũng là một đóng góp tích cực vào việc hình thành hệ thống cơ sở pháp lý cho giao dịch mua bán nợ. Tuy nhiên, mặc dù quy chế mua bán nợ đã hình thành được hơn 2 năm nhưng đến nay vẫn chưa có khoản nợ nào chính thức được mua bán. Thực trạng đó là do các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp Việt Nam chưa được làm quen với với nghiệp vụ mới mẻ này, các khoản nợ đọng có nhu cầu bán đều là nợ xấu nên có bán cũng không có người mua, ngoài ra các quy định pháp lý chưa đông bộ, thiếu các công cụ chuyển đổi nợ, do vậy nghiệp vụ này còn có nhiều rủi ro, mang lại lợi nhuận thấp. Không chỉ các cơ quan quản lý nhà nước mà cả các doanh nghiệp, tổ chức và dân chúng cần có nhận thức đầu đủ để có sự đánh giá và tiếp cận đúng vấn đề mới mẻ này. Cần đào tạo nghiệp vụ mua bán nợ ở trong nước, xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động mua bán nợ tương thích với các khuôn khổ pháp lý có liên quan, nâng cao trình độ quản lý và hoạt động giao dịch mua bán nợ của các định chế tài chính, hình thành các công cụ chuyển đổi nợ. Trong khi thì trường nợ của Việt Nam còn hạn chế, việc thành lập công ty mua bán nợ là một giải pháp quan trọng để giải quyết triệt để các khoản công nợ. Công ty mua bán nợ đứng ra làm trung gian mua lại những khoản nợ phải thu còn dây dưa của các doanh nghiệp rồi tìm cách thu xếp thanh toán với các con nợ ( là những doanh nghiệp có nợ phải trả). Các khoản nợ phải thu của các doanh nghiệp bán lại cho công ty mua bán nợ có giá trị cao hay thấp sẽ phụ thuộc vào mức độ phức tạp của tâng khoản nợ. Nhờ vậy, các con nợ có thể được lợi ở chổ không phải trả đủ 100% số tiền nợ mà chỉ phải thanh toán một khoản ít hơn. Công ty mua bán nợ sẽ được hưởng lợi nhuận từ chênh lệch giữa giá trị của khoản nợ mua và nợ đòi được. Việc xử lý các tài sản không đưa vào giá trị doanh nghiệp mặc dù không phức tạp như xử lý công nợ nhưng nếu không được giải quyết thì sẽ ảnh hưởng đến doanh nghiệp cổ phần hoá đồng thời làm thất thoát vốn của nhà nước. Để chấm dứt tình trạng này, công ty mua bán nợ được thành lập không chỉ quản lý nợ mà còn quản lý tài sản không đưa vào giá trị doanh nghiệp. Công ty này sẽ có chức năng mua bán nợ cũng như tiếp nhận các tài sản không đưa vào giá trị doanh nghiệp để xử lý dưới nhiều hình thức như bán đấu giá hoặc cho thuê. 2. Xã hội hoá công tác định giá doanh nghiệp . Thứ nhất, cần phải cải tiến phương pháp định giá doanh nghiệp hiện hành. Nghiên cứu và ban hành một hệ thống văn bản qui định và hướng dẫn cụ thể việc định giá cho các loại tài sản trong doanh nghiệp ( đặc biệt quyền sử dụng đất và lợi thế kinh doanh). Việc định giá tài sản hữu hình cần tham khảo giá thị trường của tài sản tương tự hoặc cùng loại. Việc định giá của tài sản vô hình cần dựa vào chi phí và khả năng sinh lời của tài sản. Đối với các tài sản vô hình có thể xác định được chi phí, việc định giá được chi phí để tạo ra lợi thế và và khả năng sinh lời của tài sản vô hình. Đối với những tài sản vô hình không thể xác định được chi phí, việc định giá sẽ dựa vào khả năng sinh lời của tài sản vô hình. Bên cạnh việc tính lợi thế của doanh nghiệp thì