Đề tài Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục cho giảng dạy và học tập học phần tư tưởng Hồ Chí Minh

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC THƢƠNG MẠI ------------o0o ------------ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG Nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về phƣơng pháp giáo dục cho giảng dạy và học tập học phần tƣ tƣởng Hồ Chí Minh Chủ nhiệm đề tài: Ngô Thị Huyền Trang Hà Nội, n ăm 2017 MỤC LỤC CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ......................................................................................................................

pdf96 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 04/01/2022 | Lượt xem: 432 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Đề tài Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục cho giảng dạy và học tập học phần tư tưởng Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.............. 1 1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ......................................................................... 1 1.2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài .............................................................................. 2 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 2 1.4. Đóng góp mới và ý nghĩa của đề tài ......................................................................... 3 CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC ......... 4 2.1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài .......................................................... 4 2.2. Các khái niệm cơ bản ............................................................................................... 6 2.3. Cơ sở hình thành quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục ................... 10 2.4. Hệ thống quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục ................................ 20 CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY ..................................... 40 3.1. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 40 3.2. Đánh giá tổng quan tình hình và ảnh hưởng nhân tố môi trường đến vấn đề nghiên cứu ................................................................................................................................. 41 3.3. Vị trí, tầm quan trọng của học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ............................................................................................... 41 3.4. Thực trạng việc giảng dạy và học tập học phần tư tưởng Hồ Chí Minh tại các trường đại học hiện nay ................................................................................................. 44 CHƯƠNG 4: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC VÀO GIẢNG DẠY VÀ HỌC TẬP HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ....................................................................................................................................... 57 4.1. Một số định hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục trong dạy và học học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay ................................................................... 57 4.2. Các giải pháp cụ thể vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục vào dạy và học học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh ......................................................... 62 4.3. Những hạn chế nghiên cứu và vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu .................... 87 KẾT LUẬN ................................................................................................................... 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 90 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Nghiên cứu di sản tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy, Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục, coi đó là nhiệm vụ cơ bản, không thể tách rời của cách mạng Việt Nam. Với triết lý đã trở thành niềm tin sâu sắc “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, ngay từ những ngày đầu cách mạng, Hồ Chí Minh đã lên án “chính sách ngu dân” và “nền giáo dục nô lệ” của chính quyền thực dân áp dụng ở Việt Nam. Năm 1930, trong lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, Người đã nêu khẩu hiệu “thực hành giáo dục toàn dân”, để ai cũng có được hưởng nền giáo dục dân chủ mới. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khai sinh ra nền giáo dục Việt Nam mới. Người đã xác định đúng vai trò quan trọng của giáo dục trong việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển đất nước. Người đã xây dựng chương trình giáo dục thực sự khoa học, trong đó có sự kết hợp hài hòa giữa “đức” và “tài”. Đáng chú ý là Người đã đưa nền giáo dục Việt Nam mới đi theo phương pháp giáo dục mới: Lý luận gắn liền với thực tiễn, học đi đôi với hành, nhà trường phối hợp với gia đình và xã hội, nhằm mục đích đào tạo nên những công dân hữu ích cho đất nước. Hồ Chí minh không chỉ là vị lãnh tụ của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam, Người còn là nhà chỉ đạo thực tiễn giáo dục nước nhà, là nhà sư phạm tài năng với mẫu mực trong sáng của một nhân cách vô cùng cao đẹp và những cử chỉ giáo dục hết sức nhân đạo, hết lòng vì người học. Di sản tư tưởng và thực tiễn chỉ đạo giáo dục của Người là kim chỉ nam cho việc thực hiện chiến lược giáo dục, phát triển con người của Đảng và Nhà nước ta. Khẳng định giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu, Đảng ta chủ trương xây dựng một nền giáo dục thấm nhuần tính nhân dân, tính dân tộc và tính thời đại, giữ gìn những giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, phát huy tiềm năng con người Việt Nam. Một trong những giá trị văn hóa của dân tộc mà chúng ta cần phải kế thừa và phát huy về giáo dục, đó là tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói chung và phương pháp giáo dục nói riêng. Nhận thức được tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh, từ năm học 2003- 2004, Bộ giáo dục và đào tạo đã đưa học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh vào chương 1 trình học bắt buộc của sinh viên các trường đại học và cao đẳng trong cả nước, cho đến nay đã đạt được những kết quả nhất định trong việc nâng cao nhận thức đối với tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như vận dụng những tư tưởng của Người trong học tập và công tác. Tuy nhiên, chất lượng dạy và học còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó quan trọng nhất là hạn chế trong phương pháp giảng dạy và học tập học phần này. Một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh là vận dụng chính những phương pháp giáo dục mà Người đã đề ra vào giảng dạy và học tập học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, tác giả chọn đề tài: “Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục cho giảng dạy và học tập học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh”. 1.2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài - Mục đích: Đề tài nghiên cứu sâu hơn và có hệ thống hơn phương pháp giáo dục theo quan điểm Hồ Chí Minh, từ đố đề xuất những giải pháp đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập học phần tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. - Đề tài có những nhiệm vụ sau: + Xác định nguyên tắc xây dựng phương pháp giáo dục của Hồ Chí Minh; làm rõ quan điểm Hồ Chí Minh về những phương pháp giáo dục cụ thể; khẳng định giá trị của phương pháp giáo dục theo quan điểm Hồ Chí Minh đối với giáo dục Việt Nam hiện nay. + Làm rõ sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy và học môn tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay. + Chỉ ra phương hướng và đề xuất một số giải pháp để vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về phương giáo dục cho giảng dạy và học tập học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh. 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu + Các quan điểm của Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục được thể hiện qua các bài nói, bài viết của Người đã được đưa vào Hồ Chí Minh toàn tập. + Quá trình đổi mới phương pháp dạy và học học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh - Phạm vi nghiên cứu: 2 + Trong đề tài này, tác giả không nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói chung mà chỉ tập trung nghiên cứu, trình bày một cách có hệ thống, đầy đủ và sâu sắc hơn quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục. + Đề tài tiến hành khảo sát thực trạng phương pháp giảng dạy và học tập tư tưởng Hồ Chí Minh tại các trường đại học khối ngành kinh tế trên địa bàn thành phố Hà Nội trong năm 2016, 2017. 1.4. Đóng góp mới và ý nghĩa của đề tài Đề tài có những đóng góp mới như sau: - Nghiên cứu sâu sắc hơn và có hệ thống hơn quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục so với các công trình khoa học trước đó. - Từ việc nghiên cứu quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục, đề tài đề xuất những giải pháp đổi mới phương pháp dạy và học học phần tư tưởng Hồ Chí Minh. Với đóng góp mới đó, đề tài có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn: - Về mặt lý luận: Đề tài góp phần làm sáng tỏ quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục đã và đang được giới nghiên cứu tìm hiểu, tranh luận. - Về mặt thực tiễn: Đề tài góp phần vào việc giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói riêng. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy các mộn khoa học khác như: Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác- Lênin, Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. 3 CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC 2.1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài - Nhằm mục đích nâng cao hiệu quả giáo dục đại học, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về phương pháp giáo dục đại học: + Lê Đức Ngọc (2005): Giáo dục đại học: phương pháp dạy và học, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội. Tác giả dựa trên kinh nghiệm về phương pháp dạy và học của một số nước trên thế giới và của bản thân đã đưa ra các phương pháp dạy và học phù hợp với chương trình giáo dục đại học ở nước ta hiện nay. + Nguyễn Quang Huỳnh (2006): Một số vấn đề lý luận giáo dục chuyên nghiệp và đổi mới phương pháp dạy- học, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội. Tác giả trình bày một số vấn đề lý luận trong dạy- học ở các bậc giáo dục chuyên nghiệp như cao đẳng, đại học, từ đó đưa ra một số phương pháp chung giáo dục đối với bậc học này. - Từ năm 1991, với việc Đảng ta khẳng định vị trí, vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng, giới nghiên cứu trong và ngoài nước đã đi sâu nghiên cứu hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói chung và quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục nói riêng đã được các nhà khoa học nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau. + GS. Nguyễn Lân trong cuốn “Hồ Chí Minh- nhà giáo dục vĩ đại” (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990) tập hợp những chỉ thị, những lá thư, bài phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh với các vấn đề như: đấu tranh chống chính sách ngu dân của thực dân Pháp; tác dụng và nhiệm vụ của giáo dục; việc diệt giặc dốt; giáo dục thiếu nhi; giáo dục thanh niên; giáo dục cán bộ + Kỷ yếu Hội thảo khoa học- Thực tiễn nhân kỷ niệm 35 năm ngày Bác Hồ gửi bức thư cuối cùng cho ngành giáo dục Việt Nam (15/10/1968- 25/10/2003) “Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục”- do Bảo tàng Hồ Chí Minh và đại học sư phạm Hà Nội phối hợp tổ chức, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2005. Kỷ yếu đã tập hợp nhiều bài viết, bài nghiên cứu về vấn đề giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh của các nhà khoa học như: GS viện sĩ Nguyễn Cảnh Toàn, Vũ Đình Hòe, GS. TS Phạm Minh Hạc, GS Đinh Xuân Lâm, PGS Lê Mậu Hãn, GS Phan Ngọc Liên .v.v. Đặc biệt, bài viết của ThS Ngyễn Thanh Minh đề cập đến tư tưởng và phương pháp giáo dục của thầy giáo Nguyễn Tất Thành ở trường Dục Thanh, thị xã Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (tr 144- 154). 