cũng cần phân tích những phần bất lợi cho doanh nghiệp, chẳng hạn như doanh nghiệp có lao động dư thừa nhưng kỹ năng chưa cao, tài sản có giá trị lớn nhưng mang lại thu nhập thấp, kế thừa những hoạt động tín dụng dài hạn bằng ngoại tệ, vị trí địa lý không thuận lợi. Thứ hai, cần xây dựng nhiều phương pháp định giá khác nhau cho các đối tượng khác nhau áp dụng. Xây dựng nhiều phương pháp định giá doanh nghiệp làm cho công tác định giá linh hoạt hơn và khách quan hơn. Thật vậy, việc định giá theo một phương pháp mặc dù tạo nên sự thống nhất nhưng ít mang lại các cơ hội lựa chọn phù hợp với đặc điểm riêng của mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp . Khi định giá, các doanh nghiệp sẽ lấy một phương pháp chuẩn, đồng thời sử dụng thêm một số phương pháp khác để kiểm tra xem việc định giá đã hợp lý chưa, mức chênh lệch là bao nhiêu. + Đối với những doanh nghiệp có quy mô nhỏ ( từ 1 đến 2 tỷ đồng ) và đặc biệt làm ăn có hiệu quả cao có thể bỏ giá trị lợi thế của doanh nghiệp, không tính vào giá trị doanh nghiệp mà coi đây là khoản Nhà nước khuyến khích các cá nhân và tổ chức trong, ngoài nước mua cổ phiếu của doanh nghiệp. Có thể có quan điểm cho rằng như vậy doanh nghiệp không có lợi thế, nhưng thực tế thì lợi thế được thể hiện ở uy tín ở doanh nghiệp của doanh nghiệp trên thị trường về chất lượng sản phẩm, về lợi thế địa điểm kinh doanh và phương thức quản lý mới tiến bộ hơn. Kinh nghiệm cho thấy một số doanh nghiệp có quy mô nhỏ, sản xuất kinh doanh mang tính cầm chừng, việc tính lợi thế kinh doanh chỉ làm kéo dài thêm thời gian cổ phần hoá, trong khi đó thì doanh nghiệp lại không có uy tín và lợi thế gì ngay cả trên thị trường nội địa. Vì vậy, theo cách này có thể là động lực kích thích các đối tượng mua cổ phiếu của công ty, góp phần đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá. Thứ ba, tiến dần đến hình thức định giá doanh nghiệp theo cơ chế thị trường. Chuyển dần theo hình thức đấu thầu doanh nghiệp thịnh hành trong nền kinh tế thị trường. Kết hợp phương pháp định giá tài sản thuần và phương pháp định giá doanh nghiệp theo khả năng sinh lời để xác định giá trị doanh nghiệp. Kết quả xác định giá trị doanh nghiệp do cơ quan có thẩm quyền công bố là mức giá tối thiểu để tổ chức bán đấu thầu cổ phần. Từ cơ chế định giá doanh nghiệp thông qua đấu thầu, tiến tới niêm yết cổ phần qua thị trường chứng khoán. Phương pháp đấu thầu ( thoả thuận Trong thời gian vừa qua, các doanh nghiệp cổ phần hoá mặc dù đa phần có quy mô vừa và nhỏ nhưng đều phải tiến hành quy trình định giá doanh nghiệp rất phức tạp. Trong thời gian tới, chương trình cổ phần hoá sẽ được tiến hành rộng rãi với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ. Với cơ chế định giá phức tạp như hiện nay sẽ gây tốn kém chi phí và kéo dài thời gian. Vì vậy, việc áp dụng phương pháp đấu thầu để định giá doanh nghiệp sẽ góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá do cơ chế định giá đơn giản hơn. Phương pháp đấu thầu nên áp dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, chủ yếu cần nhà đầu tư tham gia đấu thầu phải có trình độ về quản lý, có tiềm lực tài chính để đầu tư vào công nghệ mới, có phương án khả thi nhằm khôi phục và phát triển doanh nghiệp, có biện pháp nhằm thu hút người lao động vào làm việc. Để áp dụng phương pháp này đòi hỏi phải có sự chuẩn bị thông tin đầy đủ về doanh nghiệp, có sự tiếp thị rộng rãi để thu hút các nhà đầu tư dự thầu, có tiêu chí đánh giá đơn thầu công khai rõ ràng. Việc định giá, chọn lựa các nhà đầu tư cần tiến hành trên tinh thần cạnh tranh, tránh thiên vị nhằm lựa chọn các nhà đầu tư quan tâm và có năng lực. Từ những phân tích ở phần II, đối với mỗi doanh nghiệp thuộc Tổng công ty nên có các phương pháp định giá khác nhau. Hiện nay, ở Tổng công ty Chè Việt Nam có nhiều doanh nghiệp có tình trạng như Công ty chè Trần Phú, tức là máy móc khấu hao gần hết, nhưng công suất vẫn còn lớn, giá thành chi phí sản phẩm thấp và cũng có nhiều doanh nghiệp giống của Long Phú, mấy móc mới nhập, giá trị còn lại lớn, năng suất không cao do không đồng bộ… Nếu định giá Công ty chè Trần Phú theo phương pháp căn cứ vào khả năng sinh lời của sản phẩm. Theo công thức: Giá trị của doanh Pr = Nghiệp i Với lợi nhuận sau thuế dự tính trong 3 năm sau cổ phần hoá : Đơn vị:1000đ Nội dung 2000 2001 2002 Lợi nhuận sau thuế 722.000 820.000 946.000 ( Theo“ phương án cụ thể sản xuất kinh doanh sau khi cổ phần hoá của Công ty chè Trần Phú”. 722.000 + 820.000 + 946.000 Pr = 3 Pr =829.333,333 Lãi suất trung hạn của ngân hàng áp dụng cho Tổng công ty hiện nay là 9%/1năm Giá trị 829.333,333 Giá trị doanh nghiệp = 0.09 =9.214.814.811 đ so với giá trị định giá ban đầu là: 8.353.281.624 đ chênh lệch 861.533.187đ. Đối với những doanh nghiệp có giá trị tài sản còn lại còn lớn cần kết hợp giữa nhiều phương pháp, so sánh giữa các kết quả, sau đó đánh giá thực trạng của công ty và đưa ra kết quả cuối cùng. Kết quả xác định giá trị doanh nghiệp theo các phương pháp trên sẽ là cơ sở để xác định mức giá sàn để tổ chức bán cổ phần cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp theo phương thức đấu giá. 3. Tăng khả năng tạo vốn của công ty cổ phần. Ưu đãi về tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và người lao động trong doanh nghiệp. a.Ưu đãi về tài chính trong doanh nghiệp nhà nhà nước cổ phần hoá. Chính sách ưu đãi hợp lý cho các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá là một đòn bẩy kinh tế quan trọng quyết định tiến bộ và mức độ thành công của chương trình cổ phần hoá. Để đưa được những chính sách ưu đãi hợp lý, trước hết, Chính Phủ cần xoá bỏ các ưu đãi mang tính chất kéo dài đối với các doanh nghiệp như cho vay với lãi suất ưu đãi, cho khoanh nợ, xoá nợ, giãn nợ tràn lan, vô thời hạn. Xoá bỏ bao cấp về sử dụng đất đai như sử dụng diện tích đất rộng, vị trí thuận lợi nhưng không nộp đủ tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất, xoá bỏ việc cho nợ thuế, hợp thức hoá các khoản nợ thuế kéo dài. Xoá bỏ các hình thức trợ cấp, trợ giá và ưu đãi kiểu bao cấp dưới các hình thức khác. Việc xoá bỏ này là nhằm tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế để cho những người quản lý ở khu vực nhà nước không vì các ưu đãi đó mà níu kéo doanh nghiệp