4 + PGS. TS Nghiêm Đình Vỳ (2008), “Hồ Chí Minh về giáo dục- toàn thư”, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, đã tập hợp những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh liên quan đến mọi lĩnh vực của công tác giáo dục, bao gồm: Giáo dục trong nhà trường cho thế hệ trẻ- từ xác định mục tiêu giáo dục, nội dung và phương pháp giáo dục đến những quan điểm lớn về xây dựng một nền giáo dục cách mạng, tiên tiến; giáo dục mọi công dân trên các lĩnh vực công tác, trong các tổ chức xã hội, đoàn thể khác nhau. + Đặng Quốc Bảo (2009), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục”, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. Cuốn sách đã đề cập tới những tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về giáo dục, xây dựng nền giáo dục làm phát triển những năng lực sẵn có của học sinh Việt Nam, kế hoạch giáo dục gắn liền với kế hoạch kinh tế, giáo dục lòng nhân ái, phẩm cách con người Việt Nam. Tác giả cũng bàn về con đường, phương pháp và tấm gương lớn về tự học của Chủ tịch Hồ Chí Minh. + Hoàng Anh (chủ biên- 2013) “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào đào tạo đại học Việt Nam hiện nay”, Nxb. Chính trị quốc gia. Cuốn sách đã phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, khẳng định tầm quan trọng của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào việc nâng cao chất lượng đào tạo đại học hiện nay và đề xuất một số giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục vào nâng cao chất lượng giáo dục đại học hiện nay. + Bên cạnh những cuốn sách chuyên khảo đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục cũng được các luận văn, luận án nghiên cứu. Chẳng hạn như Luận văn Thạc sỹ triết học năm 2010: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào xây dựng xã hội học tập ở nước ta trong giai đọan hiện nay”, tác giả Hoàng Thị Tuyết Thanh trình bày một cách có hệ thống và khái quát những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục .v.v. + Các công trình công bố trên các tạp chí khoa học có: Vũ Ngọc Hải, “Hệ thống giáo dục quốc dân hướng tới xây dựng xã hôi học tập suốt đời ở nước ta”, Tạp chí Giáo dục, số 63- 2003; Võ Văn Lộc, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong học tập”, Tạp chí Giáo dục, số 57- 2003. Bàn về phương pháp giảng dạy học phần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức Hội thảo khoa học Quốc gia “Nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập các môn lý luận chính trị trong 5 các trường đại học, cao đẳng”. Các bài viết trong Kỷ yếu hội thảo đã đề cập đến những yếu tố tác động đến chất lượng giảng dạy, học tập các môn lý luận chính trị ở các trường đại học, cao đẳng trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế; Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, chất lượng giảng dạy, học tập lý luận chính trị ở các trường đại học, cao đẳng; Phương án biên soạn chương trình, giáo trình dùng cho đào tạo chuyên ngành lý luận chính trị trong đó có học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhìn chung, những công trình trên, tác giả đã nêu lên một cách tổng quát về Tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục và phương pháp giáo dục, đã cho tác giả đề tài có cách nhìn toàn diện hơn về tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh, từ đó bắt đầu đi vào nghiên cứu sâu hơn quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục. Thông qua các công trình nghiên cứu, khảo sát đã cung cấp cho tác giả một khối lượng tư liệu phong phú và quý giá. Tuy nhiên, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về một lĩnh vực cụ thể của giáo dục là phương pháp giáo dục và đặc biệt là vận dụng tư tưởng đó vào quá trình giảng dạy và học tập học phần tư tưởng Hồ Chí Minh thì tác giả chưa thấy một công trình nào thực hiện ở mức độ một đề tài khoa học. Kế thừa những thành quả mà các nhà khoa học đã đạt được, chúng tôi đi vào nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục, làm rõ những luận cứ khoa học để từ đó rút ra ý nghĩa đối với việc giảng dạy và học tập học phần tư tưởng Hồ Chí Minh tại các trường đại học nước ta hiện nay. 2.2. Các khái niệm cơ bản 2.2.1. Giáo dục Giáo dục là một trong những lĩnh vực không thể thiếu của đời sống xã hội. Sự phát triển của nền giáo dục phản ánh trình độ văn minh của mỗi quốc gia, nó tỷ lệ thuận với sự phát triển kinh tế- xã hội của từng nước. Nhiều quốc gia trên thế giới coi phát triển giáo dục là chiến lược ưu tiên hàng đầu nhằm xây dựng đội ngũ lao động có trình độ tri thức phục vụ cho sự phát triển đất nước. Theo Từ điển Tiếng Việt, giáo dục được hiểu là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra1. Các nhà giáo dục học quan niệm: Giáo dục là “quá trình tác động có mục đích, có hệ thống, liên tục của nhà sư phạm đến toàn bộ 1 Trung tâm Từ điển học (2008): Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 492 6 cuộc sống của học sinh để hình thành cho họ những phẩm chất nhân cách”1. Từ đó có thể thấy: Giáo dục là quá trình hai mặt: Mặt tác động của nhà sư phạm và mặt tiếp nhận của người được giáo dục. Giáo dục được thực hiện trong nhà trường và cả ngoài xã hội với những hình thức đa dạng và phương pháp phong phú. Giáo dục là quá trình có mục đích và xuất phát từ những yêu cầu của xã hội, từ mong muốn của các nhà giáo dục dẫn dắt thế hệ trẻ vươn tới chuẩn mực văn hóa đạo đức xã hội phù hợp với truyền thống dân tộc và thời đại, tức là giáo dục có vai trò định hướng giá trị xã hội. Giáo dục là quá trình lâu dài, cần được thực hiện suốt đời và ở mọi lúc, mọi nơi. Giáo dục luôn gắn với những đối tượng cụ thể do mỗi đối tượng có đặc điểm, thói quen và trình độ nhận thức khác nhau. giáo dục chịu ảnh hưởng của môi trường chính trị, xã hội, trình độ kinh tế, văn hóa, tập quán, thói quen của dân tộc, địa phương, gia đình, nhà trường, đoàn thể xã hội. Giáo dục gắn liền với tự giáo dục. Giáo dục chỉ có hiệu quả khi mỗi người tự ý thức được mục đích cuộc sống và tích cực hoạt động vì cuộc sống của mình. Giáo dục có thể được thực hiện bằng nhiều biện pháp, chủ yếu thông qua hoạt động dạy học. Giáo dục gắn liền với cuộc sống lao động sáng tạo, thông qua hoạt động, giao lưu xã hội của con người nên giáo dục cũng được thực hiện bằng con đường lao động, thông qua lao động để hình thành kỹ năng hoạt động sáng tạo. 2.2.2. Phương pháp và phương pháp giáo dục Trong đời sống, các hoạt động của con người đều mang tính mục đích. Để đạt được mục đích, con người cần có sự định hướng và điều chỉnh hoạt động của mình. Cách thức giúp con người định hướng và điều chỉnh hoạt động để đạt được một mục đích nhất định, đó là phương pháp. Thuật ngữ phương pháp trong tiếng Hy Lạp là “Méthodos” có nghĩa là con đường, cách thức hoạt động nhằm đạt được mục đích nhất định. Vì vậy, phương pháp là hệ thống những hành động tự giác, tuần tự nhằm đạt được những kết quả phù hợp với mục đích đã định. Phương pháp là cách thức nghiên cứu, nhìn nhận các hiện tượng của tự nhiên và đời sống xã hội, hay đó là hệ thống các cách sử dụng để tiến hành một hoạt động nào đó2. Phương pháp do con người tìm kiếm, lựa chọn, sử dụng, do đó, nó mang tính chủ quan. Song, sự lựa chọn, tìm kiếm và sử dụng phương pháp của con người phải xuất phát từ cơ sở khách quan, tức là phương pháp không có mục đích tự thân mà bao giờ 1 Phạm Viết Vượng (2007): Giáo dục học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 123 2 Trung tâm Từ điển học (2008): Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 983 7 cũng nhằm tác động vào những đối tượng, khách thể nhất định nhằm thực hiện mục tiêu đã đặt ra. Mặt khác, phương pháp còn mang tính khách quan, vì nó gắn với đối tượng, khách thể mà con người muốn tác động bằng hoạt động của mình (cả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn). Con người muốn tìm ra được phương pháp đúng đắn, thích hợp để tác động vào đối tượng một cách có hiệu quả thì cần phải hiểu rõ đối tượng, khách thể cần tác động với những quy luật khách quan quy định sự tồn tại và vận động của nó. Điều đó có nghĩa là để có một phương pháp đúng đắn, khoa học thì cần có sự phù hợp giữa hai mặt chủ quan và khách quan khi tìm kiếm, lựa chọn và sử dụng phương pháp. Phương pháp không đúng đắn, không khoa học khi nó được xác định không căn cứ trên những cơ sở thực tế khách quan, lựa chọn một cách duy ý chí và sử dụng một cách tùy tiện. Như vậy, chúng ta có thể hiểu: Phương pháp là toàn bộ những cách thức với tính chất là một hệ thống các nguyên tắc xuất phát từ các quy luật tồn tại và vận động của đối tượng, khách thể đã được nhận thức, để định hướng và điều chỉnh hoạt động (hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn) của con người, tác động vào đối tượng, khách thể để đạt được mục đích nhất định. Từ khái niệm trên ta thấy phương pháp có cấu trúc phức tạp, bao gồm mục đích được đề ra, hệ thống những hành động (hoạt động), những phương tiện cần thiết (phương tiện vật chất, phương tiện thực hành, phương tiện trí tuệ), quá trình làm biến đổi đối tượng, kết quả sử dụng phương pháp (mục đích đạt được). Khi sử dụng đúng phương pháp sẽ dẫn đến kết quả theo dự định. Nếu mục đích không đạt được thì có nghĩa là phương pháp không phù hợp với mục đích hoặc nó không được sử dụng đúng. Mỗi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội đều cần sử dụng những phương pháp phù hợp. Giáo dục cũng cần phải có phương pháp. Phương pháp giáo dục là “cách thức tác động qua lại giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, trong đó nhà giáo dục giữ vai trò chủ đạo nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ giáo dục đã đề ra”1. “Phương pháp giáo dục bao gồm một tổ hợp những cách thức phối hợp các tác động sư phạm của nhà giáo dục và tác động tự giáo dục của chủ thể được giáo dục nhằm tạo sự chuyển hóa tích cực những yếu tố của nội dung giáo dục thành những phẩm chất, năng lực cần thiết và phát triển toàn diện nhân cách phù hợp những yêu cầu của mục tiêu 1 Trần Thị Tuyết Oanh (chủ biên) (2008): Giáo trình giáo dục học, tập 2, Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội, tr. 92 8 giáo dục và các nhiệm vụ giáo dục”1. Theo quan điểm của các nhà giáo dục học, các phương pháp giáo dục được phân thành 3 nhóm: - Nhóm phương pháp thuyết phục: Gồm các phương pháp cụ thể: phương pháp khuyên giải; phương pháp tranh luận, đối thoại; nêu gương. - Nhóm các phương pháp tổ chức hoạt động: Bao gồm phương pháp luyện tập trong học tập, lao động, vui chơi và giao tiếp xã hội nhằm hình thành thói quen hành vi và hoạt động sáng tạo của người học; phương pháp đưa con người vào cuộc sống xã hội để hình thành các kỹ năng cần thiết. - Nhóm phương