không muốn cổ phần hoá. Việc vay vốn ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá, để thực hiện được quy định giữ nguyên cơ chế và lãi suất như trước khi cổ phần hoá, nhà nước phải có biện pháp bắt buộc các ngân hàng cho doanh nghiệp vay vốn theo đúng như quy định. Nếu ngân hàng có rủi ro thiệt hại do doanh nghiệp vay vốn gây ra thì nhà nước phải có trách nhiệm xử lý, bởi vì cổ phần hoá là chủ trương do nhà nước đặt ra. Thêm vào đó, cũng cần nới rộng khoảng thời gian giảm thuế thu nhập của công ty cổ phần so với các loại hình doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp cổ phần hoá phải được miễn khoản lệ phí kinh doanh mà thực chất chỉ là thủ tục đổi lại giấy kinh doanh và phải được áp dụng các chính sách khuyến khích đầu tư trong nước như các doanh nghiệp khác, đồng thời cần có quy định cụ thể rõ ràng trong các văn bản quy phạm pháp luật để các cơ quan chức năng căn cứ thực hiện, xoá những quy định rườm ra trong việc xét, cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư hiện nay. Nên có chính sách thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với phần vốn tự tích luỹ của doanh nghiệp, điều đó sẽ là một động lực quan trọng kích thích mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nói chung và của doanh nghiệp cổ phần nói riêng, cụ thể là: Miễn giảm thuế thu nhập đối với nhưng doanh nghiệp sử dụng lợi nhuận giữ lại để đầu tư. Cho phép các doanh nghiệp hạch toán vào giá thành sản phẩm khoản lãi vay đầu tư bằng nguồn vốn hình thành từ quỹ khen thưởng, phúc lợi để hạch toán lại cho người lao động trong doanh nghiệp. b. Ưu đãi về tài chính đối với người lao động. Trước hết, cần tạo điều kiện thuận lợi để người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hoá được hưởng đúng và đủ chế độ ưu đãi cho họ theo Nghị định 44/NĐ-CP ngày29/6/1998 về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần . Thu hẹp chênh lệch về phần được mua ưu đãi giữa doanh nghiệp có nhiều vốn nhà nước với doanh nghiệp có ít vốn nhà nước bằng cách quy định tỷ lệ giá trị cổ phần được mua với giá ưu đãi tuỳ theo từng doanh nghiệp. Giảm mức khống chế mua cổ phần của pháp nhân và cá nhân: đối với những doanh nghiệp nhà nước nắm cổ phần chi phối có thể tăng quyền được mua cổ phần của một pháp nhân từ 10% tổng số cổ phần của doanh nghiệp hiện nay lên 20%, tăng quyền được mua cổ phần của một cá nhân từ 5% lên 10%; đối với doanh nghiệp nhà nước không nắm cổ phần chi phối thì nhà nước không nhất thiết phải giữ một tỷ lệ cổ phần cố định như quy định hiện nay; dần tiến tới xoá bỏ mức khống chế mua cổ phần của pháp nhân và cá nhân. Tạo điều kiện để những người lãnh đạo mua nhiều cổ phần, biến họ thành những cổ đông chiến lược nhằm huy động vốn, đặc biệt là phát huy được năng lực quản lý của họ đối với công ty cổ phần. Quan tâm hơn nữa về các chính sách khuyến khích người lao động, đặc biệt là lao động nghèo. Có thể chuyển từ hình thức ưu đãi giảm giá 30% và cho nợ đối với lao động nghèo hiện nay thành khoản cấp hẳn một số cổ phần theo số năm công tác, nhà nước không thu tiền, như vậy sẽ có thể giảm bớt phiền hà, phức tạp trong việc