pháp kích thích hành vi: Bao gồm phương pháp khen thưởng, phương pháp trách phạt, phương pháp thi đua. Như vậy, phương pháp giáo dục là những cách thức để định hướng và điều chỉnh hoạt động giáo dục (bao gồm cả hoạt động dạy và học) của con người nhằm đạt được những mục đích đã đặt ra. 2.2.3. Phương pháp Hồ Chí Minh Trong quá trình hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến phương pháp. GS.TS Hoàng Chí Bảo đánh giá: “Phương pháp Hồ Chí Minh là phương pháp ở tầm tư tưởng, ở trong triết lý nhân sinh và hành động của Người; ở sự gắn liền tính khoa học, tính cách mạng và nhân văn trong con người và hoạt động của Người”2. “Phương pháp Hồ Chí Minh là hệ thống chỉnh thể, thống nhất hữu cơ giữa phương pháp nhận thức, phương pháp tư duy, phương pháp hành động”3. Thông thường, khi bàn về phương pháp Hồ Chí Minh, các tác giả thường đề cập nhiều đến phương pháp cách mạng. Song, trên thực tế, chúng ta thấy, Hồ Chí Minh quan tâm, chú trọng đến việc giải quyết các vấn đề của đời sống xã hội: Từ giải phóng dân tộc đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục. Trong mỗi lĩnh vực đó, Người đều có những ý kiến, những quan điểm nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định. Do đó, ta có thể khẳng định sự tồn tại của quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục. Quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục chính là những ý kiến, những lời chỉ bảo, hướng dẫn của Người về những cách thức nhằm định hướng cho nền giáo dục Việt Nam đạt tới mục tiêu đề ra. 1 Trần Anh Tuấn (chủ biên) (2009): Giáo dục học đại cương, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 223 2 Hoàng Chí Bảo (2005): Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 29 3 Hoàng Chí Bảo (2005): Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, tr. 34 9 2.3. Cơ sở hình thành quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục 2.3.1. Phương pháp giáo dục trong truyền thống giáo dục Việt Nam Gia đình có vai trò quan trọng trong việc hình thành những nét nhân cách đầu tiên. Gia đình là một chủ thể tiêu biểu trong nền giáo dục phong kiến. Tất cả những lễ nghĩa, quy tắc, đức hạnh đều được các bậc cha mẹ chú ý dạy cho con cái ngay từ trong gia đình. Giáo dục gia đình đã trở thành nền nếp, truyền thống được lưu giữ qua nhiều thế hệ, góp phần hình thành truyền thống hiếu học của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình Nho học yêu nước, lại mang ảnh hưởng duy tân, coi trọng đạo lý, học vấn và coi trọng việc giáo dục con cái. Tuổi nhỏ, Nguyễn Sinh Cung đã được nuôi dưỡng trong môi trường giáo dục có nền nếp của gia đình. Trước khi được học trong nhà trường, Người đã được cha dạy cho những nét chữ đầu tiên. Nguyễn Sinh Sắc theo truyền thống gia đình, trong khi dạy chữ cho con đã chú trọng giáo dục lòng yêu nước, yêu thương con người, yêu nhân dân lao động. Mẹ Người là bà Hoàng Thị Loan là một người đôn hậu, đảm đang. Đối với các con, bà thường dạy những điều “đói cho sạch, rách cho thơm”, “có công mài sắt, có ngày nên kim” và những bài ca dao, điệu ví dặm mang nặng nghĩa tình nước non, thấm đượm đạo lý làm người. Tiếp nhận sự giáo dục tốt đẹp từ gia đình, Hồ Chí Minh đã noi gương hiếu học của người cha, thương yêu đồng bào, sớm hình thành chí hướng cách mạng, quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước. Gia đình không những đã hình thành những nét nhân cách tốt đẹp ở Hồ Chí Minh mà còn để lại những dấu ấn trong tư tưởng giáo dục của Người sau này: Coi trọng việc giáo dục đạo đức, tấm gương cần cù, hiếu học, giáo dục lòng yêu nước, thương dân, v.v. Cùng với những ảnh hưởng tốt đẹp được tiếp nhận từ gia đình, Hồ Chí Minh còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của các sĩ phu, nhà nho yêu nước thuộc thế hệ cha ông tại quê nhà. Quê hương Hồ Chí Minh- xứ Nghệ- là mảnh đất có truyền thống hiếu học từ lâu. Truyền thống ấy đã đi vào sử sách, là nơi “núi cao sông rộng, phong tục thuần hậu, cảnh tượng tươi sáng. Người thì thuần hậu mà chăm học. Được khí tốt của núi sông nên sinh ra nhiều bậc danh hiền”1. Ảnh hưởng khá sâu sắc đến Hồ Chí Minh thời còn trẻ là thầy Vương Thúc Quý, con trai của tú tài Vương Thúc Mậu, người thủ lĩnh đội Chung nghĩa binh dựng cờ Cần Vương chống giặc Pháp năm 1885, đã hy sinh ngay trên mảnh đất Kim Liên để bảo toàn khí tiết. Học với thầy Quý, ngoài phần chịu 1 Phan Huy Chú (1961): Lịch triều hiến chương loại chí (dư địa chí, bản dịch), Nxb. Sử học, Hà Nội, tr. 65 10 ảnh hưởng về mặt tư tưởng yêu nước, tình cảm thương dân, Nguyễn Sinh Cung còn rất tâm đắc với tính thức thời của thầy, không nệ cổ, không bắt học trò nhồi sọ cổ văn theo lối “tầm chương trích cú”. Truyền thống hiếu học của quê hương và tấm gương những người thầy dạy tại quê nhà đã ảnh hưởng đến Người cả về mặt tư tưởng, tình cảm và góp phần hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục sau này: Giáo dục lòng yêu nước, giáo dục truyền thống dân tộc, phương pháp giáo dục không lệ thuộc vào sách vở. Ở nước ta, sự học xuất hiện từ việc tiếp nhận chữ Hán và tư tưởng giáo dục của Khổng giáo. Hán học vào Việt Nam đánh dấu sự phát triển của nền giáo dục Việt Nam: Giáo dục có trường lớp, chủ thể. Hán học du nhập vào Việt Nam được hiểu theo hai phương diện: Học về nghĩa lý, tức là học chữ thánh hiền; học từ chương khoa cử, tức là học để ra làm quan. Theo quan niệm của dân tộc Việt, người đi học có ba mục đích: “Một là để hiểu biết cương thường đạo lí; hai là học để thi ra làm quan, mang tài ra kinh bang tế thế, làm tròn sứ mạng của kẻ sĩ đối với vua, với nước và cũng là để hưởng công danh lâu dài; ba là đối với dân quê, dù chân lấm tay bùn cũng cố gắng cho con đi học năm ba năm lấy cái chữ để biết đọc gia phả của dòng họ, biết viết văn tự mua bán nhà cửa, trâu bò để khỏi bị người khác lừa gạt”1. Giáo dục Việt Nam chú trọng đạo làm người, những phương cách cư xử trong đời sống, trong quan hệ xã hội, gia đình, bè bạn, truyền thống “tôn sư trọng đạo”. Truyền thống giáo dục của dân tộc còn được thể hiện qua tư tưởng của một số nhà giáo dục tiêu biểu như: Nguyễn Trãi (1380 –1442): đề ra nội dung giáo dục: Đạo lí làm người, phép ứng xử, trong đó ông rất chú trọng đến đạo đức nhân dân. Lê Quý Đôn (1726 -1784): Đưa ra phương châm giáo dục là: Học nhiều nhưng phải nắm lấy cái chính, học phải có óc suy luận, không câu nệ vào sách vở; học phải hành, phải giúp con người có năng lực để làm những việc có ích cho xã hội; chú trọng việc tự học2. Nguyễn Trường Tộ (1828 –1871): Ông được coi là một trong những nhà cải cách lớn của Việt Nam. Về giáo dục, ông phê phán lối “tầm chương trích cú”, thuộc làu tứ thư ngũ kinh để thi ra làm quan. Về nội dung và mục đích giáo dục, ông nêu rõ: “Giáo dục cho nhân dân biết làm ăn, biết yêu quý lao động, trừ bỏ óc danh lợi địa vị, biết yêu nước, không nên lén lút làm tay sai cho giặc. Đối với những kẻ gian tà bất chính, nền 1 Nguyễn Quyết Thắng (2005): Khoa cử và giáo dục Việt Nam, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, tr. 59- 60 2 Xem: Đào Thanh Hải, Minh Tiến (sưu tầm và tuyển chọn)(2005): Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb. Lao động, Hà Nội, tr.37 11 giáo dục mới phảo có tác dụng giúp họ quay về con đường chính nghĩa: việc sửa kẻ tà đem họ về con đường chính, đó là một việc đại sự, còn cái học nào hơn, sao ta không học”1. Ông cũng đưa ra phương châm học gắn liền với hành, học thực dụng, học khoa học, học để phục vụ thực tế. Về nội dung giáo dục, ông chủ trương giáo dục thiên văn, toán học, kỹ xảo, chính trị, lịch sử, địa lý, địa chất, pháp lý, ngoại ngữ. Ông còn đề nghị dùng chữ viết riêng của nước mình (quốc âm) trong việc dạy học, làm sách và các giấy tờ2. Dưới thời Pháp thuộc, để thực hiện chính sách ngu dân hòng dễ bề cai trị, chính quyền thực dân Pháp tiếp tục duy trì chế độ học tập và thi cử bằng chữ Hán (đến năm 1919 mới bãi bỏ). Về sau, do yêu cầu của việc cai trị, khai thác thuộc địa, cần phải có một lực lượng có trình độ về khoa học kỹ thuật, ngôn ngữ, y học... nên người Pháp đã dần đưa vào nước ta nền giáo dục hiện đại của phương Tây để thay thế Nho học. Người Pháp đã dùng tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ thay cho chữ Hán. Nền giáo dục này (được gọi là tân học) dựa trên triết lý của ...ành, lý luận phải liên hệ với thực tế. Người chỉ rõ, “lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học tập không đúng thì sẽ không có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tế”1. Điều quan trọng nữa, theo Người, phải chống giáo điều ngay trong học tập chủ nghĩa Lênin. Khi còn sống Người luôn phê phán kiểu học thuộc lòng câu chữ của chủ nghĩa Mác- Lênin. Theo Người, học tập chủ nghĩa Mác- Lênin là “phải học tinh thần của chủ nghĩa Mác- Lênin, học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác- Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”2. “Học tập chủ nghĩa Mác- Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình, là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác- Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm”3. Người cũng căn dặn cán bộ, đảng viên “học tập lý luận thì nhằm mục đích để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc để tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng”4. Người cán bộ, đảng viên phải có thái độ đúng đắn trong nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác- Lênin. Người cũng lưu ý rằng, không nên coi chủ nghĩa Mác- Lênin là kinh thánh, là những công thức có sẵn, cứng nhắc. Có như vậy thì việc nghiên cứu, học tập, vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin mới có hiệu quả. Cùng với việc chống giáo điều trong học tập chủ nghĩa Mác– Lênin, còn phải chống giáo điều trong vận dụng lý luận cũng như kinh nghiệm của nước khác, ngành khác. Người căn dặn cán bộ, đảng viên: “Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều”5. Để chống căn bệnh giáo điều này, theo Người, biện pháp cơ bản là phải gắn lý luận với thực tiễn cách mạng nước nhà. Học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tiễn cách mạng, khi vận dụng kinh nghiệm và lý luận phải xuất phát từ thực tiễn nước nhà. Người cũng nhấn mạnh rằng, cùng với việc chống bệnh giáo điều thì phải đề phòng, ngăn ngừa chủ nghĩa xét lại. Bởi lẽ, nếu không có quan điểm đúng đắn 1 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 11, tr. 94 2 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 11, tr. 95 3 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 11, tr. 611 4 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 11, tr. 95 5 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 11, tr. 97 24 trong việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thì người ta dễ nhấn mạnh thái quá những đặc điểm dân tộc để phủ nhận những giá trị phổ biến của chủ nghĩa Mác- Lênin. “Nhưng nếu quá nhấn mạnh đặc điểm dân tộc để phủ nhận giá trị phổ biến của những kinh nghiệm lớn, cơ bản của các nước anh em, thì sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng của chủ nghĩa xét lại”1. Đồng thời, Người còn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải biết dùng lý luận đã học để tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả công tác. Người nhấn mạnh: “Cần phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới để phát triển kinh nghiệm cũ, làm cho nó đầy đủ dồi dào thêm”2. Đó chính là quá trình tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận. Làm được như vậy cũng có nghĩa là làm cho lý luận được “bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động”3. Đồng thời, thực tiễn mới sẽ được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý luận mới. Cứ như vậy, lý luận luôn được bổ sung, hoàn thiện, phát triển bởi những kết luận mới rút ra từ tổng kết thực tiễn. Còn thực tiễn luôn được chỉ đạo, soi đường dẫn dắt bởi lý luận đã được bổ sung bằng những kinh nghiệm thực tiễn mới. Đó là biểu hiện sinh động của việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là một nguyên tắc có tính chất phương pháp luận được vận dụng vào giáo dục. Nguyên tắc này là cơ sở nền tảng, định hướng cho việc xác định các phương pháp giáo dục cụ thể. - Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất Trong hệ thống quan điểm Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục, học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất là sự thể hiện trực tiếp của nguyên tắc lý luận gắn liền với thực tiễn. Hồ Chí Minh yêu cầu: Trong hoạt động giáo dục, phải kết hợp chặt chẽ giữa học và hành. Học là quá trình nhận thức chân lý khoa học, hành là quá trình rèn luyện để hình thành các kỹ năng lao động và hoạt động xã hội, tức là biến kiến thức đã tiếp thu được thành năng lực hoạt động của từng cá nhân. Theo Hồ Chí Minh, mục đích giáo dục không chỉ giúp học sinh nắm vững kiến thức mà còn biết vận dụng kiến thức đó vào thực tiễn, hình thành kỹ năng hoạt động thực 1 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 11, tr. 97- 98 2 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 5, tr. 511 3 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 11, tr. 95 25 tế, học không chỉ để biết mà quan trọng là “học là để áp dụng vào việc làm”1. Thông qua hoạt động thực tế, người học mới có thể kiểm nghiệm những tri thức đã học, đồng thời có điều kiện và khả năng gọt rũa, mài sắc và nâng cao hiểu biết của mình. Nói chuyện tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai (7/5/1958), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Lao động trí óc mà không lao động chân tay, chỉ biết lý luận mà không biết thực hành thì cũng là trí thức có một nửa. Vì vậy, cho nên các cháu trong lúc học lý luận cũng phải kết hợp với thực hành và tất cả các ngành khác đều phải: lý luận kết hợp với thực hành, học tập kết hợp với lao động”2. Theo Người, học và hành phải luôn đi đôi với nhau. Học và hành là hai mặt của một quá trình gắn bó mật thiết với nhau, bổ sung, hỗ trợ, làm tiền đề cho nhau phát triển. “Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy”3. Trong Thư gửi giáo sư và sinh viên trường dự bị đại học ở Thanh Hóa (4/1952), Người căn dặn: “các cháu thì học tập cần phải gắn liền với thực hành để mai sau thực hiện mục đích cao quý: Thật thà phụng sự nhân dân”4. Người cho rằng, chỉ có thực hành mới là thước đo đúng nhất cho sự hiểu biết của con người về thế giới. Thực hành có vai trò quan trọng cao hơn lý luận vì thực hành có tính chất phổ biến, lại có tính chất thực tế cụ thể. Hơn nữa, “thực hành là nền tảng của lý luận và lý luận lại phụng sự thực hành. Chỉ có thực hành mới là tiêu chuẩn của sự thật”5. Học đi đôi với hành cũng là tiêu chí để phân biệt nền giáo dục cũ và nền giáo dục mới. Sự học trong nền giáo dục cũ là theo lối “nhồi sọ”, “tầm chương trích cú”, chủ yếu là học theo sách vở, sản phẩm của nó là những thư sinh, những “con mọt sách”. Trong nền giáo dục mới, sự học kết hợp một cách chặt chẽ giữa những tri thức sách vở với những kinh nghiệm thực tiễn, tức là tri thức được vận dụng vào để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Do đó, nó góp phần vào việc đào tạo những con người phát triển toàn diện cả về trí tuệ và năng lực công tác. Đó là một trong những ưu điểm nổi bật của nền giáo dục mới xã hội chủ nghĩa so với nền giáo dục kinh viện trước đó. Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất cũng là một trong những phương pháp được Hồ Chí Minh đề cập đến nhiều khi bàn về công tác giáo dục. Lao động sản xuất là môi trường để giáo dục, rèn luyện con người. Phẩm chất, nhân cách 1 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 6, tr. 357 2 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 11, tr. 400 3 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 6, tr. 361 4 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 7, tr. 400 5 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 7, tr. 122 26 con người được hình thành trong lao động và các hoạt động xã hội. Do vậy, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất là một phương pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả giáo dục, đặc biệt là đối với các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học- các trường trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực cho các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Sản xuất là nguồn gốc phát triển của xã hội loài người, lao động sẽ làm cho sự hiểu biết của con người về tự nhiên và xã hội từng bước phát triển. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Sản xuất là nền tảng của thực hành, “do sự sản xuất vật chất mà người ta hiểu dần các hiện tượng, các tính chất, các quy luật và mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên. Lại do hoạt động sản xuất mà dần dần hiểu rõ mối quan hệ giữa người này với người khác”1. Chính thông qua lao động sản xuất làm cho lý luận, tri thức của người học được mài sắc thêm, nó là cơ sở, nền tảng để nhận thức, phát hiện và khám phá cái mới. Bàn về sự học đích thực, tri thức hoàn toàn, Người viết: “Một người học xong đại học, có thể gọi là có tri thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: Công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ có tri thức một nửa. Tri thức của y là tri thức học sách chưa phải là tri thức hoàn toàn. Y muốn thành một người tri thức hoàn toàn, thì phải đem cái tri thức đó áp dụng vào thực tế”2. Trong Thư gửi các cán bộ giáo dục, học sinh, sinh viên các trường và các lớp bổ túc văn hóa (31/8/1960), Người đặt ra yêu cầu đối với nền giáo dục mới: “Giáo dục phải phục vụ đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ, phải gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân”3. Nền giáo dục xã hội chủ nghĩa nhằm đào tạo ra những người giỏi về văn hóa, khoa học, trình độ chuyên môn. Tuy nhiên, những tri thức đó không phải là tri thức suông, giáo điều trong sách vở. Trang bị kiến thức phải giúp cho người học đủ khả năng vận dụng sự hiểu biết vào cuộc sống. Nền giáo dục mới đào tạo ra con người toàn diện phục vụ công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Vì thế, sự kết hợp giữa lao động sản xuất với học tập không chỉ trang bị cho người học nắm vững những kiến thức cơ bản mà còn đào tạo họ thành những con người có đức tính cần cù, siêng năng và hăng hái tham gia thực hiện đời sống mới, xây dựng xã hội mới. Cho nên cần phải tăng cường mạnh mẽ hơn nữa giáo dục lao động trong nhà trường. Đến thăm trường Chu Văn An (31/12/1958), Người chỉ rõ: “Trường học của ta là trường học xã hội chủ nghĩa. Nhà trường xã hội 1 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 7, tr. 121 2 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 5, tr. 257 3 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 12, tr. 647 27 chủ nghĩa là nhà trường: Học đi với lao động; Lý luận đi với thực hành; Cần cù đi với tiết kiệm”1. Trong thực tiễn chỉ đạo hoạt động giáo dục ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đến việc xây dựng nhà trường gắn liền với đời sống sản xuất. Việc kết hợp giáo dục với lao động sản xuất thể hiện mối liên hệ giữa tri thức sách vở với những kinh nghiệm trong thực tiễn lao động sản xuất của con người. Thông qua lao động, người học có thể kiểm nghiệm tri thức đã được học và phát huy tính năng động, sáng tạo của mình để áp dụng tri thức vào thực tiễn. Đồng thời, phương pháp này cũng phản ánh chất lượng và hiệu quả giáo dục. Do đó, việc kết hợp giáo dục với lao động sản xuất cũng là cơ sở để nhà giáo dục điều chỉnh hoạt động nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. - Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội Con người là sản phẩm tổng hòa của các mối quan hệ xã hội. Việc giáo dục con người có sự tham gia của nhiều lực lượng, trong đó,quan trọng nhất là gia đình, nhà trường và các đoàn thể xã hội. Theo Hồ Chí Minh, “giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”2. Người quan niệm giáo dục là “việc chung của gia đình, trường học và xã hội”3, cho nên, muốn giáo dục các cháu thành người tốt thì “nhà trường, đoàn thể, gia đình, xã hội đều phải kết hợp chặt chẽ với nhau”4, bởi lẽ: “Nếu nhà trường dạy tốt mà gia đình dạy ngược lại, sẽ có những ảnh hưởng không tốt tới trẻ em và kết quả cũng không tốt”5. Trong Bài nói chuyện tại buổi lễ khai mạc trường Đại học nhân dân Việt Nam (19/1/1955), Người chỉ rõ: “Giáo dục thanh niên không thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những cuộc đấu tranh của xã hội... giáo dục thanh niên phải liên hệ vào dư luận của xã hội, lực lượng của Chính phủ để ngăn ngừa những cái gì có thể ảnh hưởng xấu đến thanh niên, để nâng cao tính cảnh giác của thanh niên”6. Với phương pháp này, mọi người có thể học hỏi lẫn nhau, “học trong xã hội, học nơi công tác thực tế, học ở quần chúng”7. Gia đình là chiếc nôi sinh thành, giáo dưỡng con người. Do đó, 1 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 11, tr. 594 2 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 10, tr. 591 3 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 10, tr. 175 4 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 12, tr. 77 5 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 12, tr. 76 6 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 6, tr. 265- 266 7 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 6, tr. 163 28 giáo dục gia đình là cơ sở nền tảng trong việc hình thành nhân cách con người. Xác định rõ vai trò giáo dục của gia đình, Hồ Chí Minh nhắc nhở: Các gia đình cần “liên hệ chặt chẽ với nhà trường, giúp nhà trường giáo dục và khuyến khích con em chăm chỉ học tập, sinh hoạt lành mạnh và hăng hái giúp ích nhân dân”1. Nhà trường là lực lượng đóng vai trò quyết định trong quá trình hình thành nhân cách con người. Để đảm bảo việc giáo dục trong nhà trường được tốt thì: “Các thầy giáo, cô giáo phải tìm cách dạy. Dạy cái gì, dạy thế nào để học trò hiểu chóng, nhớ lâu, tiến bộ nhanh”2. Muốn thế, phải nắm được đối tượng, “phải hiểu rõ người học”3, nhất là đối với trẻ em, phải hiểu tâm lý của các cháu. Việc giảng dạy phải “làm thế nào cho việc học tập thiết thực, vui vẻ, không nên câu nệ, hình thức, tuyệt đối tránh cách nhồi sọ”4. Theo Hồ Chí Minh, “việc cốt yếu là phải làm cho người học hiểu thấu vấn đề”5. Người yêu cầu người giảng phải luôn luôn dùng những lời lẽ, những thí dụ giản đơn, thiết thực và dễ hiểu. Bên cạnh đó, các thầy, cô giáo phải “gần gũi cha mẹ học trò”6, “phải mật thiết liên hệ với gia đình học trò”7 để đảm bảo sự phối hợp đồng bộ giữa giáo dục gia đình và giáo dục trong nhà trường nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục. Trong giáo dục thế hệ trẻ, xã hội đóng vai trò rất quan trọng, bởi xã hội là môi trường sống và hoạt động của con người. Trong giáo dục xã hội, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tới vai trò của các đoàn thể - các tổ chức quần chúng có tôn chỉ và mục đích phù hợp với mục đích giáo dục của Nhà nước và nhà trường. Hoạt động của các đoàn thể phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi sẽ có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Do đó, Người lưu ý: “Các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, các cơ quan chính quyền và các cấp ủy đảng phải thật sự quan tâm đến nhà trường, đến việc học tập của con em mình hơn nữa”8. Giáo dục là sản phẩm phối hợp của các lực lượng: Gia đình, nhà trường, xã hội. Nếu các lực lượng này có sự phối hợp đồng bộ và có hiệu quả thì sẽ đào tạo ra những công dân tốt. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của các lực lượng tham gia công tác giáo dục đó, trong Thư gửi các cán bộ, cô giáo, thầy giáo, công nhân viên, học sinh, sinh viên nhân dịp bắt đầu năm học mới (10/1968), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Giáo dục là sự 1 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 10, tr. 186 2 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 10, tr. 290- 291 3 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 6, tr. 359 4 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 9, tr. 146 5 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 6, tr. 357 6 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 10, tr. 389 7 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 10, tr. 591 8 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 11, tr. 747 29 nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó”1. 2.4.2.2. Các phương pháp giáo dục cụ thể theo quan điểm Hồ Chí Minh - Giáo dục theo nhu cầu, điều kiện và đối tượng Sau khi nước nhà giành được độc lập, với cương vị người đứng đầu Nhà nước Việt Nam mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh xúc tiến công tác kiến thiết, xây dựng đất nước. Để kiến thiết nước nhà, Người đặc biệt coi trọng công tác giáo dục. Bởi lẽ, giáo dục là con đường duy nhất để đào tạo đội ngũ cán bộ- nguồn nhân lực có trình độ phục vụ cho các ngành kinh tế, văn hóa. Theo Người, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế, văn hóa. Do đó, phải đào tạo cán bộ, “trong đào tạo cán bộ, giáo dục là bước đầu”2. Giáo dục có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự hưng thịnh của quốc gia, dân tộc, trực tiếp đào tạo nguồn lao động có trình độ đáp ứng nhu cầu của xã hội. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng lưu ý rằng công tác giáo dục cũng phải căn cứ vào nhu cầu cụ thể của đất nước để xác định nội dung, phương pháp giáo dục phù hợp. Trong Thư gửi Hội nghị giáo dục toàn quốc (7/1948), Hồ Chí Minh căn dặn: “Chúng ta phải sửa đổi cách dạy cho phù hợp với sự đào tạo nhân tài kháng chiến và kiến quốc”3. “Dạy và học cần phải theo nhu cầu của dân tộc, của Nhà nước. Thầy dạy tốt, trò học tốt, cung cấp đủ cán bộ cho nông nghiệp, công nghiệp, cho các ngành kinh tế và văn hóa. Đó là nhiệm vụ vẻ vang của các thầy giáo, cô giáo”4. Đối với các cháu lưu học sinh Việt Nam học ở Mátxcơva, Người cũng chân thành nhắc nhở: “Các cháu học kỹ thuật và học tiếng Nga cần nhận rõ mình học cốt để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Học ngành nào cũng cần phải căn cứ vào nhu cầu của Tổ quốc, của nhân dân mà định, không thể tùy theo sở thích riêng của mình”5. Theo Hồ Chí Minh, giáo dục cần có phương pháp phù hợp với điều kiện và đối tượng giáo dục: “Giáo dục cũng phải theo hoàn cảnh, điều kiện”6. Người luôn yêu cầu việc dạy và học phải dựa trên năng lực, 1 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 15, tr. 508 2 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 10, tr. 345 3 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 5, tr. 575 4 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 10, tr. 291 5 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 10, tr. 48 6 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 10, tr. 345 30 điều kiện và trình độ của người học. Người coi đó là cơ sở hàng đầu cho việc phát huy khả năng sáng tạo của mọi người và nâng cao hiệu quả, chất lượng giáo dục. Cho nên, giáo dục phải căn cứ và đối tượng, điều kiện, hoàn cảnh của người học mà truyền đạt nội dung, bổ sung cách thức giáo dục cho phù hợp. Người nói: “Bất cứ việc to việc nhỏ, chúng ta phải xét rõ và làm cho hợp trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm đấu tranh, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng”1. Cần có phương pháp tổ chức giáo dục sao cho bảo đảm được sự phù hợp giữa điều kiện, hoàn cảnh với đối tượng giáo dục. Trong quá trình dạy học, người dạy phải nắm được đặc điểm đối tượng. Các đối tượng có đặc điểm chung, đồng thời lại có những đặc điểm riêng về tâm sinh lý, trình độ phát triển trí tuệ, vốn sống. Tất cả những đặc điểm này đều có ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến sự lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo của người học. Vì thế, Người nhấn mạnh: “Phải hiểu rõ người học”2 không được chủ quan, tùy tiện, ba hoa. Trên cơ sở xác định đặc điểm từng bậc học cụ thể, Người nêu rõ nhiệm vụ của mỗi cấp học: “Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà. Trung học thì cần đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế. Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn. Phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khoẻ của các cháu”3. Người cũng chỉ rõ khuyết điểm chung của công tác huấn luyện và học tập là “tham làm nhiều mà không chu đáo, không biết “quý hồ tinh bất quý hồ đa””4. Chẳng hạn như việc mở lớp quá đông: “Đông quá thì dạy và học ít kết quả vì trình độ lý luận của người học chênh lệch, nên thu nhận không đều. Trình độ công tác thực tế của người học cũng khác nhau, nên chương trình không sát”5. Giáo dục là cả một quá trình, công tác giáo dục đòi hỏi phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể, những điều kiện thực tế, đồng thời phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý người học để có những biện pháp tác động phù hợp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. 1 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 5, tr. 288 2 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 6, tr. 359 3 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 10, tr. 186 4 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 6, tr. 362 5 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 6, tr. 362 31 - Phương pháp tự học, giáo dục thường xuyên, học tập suốt đời Hồ Chí Minh luôn lưu ý: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”1. Bản thân Hồ Chí Minh là một tấm gương về học tập suốt đời, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, thời gian nào Người cũng kiên trì, bền bỉ học hỏi. Người nói: “Tôi năm nay 71 tuổi, ngày nào cũng phải học... Công việc cứ tiến mãi. Không học thì không theo kịp, công việc nó sẽ gạt mình lại phía sau”2. Hồ Chí Minh yêu cầu: “Phương pháp giáo dục thì theo nguyên tắc tự nguyện tự giác... chứ không gò bó”3. Trong bài Nói về công tác huấn luyện và học tập, Người nêu: “Học tập ở trường của Đoàn thể không phải học như ở các trường lối cũ, không phải có thầy thì học, thầy không đến thì đùa. Phải biết tự động học tập”4. Điều đó có nghĩa là phải học tập một cách hoàn toàn tự giác, tự chủ, không cần ai nhắc nhở, làm chủ thời gian học tập. Đối với người học, Người khuyên: “Phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liệu thì phải đào sâu suy nghĩ, không tin một cách mù quáng từng câu một trong sách, có vấn đề chưa thông suốt thì mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ lẽ. Đối với bất kỳ vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi “vì sao?”, đều phải suy nghĩ kỹ càng, xem nó có hợp với thực tế không, có thật đúng với lý luận không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều. Phải bảo vệ chân lý, phải có tính nguyên tắc, không được ba phải”5. Đặc biệt, Người nhấn mạnh khả năng tự giác học tập của người học: “Việc học phải lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào”6. Tuy nhiên, Người cũng yêu cầu người học “không nên học gạo, không nên học vẹt” mà “học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học và hành phải kết hợp với nhau”7. Hồ Chí Minh cũng là tấm gương mẫu mực về tự học. Hành trình tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là hành trình tự học. Trong thời gian sống và hoạt động ở nước ngoài, Người tự học thêm nhiều ngoại ngữ và các môn khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, đặc biệt là lý luận chính trị. Người coi lời dạy của Lênin: “Học, học nữa, học 1 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 10, tr. 377 2 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 13, tr. 273 3 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 10, tr. 378 4 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 6, 360 5 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 11, tr. 98- 99 6 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 5, tr. 312 7 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 14, tr. 402 32 mãi” và lời dạy của Khổng Tử: “Học không biết chán, dạy không biết mỏi” là phương châm sống của mình. Ngay cả khi đảm nhận cương vị Chủ tịch nước, Người vẫn miệt mài học tập, học những gì thực tiễn đặt ra, học ở nhân dân. Hồ Chí Minh không những là tấm gương về tự học suốt đời mà còn nêu lên một chân lý trong hoạt động giáo dục: tự học là việc suốt đời. - Phương pháp đối thoại, dân chủ và bình đẳng trong giáo dục Theo Hồ Chí Minh, nước ta là nước dân chủ, cho nên nền giáo dục của chúng ta cũng là nền giáo dục dân chủ. Đó là nền giáo dục của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong nền giáo dục đó, mọi người có quyền được đi học, bình đẳng và công bằng trong học tập, được quyền phát biểu ý kiến để xây dựng trường lớp. Dân chủ trong giáo dục được thể hiện trước hết là trong học tập. Trong bài Học tập không mỏi, cải tiến không ngừng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chúng ta là những người lao động làm chủ nước nhà... muốn làm chủ được tốt phải có năng lực làm chủ”1. Theo Người, “học tập chính là để có đủ năng lực làm chủ, có đủ năng lực tổ chức cuộc sống mới– trước hết là tổ chức nền sản xuất mới”2, “ý thức làm chủ không phải chỉ tỏ rõ ở tinh thần hăng hái lao động, mà còn phải tỏ rõ ở tinh thần say mê học tập để không ngừng nâng cao năng lực làm chủ của mình”3. Do đó, người học cần có thái độ phù hợp trong học tập, cần ý thức rõ rằng mục đích của việc học tập là để phát huy năng lực làm chủ đất nước, làm chủ xã hội để từ đó có định hướng phù hợp trong hoạt động học tập nâng cao trình độ. Đó là quyền và cũng là nghĩa vụ của mỗi người đối với Tổ quốc và dân tộc. Dân chủ trong học tập nghĩa là: “Đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt, thì hỏi, bàn cho thông suốt”4. Trong bài Nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa I trường Đại học Nhân dân Việt Nam, Người nhắc nhở: “Đối với mọi vấn đề, mọi người được tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng làmột nghĩa vụ của mọi người”5. Nền giáo dục mới phải “tuyệt đối tránh cách nhồi sọ”6. Muốn làm được điều đó thì trong học tập thầy và trò phải cùng nhau thảo luận, thật thà bày tỏ ý kiến của mình để góp phần tìm ra chân lý. “Trong lúc thảo luận, mọi người được hoàn 1 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 12, tr. 527 2 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 12, tr. 527 3 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 12, tr. 527 4 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 9, tr. 