bán và quản lý cổ phần ưu đãi. Tiến tới thiết lập quyền mua cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp, thành lập cơ sở pháp lý cho việc mua bán quyền. Khi có quyền này thì trước hết, quyền lợi của người lao động được đảm bảo rõ ràng. Mặt khác việc mua bán quyền sẽ giúp cho việc định giá doanh nghiệp chính xác hơn. Khi doanh nghiệp được định giá thấp thì giá quyền sẽ tăng và ngược lại, khi doanh nghiệp được định giá cao thì giá quyền sẽ giảm. III. Kiến nghị: Trên đây là một số giải pháp tài thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại Tổng công ty Chè Việt Nam. Để những giải pháp này có ý nghĩa thực tiẽn cũng như tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp tại Tổng công ty được thuận lợi hơn, có một số kiến nghị đối với Bộ NN&PTNN, Bộ Tài chính cũng như Chính Phủ một số vấn đề sau. Những tài sản công trình phúc lợi: như nhà trẻ, nhà mẫu giáo, bệnh xá… đầu tư bằng nguồn quỹ khen thưởng, phúc lợi nên giao lại cho tập thể người lao động trong doanh nghiệp quản lý và sử dụng thông qua tổ chức công đoàn Những doanh nghiệp lỗ luỹ kế nhiều năm, nợ dây dưa đề nghị nhà nước có biện pháp cho khoanh nợ, hoặc xoá nợ đối với những khoản khó đòi để doanh nghiệp lành mạnh về tài chính. Đồng thời cũng cố về mặt tổ chức về mặt tổ chức để doanh ngiệp phát triển nâng cao mức thu nhập cho người lao động và cổ tức của các cổ đông. Vấn đề đất đai cần có chính sách rõ ràng vì các công ty chè đều quản lý từ 300-500 ha đất trồng chè. Hiện nay, đang thực hiện khoán theo Nghị định 01/CP người công nhân nông nghiệp vừa nhận chăm sóc quản lý đất chè, vừa bỏ tiền mua cổ phần của Công ty để hưởng lợi tức. Như vậy lâu dài giải quyết vấn đề đất đai trông chè đã giao cho công nhân nông nghiệp, Nhà nước cần có chính sách cụ thể chuyển nhượng quyền sử dụng đất giao cho công ty cổ phần. Nhà nước nên cho phép mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp có phương pháp định giá khác nhau sao cho phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp mình trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế – xã hội từng ngành, từng vùng của Nhà nước. Nên cho tiến hành bán đấu thầu cổ phiếu ra ngoài cho các nhà đầu tư ở ngoài doanh nghiệp kể cả người nước ngoài. Đề nghị Bộ NN&PTNT và Chính phủ tiếp tục tạo điều kiện để Tổng công ty chè Việt Nam hoàn thiện hơn nữa hệ thống tổ chức quản lý theo mô hình một doanh nghiệp lớn, sau đó cổ phần hoá toàn bộ Tổng công ty. HĐQT TGĐ Ban kiểm soát Phó. TGĐ Phó. TGĐ Phó. TGĐ Viện nghiên cứu chè Viện điều dưỡng Đồ Sơn Các công ty trực thuộc ( 12 công ty) Các công ty cổ phần (6 côngty) Các công ty liên doanh (2 công ty) Các kiên kết hợp tác sx( 2 công ty) P.KHĐT&HTQT P. Kỹ thuật NN P.Kỹ thuật CN P. Tài chính kế toán Trạm VT Cổ Loa Chi nhánh TCT tại Hải Phòng P.Tổ chức LĐ - TL Chi nhánh TCT tại TP Hồ Chí Minh Văn phòng TCT T.Tâm KCS P. Thị trường P. Kinh doanh 2 P. Kinh doanh 3 P. Kinh doanh 1 P. Kinh doanh 4 P. Kinh doanh 5 : Trực tiếp quản lý : Tham gia quản lý Sơ đồ 1 : Mô hình tổ chức của Tổng công ty Chè Việt Nam Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0006.doc
Tài liệu liên quan