266 5 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 10, tr. 378 6 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 9, tr. 146 33 toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng cũng vậy. Song không được nói gàn, nói vòng quanh”1. Đó là quan điểm dân chủ, thẳng thắn, không nhồi sọ để đến với tự do tư tưởng trong nhận thức. Đó là bản chất của dân chủ trong giáo dục.Hồ Chí Minh lưu ý: Dân chủ trong giáo dục phải đảm bảo tốt quan hệ giữa thầy và trò. Dân chủ nhưng thầy phải quý trò, trò phải kính thầy chứ không phải “cá đối bằng đầu”2. Để đảm bảo tốt mối quan hệ này, theo Người, “thầy và trò thật thà đoàn kết và dùng cách dân chủ (thật thà tự phê bình và phê bình) để giúp nhau tiến bộ mạnh, tiến bộ mãi”3. Theo Hồ Chí Minh, trong hoạt động quản lý trường học cũng cần phải có dân chủ. Nói chuyện với trường Thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa Hòa Bình (17/8/1962), Người căn dặn: “Phải bàn bạc dân chủ. Có công việc gì, ban phụ trách trường bàn bạc với anh em, làm cho tư tưởng mọi người thông suốt, động viên mọi người cùng làm, chứ không nên ban phụ trách định kế hoạch rồi bắt mọi người làm”4. Để nâng cao hiệu quả quản lý trường học, người lãnh đạo phải không ngừng đúc kết kinh nghiệm, quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng, đời sống của cán bộ, nhân viên, xây dựng được không khí lành mạnh, dân chủ, đoàn kết, gắn bó trong tập thể. Chính vì vậy, thực hành dân chủ trong hoạt động quản lý trường học là biện pháp tốt nhất thúc đẩy sự phát triển của nhà trường. Người chỉ rõ: “Nếu ban phụ trách có sáng kiến, có dân chủ thì trường tốt, nếu ban phụ trách lại quan liêu, mệnh lệnh, bớt xén, trường sẽ không ra gì hết”5. - Phương pháp nêu gương trong giáo dục Theo Hồ Chí Minh, nêu gương cũng là một phương pháp giáo dục quan trọng. Người dạy: “Những gương người tốt làm việc tốt muôn hình, muôn vẻ là vật liệu quý để các chú xây dựng con người... Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”6. Trong công tác giáo dục, trước hết, các thầy, cô giáo phải làm tấm gương cho học sinh noi theo. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trẻ em hay bắt chước, cho nên thầy giáo, cán bộ phụ trách... phải gương mẫu từ lời nói đến việc làm. Nếu các cô các chú bảo: “Các em phải siêng làm”, nhưng các cô các chú lại đi ngủ, hoặc dạy “các em phải thật thà”, nhưng các cô các chú lại nói sai, hay 1 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 5, tr. 272 2 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 9, tr. 266 3 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 7, tr. 400 4 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 13, tr. 436 5 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 13, tr. 438 6 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 15, tr. 665 34 bảo “các em phải giữ vệ sinh chung” nhưng các cô các chú bẩn, như thế là không được”1. “Trẻ em như cái gương trong sáng, thầy tốt thì ảnh hưởng tốt, thầy xấu thì ảnh hưởng xấu, cho nên phải giáo dục chính trị tư tưởng trước, chính thầy giáo, cô giáo cũng phải tiến bộ về mặt tư tưởng”2. Do đó, Người đòi hỏi, “thầy giáo phải làm kiểu mẫu cho các cháu”3. Đó là trách nhiệm rất quan trọng và vẻ vang của mỗi người thầy giáo, cô giáo. Muốn làm được như vậy thì giáo viên phải “không ngừng bồi dưỡng đạo đức cách mạng, lập trường chính trị; phải ra sức đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ”4. Mặt khác, giáo dục là trách nhiệm chung của gia đình, nhà trường và xã hội. Cho nên, ngoài việc nêu gương của thầy, cô giáo, cán bộ phụ trách giáo dục thì gia đình, đoàn thể xã hội cũng cần phải làm gương. Trong bài Gửi các em học sinh (10/1955), Người viết: “Giáo dục các em là việc chung của gia đình, trường học và xã hội. Bố mẹ, thầy giáo và người lớn phải cùng nhau phụ trách; trước hết là phải làm gương mẫu cho các em trước mọi việc”5. Đối với học trò phải có tinh thần học... tấm huy hiệu không có mấy giá trị về vật chất nhưng lại có giá trị tinh thần rất lớn, nó thể hiện sự ghi nhận kịp thời, sự đánh giá đúng mức của người lãnh đạo đối với công lao của người được tặng. Hồ Chí Minh thường căn dặn những người làm lãnh đạo phải dùng phương pháp nêu gương để nhân rộng các điển hình tích cực, làm cho người tốt, việc tốt nảy nở như hoa mùa xuân. Nhưng Bác cũng lưu ý phải nêu gương một cách trung thực, khen thưởng đúng mức, đúng người, đúng việc. Nếu không việc nêu gương sẽ không có tác dụng, thậm chí còn phản tác dụng. Trong giáo dục, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nêu gương và thi đua là biện pháp cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục. Người yêu cầu trong giáo dục phải tạo ra phong trào “thầy thi đua dạy, trò thi đua học”, phải làm gương, phải học hỏi lẫn nhau. Giáo dục đại học là đào tạo tri thức ở trình độ cao, người học có tính tự giác, chủ động hơn so với các bậc giáo dục trước. Song, việc nêu gương và khuyến khích thi đua thiết nghĩ vẫn là một phương pháp nhằm thúc đẩy hoạt động học tập của sinh viên. Để khuyến khích thi đua, tăng cường phương pháp nêu gương trong quá trình học tập của sinh viên, nhà trường cần: Thứ nhất, xây dựng kế hoạch, phát động phong trào sinh viên thi đua lập thành tích trong học tập, nghiên cứu, sáng tạo trong việc tìm tòiphương pháp học tập tích cực; tìm kiếm, phát hiện, lựa chọn những cá nhân có thành tích tốt trong học tập và rèn luyện, xây dựng thành nhân tố điển hình, tiêu biểu để các sinh viên khác học tập và noi theo nhằm nhân rộng các nhân tố điển hình. Những nhân tố điển hình ngay tại trường, tại lớp ta sẽ là tấm gương thực tế sinh động để mọi người học tập, noi theo. Hơn nữa biện pháp này cũng tác động trở lại tới chính những nhân tố đó, làm cho họ cũng phải luôn phấn đấu tu dưỡng tốt từ đó càng thúc đẩy phong trào đi lên. 1 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 1, tr. 284 81 Thứ hai, có chính sách biểu dương, khen thưởng kịp thời, hợp lý để động viên, khuyến khích họ tiếp tục phát huy thành tích học tập. Để hình thành được những điển hình gương mẫu, nhà trường cần tạo thêm động lực thôi thúc các tập thể cố gắng hơn nữa, tạo ra môi trường lành mạnh phục vụ quá trình học tập, rèn luyện. Đồng thời cần có chính sách biểu dương kịp thời để khích lệ, động viên các tập thể có thành tích. Đối với mỗi sinh viên, trước hết phải có tinh thần tự giác, tích cực trong học tập và rèn luyện; coi học tập là một quyền lợi và cơ hội để nâng cao năng lực công tác sau này; chủ động tích lũy kiến thức, cũng như lựa chọn phương pháp học tập phù hợp với điều kiện và khả năng của mình. Sinh viên phải có tinh thần học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm từ những tấm gương bạn bè có thành tích và phương pháp học tập tốt; không ngừng nỗ lực thi đua trong học tập, tìm kiếm phương pháp học tập mới để đạt được thành tích tốt nhất... Đặc biệt, mỗi thầy cô giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh phải là một tấm gương sáng trong lao động, học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Bởi lẽ, “các thầy giáo có nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang là đào tạo cán bộ cho dân tộc”1. Nhiệm vụ của thầy, cô giáo không chỉ dạy chữ mà còn phải dạy người. Để xứng đáng là người giáo viên xã hội chủ nghĩa, xứng đáng với sự tôn vinh của xã hội, thầy, cô giáo phải thật sự là tấm gương mẫu mực để người học noi theo. Sự gương mẫu của thầy, cô không phải chỉ giới hạn về đạo đức nhân cách mà còn ở tài năng trong lĩnh vực chuyên môn, nghề nghiệp, trên các mặt hoạt động thực tiễn chính trị, xã hội. Người giảng viên của nền giáo dục dân chủ mới dưới chế độ xã hội chủ nghĩa phải đáp ứng yêu cầu rất cao của xã hội về phẩm chất đạo đức, nhân cách và năng lực, phải là kiểu mẫu về tư tưởng, đạo đức, lối làm việc. 4.2.3. Nhóm giải pháp đổi mới phương pháp quản lý giáo dục 4.2.3.1. Cải tiến phương pháp kiểm tra, đánh giá Đánh giá là khâu không thể thiếu được của quá trình dạy học, thường là khâu cuối cùng, nhưng nó cũng là xuất phát điểm để tạo nên những mối liên hệ ngược của quá trình dạy học, của đánh giá chất lượng đào tạo. Về cơ bản, phương pháp kiểm tra, đánh giá, cách ra câu hỏi cũng tác động không nhỏ đến thái độ học tập của sinh viên, cũng có nghĩa là ảnh hưởng đến chất lượng học tập của họ. Chẳng hạn nếu câu hỏi chỉ yêu cầu sinh viên nhớ lại, tái hiện tri thức, và sinh viên cũng biết rằng chỉ cần đạt được 1 Hồ Chí Minh (2011): Sdd, t. 7, tr. 400 82 yêu cầu như vậy là có cơ hội để đạt điểm cao thì cách học của sinh viên sẽ nhằm vào việc cố gắng để ghi nhớ được càng nhiều càng tốt những nội dung thầy cô đã giảng, thậm chí cả trong trường hợp họ không hiểu hết ý nghĩa của chúng. Điều này dẫn đến việc sinh viên sẽ có cách học tương ứng như đọc đi đọc lại tài liệu chứ không chú ý đến việc đặt ra những câu hỏi để tự trả lời hay giải thích, nhìn nhận vấn đề từ nhiều góc độ, trong nhiều tình huống khác nhau hay nhìn nhận vấn đề trong thực tiễn. Như vậy điều mà họ lĩnh hội được sẽ không bền vững, khó liên hệ trong tình huống mới, làm hạn chế rất lớn khả năng sáng tạo. Cách kiểm tra, đánh giá như đang được thực hiện đối với học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh ở nhiều trường đại học hiện nay thực ra lại tạo điều kiện cho những sinh viên lười biếng, học mang tính đối phó. Sinh viên không cần học nhưng may mắn tìm được cách quay cóp, gian lận trong thi cử vẫn có thể có điểm trung bình để “qua” được môn học đó. Hoặc cũng có thể sinh viên chỉ học tủ một vài chủ đề trong cả chương trình môn học, nếu đề thi ra đúng vào phần họ đã học tủ thì họ vẫn có thể đạt được điểm số rất cao, dù không thực sự dành nhiều thời gian và tâm trí cho môn học, đồng nghĩa với việc nắm môn học không chắc, hiểu không sâu. Cũng có trường hợp sinh viên không học bài, đến khi thi được bố trí ngồi cạnh bạn chăm chỉ học bài, thuộc bài, bạn lại dễ dãi cho chép bài, vậy là kết quả thi vẫn tốt. Trước hết, phải nhận thức rõ một vấn đề là không phải chúng ta kiểm tra để đánh giá khả năng ghi nhớ sự kiện, khả năng học thuộc của sinh viên nếu không muốn nói một cách nặng nề hơn là kiểm tra trình độ quay cóp, gian lận của sinh viên. Do đó đề thi không nên chỉ dùng những câu hỏi mang tính chất kiểm tra kiến thức đơn thuần, không nên chỉ đặt yêu cầu đếm ý cho điểm. Thứ hai, kiểm tra là để xác định, đánh giá về mức độ mà sinh viên đạt được so với các mục tiêu học tập đã được đề ra trước đó, cũng là để phân loại sinh viên. Đánh giá này cung cấp những số liệu cho việc thừa nhận hay bác bỏ sự hoàn thành hay chưa hoàn thành môn học, làm cơ sở cho những quyết định tiếp theo. Đối với mục tiêu đánh giá này, sinh viên thường có xu hướng che giấu đi những thiếu sót, hạn chế của mình. Với cách ra đề thi chỉ xoáy vào một vài nội dung trong chương trình môn học, không đủ bao quát toàn bộ chương trình thì sự đánh giá tổng thể về việc học tập môn học đó của sinh viên dường như chưa đủ cơ sở thực hiện, nhất là trong điều kiện sinh viên sử dụng cùng một loại giáo trình môn học, thậm chí học ôn chung theo cùng một đáp án, 83 câu trả lời trong bài thi khó tránh khỏi những chỗ giống hệt nhau. Chức năng phân loại sinh viên của việc kiểm tra vì thế cũng không thực sự đáng tin cậy. Và mức độ đạt được của sinh viên so với mục tiêu cũng khó xác định. Thứ ba, một mục tiêu nữa không kém phần quan trọng của kiểm tra là đưa ra thông tin phản hồi về hiệu quả học tập của sinh viên. Kết quả kiểm tra sẽ cho thấy sinh viên đã có phương pháp học tập đúng hay chưa, đồng thời cũng cho họ những kinh nghiệm để lần kiểm tra sau được tốt hơn, tức là tạo điều kiện để họ cải tiến, điều chỉnh phương pháp học tiếp sau đó. Nếu chỉ có một bài kiểm tra hết môn để đánh giá việc học tập của sinh viên trong suốt quá trình học tập môn học đó thì hiệu quả của thông tin phản hồi sẽ không cao, thiếu tính kịp thời. Trong điều kiện cụ thể của các trường đại học khối ngành kinh tế hiện nay, chưa có điều kiện để thử nghiệm các phương pháp kiểm tra, đánh giá khác (chẳng hạn phương pháp trắc nghiệm khách quan, hay thậm chí hình thức thi vấn đáp cũng rất hạn chế do số sinh viên đông, số giảng viên rất hạn chế). Mặt khác, sinh viên cần được đặc biệt chú ý kiểm tra, bồi dưỡng, rèn giũa khả năng diễn đạt. Cho nên tác giả đề xuất vẫn tiếp tục sử dụng phương pháp đánh giá truyền thống là thi viết tự luận, nhưng nên có những cải tiến, thay đổi trong cách thức ra đề thi để có thể đánh giá đúng chất lượng học tập của sinh viên. Hướng cải tiến mà tác giả đề xuất trong việc áp dụng phương pháp thi viết tự luận là việc ra đề thi nên theo hướng chú trọng đến sự thông hiểu và khả năng liên hệ, vận dụng của sinh viên. Đương nhiên cần có sự thông báo trước cho sinh viên về các phương pháp đánh giá sẽ được sử dụng để họ có thể nắm được việc đánh giá sẽ nhằm đo lường mức độ nào trong nhận thức của họ, từ đó họ tự xác định cách học tương ứng. Trong trường hợp này, sinh viên có quyền sử dụng tài liệu trong khi làm bài- bởi cách kiểm tra đòi hỏi sinh viên phải biết xử lý tài liệu, khai thác tối đa ý nghĩa của tài liệu, biết cách biến đổi và cấu trúc lại tri thức để có thể hiểu và giải thích được tài liệu, nhìn nhận, mổ xẻ, phân tích vấn để từ nhiều góc độ khác nhau và đi đến kết luận chứ không đơn thuần là sự tái hiện lại hay sao chép tri thức trong tài liệu, tri thức từ bài giảng của thầy vào bài kiểm tra. Đương nhiên với cách ra đề thì này sẽ đòi hỏi nhiều công sức, trí tuệ của người thầy hơn, việc chấm thi cũng rất mất thời gian và khó khăn hơn, nhưng nó giúp xác định được chính xác chất lượng học tập của sinh viên, rèn luyện cho họ cách học sâu, đồng thời lại là biện pháp chống quay cóp, gian lận trong thi cử. Người thầy cũng có cơ sở tốt để đánh giá sinh viên về khả năng lập luận, diễn giải, khả năng tiếp nhận, 84 chuyển hóa những tri thức khoa học thành của mình. Bên cạnh đó, tác giả cũng mạnh dạn đề xuất tăng tần suất của sự đánh giá. Trong quá trình học, sinh viên cần phải thu được những tín hiệu phản hồi về chất lượng học tập của mình để kịp thời có những cải tiến, điều chỉnh về cách học. Giảng viên cũng cần những thông tin từ việc kiểm tra, đánh giá sinh viên để điều chỉnh hoạt động giảng dạy của mình về nội dung, phương pháp cho phù hợp hơn với đối tượng. Tín hiệu phản hồi chỉ thực sự có hiệu quả khi nó được cung cấp đúng mức, đúng lúc. Đối với sinh viên đại học, không phải cứ kiểm tra càng nhiều thì kết quả càng tốt mà kiểm tra quá thường xuyên cũng dễ dẫn đến cách học hời hợt vì sinh viên khó dành nhiều thời gian cho việc nghiền ngẫm sâu và mở rộng vấn đề. Nhưng nếu chỉ có một bài kiểm tra duy nhất khi kết thúc môn học thì sinh viên lại dễ rơi vào tình trạng lơ là, tâm lý không có gì phải vội vàng, đến cuối học kỳ mới vùi đầu vào sách vở, ra sức nhồi nhét kiến thức. Học theo cách này chắc chắn không có kết quả cao vì lượng tri thức lớn lại bị dồn ép tiếp nhận trong một khoảng thời gian quá ngắn, không thể có sự hiểu sâu, phân tích kỹ và liên hệ, vận dụng thực tiễn. Hiện nay, hầu hết các trường đại học đã chuyển sang đào tạo theo học chế tín chỉ, vì vậy, việc đánh giá sinh viên được tiến hành trong suốt thời gian học và thi học phần. Cho nên rất cần phải tạo ra những cơ hội thuận lợi để sinh viên theo dõi sự tiến bộ của mình qua những hoàn cảnh khác nhau như các buổi thảo luận seminar, phân nhóm để thực hiện các bài tập, các nhiệm vụ nghiên cứu nhỏ, các tình huống hay những bài kiểm tra giữa kỳ). 4.3.3.2. Đối với các cấp quản lý giáo dục trong nhà trường Để việc dạy và học học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh có hiệu quả, trước hết phải nâng cao nhận thức của lãnh đạo nhà trường về vị trí, vai trò của học phần này. Trong các trường đại học khối ngành kinh tế hiện nay, vẫn còn tồn tại nếp nghĩ coi nhẹ giáo dục lý luận chính trị. Vấn đề này đòi hỏi trước hết lãnh đạo các trường, cán bộ giảng viên phải được quán triệt sâu sắc về vị trí vai trò của học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của môn học đối với quá trình đào tạo, tu dưỡng rèn luyện đạo đức, trong hoạt động thực tiễn. Bên cạnh đó, các trường đại học cần tổ chức quản lý chặt chẽ quá trình đào tạo, đặc biệt tăng cường công tác quản lý giảng dạy, quản lý học tập. Để đảm bảo việc giảng dạy được tốt, các trường đại học cần xây dựng quy chế làm việc phù hợp đối với giáo viên, quy định chuẩn số giờ lên lớp, theo dõi sát sao hoạt động giảng dạy của giáo 85 viên từ việc đảm bảo giờ lên lớp đến việc biên soạn giáo trình, giáo án, việc đổi mới phương pháp giảng dạy, ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, xây dựng tiêu chí để đánh giá chất lượng hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của giáo viên. Một trong những vấn đề đang tồn tại ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giảng dạy và học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh các trường đại học khối ngành kinh tế hiện nay đó là chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu về trang thiết bị và các phương tiện hỗ trợ quá trình dạy học. Nhìn chung trang thiết bị phục vụ cho giảng dạy còn nghèo nàn, đồ dùng dạy học, mô hình mẫu biểu còn quá thiếu nên ảnh hưởng không nhỏ đến việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực của giảng viên. Đặc biệt việc trang bị các tài liệu, sách báo, giáo trình chuẩn, sách tham khảo... cho cả giảng viên và sinh viên còn quá thiếu, không kịp thời. Từ thực trạng đó cần có phương hướng cụ thể về đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bịcho việc phục vụ giảng dạy như: trang bị đầy đủ sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu tham khảo cho sinh viên. Đối với giảng viên, để khắc phục tình trạng nghèo nàn về tài liệu (ngoài sách giáo khoa, giáo trình) các trường cần trang bị cho giảng viên các tài liệu tham khảo, Nghị quyết, các loại tạp chí: Thông tin lý luận, tạp chí nghiên cứu kinh tế, nghiên cứu triết học, xây dựng Đảng, tạp chí Cộng sản, báo địa phương. Ngoài việc trang bị thêm tài liệu cần trang bị đồ dùng dạy học như: băng, đĩa .v.v. Về chế độ chính sách đối với đội ngũ giảng viên, cần quan tâm giúp đỡ đảm bảo về đời sống vật chất và tinh thần để họ yên tâm công tác tâm huyết với nghề nghiệp cống hiến cho sự nghiệp giáo dục của đất nước. Ngày nay, trình độ công nghệ khoa học phát triển cao, các trường cần tạo mọi điều kiện để giáo viên được học nâng cao, hoàn thiện tri thức đủ trình độ đáp ứng yêu cầu chuyên môn. Đối với sinh viên cần có chính sách khuyến khích tài năng trẻ như: Giành học bổng ưu tiên cho sinh viên nghèo vượt khó, sinh viên dân tộc ít người, sinh viên giỏi. Thực hiện đầy đủ nội dung quyết định 494/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 của Thủ tướng Chính phủ về đề án: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy, học tập các môn khoa học Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng; môn chính trị trong các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề”. Đối với hoạt động học tập của sinh viên, nhà trường cần có biện pháp quản lý chặt chẽ bằng việc: Tìm hiểu và tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của sinh 86 viên trong việc chọn ngành học, môn học, giảng viên phụ trách; thường xuyên theo dõi, kiểm tra nề nếp, ý thức học tập trên lớp của sinh viên; xây dựng thái độ, năng lực làm việc nhóm, hoạt động thực tiễn của sinh viên thông qua các tổ chức đoàn, hội của nhà trường; có biện pháp kiểm tra, đánh giá năng lực học tập và rèn luyện của sinh viên một cách khách quan, công bằng; phát huy hơn nữa vai trò của phòng Công tác chính trị sinh viên và khoa chủ quản trong việc quản lý, đôn đốc, theo dõi hoạt động học tập của sinh viên. Các tổ chức đoàn, hội sinh viên các trường đại học trên cả nước tổ chức, tham gia nhiều cuộc thi; thành lập các câu lạc bộ tìm hiểu, học tập theo gương Hồ Chí Minh. Các đoàn trường nên lồng ghép việc giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh vào các buổi sinh hoạt chi đoàn, mỗi buổi nêu ra một chủ đề dưới dạng những câu hỏi để thảo luận. Bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh phối hợp cùng với các tổ chức chính trị- xã hội trong trường tổ chức cuộc thi như “Tuổi trẻ học và làm theo Tư tưởng Hồ Chí Minh”, “Bác Hồ với Tuổi trẻ - Tuổi trẻ với Bác Hồ”, các cuộc thi Olympic các môn khoa học Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh giữa các trường đại học và cao đẳng v.v. Các cuộc thi này giúp cho việc tìm hiểu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh diễn ra một cách sôi động, lôi cuốn, thiết thực và rèn luyện cho sinh viên cả về kiến thức, cả về phương pháp thuyết trình trước đám đông. Trên đây là một số giải pháp đổi mới phương pháp giáo dục đại học Việt Nam hiện nay. Để đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo đại học đáp ứng nhu cầu xã hội, theo tác giả, cần tiến hành đổi mới một cách đồng bộ giáo dục đại học theo các nhóm giải pháp trên, trong đó, trọng tâm là việc đổi mới phương pháp giảng dạy của giáo viên và phương pháp học tập của sinh viên. 4.3. Những hạn chế nghiên cứu và vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu Do nhiều yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng nghiên cứu nên đề tài của chúng tôi vẫn còn có những hạn chế: Thứ nhất, bản thân người thực hiện đề tài cũng là giảng viên giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh, vì vậy trong đánh giá thực trạng về phương pháp giảng dạy còn mang tính chủ quan. Thứ hai, do không có điều kiện phát phiếu điều tra xã hội học trên diện rộng nên đề tài chưa có những số liệu cụ thể để minh chứng cho những đánh giá về thực 87 trạng dạy và học học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc đánh giá chủ yếu được thực hiện thông qua quan sát, thực tiễn giảng dạy và phương pháp phỏng vấn sâu. Nếu có cơ hội được tiếp tục nghiên cứu, tác giả sẽ tiến hành điều tra sinh viên ở nhiều đối tượng, nhiều khía cạnh để đưa ra những con số, những tỷ lệ chính xác để việc đánh giá thực trạng được khách quan hơn. Bên cạnh đó, chúng tôi sẽ phát triển từ đề tài cấp trường lên đề tài cấp Bộ, nghiên cứu sâu hơn không chỉ về phương pháp giáo dục Hồ Chí Minh mà còn các khía cạnh khác trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. 88 KẾT LUẬN Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng mang tầm vóc thời đại. Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một di sản tư tưởng quý báu. Là nhà tư tưởng vĩ đại, đồng thời Người cũng là một nhà giáo dục lớn. Cả cuộc đời cống hiến cho cách mạng, Người luôn quan tâm đến công tác giáo dục nhằm “đào tạo và bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”. Bên cạnh thực tiễn chỉ đạo giáo dục sâu sát, thiết thực, Người còn có cả một hệ thống tư tưởng, quan điểm về giáo dục, trong đó có quan điểm về phương pháp giáo dục. Hệ thống phương pháp giáo dục theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh được xác định từ những phương pháp có ý nghĩa nguyên tắc như: Lý luận gắn liền với thực tiễn, học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất; kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội đến những phương pháp cụ thể: giáo dục theo điều kiện, nhu cầu, đối tượng; phương pháp tự học suốt đời; phương pháp đối thoại dân chủ, bình đẳng; phương pháp nêu gương; thi đua, khen thưởng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói chung, đặc biệt là quan điểm của Người về phương pháp giáo dục là nền tảng lý luận cho việc xây dựng và hoạch định chiến lược phát triển nền giáo dục nước nhà, trong đó có giáo dục đại học. Là một học phần bắt buộc trong chương trình đào tạo đại học và cao đẳng, Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một chuyên ngành khoa học. Việc học tập, nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là một yêu cầu trong việc hình thành con người xã hội chủ nghĩa; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để đảm nhận và hoàn thành nhiệm vụ mà nhân dân và nhà nước giao phó. Đồng thời việc học tập học phần này góp phần khẳng định nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Để thực hiện có tốt mục tiêu đào, việc đổi mới phương pháp dạy và học học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh càng đặt ra bức thiết để trang bị những kiến thức về lý luận chính trị và phương pháp luận cách mạng khoa học, lập trường, tư tưởng đúng đắn, đạo đức cách mạng trong sáng đáp ứng thực tiễn công tác và cuộc sống sau này. Vì vậy, việc vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh vào đổi mới phương dạy và học là rất cần thiết, chứng minh cho quan điểm học đi đôi với hành của Người. Để đạt được điều đó cần phải thực hiện đồng bộ các biện pháp để đổi mới phương pháp học tập, phương pháp giảng dạy và cải tiến phương pháp quản lý trong dạy và học tư tưởng Hồ Chí Minh. 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoàng Anh – Nguyễn Duy Bắc – Phạm Văn Thủy (2010): Phát triển văn hóa và con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2. Hoàng Anh (2013) (chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và vận dụng vào đào tạo đại học hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. Phạm Ngọc Anh – Bùi Đình Phong (2009): HồChí Minh –văn hóa và phát triển, Nxb. Chính trị-Hành chính, Hà Nội. 4. Bảo tàng Hồ Chí Minh và Đại học Sư phạm Hà Nội (2003): Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục- Kỷ yếu Hội thảo khoa học - thực tiễn nhân kỷ niệm 35 năm ngày Bác Hồ gửi bức thư cuối cùng cho ngành giáo dục Việt Nam. 5. Hoàng Chí Bảo (2005): Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội. 6. Đặng Quốc Bảo (2009): Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 7. Đặng Quốc Bảo- Nguyễn Đắc Hưng (2004), Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai- vấn đề và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2000): Giáo dục đại học và những thách thức đầu thế kỷ XXI, Kỷ yếu Hội thảo, Hà Nội. 9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002): Chiến lược phát triển giáo dục 2001 -2010, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.20-32. 10. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005): Đề án đổi mới giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006- 2020, Hà Nội. 11. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2003): Đổi mới phương pháp giảng dạy ở đại học và cao đẳng, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 12. .Bộ Giáo dục và Đào tạo (2004): Đổi mới giáo dục đại học – Hội nhập và thách thức, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội. 13. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009): Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2009 –2020, Hà Nội 14. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011): Chỉ thị về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục đại học năm học 2011 – 2012, Hà Nội. 15. Phan Văn Các (chú dịch) (2002): Luận ngữ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 90 16. Nguyễn Đức Chính (2002): Kiểm định chất lượng trong giáo dục đại học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 17. Phan Huy Chú (1961): Lịch triều hiến chương loại chí (dư địa chí, bản dịch), Nxb. Sử học, Hà Nội. 18. Đại học Sư phạm Hà Nội (12/2010): Chủ tịch Hồ Chí Minh – một tầm nhìn chiến lược về giáo dục và sư phạm, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội 19. Võ Xuân Đàn (2006): Giáo dục đại học: một góc nhìn, Nxb. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. 20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993): Nghị quyết số 04 -NQ/HNTW Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997): Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai, BCHTW Đảng khóa VIII về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016): Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản, số 884, trang 3-5. 25. Đảng Cộng sản Việt Nam: Toàn văn thông báo của Hội nghị Trung ương 6- khóa XI. 26. Phạm Gia (2004): Đưa giáo dục đại học phát triển đúng với tầm vóc là quốc sách hàng đầu, Tạp chí Giáo dục số 01, tr. 1 -3. 27. Ninh Viết Giao –Trần Minh Tâm (1989): Nam Đàn- Quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 128 -129. 28. Vũ Văn Gầu- Nguyễn Anh Quốc (2005): Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp phát triển giáo dục, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 29. Ngô Văn Hà (2013), Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy và việc xây dựng đội ngũ giảng viên đại học hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 91 30. Đào Thanh Hải, Minh Tiến (sưu tầm và tuyển chọn)(2005): Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb. Lao động, Hà Nội. 31. Bùi Minh Hiền (2005): Lịch sử giáo dục Việt Nam, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội. 32. Nguyễn Kỳ (1996): Biến quá trình dạy học thành quá trình tự học, Tạp chí Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, số 5, tr. 9-11. 33. Đặng Xuân Kỳ (chủ biên)(2015): Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội. 34. Đặng Bá Lãm (1998): Những vấn đề về chiến lược phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Giáo dục đại học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội 35. Nguyễn Lân (1990): Hồ Chủ tịch –nhà giáo dục vĩ đại, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội 36. Bành Tiến Long (2005): Đổi mới mạnh mẽ, cơ bản, toàn diện và sâu sắc giáo dục đại học nước ta thời kỳ 2006 -2020, Tạp chí Cộng sản số 21, tr. 24 -28 37. Võ Văn Lộc (2011), Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 38. Phan Ngọc Liên (2007): Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 39. C. Mác, P. Ăngghen, V.I.Lênin, I.V.Xtalin (1976): Bàn về giáo dục, Nxb. Sự thật, Hà Nội 40. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 41. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 42. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 43. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 44. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 45. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 46. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 47. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 48. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 49. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 50. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội . 92 51. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 13, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 52. HồChí Minh (2011): Toàn tập, tập 14, Nxb. Chính trịQuốc gia, Hà Nội. 53. HồChí Minh (2011): Toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trịQuốc gia, Hà Nội. 54. Lê Phước Minh (2004): Phát triển giáo dục đại học trong bối cảnh kinh tế-xã hội đổi mới, Tạp chí Giáo dục, số104, tr. 3 -5. 55. Nguyễn Phương Nga, Nguyễn Quý Thanh (chủ biên)(2007): Giáo dục đại học: một số thành tố của chất lượng, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 56. Phạm Thành Nghị (2000): Quản lý chất lượng giáo dục đại học, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 57. Lê Đức Ngọc (2005): Giáo dục đại học: phương pháp dạy và học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 58. Nghị quyết 14/2005/NQ-CP của Chính phủ: Về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020. 59. Nhiều tác giả (1991): Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục, Nxb. Sự thật, Hà Nội. 60. Trần Thị Tuyết Oanh (chủ biên) (2008): Giáo trình giáo dục học, tập 2, Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội. 61. Phạm Phụ (2004): Năm đề nghị về nâng cao chất lượng và đánh giá chất lượng giáo dục đại học, Tạp chí Giáo dục, số 95, tr. 40 -41. 62. Phan Xuân Sơn (2005): Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục lại, Tạp chí Giáo dục, số114, tr. 7 -8. 63. Nguyễn Quyết Thắng (2005): Khoa cử và giáo dục Việt Nam, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. 64. Lâm Quang Thiệp (2005): Giải quyết bài toán quan hệ giữa số lượng và chất lượng của giáo dục đại học, Tạp chí Giáo dục, số109, tr. 6 -7. 65. Nguyễn Thị Thúy (2006): Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Tạp chí Giáo dục lý luận, số 5, tr. 3 -5. 66. Nguyễn Tài Thư (1994): Xã hội là cơ sở của những đòi hỏi về giáo dục con người, Tạp chí nghiên cứu lý luận, số 6, tr. 33 -36. 67. Lê Văn Tích (2007): Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo: hưởng ứng cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb. Lao động xã hội, Hà Nội. 93 68. Trần Dân Tiên (2015): Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. CTQG, Hà Nội. 69. Hoàng Trang (2005): Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục- những nội dung cơ bản, Tạp chí Giáo dục, số 114, tr. 1 -3. 70. Trung tâm nghiên cứu và phát triển tự học (1998): Tự học, tự đào tạo- tư tưởng chiến lược của phát triển giáo dục Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 71. Trung tâm Từ điển học (2008): Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng. 72. Trần Anh Tuấn (chủ biên) (2009): Giáo dục học đại cương, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 73. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2006. 74. UNESCO và Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam (1990): Hội thảo quốc tế: Hồ Chí Minh– anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá lớn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 75. Đặng Huy Vận, Chương Thâu (1961): Những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ cuối thế kỷ XIX, Hà Nội. 76. Đặng Ứng Vận (2006): Phát triển giáo dục đại học trong cơ chế thị trường: cơ sở lý luận và thực tiễn, Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 9, tr. 7 -11. 77. Vụ công tác Luật pháp (2005): Luật giáo dục, Nxb. Tư pháp, Hà Nội. 78. Phạm Viết Vượng (2007): Giáo dục học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 79. Nghiêm Đình Vỳ (2008): Hồ Chí Minh về giáo dục - toàn thư, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội. 80. Vũ Mạnh Xuân (2001): Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng sử dụng phương tiện kỹ thuật, 81. Hội thảo khoa học ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong giáo dục phổ thông, Hà Nội, tr.1-3. 82. Lê Văn Yên (chủbiên) (2006): Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, Nxb. Lao động, Hà Nội. 94

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfde_tai_nghien_cuu_tu_tuong_ho_chi_minh_ve_phuong_phap_giao_d.pdf
Tài liệu liên quan